Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Khóa luận quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.99 KB, 48 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay bất kể quốc gia nào
cũng không thể sống tách rời và đóng cửa với thế giới bên ngoài. Kết thúc đã
lâu rồi chính sách bế quan tỏa cảng. Nhận thức được điều này các quốc gia đã
thành lập và gia nhập những tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực nhằm ổn định
và phát triển thế giới nói chung và mỗi quốc gia nói riêng. Càng hội nhập thì
càng có nhiều quan hệ vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ của quốc gia. Và khi đó
phát sinh nhiều vấn đề cần phải giải quyết, đặc biệt khi một trong các bên chủ
thể là quốc gia - chủ thể được hưởng quyền miễn trừ trong tư pháp quốc tế.
Quyền miễn trừ trong tư pháp quốc tế của quốc gia là quyền mà quốc
gia được hưởng với tư cách là chủ thể đặc biệt trên cơ sở chủ quyền. Quyền
này tạo cho quốc gia vị thế đặc biệt, không ngang hàng với các chủ thể khác
trong cùng mối quan hệ với mình. Tuy nhiên theo xu thế tất yếu của thời đại,
quyền miễn trừ của quốc gia có xu hướng giảm do sự từ bỏ tự nguyện để đạt
được nhiều lợi ích lớn hơn.
Nhận thức sâu sắc tính thực tiễn cũng như tính cấp thiết của vấn đề, với
mong muốn luận giải một trong những nội dung cơ bản của tư pháp quốc tế,
tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế”
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật.
Với khuôn khổ của một khóa luận, tác giả chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
và trình bày những nội dung cơ bản của quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp
quốc tế theo các một số điều ước quốc tế, pháp luật của một số nước và theo
pháp luật của Việt Nam. Đồng thời khóa luận có nêu lên thực trạng của việc
thực hiện quyền miễn trừ ở một số nước và thực trạng ở Việt Nam, qua đó đưa
ra một số kiến nghị về việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Để nghiên cứu đề tài này, tác giả vận dụng chủ nghĩa duy vật biện
chứng Mác - Lênin làm nền tảng để tìm ra bản chất và những nội dung chính
của quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế và có sự liên hệ với pháp


luật Việt Nam. Tác giả còn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu:


phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương
pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, phương pháp liệt kê để giải quyết các
vấn đề cụ thể.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
khóa luận được kết cấu như sau:
Chương I. Lý luận chung về quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp
quốc tế
Chương 2. Nội dung quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế
Chương 3. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về quyền miễn
trừ quốc gia trong tự pháp quốc tế


CHƯƠNG 1.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN MIỄN TRỪ QUỐC GIA TRONG
TƯ PHÁP QUỐC TẾ
Tư pháp quốc tế là một lĩnh vực pháp luật có hệ thống chủ thể riêng của
mình bao gồm thể nhân, pháp nhân và quốc gia. Trong đó, quốc gia được xác
định là chủ thể đặc biệt của Tư pháp quốc tế. Vấn đề là khi quốc gia tham gia
vào các mối quan hệ này, quyền và nghĩa vụ chủ thể của quốc gia hay nói
cách khác, quy chế pháp lý của quốc gia được xác định như thế nào. Đối với
Việt Nam, khi mà Tư pháp quốc tế chưa phát triển cả về lý luận lẫn thực tiễn,
thì việc tiếp tục nghiên cứu và phát triển cả về lý luận lẫn quy định của pháp
luật về quyền miễn trừ của quốc gia khi tham gia vào quan hệ dân sự quốc tế
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc góp phần đưa Tư pháp quốc tế Việt Nam
tiến gần hơn các chuẩn mực pháp lý chung của thế giới. Để có cái nhìn tổng
quan về quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế trước hết cần phải hiểu
được những vấn đề thuộc về lý luận của nội dung này. Những vấn đề lý luận
sẽ được đề cập với những nội dung cụ thể sau đây.
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển quyền miễn trừ quốc gia
trong tư pháp quốc tế

Quyền miễn trừ của quốc gia khi tham gia vào quan hệ dân sự quốc tế
đã được thừa nhận trong pháp luật quốc tế (các điều ước quốc tế, tập quán
quốc tế) và pháp luật hầu hết các nước. Tuy nhiên, lịch sử hình thành và phát
triển của quyền miễn trừ này gắn liền với sự ra đời và phát triển của các học
thuyết về quyền miễn trừ.
Ban đầu hầu hết các quốc gia theo học thuyết tuyệt đối (Doctrine of
Absolute Immunity). Theo học thuyết này, quốc gia phải được hưởng quyền
miễn trừ trong tất cả các lĩnh vực quan hệ dân sự mà quốc gia tham gia và
trong bất kỳ trường hợp nào. Những người theo quan điểm này xuất phát từ


chủ quyền quốc gia là tuyệt đối và bất khả xâm phạm, bất kỳ chủ thể nào cũng
không có quyền vượt lên trên chủ quyền quốc gia. Thậm chí, quyền miễn trừ
này còn được mở rộng cho người đứng đầu của quốc gia khi tham gia vào các
mối quan hệ với tư cách người đứng đầu quốc gia hay tư cách cá nhân. Học
thuyết này phát triển phổ biến nhất từ đầu thế kỷ XX trở về trước. Cho đến
giữa thế kỷ XX, phần lớn các nước vẫn còn công nhận quyền miễn trừ tuyệt
đối dành cho quốc gia nước ngoài. Tuy nhiên, từ sau Cách mạng tháng 10
Nga, đặc biệt là từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2, với sự xuất hiện của hàng
loạt các quốc gia theo chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến sự xuất
hiện của Thuyết quyền miễn trừ tương đối hay còn gọi là “quyền miễn trừ
chức năng”.
Thuyết quyền miễn trừ tương đối (Doctrine of Restrictive/ Relative/
Limited Immunity) do các học giả của các nước theo chế độ chính trị tư bản
chủ nghĩa khởi xướng và xây dựng nhằm loại trừ khả năng hưởng quyền miễn
trừ của các công ty thuộc sở hữu nhà nước của các nước theo chế độ chính trị
xã hội chủ nghĩa khi tham gia vào các quan hệ kinh tế thương mại quốc tế.
Học thuyết này nhanh chóng được các nước khác ủng hộ và cụ thể hóa vào
các đạo luật quốc gia. Theo học thuyết này, quốc gia khi tham gia vào các
quan hệ dân sự quốc tế sẽ được hưởng quyền miễn trừ về tài phán và quyền

miễn trừ về tài sản trong tất cả các lĩnh vực quan hệ dân sự. Tuy nhiên, có
những trường hợp quốc gia sẽ không được hưởng quyền này mà phải tham
gia với tư cách một chủ thể dân sự như các chủ thể thông thường khác. Như
vậy, Thuyết quyền miễn trừ tương đối chấp nhận cho quốc gia được hưởng
quyền miễn trừ trong tất cả các lĩnh vực quan hệ dân sự mà quốc gia tham gia,
nhưng lại hạn chế những trường hợp mà quốc gia sẽ không được hưởng quyền
miễn trừ. Công ước của Liên hợp quốc về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ
tài sản của quốc gia cũng dành nhiều điều quy định về các trường hợp quốc
gia không được hưởng quyền miễn trừ trong các lĩnh vực giao dịch thương
mại, hợp đồng lao động, thiệt hại về người và tài sản,...


