Bảo hiểm hưu trí - một số ý kiến cho Dự thảo Luật
BHXH
Nguồn: tapchibaohiemxahoi.org.vn
Dự thảo Luật BHXH đã được trình Chính phủ vào tháng 5/2005 để lấy ý kiến
đóng góp của một số cơ quan thuộc Chính phủ. Đây là sự kiện quan trọng trong
quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta. Nhiều nội dung mới, thể hiện
những bước cải cách cần thiết trong lĩnh vực BHXH đã được đưa vào Dự thảo, thu
hút sự quan tâm của nhiều nhà quản lý, các luật gia, các nhà nghiên cứu chính
sách... Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tập trung vào chế độ bảo hiểm hưu
trí, chế độ nòng cốt của hệ thống BHXH trong mỗi quốc gia.
1. Hiện nay, chế độ hưu trí hàng tháng quy định điều kiện hưởng như sau: nam đủ
60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi, có 20 năm đóng BHXH. Một số trường hợp được giảm 5
năm tuổi đời do làm việc trong lực lượng vũ trang, hoặc có 15 năm làm việc trong
điều kiện lao động không thuận lợi, hoặc có 10 năm chiến đấu ở chiến trường,
hoặc đã đủ 30 năm đóng BHXH, có nguyện vọng về hưu. Một số đối tượng được
nghỉ hưu sớm hơn tới 10 năm do suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên, hoặc
thậm chí không căn cứ vào độ tuổi nếu mất sức lao động vì tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, được hưởng mức thấp... Mức hưởng BHXH hàng tháng tính trên
mức lương bình quân làm căn cứ đóng BHXH của 5 năm cuối, nếu đóng theo
thang bảng lương do Nhà nước quy định; tính trên toàn bộ thời gian đóng BHXH
đối với đối tượng khác. Mức cụ thể phụ thuộc vào số năm công tác của mỗi người,
theo công thức: nếu đóng BHXH 15 năm thì mức BHXH bằng 45% mức lương
bình quân làm căn cứ đóng, sau đó, cứ thêm 1 năm đóng BHXH thì cộng thêm 2%
đối với nam và 3% đối với nữ, nhưng tối đa không quá 75%. Người hưởng BHXH
ở mức thấp bị trừ 1% mức lương bình quân đối với mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi
quy định.
Những người không đủ điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng có thể hưởng
trợ cấp một lần hoặc được bảo lưu thời gian tham gia BHXH để đóng tiếp khi có
đủ điều kiện hoặc chờ đến khi đủ tuổi đời để hưởng hưu trí hàng tháng. Nếu
hưởng trợ cấp một lần thì mức trợ cấp cho mỗi năm đóng BHXH bằng 1 tháng
lương bình quân làm căn cứ đóng BHXH (tính như chế độ hưu trí hàng tháng).
2. Dự thảo Luật BHXH đã kế thừa các quy định chung về điều kiện hưởng BHXH,
quy định về một số đối tượng được giảm 5 năm tuổi đời, một số đối tượng được
hưởng bảo hiểm hưu trí với mức thấp, về mức trợ cấp hưu trí một lần... Bên cạnh
đó, nhiều nội dung tiến bộ đã được thể hiện trong Dự thảo, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Thời gian đóng BHXH tối thiểu 20 năm đã được quy định thống nhất
trong điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng. Như vậy, so với quy định hiện
hành, Dự thảo đã loại bỏ đối tượng đủ tuổi đời nhưng mới đủ 15 năm đóng BHXH
ra khỏi đối tượng được hưởng BHXH hưu trí hàng tháng. Đó là điều hợp lý để
đảm bảo cân đối nguồn quỹ BHXH dài hạn đang tiềm ẩn nguy cơ thâm hụt trong
tương lai.
Thứ hai: Dự thảo đã dự liệu một số lĩnh vực, vị trí... (do Chính phủ quy định) có
thể tăng tuổi nghỉ hưu không quá 5 năm so với điều kiện chung. Đây là một điểm
mới, rất tiến bộ, đã được quy định tại nhiều nước trên thế giới. Nó cũng rất cần
thiết với Việt Nam vì tuổi nghỉ hưu hiện nay ở nước ta vào loại trung bình thấp,
nếu so sánh trên bình diện quốc tế. Trong khi đó, các chế độ đối với người nghỉ
hưu lại được quy định tương đối cao, quỹ chưa được đảm bảo an toàn. Nếu được
thực hiện quy định này sẽ tạo ra tư duy mới về vấn đề hưu trí, tạo điều kiện và
khuyến khích người lao động làm việc sau tuổi hưu nếu điều kiện cho phép và
chắc chắn sẽ được sự đồng tình của nhiều lao động gián tiếp, lao động trí thức và
một số lao động nữ...
