Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Lịch sử Đoàn chương 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.51 KB, 15 trang )

CHƯƠNG VI
ĐẠI HỘI ĐOÀN TOÀN QUỐC LẦN THỨ NHẤT. TUỔI TRẺ THI ĐUA GÓP
PHẦN ĐẨY MẠNH CUỘC KHÁNG CHIẾN TIẾN TỚI THẮNG LỢI LỊCH SỬ Ở
ĐIỆN BIÊN PHỦ

Bước sang năm 1950, dưới ánh sáng các Nghị quyết về công tác thanh niên của
Đảng, phong trào thanh niên phát triển ngày càng vững chắc, tổ chức Đoàn lớn mạnh trong
cả nước cùng với sự phát triển của cuộc kháng chiến.
Ở Nam Bộ, hệ thống tổ chức Đoàn đã được xây dựng từ cơ sở lên đến Xứ Đoàn.
Đầu năm 1950, toàn miền có 320.000 đoàn viên. Đoàn đã đạt nhiều thành tích trong công
tác vận động thanh niên tòng quân, tham gia dân quân, xây dựng đời sống mới và công tác
thiếu nhi.
Tháng 1-1950, Đại hội Đoàn Thanh niên Cứu quốc Nam Bộ lần thứ 3 tiến hành tại xã
Phiên Long Mỹ (Rạch Giá). Đại hội đã ra Nghị quyết quan trọng về nhiệm vụ của thanh
niên để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến. Đó là các Nghị quyết về:
- Thanh niên với phong trào dân quân,
- Thanh niên với công tác địch ngụy vận,
- Thanh niên với vấn đề trừ gian, phòng gian,
- Thanh niên với việc xây dựng xã chiến đấu.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành mới gồm 23 ủy viên do Trần Bạch Đằng làm Bí
thư.
Do yêu cầu của cuộc kháng chiến và thực hiện chủ trương của Ban Thường vụ Trung ương
Đảng về vấn đề thống nhất phong trào thanh niên, thống nhất hệ thống tổ chức Đoàn trong
cả nước, Đại hội Đại biểu Đoàn Thanh niên Cứu quốc toàn quốc lần thứ nhất đã được triệu
tập.
Ngày 7-2-1950, Đại hội khai mạc tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên với trên 400 đại biểu
đại diện cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên trong cả nước.
Thay mặt Ban Thường vụ Trung ương Đảng, đồng chí Hoàng Quốc Việt trực tiếp chỉ
đạo Đại hội.
Đồng chí Nguyễn Lam, Bí thư Trung ương Đoàn trình bày trước Đại hội bản báo
cáo chính trị nhan đề: “Chiến đấu và xây dựng tương lai”.


Bản báo cáo đã đánh giá sự phát triển của Đoàn TNCQ từ năm 1941 đến năm 1950 đồng
thời đề ra những nhiệm vụ cấp bách của Đoàn nhằm thống nhất lực lượng thanh niên trong
cả nước cùng với toàn dân đẩy mạnh công cuộc kháng chiến cứu quốc mau đến thắng lợi.
Báo cáo chính trị đã dành một phần quan trọng đề cập đến những vấn đề có tính chất định
hướng trước mắt và lâu dài cho phong trào thanh niên như: Lý tưởng của thanh niên,
nhiệm vụ của Đoàn, sự phát triển mới của Đoàn, công tác xây dựng và củng cố Đoàn,v.v...
Báo cáo khẳng định: “Chủ nghĩa cộng sản là lý tưởng lâu dài mà các thế hệ thanh niên Việt
Nam phải quyết tâm phấn đấu để thực hiện.
Nhiệm vụ trước mắt của Đoàn là động viên, giáo dục, thống nhất lực lượng thanh
niên, cổ vũ thế hệ trẻ tích cực tham gia sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, quét sạch
quân thù ra khỏi đất nước; xây dựng chế độ dân chủ cộng hòa góp phần vào công cuộc bảo
vệ hòa bình thế giới”.