Tại Hoa Kỳ, từ năm 1952 đã bắt đầu thay đổi quan điểm quyền miễn trừ
quốc gia từ thuyết quyền miễn trừ tuyệt đối sang thuyết quyền miễn trừ tương
đối. Năm 1976, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua Luật miễn trừ nhà nước dành
cho quốc gia nước ngoài. Đạo luật này chính là sự hiện thực hóa Thuyết
quyền miễn trừ tương đối mà Hoa Kỳ đang theo đuổi. Tại Anh, Luật về quyền
miễn trừ của quốc gia năm 1978 cũng ghi nhận quan điểm này. Quan điểm
này còn được ghi nhận trong thực tiễn xét xử ở tòa án Áo, Pháp, Thụy Điển,
Ý, Hy Lạp, Bỉ.
Như vậy, về cơ bản, phần lớn các quốc gia đều thừa nhận quyền miễn
trừ của quốc gia khi tham gia vào các quan hệ dân sự quốc tế. Tuy nhiên, mức
độ chấp nhận phạm vi của quyền miễn trừ của quốc gia ở các quốc gia là khác
nhau. Thực tiễn trên cho thấy, Thuyết quyền miễn trừ tương đối của quốc gia
đang có phạm vi ảnh hưởng ngày càng rộng và ngày càng có nhiều quốc gia
chấp nhận. Đây cũng là một xu thế phát triển của tư pháp quốc tế hiện đại.
Tại Việt Nam, lịch sử hình thành và phát triển của quyền miễn trừ quốc
gia trong tư pháp quốc tế gắn với tiến trình hội nhập của Việt Nam. Từ trước
đến nay Việt Nam luôn công nhận chủ quyền tuyệt đối của các quốc gia khác,
nên cũng công nhận quyền miễn trừ tuyệt đối của quốc gia trong tư pháp quốc

tế. Thực ra, cho đến hiện nay, pháp luật thực định của Việt Nam cũng chưa có
quy định chính thức nào về nội dung của quyền miễn trừ quốc gia nên chỉ có
thể thấy ý chí của nhà nước về vấn đề này qua các quy định nhỏ lẻ của nhiều
luật. Nhà nước vẫn công nhận quyền miễn trừ của quốc gia khá tuyệt đối. Và
phần lớn các quan điểm của giới chuyên môn hiện nay cũng đều tán đồng
thuyết quyền miễn trừ tuyệt đối của quốc gia, phản đối thuyết quyền miễn trừ
tương đối. Một số tư tưởng lớn trong giới luật học như trường Đại học Luật
Hà Nội, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội là cái nôi xây dựng nên những
luật gia Việt Nam đều đưa ra quan điểm của mình theo hướng bảo vệ quyền
miễn trừ tuyệt đối của quốc gia trong tư pháp lớn quốc tế. Theo Giáo trình Tư
pháp quốc tế của Trường Đại học Luật Hà Nội “nội dung thuyết miễn trừ theo


chức năng hoàn toàn trái với các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế
cũng như của tư pháp quốc tế, không có lợi cho việc thúc đẩy giao lưu dân sự
quốc tế”. Tương tự, theo giáo trình của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội
“nội dung thuyết miễn trừ theo chức năng hoàn toàn trái với các nguyên tắc
cơ bản của công pháp quốc tế cũng như của tư pháp quốc tế”. “Pháp luật Việt
Nam cũng như thực tiễn tư pháp Việt Nam luôn luôn bảo đảm tôn trọng quyền
miễn trừ tư pháp tuyệt đối của nhà nước nước ngoài bằng con đường ngoại
giao, trừ trường hợp nhà nước đó đồng ý tham gia tố tụng tại tòa án Việt
Nam”. Dường như về mặt lý luận, Việt Nam chỉ chấp nhận thuyết quyền miễn
tuyệt đối, công khai bác bỏ Thuyết quyền miễn trừ tương đối của quốc gia.
1.2.

Một số thuật ngữ liên quan đến quyền miễn trừ quốc gia trong

tư pháp quốc tế
1.2.1. Tư pháp quốc tế
“Tư pháp quốc tế là hệ thống những nguyên tắc và quy phạm pháp

luật được xây dựng bằng những cách thức khác nhau nhằm điều chỉnh quan
hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tổ nước ngoài, góp phần thúc đẩy đời
sống sinh hoạt quốc tế và bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể tham
gia quan hệ tư pháp quốc tế”.
Theo định nghĩa trên thì tư pháp quốc tế gồm các đặc điểm sau:
Thử nhất, đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là những quan hệ
dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài.
Quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) là thuật ngữ pháp lý chỉ về những quan
hệ xảy ra trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, thương
mại và tố tụng dân sự. Những quan hệ này liên quan đến lợi ích tài sản và lợi
ích nhân thân, chủ yếu phát sinh giữa cá nhân, tổ chức, pháp nhân với nhau.
Đây là khái niệm bao quát các lĩnh vực quan hệ do tư pháp quốc tế điều
chỉnh. Thuật ngữ này được lý giải bởi kỹ thuật lập pháp của các nước có sự
khác nhau. Khái niệm quan hệ dân sự ở các nước được hiểu dưới những khía
cạnh khác nhau. Ở Việt Nam, quan hệ dân sự được hiểu là quan hệ nhân thân


và quan hệ tài sản phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức khác nhau, các quan hệ
này chủ yếu nhằm thoả mãn nhu cầu sinh hoạt của các chủ thể tham gia, được
các quy phạm luật dân sự điều chỉnh. Ở Pháp, quan hệ dân sự còn được hiểu
bao gồm cả quan hệ hôn nhân và gia đình; ở Canada, khái niệm này được hiểu
bao gồm cả quan hệ tố tụng dân sự; ở Thái lan, quan hệ dân sự còn được hiểu
bao gồm quan hệ thương mại, quan hệ hôn nhân và gia đình...
Yếu tố nước ngoài có nghĩa:
Có ít nhất một bên chủ thể tham gia quan hệ này là nước ngoài. Chủ thể
nước ngoài có thể là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài, nhà nước nước
ngoài (Ví dụ một quan hệ hôn nhân giữa công dân Việt Nam với công dân
Pháp, chủ thể nước ngoài là công dân Pháp).
Khách thể của quan hệ này liên quan đến tài sản, công việc ở nước ngoài
(Ví dụ: một quan hệ thừa kế tài sản giữa công dân Việt Nam với công dân

