CHƯƠNG VIII
PHONG TRÀO “XUNG PHONG TÌNH NGUYỆN VƯỢT MỨC KẾ HOẠCH NHÀ
NƯỚC NĂM NĂM LẦN THỨ NHẤT”
Trên cơ sở những thành tựu đã giành được trong những năm khôi phục, cải tạo và
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở miền Bắc và phong trào yêu nước ở miền Nam, Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ III họp tháng 9 - 1960 đã quyết định đường lối chung của Đảng
trong thời kỳ quá độ đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, quyết định phương hướng và
nhiệm vụ của kế hoạch Nhà nước năm năm lần thứ nhất (1961 - 1965), nhằm phấn đấu
bước đầu xây dựng xây dựng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn
thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình thống nhất
nước nhà. Đại hội còn chỉ rõ: “Thanh niên ta đã nêu cao tinh thần hy sinh anh dũng trong
kháng chiến và trong lao động hòa bình. Thanh niên lại là lớp người đang xây dựng chu
rnghĩa xã hội và sẽ xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở nước ta. Đảng ta phải hết sức chú trọng
giáo dục và rèn luyện thế hệ trẻ thành những chiến sĩ trung thành với Tổ quốc, với chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, sẵn sàng mang hết nhiệt tình của tuổi trẻ tham gia xây
dựng xã hội mới”.
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử cao cả của Đoàn và tuổi trẻ trong giai đoạn cách mạng
mới, Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III được triệu tập từ ngày 23 đến ngày 25 - 3 - 1961,
có 677 đại biểu, thay mặt cho hơn 1 triệu đoàn viên. Đại hội xác định nhiệm vụ của Đoàn
trong giai đoạn cách mạng mới là: “Đoàn kết thanh niên, tổ chức mọi lực lượng, giáo dục
thanh niên trong cả nước tiến lên dưới ngọn cờ của Đảng, cống hiến hết sức mình phấn đấu
hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ lịch sử mà Đảng đề ra”.
Đại hội vạch rõ: “Tất cả mọi hoạt động của Đoàn và thanh niên nước ta đều cần
hướng vào việc thực hiện những nhiệm vụ cách mạng của Đảng là xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, giải phóng miền Nam, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”. Đại hội
đã nêu ra nhiệm vụ trước mắt của Đoàn là “hướng toàn thể nam nữ đoàn viên, thanh niên
suy nghĩ và hành động với tư cách là người lính xung kích, cống hiến hết sức mình cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà thể hiện trên các mặt
sản xuất, công tác, học tập, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng cuộc sống văn minh”.
Đại hội vinh dự được Bác Hồ kính yêu, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban
Chấp hành Trung ương Đảng và các đồng chí trong Bộ Chính trị đến dự. Nói chuyện với
đại hội, Bác Hồ chỉ rõ: “Đoàn thanh niên cần phải làm đầu tàu, gương mẫu trong phong
trào thi đua yêu nước. Phải thực hiện khẩu hiệu: Đâu Đảng cần, thanh niên có, việc gì khó
thanh niên làm”.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đoàn gồm 71 đồng chí, trong đó có 15 đồng
chí tham gia Ban Thường vụ và 5 đồng chí tham gia Ban Bí thư. Đồng chí Nguyễn Lam
được bầu lại làm Bí thư thứ nhất. Sau đại hội, đồng chí Nguyễn Lam được Đảng điều đi
nhận nhiệm vụ mới, đồng chí Vũ Quang được cử làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương Đoàn.
Đại hội đã phát động phong trào “Xung phong tình nguyện vượt mức kế hoạch Nhà
nước năm năm lần thứ nhất” (1961 - 1965) nhằm tổ chức, giáo dục, đồng viên tuổi trẻ
miền Bắc phát huy vai trò và tác dụng của mình đi đầu thực hiện thắng lợi kế hoạch Nhà
nước, qua đó mà “Nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, giáo dục thanh niên ý thức đối với
kế hoạch Nhà nước, giáo dục tinh thần xung phong, tự nguyện, tự giác trong bất kỳ công
việc gì mà mình đang làm, nâng cao tinh thần trách nhiệm của thanh niên đối với việc thực
hiện kế hoạch năm năm”.