Đại hội đã thông qua báo cáo chính trị và Điều lệ Đoàn. Điều lệ xác định rõ vai trò
của Đoàn là “Cánh tay và đội dự trữ của Đảng, công tác dưới dự lãnh đạo trực tiếp của
Đảng”.
Đại hội Đoàn đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới. Đồng chí Nguyễn Lam được bầu
lại làm Bí thư Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam.
Sau 7 ngày làm việc, Đại hội đại biểu Đoàn toàn quốc lần thứ nhất đã thành công
rực rỡ. Đại hội nêu cao quyết tâm: “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để chiến thắng giặc Pháp
xâm lược”.
Đại hội đánh dấu bước trưởng thành của phong trào thanh niên Việt Nam dưới dự chăm
sóc, lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch kính yêu.
Tiếp theo Đại hội Đoàn là Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Liên Đoàn Thanh niên
Việt Nam. Đại hội là sự biểu hiện khối đoàn kết của toàn thể thanh niên Việt Nam trong
mặt trận thanh niên vì mục tiêu kháng chiến thắng lợi.
Đại hội Liên Đoàn Thanh niên Việt Nam lần thứ nhất vô cùng phấn khởi và vinh dự
được Hồ Chủ tịch đến thăm khi Người vừa đi công tác xa về. Người ân cần dặn dò thanh
niên cả nước đoàn kết, tích cực đóng góp vào công cuộc kháng chiến và chăm sóc nhi
đồng.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành và bầu đồng chí Nguyễn Chí Thanh, ủy viên Ban Chấp

hành Trung ương Đảng làm Chủ tịch của Liên Đoàn Thanh niên Việt Nam.
Đại hội nêu tấm gương dũng cảm của Thái Dũng, chiến sĩ trẻ của Đại Đoàn 308 đã
chiến đấu trên 100 trận, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch để thanh niên cả nước noi theo.
Đại hội đã nêu cao tinh thần đoàn kết quốc tế với thanh niên Lào, Cạmpuchia và với Tổ
chức Liên Đoàn thanh niên Dân chủ thế giới mà Liên Đoàn thanh niên Việt Nam là thanh
niên chính thức từ năm 1946.
Công cuộc kháng chiến càng phát triển thì vai trò của thanh niên càng to lớn. Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác vận động, giáo dục và rèn luyện
thanh niên.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 24-7-1950 đã ra nghị quyết về vận động
thanh niên, nêu rõ tầm quan trọng, vị trí, tính chất và nhiệm vụ của tổ chức thanh niên.
Nghị quyết nhấn mạnh nhiệm vụ bao quát của công tác thanh vận động thanh niên “xung
phong hoàn thành sự nghiệp giải phóng của dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân
tiến lên xây dựng chủ nghĩa” dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đồng thời đào tạo
một thế hệ thanh niên tiến bộ, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản, có đủ khả
năng hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của cách mạng.
Nghị quyết đề ra 4 nhiệm vụ trước mắt của công tác thanh vận là:
1. Động viên thanh niên xung phong trong công cuộc kháng chiến, hoàn thành công
việc chuẩn bị chuyển sang tổng phản công.
2. Kiên quyết xây dựng tổ chức thanh niên trung kiên gần Đảng, phát triển rộng rãi
Mặt trận thanh niên.
3. Đem lại quyền lợi thiết thực cho thanh niên, đặc biệt chú trọng vấn đề học tập văn
hóa và nghề nghiệp cho thanh niên.
4. Giáo dục thiếu niên nhi đồng.
*
* *
Thu - Đông năm 1950, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở
Chiến dịch Biên Giới nhằm khai thông đường liên lạc giữa nước ta với hệ thống xã hội chủ
nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch, tiến
tới giành quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính.

Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, ngày 15-7-1950, Đảng -
Đoàn thanh niên Trung ương quyết định thành lập Đội thanh niên xung phong công tác
Trung ương đầu tiên để phục vụ Chiến dịch Biên Giới. Đội gồm 225 đội viên, là những
đoàn viên thanh niên tích cực nhất được tuyển chọn từ các địa phương.
Liên khu Việt Bắc là địa phương chính động viên sức người, sức của, phục vụ chiến
dịch. Đảng bộ Liên khu đã huy động được 121.700 thanh niên thuộc các dân tộc ở Việt
Bắc tham gia phục vụ tiền tuyến với 1.716.000 ngày công.
Trong suốt thời gian chiến dịch, Hồ Chủ tịch đã ở sát mặt trận để cùng Bộ chỉ huy
chiến dịch chỉ đạo bộ đội chiến đấu.
Đêm 16-9-1950, bộ đội ta tiến công vào cứ điểm Đông Khê, mở màn Chiến dịch
Biên Giới lịch sử. Sau 2 ngày đêm chiến đấu ác liệt, ta tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Đông
Khê. Ngay từ trận đầu của chiến dịch và trong suốt chiến dịch, tuổi trẻ trong các lực lượng
vũ trang, lực lượng TNXP, dân công hỏa tuyến đã nêu nhiều gương chiến đấu và phục vụ
chiến dấu dũng cảm tuyệt vời. Đó là chiến sĩ bộc phá, người đảng viên trẻ tuổi La Văn
Cầu, nhờ đồng đội dùng lưỡi lê chặt đứt cánh tay bị thương của mình rồi tiếp tục xông lên
phá công sự của giặc. Anh là lá cờ đầu trong phong trào thi đua giết giặc lập công của
thanh niên cả nước. Đó là Đại đội trưởng Trần Cừ lấy thân mình bịt lỗ châu mai mở đường
cho đơn vị xông lên diệt giặc. Chiến sĩ dân công Đinh Thị Dậu, nhiều lần xông lên dưới
bom đạn cứu thương binh. Chiến sĩ Lý Văn Mưu mới 17 tuổi đời, đánh trận đầu tiên ở
Đông Khê, anh đã 20 lần cõng thương binh, tử sĩ về hậu tuyến rồi lại xông lên chiến đấu,
cùng đồng đội phá tan lô cốt địch.
Đội TNXP công tác Trung ương đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao
như vận chuyển vũ khí phục vụ bộ đội chiến đấu, đưa thương binh về tuyến sau và thu dọn
chiến trường. Đội đã nhanh chóng vận chuyển 8 tấn đạn chiến lợi phẩm của mặt trận Đông
Khê về kho an toàn. Thành tích của đội TNXP công tác Trung ương đầu tiên phục vụ chiến
dịch Biên giới đã được Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp tuyên dương trong buổi lễ mừng
chiến thắng tổ chức tại thị xã Cao Bằng.
Chiến thắng Biên Giới đã cổ vũ mạnh mẽ tuổi trẻ cả nước xông lên giết giặc lập
công.
ở Trung du và đồng bằng miền Bắc, quân ta đã tiêu diệt và bức rút 44 vị trí, diệt 700 địch

và buộc chúng phải rút khỏi thị xã Hòa Bình.
ở Hà Nội, đêm 10-1-1950, bộ đội cùng du kích đột nhập sân bay Bạch Mai, phá hủy
25 máy bay địch, đốt cháy trên 600.000 lít xăng. Suốt mấy ngày đêm phi trường giặc ngùn
ngụt khói lửa. Cho đến cuối năm 1950, lực lượng vũ trang nội, ngoại thành Hà Nội đã liên
tiếp tấn công các vị trí ở Tương Mai, Đại Yên, Trung Hòa, Dịch Vọng... tiêu hao nhiều
sinh lực địch.
ở Bình Trị Thiên, quân ta đột nhập thị xã Quảng Trị, chống càn thắng lợi ở Quảng Bình,
đánh giao thông trên đường Huế - Đà Nẵng...