Mỹ, tài sản thừa kế đang tồn tại trên lãnh thổ Mỹ; việc gửi giữ tài sản giữa
một công dân Việt Nam tại một đại lý ở nước ngoài thì trách nhiệm bảo quản
tài sản là khách thể của quan hệ đó...).
Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ này xảy ra
ở nước ngoài (Ví dụ: pháp nhân Việt Nam ký hợp đồng mua bán hàng hoá với
pháp nhân Nhật bản tại Tokyo, việc ký kết hợp đồng là một sự kiện pháp lý).
Thứ hai Phương pháp điều chỉnh của tư pháp quốc tế là phương pháp
thực chất và phương pháp xung đột. Phương pháp điều chỉnh của tư pháp
quốc tế là tổng hợp các biện pháp, cách thức mà Nhà nước sử dụng để tác
động lên các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài (gọi là
quan hệ tư pháp quốc tế) làm cho các quan hệ này phát triển theo hướng có lợi
cho giai cấp thống trị.
Phương pháp thực chất là phương pháp sử dụng các quy phạm pháp luật
thực chất để tác động trực tiếp lên quan hệ tư pháp quốc tế. Sự tác động của
nhà nước lên quan hệ tư pháp quốc tế được thực hiện thông qua quy phạm
thực chất. Quy phạm thực chất là quy phạm quy định sẵn các quyền, nghĩa vụ,


biện pháp chế tài đối với các chủ thể tham gia quan hệ tư pháp quốc tế. Khi
quan hệ tư pháp quốc tế xảy ra, nếu có sẵn quy phạm thực chất để áp dụng thì
các bên chủ thể cũng như cơ quan có thẩm quyền (toà án, trọng tài...) căn cứ
ngay vào đó để xác định vấn đề họ đang quan tâm (chẳng hạn: việc xác định
các quyền và nghĩa vụ của chủ thể quan hệ, trách nhiệm pháp lý...).
Phương pháp xung đột là phương pháp sử dụng quy phạm xung đột
nhằm xác định hệ thống pháp luật nào sẽ được áp dụng trong việc điều chỉnh
quan hệ tư pháp quốc tế cụ thể đang xem xét. Quy phạm xung đột là quy
phạm pháp luật không quy định sẵn quyền, nghĩa vụ, các biện pháp chế tài đối
với các chủ thể tham gia quan hệ tư pháp quốc tế mà nó chỉ có vai trò xác
định hệ thống pháp luật nào sẽ được áp dụng. Phương pháp xung đột là đặc
trưng và cơ bản của tư pháp quốc tế vì đây là phương pháp điều chỉnh chỉ

được áp dụng trong ngành luật tư pháp quổc tế mà không được áp dụng trong
các ngành luật và hệ thống pháp luật khác. Thêm vào đó, trong thực tiễn tư
pháp quốc tế, do các quy phạm thực chất thống nhất có số lượng ít, không đáp
ứng được yêu cầu điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế phát sinh ngày càng
đa dạng; trong khi đó quy phạm xung đột được xây dựng một cách đơn giản
hơn, nhanh hơn nên có số lượng nhiều hơn. Do đó quy phạm xung đột đã điều
chỉnh hầu hết các quan hệ tư pháp quốc tế. Vì vậy phương pháp điều chỉnh
gián tiếp được coi là phương pháp cơ bản trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên,
trong những giai đoạn tiếp theo, đế tránh sự phức tạp, các quốc gia trên thế
giới sẽ cố gắng ký kết ngày càng nhiều Điều ước quốc tế để từ đó xây dựng
nên càng nhiều quy phạm thực chất thống nhất, hoặc ít nhất là xây dựng nên
các quy phạm xung đột thống nhất. Đây chính là xu hướng phát triển tất yếu
của tư pháp quốc tế trong tương lai.
1.2.2.Quốc gia — Chủ thể đặc biệt của tư pháp quốc tế
Cho đến nay chưa có định nghĩa thống nhất trên bình diện quốc tế về
quốc gia. Tuy vậy, cách tiếp cận của khoa học pháp lý quốc tế truyền thống và
hiện đại cũng đã xác định những tiêu chí được thừa nhận rộng rãi về thực thể


có danh nghĩa quốc gia. Theo quy định của Điều 1 Công ước Montevideo
năm 1933 về quyền và nghĩa vụ của quốc gia thì một thực thể được coi là
quốc gia theo pháp luật quốc tế phải có bốn yếu tố sau: (1) Dân cư thường
xuyên; (2) Lãnh thổ xác định; (3) Chính phủ; (4) Năng lực tham gia vào các
quan hệ với các chủ thể khác.
Việc thừa nhận một thực thể có tư cách quốc gia trong quan hệ quốc tế
thường được dựa vào các tiêu chí nêu trên nhưng một quốc gia đang tồn tại
trong thực tế có xác định sẽ thiết lập quan hệ với thực thể có đầy đủ tiêu chí
của quốc gia, mới xuất hiện trong đời sống quốc tế ở cấp độ quan hệ quốc gia
hay không lại không do những tiêu chí này quyết định.
Quốc gia có thuộc tính chính trị - pháp lý đặc thù đó là chủ quyền. Với

chủ quyền của mình quốc gia được hưởng các quyền miễn trừ khi tham gia
các quan hệ tư pháp quốc tế. Đây chính là quy chế pháp lý đặc biệt của quốc
gia trong tư pháp quốc tế. Với quyền miễn trừ của quốc gia khi tham gia các
quan hệ tư pháp quốc tế, quốc gia có vị thế khác với các chủ thể các, yếu tố
này tạo nên sự đặc biệt của quốc gia.
1.23. Quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế
Quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế là những quyền miễn trừ
đặc biệt mà các quốc gia được hưởng khi tham gia các quan hệ tư pháp quốc
tế nhằm đảm bảo chủ quyền quốc gia được tôn trọng và không bị ảnh hưởng
bởi bên ngoài. Quyền miễn trừ của quốc gia trong tư pháp quốc tế bao gồm
các nội dung chính sau đây:
- Quyền miễn trừ xét xử tại bất cứ tòa án nào;
- Quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo đơn
kiện nếu quốc gia đồng ý cho tổ chức, cá nhân nước ngoài kiện mình, tức là
đống ý cho tòa án xét xử vụ kiện mà quốc gia là bị đơn;
- Quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành
quyết định của tòa án trong trường hợp quốc gia không đồng ý cho các tổ
chức, cá nhân nước ngoài kiện, đồng ý cho tòa án xét xử;


- Và quyền miễn trừ đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của quốc gia.
Những nội dung này của quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tuy nhiên cũng có sự độc lập tương đối.
Quốc gia có quyền từ bỏ từng nội dung hoặc tất cả các nội dung của quyền
miễn trừ này.
Pháp luật của các nước lại có những quan điểm khác nhau về mức độ
hưởng quyền miễn trừ này của quốc gia. Có nhiều nước theo quan điểm
quyền miễn trừ của quốc gia là tuyệt đối ở mọi nơi, mọi lúc, trừ trường hợp
quốc gia tự nguyện từ bỏ. Song lại có những quốc gia cho rằng quyền miễn
trừ của quốc gia có thể bị hạn chế bởi một số nguyên nhân. Nhưng dù theo

quan điểm nào các quốc gia cũng đều công nhận quốc gia có quyền miễn trừ
trong tư pháp quốc tế. Và hiện nay vẫn có nhiều quan điểm về nội dung quyền
miễn trừ của quốc gia trong tư pháp quốc tế.
Quan điểm thứ nhất, quyền miễn trừ của quốc gia bao gồm quyền miễn
trừ xét xử, quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo
đơn kiện, quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành
phán quyết của tòa án nước ngoài. Như vậy, quyền miễn trừ đối với tài sản
quốc gia ở nước ngoài không được đưa vào xem xét trong nội dung quyền
miễn trừ của quốc gia. Quan điểm này khó chấp nhận được, nhất là trong điều
kiện hiện nay, khi quốc gia tham gia ngày càng nhiều vào các mối quan hệ
dân sự, kinh tế quốc tế, bởi trong những trường hợp nhất định, lợi ích hợp
pháp liên quan đến tài sản của quốc gia ở nước ngoài sẽ không được bảo vệ
hữu hiệu.
Quan điểm thứ hai, quyền miễn trừ tài sản thuộc sở hữu quốc gia là một
trong những nội dung cơ bản của quyền miễn trừ quốc gia cùng với các quyền
miễn trừ xét xử, quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm
bảo đơn kiện, quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi
hành phán quyết của tòa án nước ngoài. Quan điểm này được nhiều người tán
đồng. Bởi lẽ không thể tách rời quyền miễn trừ về tài sản ra khỏi quyền miễn