Do đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của tuổi trẻ, phù hợp với các đối tượng,
các tầng lớp thanh niên chỉ trong một thời gian ngắn đã có trên 1 triệu đoàn viên, thanh
niên hoạt động trên các mặt: sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, lâm
nghiệp, văn hóa giáo dục, an ninh quốc phòng,v.v... hưởng ứng và đăng ký tham gia.
Để chỉ đạo phong trào đi đúng hướng, đạt được mục tiêu và nội dung đề ra, đạt
hiệu quả thiết thực, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn (khóa III) đã có nhiều cuộc họp
chuyên đề bàn việc triển khai phong trào trên từng lĩnh vực, từng đối tượng, từng nội dung
cụ thể. Đó là Nghị quyết về nhiệm vụ của Đoàn đối với kế hoạch Nhà nước năm năm lần
thứ nhất; Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ của Đoàn trong công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa; Nghị quyết về nhiệm vụ của Đoàn tham gia phát triển sản xuất nông nghiệp;
Nghị quyết về công tác giáo dục, về công tác thiếu niên nhi đồng, về công tác Đoàn trong
trường học,v.v... Đây là bước phát triển mới về sự chỉ đạo của Đoàn đối với phong trào
thanh niên; tổ chức, động viên thanh niên đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phong trào
xung phong tình nguyện tuy có bao quát, toàn diện, nhưng mỗi lĩnh vực, mỗi đối tượng cụ
thể lại có nội dung riêng, có hình thức, ,phương thức nhất định, vừa đa dạng, phong phú,
vừa mang tính đặc thù cho từng lĩnh vực hoạt động, từng loại hình trong tổng thể của một
phong trào thống nhất. Điều đó đã tạo ra cho phong trào sức sống mạnh mẽ.
Cuối tháng 12 - 1961, Đại hội Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam lần thứ II và đầu
tháng 3 - 1962, Đại hội Hội Liên hiệp Sinh viên Việt Nam lần thứ III đã họp. Các đại hội
đã đánh giá hoạt động của Hội trong thời gian qua và thảo luận phương hướng công tác sắp
tới; động viên toàn thể thanh niên và sinh viên hãy tích cực tham gia phong trào “xung
phong tình nguyện vượt mức kế hoạch Nhà nước năm năm lần thứ nhất” do Đại hội Đoàn
toàn quốc lần thứ III phát động, đưa phong trào thanh niên và sinh viên phát triển mạnh
mẽ, rộng khắp.
Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, ngoài công việc chống úng, chống nạn, diệt trừ
sâu bệnh,v.v... các hoạt động của Đoàn đều có chương trình, kế hoạch, có tiêu chuẩn, định
mức, có quy trình kỹ thuật,v.v... Trong công tác thủy lợi, các tổ chức Đoàn ở cơ sở đã đảm
nhận trước cấp ủy Đảng và hợp tác xã cải tạo đồng ruộng, xây dựng hệ thống thủy nông,
bảo đảm tưới tiêu nước theo yêu cầu, phục vụ thâm canh tăng năng suất cây trồng. Từ hợp
tác xã Hồng Thái (Hải Dương), Phương Trù (Vĩnh Phúc), những đội thủy lợi chuyên do
Đoàn làm nòng cốt đã nhanh chóng phát triển ra nhiều cơ sở. Về sau, đội thủy lợi chuyên
đã có hầu khắp các địa phương, hợp tác xã, gọi là đội thủy lợi 202. Đến cuối năm 1963, cả
miền Bắc đã có trên 1 vạn đội, được chuyên môn hóa, không chỉ làm thủy lợi ở hợp tác xã
mà thường xuyên có mặt ở các công trình đầu mối, trên các công trường thủy lợi của tỉnh,
của huyện. Do được chuyên môn hóa, làm việc theo điịnh mức nên thường đạt năng suất
cao. Hầu như cá nhân, đơn vị nào cũng đạt và vượt năng suất. Tiêu biểu là nữ Anh hùng trẻ
tuổi Phạm Thị Vách (Hưng Yên) đã đi đầu trong công tác đắp đe ngăn nước sông Hồng, có
nhiều sáng kiến, cải tiến, đưa năng suất của toàn đội tăng gấp 3,5 lần chỉ tiêu, luôn hoàn
thành vượt mức kế hoạch trên các công trường thủy lợi. Học tập Đoàn thanh niên xã Hồng
Thái (Ninh Giang, Hải Dương), xã Vũ Thắng (Kiến Xương, Thái Bình) là vùng sâu trũng
nhất huyện, thường xuyên bị ngập lụt, mất mùa, Đoàn đã đảm nhận trước Đảng ủy và hợp
tác xã đào một con mương tiêu nước và xây dựng lại đồng ruộng, kết quả là đã giải quyết
được nạn ngập úng, đưa năng suất lúa tăng lên rõ rệt và hợp tác xã Vũ Thắng đã trở thành
lá cờ đầu về thâm canh toàn miền Bắc.