ở Liên khu V, quân ta diệt gần 1.000 tên địch. Chiến công của người đoàn viên Trần
Đích, tiểu đội trưởng du kích xã Điện Ngọc (Điện Bàn - Quảng Nam) cùng đồng đội dùng
lựu đạn tiêu diệt xe tăng địch đã mở đầu cách đánh tăng bằng lựu đạn trên khắp chiến
trường Quảng Nam - Đà Nẵng. Anh Trần Đích được tuyên dương tại Đại hội Chiến sĩ thi
đua Liên khu V tháng 3-1953.
ở Nam Bộ, ta diệt hàng ngàn tên địch và phá trên 40 tháp canh.
Biết bao tấm gương chiến đấu ngoan cường, đầy mưu trí, anh dũng của thanh niên
trong cả nước vì sự nghiệp kháng chiến thắng lợi, đất nước được giải phóng.
Tháng 5-1950, ở Bà Rịa (Nam Bộ) và ở tỉnh Hưng Yên, có 2 nữ chiến sĩ công an
nhân dân đã dũng cảm trừ gian, giệt tề để bảo vệ cơ sở, phát triển phong trào cách mạng.
Cả 2 chị đều anh dũng hy sinh và đều được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Đó là Võ Thị Sáu, người con gái đất đỏ, đội viên công an xung phong. Căm thù giặc
Pháp và bè lũ tay sai, chị dũng cảm, lập nhiều chiến công diệt trừ ác ôn, bảo vệ cơ sở.
Trong khi thi hành nhiệm vụ diệt 2 tên ác ôn khét tiếng man rợ, chị bị sa vào tay giặc. Bị
giặc tra khảo dã man, chết đi sống lại nhiều lần nhưng Võ Thị Sáu vẫn một mực không
khai báo. Chị trả lời hiên ngang với kẻ thù: “Yêu nước mình, chống lại thực dân không
phải là tội”.
Trước giờ hy sinh, Võ Thị Sáu từ chối rửa tội, từ chối bịt mắt, bình tĩnh hiên ngang cất
giọng hát bài “Tiến quân ca”.
Chị Võ Thị Sáu bị thực dân Pháp xử bắn ở Côn Đảo mờ sáng ngày 23 tháng 2 năm
1952.

Ngày 15-1-1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 77/SL truy tặng liệt sĩ Bùi Thị
Cúc, cán bộ công an xung phong tỉnh Hưng Yên, Huân chương Độc lập hạng Ba và tặng
chị sáu chữ vàng: “Sống anh dũng, chiết vẻ vang”.
Nhận nhiệm vụ tiêu diệt 2 anh em tên Doãn Nhi và Doãn Tín, là 2 tên chỉ huy bốt
Cảnh Lâm, khét tiếng gian ác, có nhiều nợ máu với nhân dân và cách mạng, ngày 12-5-
1950, nhờ sự mưu trí, khôn khéo và kiên quyết, chị Bùi Thị Cúc cùng đồng đội hoàn thành
nhiệm vụ tiêu diệt tên Nhi. Trên đường về căn cứ, chị bị giặc bắt. Suốt 3 ngày địch đánh
đập, tra tấn chị rất dã man nhưng chúng vẫn không khai thác được điều gì. Ngày 15-5-
1950, tên Tín mang chị ra trói ở cọc giữa chợ huyện, dùng mọi nhục hình tra tấn và bắt
nhân dân phải chứng kiến hòng lung lạc tinh thần của chị và đồng bào. Nhưng chị vẫn giữ
vững khí tiết của người chiến sĩ cộng sản. Chị cố gắng nói với đồng bào: “Bà con đừng sợ!
Bọn giặc dù gian ác đến mấy cũng không thể chiến thắng được chúng ta. Kháng chiến nhất
định thắng lợi! Hồ Chủ tịch muôn năm!”
Chị hy sinh lúc tròn 20 tuổi.