trừ của quốc gia bởi vì quốc gia tham gia vào đời sống dân sự quốc tế chủ yếu
là các quan hệ liên quan đến tài sản (ví dụ: các tài sản đầu tư ở nước ngoài, tài
khoản tại ngân hàng nước ngoàỉ...). Những mối quan hệ quốc gia tham gia
mà không liên quan đến yếu tố tài sản chủ yếu thuộc phạm vi điều chỉnh của
công pháp quốc tế. Thực tiễn cũng cho thấy, ngày nay quốc gia đóng vai trò
ngày càng quan trọng trong hoạt động kinh tế thương mại của quốc gia thông
qua hàng loạt các hoạt động như xúc tiến thương mại, đầu tư, làm trung gian
cho các pháp nhân của các quốc gia ký kết hợp đồng, bảo lãnh,... Tất cả
những hoạt động này đều kéo theo các vấn đề pháp lý liên quan đến tài sản

của quốc gia ở nước ngoài, nên việc xác định rõ quyền miễn trừ đối với tài
sản của quốc gia ở nước ngoài cũng như mức độ thực hiện quyền này là hoàn
toàn cần thiết để tránh những tranh chấp có thể phát sinh.
1.3.

Bản chất pháp lý của quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp

quốc tế
Thứ nhất, nói đến tư pháp quốc tế là nói đến các quan hệ pháp luật dân
sự theo nghĩa rộng, đây là thuật ngữ pháp lý chỉ về những quan hệ xảy ra
trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, thương mại và tố
tụng dân sự. Những quan hệ này liên quan đến lợi ích tài sản và lợi ích nhân
thân, chủ yếu phát sinh giữa cá nhân, tổ chức và pháp nhân với nhau. Quyền
miễn trừ của quốc gia trong tư pháp quốc tế cũng thuộc phạm vi điều chỉnh
của tư pháp quốc tế chính vì vậy không thể không nhắc đến yếu tố tài sản. Khi
tham gia vào các quan hệ pháp luật tư pháp quốc tế quốc gia cũng nhằm
hướng đến những lợi ích nhất định, không chỉ về chính trị, xã hội... mà ngày
nay muốn tăng thêm vị thế của mình trên tầm quốc tế thì quốc gia càng phải
mạnh dạn tham gia các quan hệ kinh tế, bởi vậy lợi ích kinh tế là yếu tố quan
trọng mà quốc gia hướng tới. Và khi đã tham gia vào những mối quan hệ tư
pháp quốc tế thì tài sản quốc gia đem vào sử dụng để đạt được lợi ích kinh tế
là quốc gia mong muốn là điều đương nhiên. Bởi vậy một trong những đặc


trưng pháp lý quan trọng của quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế
đó là quyền này luôn gắn với quyền tài sản.
Thứ hai, khi quốc gia tham gia vào các quan hệ tư pháp quốc tế đôi khi
phải từ bỏ chủ quyền quốc gia để đạt được những lợi ích mong muốn. Như
phân tích ở trên, mối quan hệ giữa chủ quyền quốc gia và quyền miễn trừ
quốc gia trong tư pháp quốc tế có mối quan hệ mật thiết với nhau, chủ quyền

quốc gia là tiền đề để quốc gia được hưởng quyền miễn trừ trong tư pháp
quốc tế, và ngược lại, quyền miễn trừ quốc gia củng cố cho chủ quyền thêm
vững bền, thế nhưng ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển, các quốc gia
chú trọng nhiều hơn đến phát triển kinh tế chứ không còn nền kinh tế manh
mún như ngày xa xưa, người ta chấp nhận từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia
trong tư pháp quốc tế hay nói cách khác là san sẻ bớt chủ quyền để giao
thương được dễ dàng hơn. Nếu một quốc gia cứ nhất nhất đòi chủ quyền của
quốc gia mình là cao nhất, là bất khả xâm phạm và hoàn toàn tuyệt đối, yêu
cầu các quốc gia khác nghiêm túc tôn trọng và thực hiện đầy đủ, chắc hẳn
chẳng có quốc gia, tổ chức hay cá nhân nào dám mạo hiểm để chia sẻ những
lợi ích gắn với kinh tế với họ. Chính vì thế mà khi từ bỏ một chút chủ quyền
cũng giống như việc quốc gia san sẻ với đối tác của mình những quyền năng
để tạo lòng tin, sự chia sẻ bao giờ cũng tạo ra cho chính mình cơ hội. Như vậy
một đặc trưng pháp lý thứ hai của quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc
tế đó là quốc gia từ bỏ quyền miễn trừ đồng nghĩa với việc quốc gia đó chia sẻ
chủ quyền của quốc gia mình với những ai họ tuyên bố từ bỏ quyền miễn trừ.
Thứ ba, giải quyết vấn đề về quyền miễn trừ của quốc gia trong tư pháp
quốc tế là giải quyết vấn đề của tư pháp quốc tế, do đó phải áp dụng các
phương pháp điều chỉnh của tư pháp quốc tế, cụ thể là phương pháp thực chất
và phương pháp xung đột. Mà trong tư pháp quốc tế thì phương pháp đặc và
Cơ bản đó là phương pháp xung đột. Quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp
quốc tế cũng là vấn đề thuộc lĩnh vực điều chỉnh của tư pháp quốc tế chính vì
vậy cũng phải áp dụng hai phương pháp này. Phương pháp thực chất là


phương pháp sử dụng các quy phạm pháp luật thực chất để tác động trực tiểp
lên quan hệ tư pháp quốc tế. Quy phạm thực chất quy định sẵn các quyền,
nghĩa vụ, biện pháp chế tài đối với các chủ thể tham gia quan hệ tư pháp quốc
tế; Khi quan hệ tư pháp quốc tế xảy ra, nếu có sẵn quy phạm thực chất để áp
dụng thì các bên chủ thể cũng như cơ quan có thẩm quyền (toà án, trọng tài...)