Thứ ba: Đối tượng được nghỉ hưu trước tuổi cũng đã được thu hẹp lại hơn so với
trước đây. Những người đủ 30 năm đóng BHXH, có nguyện vọng về hưu cũng
vẫn phải đủ điều kiện tuổi đời theo quy định chung. Như vậy, chính sách hưu trí
thể hiện trong Dự thảo đã được phân biệt hợp lý với chính sách giảm biên chế
trong khu vực Nhà nước. Khi Nghị định 93/1998/NĐ-CP quy định đối tượng này
được giảm 5 năm tuổi đời, không phải giảm tỷ lệ lương hưu do nghỉ trước tuổi đã
làm cho tuổi nghỉ hưu bình quân trên thực tế giảm từ 54,5 tuổi xuống 51,8 tuổi.
Như vậy, quỹ BHXH đã mất thêm bình quân 2,7 năm thu BHXH và cũng phải kéo
dài thời gian chi trả BHXH cho mỗi đối tượng bình quân thêm lên 2,7 năm nữa. Vì
vậy, quy định như Dự thảo là điều cần thiết, để tránh tình trạng quỹ BHXH bị thất
thu, tăng chi, trong khi đối tượng vẫn đủ tuổi để tiếp tục làm việc.
Thứ tư: Công thức tính mức bảo hiểm hưu trí hàng tháng trong Dự thảo đã được
quy định lại hợp lý hơn: đủ 20 năm đóng BHXH được tính bằng 55% mức lương
bình quân đóng, năm thứ 21 tính thêm 2%, sau đó cứ thêm mỗi năm tính thêm 2%
đối với nam và 3% đối với nữ, mức tối đa 75%. Như vậy, người chưa đủ 20 năm
đóng BHXH không được hưởng bảo hiểm hưu trí hàng tháng. Số năm đóng để đạt
tỷ lệ BHXH tối đa của lao động nữ được tăng từ 25 năm lên 27 năm so với quy
định hiện hành. Đặc biệt, Dự thảo quy định người nghỉ hưu trước tuổi bị trừ 2%
cho mỗi năm nghỉ trước là điều cần thiết để đảm bảo công bằng giữa tỷ lệ cộng và
trừ cho cùng một đơn vị thời gian.
Thứ năm: Đối tượng hưởng trợ cấp một lần được quy định cho người có thời gian
đóng BHXH trên 30 năm đối với nam và trên 27 năm đối với nữ là phù hợp với
công thức tính nêu trên. Đặc biệt, Dự thảo không khống chế mức tối đa của loại
trợ cấp này đã đảm bảo công bằng hơn cho người hưởng và khuyến khích đối
tượng đóng BHXH với thời gian dài.
Thứ sáu: Đối tượng hưởng bảo hiểm hưu trí một lần, theo Dự thảo, đã được thu
hẹp lại so với quy định hiện hành: chỉ quy định cho những người đã đủ tuổi đời
hoặc mất sức lao động 61% trở lên mà chưa đủ điều kiện hưởng bảo hiểm hưu trí
hàng tháng hoặc người ra nước ngoài định cư hợp pháp. Những trường hợp chấm
dứt hợp đồng khi chưa đủ tuổi không được xác định là đối tượng trợ cấp đã thể
hiện đúng bản chất của bảo hiểm hưu trí là bảo hiểm tuổi già. Nội dung này cũng
góp phần ổn định nguồn quỹ BHXH và tạo điều kiện cho đối tượng đóng tiếp theo
chế độ BHXH bắt buộc khi có điều kiện hoặc tham gia bảo hiểm tự nguyện.
Thứ bảy: Cách tính mức bình quân tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH cũng
được Dự thảo thay đổi hợp lý hơn theo hướng mở rộng khoảng thời gian tính của
những người đóng BHXH theo theo thang bảng lương của Nhà nước để dần dần
có thể tính theo một cách chung đối với tất cả các thành phần kinh tế. Điều đó là
cần thiết để thực hiện nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các
thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường.
Thứ tám, Dự thảo đã có quy định để khống chế tiền lương làm căn cứ đóng BHXH
tối đa bằng khởi đầu mức thu nhập chịu thuế. Điều đó sẽ khuyến khích người lao
động cố gắng phấn đấu tăng lương, khuyến khích người sử dụng lao động nâng
cao mức tiền lương cho người lao động. BHXH cũng không phải chi trả những
mức quá cao, đảm bảo tính chất của an sinh xã hội và đỡ gánh nặng cho quỹ trong
những thời kỳ tăng trưởng khó khăn hoặc do khủng hoảng kinh tế hoặc khi Nhà
nước phải bù thiếu.