Tấm gương trung kiên, bất khuất của đội viên thiếu niên Phạm Ngọc Đa sống mãi
với truyền thống của tuổi trẻ Việt Nam. Phạm Ngọc Đa quê ở xã Bạch Đằng, Tiên Lãng
(Kiến An) mồ côi cha mẹ, Đa phải đi ở để kiếm sống. Căm thù giặc Pháp, Đa tham gia
công tác kháng chiến, làm quân báo cho du kích xã. Đội của em được giao nhiệm vụ đào
hầm bí mật để che giấu cán bộ, du kích. Trong một trận vây càn của địch, ngay hôm đầu
tiên chúng đã phát hiện được hầm của Đa. Địch bắt và trói Đa trên một tấm phản tra tấn rất
dã man, bắt Đa chỉ các hầm bí mật. Đa nói lớn vào mặt kẻ thù cốt để các anh chị ẩn nấp
xung quanh đấy yên tâm: “Đúng, tao biết nhiều hầm nhưng không phải là để khai ra với
chúng mày!” Tên quan ba Pháp nổi tiếng tàn ác cầm dao chặt lìa một cánh tay của Đa.
Trong đau đớn, em vẫn giữ khí tiết. Địch lấy dao cắt từng khoảng đùi của em nhưng em
vẫn không hề khuất phục cho đến lúc hy sinh.
Để ghi nhớ công lao và sự hy sinh anh dũng của người đội viên thiếu niên, Nhà nước
đã truy tặng liệt sĩ Phạm Ngọc Đa danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Hình ảnh Bác Hồ luôn ở trong trái tim của đồng bào và thanh, thiếu niên nhi Nam
Bộ trong những ngày kháng chiến ác liệt, gian khổ. Em Trần Đông, 14 tuổi là đội viên đội
biệt động thị xã Cần Thơ bị bọn phản động bắt với hai quả lựu đạn định ném vào bọn

Pháp. Bị cực hình, tra tấn, một mực em không khai. Giặc đưa Đông ra cầu tàu xử bắn.
Chúng bảo Đông bước qua ảnh Bác Hồ thì sẽ được tha. Trần Đông bước đến cạnh ảnh Bác
Hồ, quỳ xuống cầm tấm ảnh nâng đặt lên đầu, đi thẳng đến cột bắn và hô to: “Hồ Chí Minh
muôn năm! Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa muôn năm!”
Trần Văn Chuông - tiêu biểu cho tấm gương chiến đấu dũng cảm, ngoan cường của
tuổi trẻ Hà Nam. Anh Chuông quê ở Bình Lục (Hà Nam) là đoàn viên thanh niên Cứu
quốc, du kích xã. Tám lần anh xung phong tòng quân nhân đều bị loại vì không đủ sức
khỏe. Đến năm 1948 anh mới được nhập ngũ. Do có nhiều sáng kiến đánh bom, mìn nên
đồng đội tặng anh danh hiệu: “Vua mìn”. Kinh nghiệm đánh bom, mìn của anh được phổ
biến rộng rãi trong toàn Liên khu III. Anh đã đánh giặc trên 200 trận, diệt 392 tên, làm bị
thương 99 tên, bắt sống 19 tên, phá hủy 53 xe vận tải, 4 xe tăng. năm 1952, anh được bầu
là Chiến sĩ thi đua của tỉnh Hà Nam, 1953 là Chiến sĩ thi đua của Liên khu III và được tặng
Huân chương Chiến sĩ hạng Nhất.
Trần Văn Chuông đã anh dũng hy sinh trong khi chỉ huy đánh tàu chiến địch trên
sông Hồng vào ngày 22-2-1954. Anh được Chính phủ truy tặng danh hiệu Anh hùng quân
đội và Huân chương Quân công hạng Nhất.