căn cứ ngay vào đó để xác định vấn đề họ đang quan tâm (chẳng hạn: việc
xác định các quyền và nghĩa vụ của chủ thể quan hệ, trách nhiệm pháp lý...).
Với quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế cũng vậy, có những quy
phạm thực chất điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể với nhau, trong các
điều ước quốc tế ký kết giữa giữa các quốc gia có quy định cụ thể quyền,
nghĩa vụ của các bên. Còn với phương pháp xung đột, phương pháp này sử
dụng quy phạm xung đột nhằm xác định hệ thống pháp luật nào sẽ được áp
dụng trong việc đỉều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế cụ thể đang xem xét. Với
phương pháp xung đột thì trong các quan hệ về quyền miễn trừ quốc gia thì
việc áp dụng các quy phạm xung đột rất quan trọng. Không phải tất cả các
quan hệ phát sinh liên quan đến vấn đề này đều có thể xây dựng được quy
phạm thực chất để điều chỉnh, việc phải thông qua các khâu trung gian “chọn
luật” là điều dễ thấy khi các vấn đề có liên quan đến nhiều chủ thể đặc biệt là
quốc gia. Như vậy có thể thấy vấn đề quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp
quốc tế được giải quyết bằng các phương pháp điều chỉnh của tư pháp quốc
tế, đó là phương pháp thực chất và phương pháp xung đột.
Thứ tư, nguồn luật điều chỉnh những quan hệ phát sinh liên quan đến
quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế là luật quốc gia và pháp luật
quốc tế. Khi những quan hệ vượt ra ngoài biên giới quốc gia thì hiệu lực của
luật quốc gia trong đa số các trường hợp không có giá trị duy nhất và cao
nhất. Động chạm đến quyền lợi của lớn hơn một quốc gia thì pháp luật quốc
tế và cụ thể là thông qua các điều ước quốc tế sẽ được lựa chọn để giải quyết.
Các vấn đề liên quan quyền miễn trừ của quốc gia còn có hơi hướng chính trị
nên dù có một bên tham gia quan hệ không phải là quốc gia mà chỉ là tổ chức


hay cá nhân quốc gia có tổ chức hay cá nhân đó thường vẫn có biện pháp gây
áp lực để phía bên kia lựa chọn pháp luật quốc tế áp dụng giải quyết cũng là
điều dễ hiểu. Quyền miễn trừ quốc gia trong tự pháp quốc tế được quy định ở
rất nhiều các điều ước quốc tế, đặc biệt các điều ước về các lĩnh vực như đầu

tư, xây dựng, công nghệ thông tin...
1.4.

Mối quan hệ giữa chủ quyền quốc gia và quyền miễn trừ của

quốc gia trong tư pháp quốc tế
Khi nói đến quốc gia người ta luôn nhắc đến đặc tính chính trị - pháp lý
cơ bản đó là chủ quyền. Chính yếu tố này tạo cho quốc gia vị trí là chủ thể cơ
bản của công pháp quốc tế và là chủ thể đặc biệt của tư pháp quốc tế. Cơ sở
pháp lý của quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế hay nói cách khác
cơ sở để quốc gia có vị thế đặc biệt trong tư pháp quốc tế chính là dựa trên
nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và bình đẳng chủ quyền giữa các
quốc gia. Và quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế cũng là biểu hiện
cụ thể để quốc gia thể hiện chủ quyền của mình trên trường quốc tế. Có thể
thấy hai vấn đề này có mối quan hệ mật thiết với nhau và có sự tác động qua
lại tạo nên một thực thể đặc biệt đó là quốc gia.
Chủ quyền quốc gia bao gồm hai nội dung chủ yếu là quyền tối cao
trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong các
quan hệ quốc tế. Trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp mà không có bất kỳ sự can thiệp nào từ bên
ngoài, thông qua những quyết định về mọi vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội cho quốc gia mình. Trong các quan hệ quốc tế, quyền độc lập của một
quốc gia thể hiện qua quyền tự quyết mọi vấn đề đối nội, đối ngoại của quốc
gia không có sự áp đặt từ chủ thể khác, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của
mọi quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Việc quốc gia thực hiện chủ quyền chỉ
có thể trọn vẹn khi quốc gia vừa đạt được lợi ích của mình vừa không xâm hại
đến lợi ích hợp pháp của chủ thể quốc tế khác.


Bình đẳng về chủ quyền quốc gia là nền tảng của quan hệ quốc tế hiện

đại. Vì có sự bình đẳng về chủ quyền nên không thể có quốc gia nào có quyền
đứng trên để phán xét tính đúng sai của hành động của một quốc gia khác.
Điều này được tổng hợp thành nguyên tắc kẻ ngang quyền này không có
quyền lực gì đối với kẻ ngang quyền kia (Parin parem non habet imperium).
Nguyên tắc này thể hiện ở các nội dung đó là quốc gia được hưởng quyền
miễn trừ xét xử tại bất cứ tòa án nào, miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng
chế nhằm đảm bảo đơn kiện, miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế thi
hành quyết định của tòa án và miễn trừ đối với tài sản thuộc sở hữu của quốc
gia. Mặc dù quyền miễn trừ của quốc gia thuộc lĩnh vực điều chỉnh của tư
pháp quốc tế nhưng cơ sở lại xuất phát từ công pháp quốc tế và việc thực hiện
là bởi các chủ thể của công pháp quốc tế. Nếu không có sự đảm bảo của công
pháp quốc tế thì quyền miễn trừ trong tư pháp quốc tế của quốc gia khó mà
được tôn trọng và thực hiện. Như vậy có thể thấy chủ quyền có ý nghĩa quan
trọng và là cơ sở của quyền miễn trừ trong tư pháp quốc tế của quốc gia.
Ngược lại, quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế cũng có ý
nghĩa củng cố cho chủ quyền quốc gia được vững chắc hơn. Một khi các
quyền miễn trừ đó không được tôn trọng thì việc thực hiện chủ quyền cũng
như quyền chủ quyền của quốc gia đó không còn toàn vẹn và tuyệt đối như
những quốc gia mong muốn.
Sự phân tích về các tác động qua lại giữa chủ quyền quốc gia và quyền
miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế như trên có thể đi đến kết luận giữa
chúng có mối quan hệ biện chứng.
1.5. Ý nghĩa của quyền miễn trừ quốc gia trong giao lưu quốc tế
Trong thời đại hội nhập, các quốc gia đều cố gắng tăng vị thế của mình
trên trường quốc tế, chủ động tham gia chính sách thương mại toàn cầu và
đồng thời tập trung xây dựng, điều chỉnh hệ thống luật pháp minh bạch, phù
hợp xu thế chung, thu hút các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước... Khi hội
nhập các quốc gia đều có nhiều cơ hội hơn để phát triển nhưng cũng phải



đứng trước những thách thức về cạnh tranh với các quốc gia khác trên thế giới
để có thể tận dụng được cơ hội của mình. Khi tham gia các mối quan hệ quốc
tế, việc quốc gia được hưởng quyền miễn trừ ý nghĩa bảo vệ quốc gia khỏi sự
chèn ép của các quốc gia mạnh hơn. Với tư cách là chủ thể đặc biệt của tư
pháp quốc tế, quốc gia luôn luôn xuất hiện với vị thế của kẻ được ưu ái,
không ngang hàng với các chủ thể khác dù xét trong cùng một mối quan hệ.
Quyền miễn trừ quốc gia giúp quốc gia tránh được những rủi ro khi tham gia
quan hệ kinh tế. Điều này càng khẳng định thêm quyền uy quốc gia với cá
nhân, tổ chức và các quốc gia khác.
Ngày nay quyền miễn trừ quốc gia càng có ý nghĩa hơn khi quốc gia chủ
động sử dụng hay từ bỏ quyền của mình. Quốc gia có quyền miễn trừ điều đó
có nghĩa quốc gia được hưởng nhiều ưu đãi như cùng tham gia vào một mối
quan hệ nhưng quốc gia lại hưởng quyền miễn trừ xét xử tại tòa án của quốc
gia khác, được miễn trừ đối với các biện pháp thi hành án, miễn trừ đối với tài
sản thuộc quyền sở hữu của quốc gia... Nghe có vẻ bất công đối với các chủ
thể khác khi tham gia quan hệ tư pháp quốc tế với quốc gia nhưng thực tế,
quốc gia được trao quyền này trên cơ sở chủ quyền quốc gia. Nếu không được
hưởng quyền lợi như vậy thì việc thường xuyên phải tham gia các vụ kiện
trong các tranh chấp quốc tế sẽ khiến nhiều quốc gia lợi dụng điều này để chi
phối quá trình giải quyết tranh chấp và chắc hẳn nhiều quốc gia kém phát
triển sẽ bị diệt vong vì không đủ sức tham gia các vụ kiện. Đây là một cơ sở
quan trọng để bảo vệ quốc gia xét trên cả phương diện công pháp và tư pháp
quốc tế.
Tuy nhiên nếu quốc gia cố vin vào quyền miễn trừ của mình để lợi dụng
các cá nhân, tổ chức khi tham gia quan hệ với mình thì sẽ thật bất công. Và
như vậy quốc gia đó khó có cơ hội thu hút đầu tư và tham gia các quan hệ về
sau. Để tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư thì ngày nay, nhiều quốc gia
thể hiện rõ ý chí của mình về quyền miễn trừ trong tư pháp quốc tế của mình
bằng các văn bản pháp luật hay trong các hợp đồng kinh tế, thương mại...