Như vậy, có thể thấy rằng chế độ hưu trí được quy định trong Dự thảo đã kế thừa
một số nội dung cần thiết và khắc phục được nhiều điểm bất hợp lý trong các quy
định hiện hành.
3. Tuy nhiên, để cải cách chính sách BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói riêng
một cách triệt để hơn, chúng tôi muốn góp ý thêm cho Dự thảo một số nội dung cụ
thể như sau:
Thứ nhất, việc giảm tối đa 5 tuổi đời cho một số đối tượng là cần thiết nhưng nên
quy định phạm vi hẹp hơn nữa. Thực tế, không phải tất cả những người lao động
làm việc trong môi trường độc hại, ở vùng không thuận lợi hoặc làm việc trong lực
lượng vũ trang đều cần nghỉ hưu sớm và muốn nghỉ hưu sớm. Vì vậy, nên bổ sung
thêm điều kiện mất sức lao động ở mức độ nhất định (ví dụ từ 31% trở lên). Điều
đó là cần thiết để đảm bảo rằng khi đối tượng còn khả năng tiếp tục làm việc thì
quỹ BHXH không phải chi trả. Đối tượng cũng vẫn được ưu đãi vì nếu nghỉ hưu
sớm, họ không bị trừ tỉ lệ lương hưu như những lao động khác. Trong tương lai, sự
ưu đãi này nên thay bằng các quy định đảm bảo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh lao
động ở mức độ cao, cải thiện điều kiện lao động và điều kiện sống để môi trường
làm việc không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe của người lao động.
Thứ hai, về tuổi nghỉ hưu của lao động nữ, hiện nay và trong Dự thảo vẫn quy
định nữ nghỉ hưu trước nam 5 tuổi. Vấn đề này còn có nhiều ý kiến khác nhau: có
ý kiến cho rằng phù hợp, ý kiến khác cho rằng không bình đẳng đối xử, hạn chế
quyền làm việc của lao động nữ... Tuy nhiên, nhiều nước cũng đang xoá bỏ tình
trạng phân biệt này. Với điều kiện của mình, Việt Nam có thể chọn một trong ba
cách khi xây dựng Luật BHXH, mỗi cách đều có những thuận lợi và khó khăn
nhất định:
(1) Quy định lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu của lao động nữ một cách phù hợp để bình
đẳng với nam giới (ví dụ, mỗi năm tăng thêm 6 tháng, sau 10 năm, tuổi nghỉ hưu
của hai giới bằng nhau - xem bảng sau). Cách này có thể nâng được tuổi nghỉ hưu
của tất cả các lao động nữ, đơn giản trong áp dụng và được sử dụng tương đối phổ
biến ở những nước đã và đang tăng tuổi nghỉ hưu của lao động nữ. Tuy nhiên, nếu
áp dụng, có thể sẽ gặp phải sự phản ứng của một số lao động nữ làm việc trực tiếp,
sức khỏe không đảm bảo, lương thấp... và sự phản ứng của một số người sử dụng
lao động trong các ngành nghề công nghệ thay đổi nhanh, cần phải trẻ hóa lực
lượng lao động.
(2) Có thể xác định việc nghỉ hưu sớm là quyền, không phải là nghĩa vụ của lao
động nữ. Như hiện nay, tuổi 55 là tuổi có thể nghỉ hưu của nữ và tuổi 60 là tuổi
nghỉ hưu của cả hai giới. Trong khoảng hai mốc này, lao động nữ có thể lựa chọn
bất cứ lúc nào: về nghỉ hưu hay tiếp tục làm việc. Nếu hợp đồng lao động là xác
định thời hạn và còn thời hạn thì các bên có quyền và nghĩa vụ tiếp tục thực hiện
hợp đồng, không được hưởng bảo hiểm hưu trí. Nếu hợp đồng lao động của các
bên không xác định thời hạn mà lao động nữ muốn nghỉ hưu thì họ có thể chấm
dứt hợp đồng để nghỉ hưu; nếu lao động nữ muốn tiếp tục làm việc thì người sử
dụng lao động cũng không được chấm dứt hợp đồng với lý do để lao động nữ nghỉ
hưu khi họ chưa đủ 60 tuổi. Như vậy, có thể giải quyết được tương quan giữa
quyền lao động và quyền nghỉ hưu của lao động nữ, góp phần cân đối quỹ BHXH.
Khi đã xác định là quyền của lao động nữ, do họ tự quyết định thì cũng không cần