Ở Liên khu V, Anh hùng Bùi Chất, Đội trưởng đội công binh Hải Vân và các Chiến
sĩ thi đua Nguyễn Thị Dung (chiến sĩ địch vận thị xã Hội An), ba em thiếu niên đều là
Chiến sĩ thi đua Võ Lanh, Nguyễn Toản, Nguyễn Cương,v.v... là những điển hình trong
biết bao tấm gương anh dũng, kiên cường vì sự thắng lợi của công cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm của dân tộc ta.
Sau chiến thắng Biên Giới và các chiến trường phối hợp, thế và lực của cuộc kháng
chiến toàn dân, toàn diện của ta ngày càng phát triển. Quân dân ta ngày càng đoàn kết, tin
tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch. Trong không khí ấy, Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ II của Đảng đã họp từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951 tại vùng căn cứ Việt Bắc.
Đại hội đã quyết định 2 vấn đề hệ trọng đối với toàn Đảng và toàn dân ta:
1- Đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
2- Tổ chức Đảng Lao Động Việt Nam.
Đại hội đã định ra những chính sách và biện pháp nhằm thực hiện các mục tiêu
trên. Một trong những chính sách, biện pháp quan trọng là xây dựng lực lượng vũ trang và

các đoàn thể quần chúng.
Đoàn đại biểu của Tiểu ban Thanh vận Trung ương đã trình bày trước Đại hội bản
tham luận quan trọng về nội dung, phương hướng tổ chức Đoàn Thanh niên Cứu quốc và
công tác vận động thanh niên trong tình hình mới để góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân
đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Bản báo cáo đề ra 3 nhiệm vụ trọng tâm của Đoàn và phong trào thanh niên:
1- Đẩy mạnh công tác vận động thanh niên ở vùng địch tạm chiếm.
2- Xây dựng Đoàn Thanh niên Cứu quốc thành tổ chức trung kiên.
30 Tăng cường công tác giáo dục thiếu niên nhi đồng.
Toàn thể nhân dân và tuổi trẻ cả nước vô cùng phấn khởi, tin tưởng ở đường lối
kháng chiến mà Đại hội Đảng quyết định, ra sức đóng góp sức lực để đưa cuộc kháng
chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Đoàn Thanh niên Cứu quốc động viên đoàn viên, thanh niên trong cả nước đẩy mạnh
các phong trào tòng quân, giết giặc lập công; phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết
kiệm; phong trào đi dân công, thanh niên xung phong, phục vụ tiền tuyến; phong trào đấu
tranh chống địch bắt lính và đấu tranh của thanh niên trong các vùng bị tạm chiếm; phong
trào xóa nạn mù chữ và xây dựng đời sống mới ở các vùng tự do; phong trào thiếu nhi.
Thực hiện chủ trương của Đảng về việc tăng cường công tác xây dựng các lực lượng
vũ trang, mở nhiều chiến dịch với qui mô ngày càng lớn, tiến tới đánh bại hoàn toàn ý chí
xâm lược của bọn đế quốc, hàng chục vạn thanh niên tiếp tục tình nguyện gia nhập quân
đội. Số thanh niên chiếm 80% trong quân đội. ở nhiều địa phương, ngày hội tòng quân
được các cấp bộ Đoàn tổ chức sôi nổi, đầy khí thế và thanh niên trúng tuyển là một niềm
vinh dự lớn lao. Hàng nghìn thanh niên, học sinh, sinh viên trong vùng địch tạm chiếm
vượt ra vùng tự do cầm súng chiến đấu. Hầu hết đoàn viên, thanh niên vùng tranh chấp và
vùng tự do tham gia lực lượng dân quân du kích, công an xung phong. ở Nam Bộ, năm
1952 có 32.762 lượt thanh niên tòng quân, trong số đó có 10.322 đoàn viên tham gia bộ đội
chủ lực. ở Hải Phòng, phong trào tòng quân giết giặc sôi nổi trong các quận, huyện. Huyện
Thủy Nguyên có 2427 đoàn viên thanh niên, huyện Tiên Lãng có trên 4.000 đoàn viên
thanh niên và quận Ngô Quyền có 917 đoàn viên thanh niên tòng quân. ở Quảng Nam - Đà
Nẵng, riêng trong năm 1952 có hơn 28.000 đoàn viên thanh niên tình nguyện nhập ngũ.