Hành động này của quốc gia giúp cơ hội đến với họ nhiều hơn song nguy cơ
bị hạn chế chủ quyền một cách bị động cũng nhiều không kém. Nhưng dù thế
nào chăng nữa thì việc cân nhắc từ bỏ quyền miễn trừ cũng cần xem xét kỹ
với từng đối tác và tùy từng lĩnh vực. Suy cho cùng, với các nhà đầu tư việc
quốc gia san sẻ chủ quyền và từ bỏ quyền miễn trừ của mình thì đó cũng là
động thái tích cực của quốc gia để họ tin tưởng và phát triển quan hệ kinh tế
gắn với quốc gia đó.


CHƯƠNG 2
NỘI DUNG QUYỀN MIỄN TRỪ QUỐC GIA TRONG
TƯ PHÁP QUỐC TẾ
Khi tham gia vào quan hệ tư pháp quốc tế, quốc gia được hưởng các
quyền miễn trừ trong đó quan trọng nhất là quyền miễn trừ tư pháp và miễn
trừ đối với tài sản của quốc gia, gọi chung là quyền miễn trừ của quốc gia.
Quyền miễn trừ của quốc gia trong lĩnh vực quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài được ghi nhận rải rác trong các điều ước quốc tế, điển hình nhất là
Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao, Công ước Viên 1963 về
quan hệ lãnh sự, Công ước Brussels về thống nhất các quy định về miễn trừ
tàu thuyền nhà nước ngày 14/4/1926, Công ước Barel của Liên minh Châu Âu
1972... Đặc biệt, các nội dung này được quy định một cách cụ thể và tập trung
tại Công ước của Liên hiệp quốc về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ tài
sản của quốc gia. Các quyền này cũng được ghi nhận trong pháp luật của
nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam.
2.1. Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia
Quyền miễn trừ quốc gia trong tư pháp quốc tế thể hiện ở ba khía cạnh,
chính là ba giai đoạn của quá trình tố tụng. Đó là: quốc gia có quyền miễn trừ
trong sơ bộ án, quyền miễn trừ xét xử và quyền miễn trừ trong việc thi hành án.
Theo xu hướng phát triển tất yếu khi các quốc gia tham gia vào quá trình hội

nhập thì các quyền năng của mình bị hạn chế dần bởi sự tự nguyện của quốc
gia. Chính bởi vậy việc nghiên cứu dưới góc độ truyền thống hay trong thời kỳ
hội nhập quốc tế đều cần thiết, để các quốc gia có cơ sở xác định xu hướng
phát triển và có sự điều chỉnh pháp luật sao cho phù hợp với thực tiễn quốc tế.
2.1.1. Quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của quốc gia
2.1.1.1. Miễn trừ trong việc sơ bộ án
Quyền miễn trừ trong việc sơ bộ án có nghĩa các quốc gia được miễn
các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo đơn kiện, nếu quốc gia đồng ý cho tổ


chức, cá nhân nước ngoài kiện mình. Nội dung của quyền này thể hiện trong
trường hợp nếu một quốc gia đồng ý để tòa án nước ngoài thụ lý, giải quyết
một vụ tranh chấp mà quốc gia là một bên tham gia thì tòa án nước ngoài đó
được quyền xét xử nhưng tòa án không được áp dụng bất cứ một biện pháp
cưỡng chế nào như bắt giữ, tịch thu tài sản của quốc gia để phục vụ cho việc
xét xử. Tòa án chỉ được áp dụng các biện pháp này nếu được quốc gia cho
phép. Điều 18 Công ước của Liên hợp quốc về quyền miễn trừ tài phán và
miễn trừ tài sản của quốc gia quy định: “Không có biện pháp cưỡng chế tiền
tố tụng nào như tịch thu,, chỉếm giữ tài sản trái pháp luật của quốc gia được
áp dụng trong một vụ kiện trước một tòa án nước ngoài... Cũng tại Điều 18
Công ước quy định rõ chỉ coi là nhà nước từ bộ quyền miễn trừ này bằng văn
bản như trong thỏa thuận quốc tế, bởi một thỏa thuận t|*ọng tài hoặc trong
một hợp đồng bằng văn bản, hoặc bằng một tuyên bố trước tòa án hoặc của
một giao tiếp bằng văn bản sau khi tranh chấp giữa các bên có phát sinh. Như
vậy việc áp dụng các biện pháp tiền tố tụng đối với nhà nước trong các quan
hệ tư pháp quốc tế là không được phép bởi vi phạm vào quyền miễn trừ của
họ.
Tại Điều 44 Công ước Viên năm 1963 về quan hệ lãnh sự có quy định
về nghĩa vụ làm chứng của những thành viên của một cơ quan lãnh sự. Nếu
họ được mời đến làm chứng trong quá trình tiến hành một vụ tố tụng về tư

pháp hoặc hành chính thì không được từ chối việc làm chứng. Tuy nhiên nếu
một viên chức lãnh sự không chịu ra làm chứng, thì không được dùng biện
pháp cưỡng chế hoặc áp dụng chế tài đối với người đó. Vậy có thể thấy họ
được hưởng quyền miễn trừ tư pháp cả khi họ được mời đến làm chứng liên
quan đến những vụ việc thuộc lĩnh vực điều chỉnh của tư pháp. Những thành
viên của một cơ quan lãnh sự không bắt buộc phải cung cấp bằng chứng về
các vấn đề có liên quan đến việc thừa hành chức năng của mình hoặc phải
cung cấp công văn, tài liệu có liên quan đến những vấn đề như vậy. Họ còn có
quyền từ chối làm chứng với tư cách là chuyên viên về mặt pháp luật của