Trong phong trào làm phân bón, đi đôi với việc tổ chức, động viên đoàn viên, thanh
niên làm thật nhiều phân như trước, các cơ sở Đoàn đã đảm nhận xây dựng kế hoạch làm
phân và nâng cao chất lượng phân bón cho hợp tác xã. Qua tính toán, cân đối giữa yêu cầu
thâm canh và khả năng phân bón của hợp tác xã, Đoàn đứng ra ký kết hợp đồng với hợp
tác xã, tổ chức, động viên đoàn viên làm đủ số phân còn thiếu. Các chi đoàn đã thành lập
các tổ chuyên trách làm phân, làm bèo hoa dâu. Tổ vừa có trách nhiệm làm thêm phân, thu
gom của đoàn viên, thanh niên và xã viên hợp tác xã, vừa làm nhiệm vụ chế biến để nâng
cao chất lượng phân bón. Để tạo điều kiện cho đoàn viên, thanh niên của mình bảo đảm chỉ
tiêu về số lượng và chất lượng phân bón, với khẩu hiệu: “Sạch làng tốt ruộng”, các cơ sở
Đoàn trong hợp tác xã đã có phương thức “3 chuồng 4 hố” (chuồng trâu bò, chuồng lợn,
chuồng gà; hố phân, hố tiểu, hố rác và hố xí) làm nhà ủ và chế biến phân. Nhiều nơi còn ủ
phân ngay tại ruộng. Các Tỉnh Đoàn, Huyện Đoàn đã phối hợp với ngành nông nghiệp mở
các lớp tập huấn kỹ thuật chế biến phân, kỹ thuật làm bèo hoa dâu, kỹ thuật bón phân theo
yêu cầu sinh trưởng của cây trồng,v.v.... Năm 1962, trong 20 Tỉnh, Thành Đoàn đã có 8691
chi đoàn lên được kế hoạch và ký kết hợp đồng làm phân bón cho hợp tác xã. Năm 1963,
chỉ trong 16 tỉnh, thành đã có thêm 2900 chi đoàn làm được như trên, và có trên 3 vạn kỹ
thuật viên được tập huấn làm bèo hoa dâu, do đó việc nuôi thả bèo hao dâu tăng lên nhanh
chóng. Năm 1962 trong 11 tỉnh, thành, riêng thanh niên đã thả được 1750 mẫu bèo ở 393
cơ sở. Vụ đông xuân 1962 - 1963 đã có 4900 cơ sở, ươm thả trên 12900 ha bèo hoa dâu và
đến vụ đông xuân 1963 - 1964 con số đó đã tăng lên 13834 cơ sở và ươm thả được
140.900 ha bèo hoa dâu.
Để đảm bảo thực hiện được hợp đồng đã ký kết với hợp tác xã, mọi nguồn phân
đều được đoàn viên, thanh niên tận dụng khai thác. Đoàn đã vận động, xây dựng được
hàng vạn chuồng lợn hai bậc, hố xí hai ngăn khiểu mới và phát động đoàn viên, thanh niên
trồng cây điền thanh, cây muông muồng. Năm 1962, riêng thanh niên thị xã Hà Đông (Hà
Tây) đã trồng được 1300 mẫu điền thanh và muồng muồn. Thanh niên Nam Hà có sáng
kiến tận dụng đất, đắp mộ, tranh thủ thời gian trồng điền thanh ngay trên ruộng mới cấy,
vừa lợi dụng nốt pầhn bộ rễ tăng độ phì nhiêu cho đất, vừa lấy lá làm phân xanh.