Để trang bị cho thanh niên những hiểu biết về quân sự, nhiều cấp bộ Đoàn ở Liên
khu IV, khu V, Nam Bộ , Liên khu Việt Bắc đã tổ chức các lớp huấn luyện quân sự cho
cán bộ, đoàn viên, thanh niên, gây thành phong trào luyện tập quân sự sôi nổi trong tuổi
trẻ. Riêng Liên khu Việt Bắc mở 258 lớp huấn luyện quân sự cho 16.741 đoàn viên, thanh
niên, 9 khóa quân sự cho học sinh.
Từ cuối tháng 12-1950 đến tháng 5-1951, ta đã xây dựng thêm ba đại đoàn bộ binh,
1 đại đoàn pháo binh, công binh và 2 trung đoàn trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh. Cuối năm
1952 lập thêm một đại đoàn ở Bình Trị Thiên. Lúc này, ta đã có 6 đại đoàn bộ binh chủ
lực, một đại đoàn công binh và pháo binh; mỗi liên khu có 2 trung đoàn chủ lực, Nam Bộ
có 4 trung đoàn chủ lực.
Để tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong quân đội, theo chủ trương của
Đảng, hệ thống tổ chức Đoàn trong quân đội được xây dựng. Ngày 2-8-1952, chi đoàn
thanh niên cứu quốc đầu tiên trong quân đội được thành lập tại Trung đoàn 246.
Sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang, của chiến tranh nhân dân là điều kiện tiên quyết để
quân dân ta liên tục tiến công kẻ thù, giành được nhiều thắng lợi to lớn ở các mặt trận Nam
Bộ, Khu V, Hòa Bình và Tây Bắc... Ta đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, vùng giải
phóng của ta được mở rộng không ngừng.
Tấm gương chiến đấu dũng cảm của tiểu đội trưởng, người đảng viên trẻ Cù Chính
Lan, một mình dùng lựu đạn diệt xe tăng địch tạo điều kiện cho đơn vị tiêu diệt giặc trong
chiến dịch Hòa Bình được nêu gương học tập trong toàn quân.
Phong trào chống địch bắt lính thực chất là một cuộc đấu tranh công khai, quyết liệt
đối mặt với kẻ thù của thanh niên và nhân dân ta. ở các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ,
Mỹ Tho, quần chúng dùng nhiều hình thức đấu tranh để giải thoát cho hàng nghìn thanh
niên. ở Quảng Nam - Đà Nẵng, trong 6 tháng, địch bắt được 1862 thanh niên thì đồng bào,
thanh niên đã đấu tranh giành lại và giúp anh em bỏ trốn khỏi trại được 1.146 người.
Ngày 3-5-1953, 6.000 nhân dân thị xã Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa) biểu tình trước
nhà tên Tỉnh trưởng bù nhìn, phản đối giặc Pháp và bọn tay sai bắt thanh niên đi lính. Sau
đó một tuần, ngày 10-4, 1.600 thanh niên bị bắt đi lính tập trung ở trại Suối Dầu nổi dậy
đấu tranh đòi giải ngũ. ở Hải Phòng 3.000 quần chúng (trong đó có tới 600 trẻ em) ở xã
Ngọc Hải, Đồ Sơn đã quyết liệt, dũng cảm, đấu tranh với địch suốt 3 ngày, buộc chúng

phải nhượng bộ thả hết 200 thanh niên.
Tại Hà Nội, cuộc đấu tranh chống bắt lính diễn ra liên tục, dưới nhiều hình thức
phong phú. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của học sinh Hà Nội bị bắt đi học lớp đào tạo sĩ

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×