nước cử lãnh sự. Những quy định này nhằm tạo điều kiện cho các nhân viên
ngoại giao không phải tham gia vào những vấn đề ngoài nhiệm vụ được quốc
gia mình giao cho.
2.1.1.2. .Miễn frừ xét xử tại bất cứ Tòa án nào
Nội dung quyền này thể hiện nếu không có sự đồng ý của quốc gia thì
khồng có một tòa án nước ngoài nào có thẩm quyền thụ lý và giải quyết vụ
kiện mà quốc gia là bị đơn. Các tranh chấp liên quan đến quốc gia phải được
giải quyết bằng con đường thương lượng trực tiếp hoặc con đường ngoại giao,
trừ khi quốc gia từ bỏ quyền này. Điều 5 và Điều 6 Công ước của Liên hợp
quốc về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản cùa quốc gia quy định:
Quốc gia được hưởng quyền miễn trừ tài phập trước một tòa án nước ngoài
theo những quy định của Công ước. Các quốc gia có nghĩa vụ đảm bảo quyền
miễn trừ tài phán và quyền miễn trừ tài sản của quốc gia khác, cụ thể là không
thực thi quyền tài phán chống lại quốc gia khác trong một vụ kiện tại tòa án
nước mình. Quyền miễn trừ về xét xử có thể thấy rõ qua các quy định của
Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao, Công ước Viên năm 1963 về
quan hệ lãnh sự, thông qua những quyền năng của người đại diện cho quốc
gia tại nước sở tại. Trong các Công ước đều ghi rõ những quyền miễn trừ chỉ
có được khi họ thực hiện những hành vi chính thức trong khi thi hành các

chức năng của họ. Như Điều 31 Công ước có quy định: “Viên chức ngoại
giao được hưởng quyền miễn trừ xét xử về hình sự của nước tỉếp nhận. Họ
cũng được hưởng quyền miễn trừ xét xử về dân sự và hành chính ” Đó là khi
họ nhân danh quốc gia mình trong các mối quan hệ họ tham gia. Điều đó có
nghĩa là bản thân quốc gia đó được hưởng quyền miễn trừ tư pháp nhung họ
trao quyền này cho đại diện của quốc gia mình. Trong trường hợp những viên
chức ngoại giao tham gia vào những quan hệ mang tính chất cá nhân thì họ
không được hưởng quyền miễn trừ, đó là đương nhiên bởi khi đó không còn
nhân danh nước cử viên chức ngoại giao. Cụ thể là trường hợp được quy định
tại điểm a, điểm b và điểm c Điều 31 Công ước:


“a) Một vụ kiện về tài sản liên quan đến bất động sản tư nhân nằm trên
lãnh thổ Nước tiếp nhận, nếu như viên chức ngoại giao sở hữu bất động sản
đó không trên danh nghĩa nước cử đi vì các mục đích của cơ quan đại diện.
b)

Một vụ kiện liên quan đến việc thừa kế, trong đó viên chức

ngoại giao đứng tên là người thực hiện di chúc, người bảo hộ, người thừa kế
hoặc người thừa tự với tư cách cá nhân chứ không phải nhân danh nước cử đi.
c)

Một vụ kiện liên quan đến bất cứ hoạt động nghề nghiệp hoặc

thương mại nào mà viên chức ngoại giao tiến hành ở Nước tiếp nhận ngoài
phạm vi những chức năng chính thức của họ.”
Tại Điều 43 Công ước Viên năm 1963 về quan hệ lãnh sự cũng có quy
định nội dung quyền miễn trừ tư pháp này: “sCảc viên chức ỉãnh sự và nhân
viên lãnh sự không phải chịu sự tài phán của các nhà chức trách tư pháp

hoặc hành chính của nước tiếp nhận lãnh sự về các hành động của mình
trong khỉ thừa hành nhiệm vụ lãnh sự. ” Công ước có ghi rõ những viên chức
lãnh sự và nhân viên lãnh sự được hưởng quyền miễn trừ này khỉ họ “thừa
hành nhiệm vụ ỉãnh sự’\ có nghĩa họ đại diện cho nhà nước cử lãnh sự. Vậy
thực chất đây là quyền miễn trừ dành cho quốc gia cử lãnh sự. Điều đó cũng
được thể hiện rõ trong quy định về những trường hợp không được miễn trừ,
chính là khi những viên chức này tham gia vào các quan hệ mang tính chất cá
nhân, cụ thể là: vụ tố tụng dân sự xảy ra vì một hợp đồng do một viên chức
lãnh sự hoặc một nhân viên lãnh sự ký kết mà không phải là rõ ràng hoặc hàm
ý đứng trên danh nghĩa một người của nước cử lãnh sự để ký két hoặc do một
bên thứ ba tiến hành về thiệt hại đo tai nạn ô tô, tàu thuỷ hoặc máy bay xảy ra
tại nước tiếp nhận lãnh sự.
Quyền miễn trừ về xét xử của quốc gia trong tư pháp quốc tế còn được
thể hiện ở nhiều những quy định khác nhau như Điều 32, Điều 39, Điều 41,
Điều 44... Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao.
Việt Nam có quy định quyền miễn trừ xét xử của quốc gia khác rải rác
tại các vần bản pháp luật. Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ


quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức
quốc tế tại Việt Nam ngày 07/9/1993 có một số quy định về quyền miễn trừ tư
pháp như tại khoản 1 Điều 12 Pháp lệnh, "viên chức ngoại giao được hưởng
quyền miễn trừ xét xử vẻ hình sự tại Việt Nam. Họ cũng được hưởng quyền
miễn trừ xét xử về dân sự và xử phạt hành chỉnh
1. L L 3 . Quyền mịễn trừ trong việc thỉ hành phản quyết của tòa án
nưởc ngoài
Quyền này có nghĩa là quốc gia được hưởng quyền miễn trừ đối với các
biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo thi hành quyết định của Tòa án trong
trường hợp quốc gia không đồng ỷ cho các tổ^hức, cá nhân nước ngoài kiện,
đồng ý cho Tòa án xét xử. Trong trường hợp quốc gia, đồng ý cho một tòa án

nước ngoài giải quyết một tranh chấp mà quốc gia là một bên tham gia và nếu
quốc gia là bên thua kiện thi bản án của tòa án nước ngoàỉ đó cũng phải đưực
quốc gia tự nguyện thi hành. Nếu không có sự đồng ý của quốc gia thì không
thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt giữ, tịch thu tài sản của quốc gia
nhằm cưỡng chế thi hành bản án đó. Ngay cả khi quốc gia từ bỏ quyền miễn
trừ xét xử thì quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi
hành phán quyết của tòa án vẫn phải được tôn trọng. Điều 19 Công ước của
liên hợp quốc về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản của quốc gia quy
định: “Không có biện pháp cưởng chế nào sau khỉ có phản quyết của tòa án
như tịch thu, bắt giữ tài sản trải pháp luật của quốc gia được áp dụng trong
một vụ kiện trước một tòa án nước ngoài... ” Tại Khoản 4 Điều 32 Công ước
Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao có quy định: “Việc từ bỏ quyền miễn
trừ xét xử trong một vụ kiện về dân sự hoặc hành chính không được coi như
bao hàm cả việc từ bỏ quyền miễn trừ đổi với những biện pháp thi hành án.
về việc này cản phải có sự từ bỏ riêng. ”
Các quốc gia đã công nhận quyền miễn trừ của quốc gia trong tư pháp
quốc tế thì đều công nhận trong các quyền đó bao gồm cả quyền miễn trừ áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành phán quyết của tòa án. Nếu áp dụng