Phục vụ cho phong trào làm phân bón và tăng nguồn thực phẩm cho nhân dân, Đoàn
ta còn có phong trào chăn nuôi lợn tập thể, đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính.
Thanh niên ngoại thành Hà Nội có phong trào “Đàn lợn 100 con” và sau đó nâng thành
“Đàn lơn trăm con, vạn cân”, đã được thanh niên miền Bắc hưởng ứng. Các cơ sở Đoàn đã
cử những đoàn viên, thanh niên có khả năng và nhiệt tình tham gia chăn nuôi lợn tập thể.
Để hỗ trợ cho chăn nuôi, ở Hòa Bình có phong trào mỗi đoàn viên thanh niên trồng 500
gốc sắn; ở Nam Định có phong trào “100 kg thức ăn bột cho lợn”; ở Ninh Bình có phong
trào “5 cây, 5 con” cho mỗi đoàn viên, thanh niên. Việc hướng dẫn phương pháp ủ chua
thức ăn cho lợn rất được các tại chăn nuôi tập thể và gia đình đoàn viên, thanh niên và các
cấp bộ Đoàn quan tâm. Đã có nhiều tập thể và cá nhân tiêu biểu xuất hiện, nêu lên những
bài học thiết thực cho các nơi noi theo. Anh Lương Văn Nghĩa (Thanh Trì - Hà Nội) học
sinh tốt nghiệp phổ thông đã say mê, kiên trì vận dụng những kiến thức đã học được trên
ghế nhà trường và trong thực tế, suy nghĩ, tìm tòi và áp dụng phương pháp nuôi lợn bằng
thức ăn khô, giảm được cường độ lao động cho xã viên, tiết kiệm nguyên liệu, đàn lợn tăng
trọng nhanh. Anh được bà con xã viên yêu mến và được Nhà nước phong tặng danh hiệu
Anh hùng lao động. Chi đoàn Văn Quán (Vĩnh Phúc), Việt Triều, Giang Biên (Hà Nội),
Gia Thịnh, Xuân Lan (Ninh Bình),v.v... là những nơi có phong trào chăn nuôi giỏi. ở
những nơi này, đàn lợn tập thể có hàng trăm con, gia đình đoàn viên, thanh niên đều nuôi
từ 2 - 3 con trở lên, và chăn nuôi đã thực sự có lãi.
Nhận thức được vai trò của khoa học kỹ thuật trong quá trình thâm canh tăng năng
suất cây trồng, vật nuôi, Đoàn đã động viên, tổ chức đoàn viên, thanh niên đi vào những
lĩnh vực mới mẻ, những khâu khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải vận dụng kiến thức khoa
học kỹ thuật. Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đoàn về công tác giáo dục đã chỉ rõ:
“Phải khôn ngừng giáo dục, nâng cao trình độ giác ngộ cộng sản chủ nghĩa, trình độ văn
hóa, khoa học và kỹ thuật cho thanh niên, tổ chức động viên thanh niên mạnh mẽ tiến quân
vào khoa học kỹ thuật, làm cho thanh niên trở thành lực lượng xung kích trong cuộc cách
mạng kỹ thuật”
Đoàn coi trọng cả 3 mặt: Đào tạo và bồi dướng lực lượng trẻ làm khoa học kỹ thuật;
xây dựng mạng lưới hoạt động khoa học, kỹ thuật; tổ chức thực hiện các biện pháp khoa
học, kỹ thuật; tổ chức thực hiện các biện pháp khoa học, kỹ thuật tiên tiến, đưa tiến bộ kỹ
thuật vào sản xuất và đời sống. Các Tỉnh, Thành Đoàn đã phối hợp với ngành nông nghiệp,
hội phổ biến khoa học kỹ thuật mở các lớp tập huấn kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi; tổ
chức những cuộc họp “đầu bờ”, những hội nghị khoa học kỹ thuật trẻ để rút kinh nghiệm,
học tập lẫn nhau.