biện pháp cưỡng chế đối với một quốc gia thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chủ
quyền của quốc gia đó. Như vậy không còn có sự bình đẳng và tôn trọng chủ
quyền. Chính vì vậy việc dành cho quốc gia khác hưởng quyền miễn trừ áp
dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo thi hành phán quyết của tòa án
là hoàn toàn hợp với những nguyên tắc cơ bản của cả công pháp và tư pháp
quốc tế.
Quyền miễn trừ được pháp luật Việt Nam quy định cho các nhân viên
ngoại giao và nhân viên lãnh sự không chỉ có quyền miễn trừ xét xử mà còn
bao gồm cả quyền miễn trừ đối với các biện pháp thi hành án. Tại khoản 4
Điều 2 Bộ luật dân sự 2005 cũng quy định: “Qả nhân, cơ quan, tổ chức nước

ngoài thuộc đối tượng được hưởng các quyền UU đặi, miễn trừ ngoại giao
hoặc các quyền mi đãi, miễn trừ lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo Điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kỷ kết hoặc gia nhập thì
vụ việc dân sự cỏ liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức đổ được giải quyết
bằng con đường ngoại giao ”, Giống như các quốc gia khác trên thế giới Việt
Nam công nhận quyền miễn trừ của quốc gia khác trong tư pháp quốc tế. Và
điều này nhằm tạo nên sự công bằng về chủ quyền, cũng để mong các quốc
gia khác có sự tôn trọng quyền miễn trừ của quốc gia Việt Nam. Cụ thể tại
khoản 3 Điều 12 Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại
diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tồ chức quốc tế tại
Việt Nam ngày 07/9/1993 quy định: “vỉên chức ngoại giao được hưởng
quyền miễn trừ đối với các biện pháp thi hành ản
2.1.2,

Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong bối cảnh hội nhập

quốc tế hiện nay
Các quốc gia với tư cách là chủ thể đặc biệt của tư pháp quốc tế được
hưởng những ưu đãi khi tham gia các quan hệ tư pháp quốc tế. Nhưng đôi khi
họ từ bỏ quyền này để đạt được những lợi ích mong muốn của mình ở các
lĩnh vực khác. Ngày nay các quốc gia tham gia càng nhiều vào các quan hệ tư
pháp quốc tế, họ vẫn được hưởng quyền miễn trừ đầy đủ theo đúng quy định


của pháp luật như vốn đó là một quyền tự nhiên. Trong thời kỳ hội nhập quốc
tế hiện nay pháp luật vẫn quy định cho quốc gia đầy đủ những quyền miễn trừ
như ban đầu, còn việc quốc gia từ bỏ hay không là hoàn toàn tự nguyện. Họ
vẫn sẽ được hưởng quyền này đầy đủ trừ khi họ thể hiện rõ ý chí của mình về
sự từ bỏ quyền của mình. Những lý do khiến các quốc gia từ bỏ quyền miễn
trừ rất nhiều song đa số họ đều hướng đến lợi ích kinh tế khi cân nhắc từ bỏ

quyền của mình. Và khi đã từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp trong các quan hệ
quốc tế thì các quốc gia sẽ ngang hàng với CẶC chủ thể khác trong mối quan
hệ với mình. Việc từ bỏ quyền này được thể hiện ở nhiều văn bản pháp luật
quốc tế cũng như pháp luật quốc gia trong đó có Việt Nam. Vậy điểm khác
biệt giữa quyền miễn trừ của quốc gia trong tư pháp quốc tế thời kỳ hội nhập
quốc tế ngày nay và quyền miễn trừ tuyệt đối của quốc gia trong tư pháp quốc
tế khác nhau ở điểm cơ bản nhất đó chính là sự tự nguyện từ bỏ quyền miễn
trừ của mình.
Pháp luật quốc tế công nhận sự từ bỏ quyền miễn trừ của quốc gia nếu
quốc gia đó có ý định từ bỏ quyền của mình. Điều này được quy định tại Điều
32 Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao. Khoản 1 Điều 32 có ghi
rõ: “Nước cử đi cỏ thể từ bỏ quyền miễn trừ xét xử của các viên chức ngoại
giao và của những người được quyền mỉễn trừ theo Điều 37. ” Và để từ bỏ thì
quốc gia phải thể hiện ý chí của mình ra bên ngoài để các chủ thể khác có thể
xác định và có cơ sở vững chắc khi xảy ra tranh chấp. Cho nên việc từ bỏ
quyền miễn trừ, các quốc gia phải thể hiện rõ ràng, có thể bằng văn bản hoặc
tuyên bố với sự công nhận của các chủ thể khác. Khi một viên chức ngoại
giao hay một người được hưởng quyền miễn trừ xét xử theo Điều 37 cuả
Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao đứng ra phát đơn kiện, người
đó sẽ không còn được quyền viện dẫn quyền miễn trừ xét xử đối với mọi đơn
phản kiện có liên quan trực tiếp đến đơn kiện trước. Như vậy pháp luật đã quy
định rõ quyền của quốc gia là được từ bỏ quyền miễn trừ của mình tuy nhiên
cũng phải có chừng mực và theo đúng thông lệ quốc tế.


Có thể thấy Công ước Washington năm 1965 về việc giải quyết tranh
chấp đầu tư giữa các quốc gia và công dân của quốc gia khác là một điển hình
của việc quốc gia từ bỏ quyền miễn trừ của mình khi tham gia các quan hệ tư
pháp quốc tế. Ngày 14/10/1966, 30 ngày sau khi văn bản phê chuẩn thứ 20
được nộp cho Ngân hàng thế giới, Công ước ICSID đã chính thức có hiệu lực.

Đến nay, Công ước này đã được khoảng 135 quốc gia phê chuẩn. Cùng với
hoạt động của Trung tâm ICSID, năm 1976 các quốc gia ký kết đã thông qua
Cơ chế phụ trợ của Trung tâm và ban hành bộụquy tắc tạo điều kiện thuận lợi
bổ sung, cho phép Ban thư ký ICSID gíắi quyết các tranh chấp trong đó một
bên không phải là thành viên Công ưởc ICSID.
Mục đích chủ yếu của Công ước là nhằm thiét lập ICSID - một cơ chế
hòa giải và trọng tài thường trực bên cạnh WB - có chức năng giải quyết tranh
chấp đầu tư giữa cơ quan nhà nước của một bên ký kết và nhà đầu tư của bên
ký kết khác.
Thủ tục tố tụng không nhất thiết phải tiến hành ở trụ sở chính của Trung
tâm tại Washington. Thỏa thuận giữa các chính phủ về việc đưa tranh chấp
đầu tư ra trọng tài ICSID có thể tìm thấy trong các hợp đồng đầu tư giữa các
chính phủ và nhà đầu tư, cũng như trong các hiệp định đầu tư song phương.
Những quốc gia tham gia công ước này đều phải chấp nhận từ bỏ quyền miễn
trừ của mình để ngang hàng với các nhà đầu tư trong các quan hệ về đầu tư.
Tại Khoản 2 Điều 1 Công ước Washington 1965 có quy định: “Mục
đích của Trung tâm sẽ được cung cấp cơ sở cho hòa giải và trọng tài các
tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia ký kết và công dân của nước kỷ kết khác
theo quy định của Công ước này. ” Khi quốc gia gia tham gia Công ước
Washington năm 1965 có nghĩa là đồng ý cho công dân nước khác kiện mình
ra Trung tâm. Như vậy có nghĩa quốc gia đó từ bỏ quyền miễn trừ của mình
khi tham gia các quan hệ tư pháp quốc tế.
Các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu như: Hiệp định giữa Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Liên hiệp Vương quốc Anh và


×