Để phát huy vai trò của Đoàn và tuổi trẻ, trong cuộc vận động “cải tiến quản lý hợp
tác xã; cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ, vững
chắc” của Đảng và Nhà nước, được sự giúp đỡ tận tình của thế hệ đàn anh cùng với sự nỗ
lực phấn đấu của bản thân, cán bộ, đoàn viên, thanh niên tham gia quản lý hợp tác xã ngày
càng nhiều. Ngay từ những ngày đầu của kế hoạch năm năm lần thứ nhất, đã xuất hiện
nhiều chủ nhiệm hợp tác xã trẻ xuất sắc, có trình độ quản lý, kỹ thuật khá vững vàng như
Bàn Văn Mình, Lê Văn Anh, Đỗ Tiến Hảo, Nguyễn Thị Song, Tống Thị út, Lê Thị Lực...
và hàng nghìn chủ nhiệm, đội trưởng, đội phó sản xuất giỏi, tiêu biểu cho tinh thần bền bỉ,
hăng say sáng tạo của đội ngũ cán bộ quản lý trẻ tuổi đầy triển vọng. Đến năm 1963, số
cán bộ quản lý hợp tác xã ở lứa tuổi thanh niên đã chiếm từ 20 - 30%. ở Nghệ An, chỉ tính
trong 39 hợp tác xã, số đoàn viên, thanh niên là đội trưởng, đội phó sản xuất tăng từ 14%
lên 35%, là cán bộ ban quản trị hợp tác xã từ 18% lên 25%. ở Ninh Bình, năm 1962, trong
ban quản trị hợp tác xã có 18,7% là thanh niên và đầu năm 1964 là 28,2%. ở Nam Định,
năm 1961, trong số 246 hợp tác xã toàn thôn đã có 347 cán bộ, đoàn viên, thanh niên ở
trong ban quản trị, có nơi hầu hết là thanh niên. Năm 1962, cả tỉnh Nam Định có 2447
thanh niên tham gia ban quản trị hợp tác xã, 1851 thanh niên là đội trưởng, đội phó. ở
Thanh Hóa, năm 1961 Đoàn đã cung cấp cho đội ngũ cán bộ của hợp tác xã là 6.891 người
và năm 1962 là 9149 người chiếm trên 20% cán bộ hợp tác xã toàn tỉnh. Tình hình trên cho
thấy rằng, Đoàn ta không chỉ có vai trò và tác dụng tổ chức, động viên thanh niên trong các
khâu hành động cụ thể mà còn có vai trò trong công tác quản lý hợp tác xã.
Thực hiện cuộc vận động “Phát triển kinh tế - văn hóa miền núi”, phân bố lại lực
lượng lao động, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, với tinh thần “xung phong tình nguyện”,
thanh niên sẵn sàng đi đến mọi miền của đất nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cuộc vận
động đã được đông đảo các cấp bộ Đoàn và đoàn viên, thanh niên các tỉnh, đồng bằng và
đô thị hưởng ứng nhiệt liệt. Năm 1962, 12 tỉnh đã có 121.109 thanh niên xung phong đi
khai hoang, đi xây dựng nông trường, lâm trường, các cơ sở sản xuất công nghiệp, thương
nghiệp, hợp tác xã ở miền núi, trong đó có hơn 10 vạn đoàn viên, thanh niên đã tình
nguyện ở lại xây dựng miền núi lâu dài. ở những nơi khó khăn gian khổ nhất, tuổi trẻ đã tỏ
rõ phẩm chất cao quý của mình, chấp nhận mọi thử thách để cống hiến và trưởng thành.
Tiêu biểu cho những phẩm chất đó là anh hùng trẻ tuổi Phạm Ngọc Chức - (ngành Lâm
nghiệp), Phùng Văn Bằng (gác đèn biển, ngành Giao thông vận tải), Lâm Quang Tỉnh
(ngành Nông trường),v.v... Thể hiện tinh thần “Đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ
quốc cần đến”.
Với tinh thần đó, trên 10.000 đoàn viên, thanh niên trên khắp các địa phương miền
Bắc đã tình nguyện lên Thái Nguyên xây dựng khu Liên hiệp gang thép đầu tiên của Tổ
quốc; trên 5.000 thanh niên xây dựng Nhà máy Thủy điện Thác Bà, 5.000 thanh niên xây
dựng “Công trình đường sắt thanh niên Thanh Hóa - Vinh”. ở đó tuổi trẻ cũng không quản
ngại khó khăn, gian khổ, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu với một nền công nghiệp nhỏ bé, tiến lên chủ
nghĩa xã hội, lực lượng công nhân chủ yếu mới được bổ sung trong thời kỳ khôi phục và
phát triển kinh tế, văn hóa, do đó đại bộ phận còn rất trẻ, trong đó thanh niên chiếm từ 70 -
80%, có đơn vị chiếm 100%. Vì thế, Đoàn có vai trò rất lớn đối với sản xuất công nghiệp
và xây dựng giai cấp công nhân.
Qua phong trào xung phong tình nguyện vượt mức kế hoạch năm năm lần thứ
nhất, đi đôi với nhiệm vụ tổ chức, động viên thanh niên hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch
được giao, làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội, làm hậu thuẫn cho công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà,v.v...
Đoàn còn có một nhiệm vụ hết sức nặng nề là giáo dục, đào tạo đội ngũ công nhân trẻ. Đại
bộ phận công nhân mới vào nghề đều xuất thân từ nông thôn, chưa được rèn luyện trong
môi trường sản xuất công nghiệp. Do đó, thông qua phong trào xung phong tình nguyện,
thông qua các hoạt động của mình, các cơ sở Đoàn trong công nghiệp đã giáo dục, bồi
dưỡng thanh niên về lập trường giai cấp công nhân, về trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật
và nghề nghiệp, về đạo đức và lối sống, phong cách của người công nhân mới,v.v...
Chính vì thế mà phong trào tiến quân vào khoa học kỹ thuật càng được thanh niên
công nhân hưởng ứng nhiệt liệt. Những tổ hỗ trợ sáng kiến, tổ khoa học kỹ thuật trẻ, câu
lạc bộ khoa học trẻ, tổ kiểm tra chất lượng sản phẩm,v.v... ra đời, thu hút hàng vạn đoàn
viên, thanh niên vào những hoạt động sáng tạo. Thanh niên Nhà máy Cơ khí Hà Nội, Nhà
máy Dệt Nam Định, khu Mỏ Hòn Giai (Quảng Ninh) đã có sáng kiến “Mở hội thanh niên
làm kỹ thuật”. Thi đua với thanh niên Nhà máy Cơ khí Duyên Hải (Hải Phòng), lá cờ đầu
của ngành công nghiệp, năm 1961, thanh niên thành phố Hà Nội, đã phát huy được 8.800
sáng kiến trong tổng số 13.000 sáng kiến của công nhân toàn thành phố. Thanh niên Xí
nghiệp Dược phẩm Hà Nội, thanh niên Nhà máy Dệt Nam Định đã biến chỉ tiêu thao diễn
kỹ thuật thành chỉ tiêu sản xuất thường xuyên. Thanh niên Nhà máy Xi măng Hải Phòng,
với tinh thần dám nghĩ, dám làm đã đảm nhận trước Đảng ủy và giám đốc khôi phục thành
công hệ thống 4 lò nung, nhanh chóng đưa vào sản xuất. Trong số 1.283 thanh niên của
nhà máy ghi tên đăng ký phấn đấu vượt mức kế hoạch, hầu hết đã có từ 1 đến 2 sáng kiến
trở lên, vượt từ 5 đến 50% định mức và chỉ tiêu kế hoạch. Nguyễn Thị Lý và tổ đá nhỏ ca
A của chị gồm toàn thanh niên đã đề ra việc phong danh hiệu “Kiện tướng sáng kiến” cho
những đoàn viên có nhiều sáng kiến đạt và vượt chỉ tiêu quy định. Toàn tổ đã phấn đấu
hợp lý hóa sản xuất, giảm thao tác thừa, phát huy trên 30 sáng kiến trong vòng 1 năm rưỡi,
bố trí lại dây chuyền sản xuất, tiến từ lao động thủ công lên cơ khí, giảm được 60% nhân
công, 25% số đầu xe mà vẫn hoàn thành vượt mức kế hoạch. Toàn tổ đã trở thành một tập
thể gắn bó với nhau rất mật thiết, cả trong sản xuất và cuộc sống hàng ngày, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ, đã trở thành “con chim đầu đàn” của phong trào thanh niên công nhân Hải
Phòng và thanh niên công nhân miền Bắc.