PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH NGÀNH CỦA CÔNG
TY DƯỢC PHẨM TRAPHACO.
I. GIỚI THIỆU VỀ DƯỢC PHẨM TRAPHACO
Tổng quan về doanh nghiệp
Liên doanh Traphaco được thành lập từ năm 1972 với hình thức là tổ sản
xuất nhà Y tế Đường Sắt, là một thành viên của Bộ Giao thông Vận tải với
nhiệm vụ sản xuất huyết thanh, dịch truyền, nước cất phục vụ cho bệnh viện
trong thời kỳ này. Sau 28 năm hoạt động, công ty được cổ phần hóa và đổi
tên thành Công ty cổ phần Traphaco. Hiện tại, Traphaco sản xuất và bán
khoảng 231 loại sản phẩm. Theo những thông tin về nguồn nguyên liệu được
sử dụng để bào chế thuốc, Traphaco sản xuất cả 2 loại đông dược và tân
dược, tuy nhiên sản phẩm đông dược của công ty nổi tiếng và được sử dụng
rộng rãi hơn so với sản phẩm tân dược.
Traphaco là công ty sản xuất thuốc đông dược lớn nhất Việt Nam, chiếm
hơn 70% thị trường thuốc đông dược.Chiến lược của Traphaco để củng cố vị
thế trên thị trường dược là dẫn đầu về nghiên cứu và phát triển các thuốc và
các chế phẩm từ dược liệu Việt Nam. Lợi dụng sự đa dạng về chủng loại
thảo dược tự nhiên ở Việt Nam, công ty đã cố gắng tập trung nghiên cứu và
phát triển nhóm sản phẩm đông dược, được coi là nhóm sản phẩm chiến
lược của công ty. Traphaco đang đứng trước một cơ hội rất tốt để khẳng định
vị thế dẫn đầu của mình ở thị trường đông dược cũng như thu được những
khoản lợi nhuận cao nhờ vào những thế mạnh của công ty như nghiên cứu
và phát triển sản phẩm, chủ động đầu vào của nguyên vật liệu, kênh phân
phối được xây dựng khá hiệu quả và đặc biệt là danh tiếng về sản phẩm
đông dược của công ty trong suốt 30 năm qua.
Phân tích SWOT
- Hệ thống phân phối thuốc sâu rộng, chiến lược xây
dựng thương hiệu tốt
Điểm
- Công tác R & D phát triển tương đối tốt
mạnh
- Tương đối chủ động về nguyên liệu
- Cơ cấu tài chính lành mạnh
- Sự tăng giá nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến
Điểm yếu
doanh thu, lợi nhuận
- Chưa khai thác được thị trường phía Nam đầy tiềm
năng
- Hoạt động trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm thiết yếu,
Cơ hội
có tiềm năng tăng trưởng tốt.
- Xu hướng của người tiêu dungi là ngày càng ưa chuộng
những sản phẩm mang nguồn gốc thiên nhiên.
- canh tranh về giá với các doanh nghiệp trong nước và
Thách
về chất lượng với các doanh nghiệp nước ngoài
thức
II. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG NGÀNH
Tổng quan về ngành dược
Ngành dược Việt Nam được hình thành và phát triển trên 20 năm và là
một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng quá khứ cao hơn so với tốc độ
tăng trưởng chung của nền kinh tế. Trong thời kỳ từ năm 2000 đến năm
2008, ngành dược có tốc độ tăng trưởng bình quân 15%/năm.
Ngành dược Việt Nam hiện vẫn được xem là chưa phát triển, hiện chỉ
được xếp vào cấp độ 2.5 trong 4 cấp độ, đã sản xuất được thuốc generic
(thuốc phiên bản khi bản quyền thuốc gốc hết hạn, trung bình thời hạn bảo
hộ độc quyền là 20 năm), xuất khẩu được một số biệt dược mà chưa sản xuất
được nguyên liệu và phát minh thuốc mới. Với dân số trên 88 triệu hiện nay
và tốc độ tăng dân số 1.3-1.4%/ năm, Việt Nam là một thị trường rất tiềm
năng cho ngành y tế nói chung và ngành dược nói riêng. Khi kinh tế phát
triển và mức sống người dân được nâng cao, ý thức về chăm sóc sức khỏe
càng được nhận thức sâu sắc hơn; có thể thấy điều này khi chi phí y tế tính
trên đầu người tăng dần qua các năm, từ 26 USD/người năm 2003 tăng lên
61 USD/người năm 2008 và dược dự báo sẽ tăng lên 148 USD/người vào
năm 2013. Tốc độ này tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP.
Phân tích ngành dược VN theo mô hình Porter’s 5 forces
1. Mức độ cạnh tranh nội ngành : Cao
- Thuốc là một loại hàng hóa đặc biệt, nhạy cảm và ảnh hưởng đến sức khỏe,
tính mạng con người. Do vậy, không ai thích đi mua thuốc, người tiêu dùng
chỉ mua thuốc khi họ bị bệnh và khó có thể khuyến khích người ta mua thêm
nếu người ta chỉ có nhu cầu mua một số lượng thuốc
nhất định theo toa của bác sĩ. Chính vì vậy, các nhà
sản xuất dược phẩm sẽ tìm mọi cách để người bệnh
mua thuốc của mình mà không mua thuốc của đối
thủ cạnh tranh.
- Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dược phẩm
tại Việt Nam và dược phẩm Hậu Giang là doanh nghiệp có thị phần lớn nhất
nhưng cũng chỉ chiếm hơn 13%. Mức độ tập trung của ngành dược là thấp,
không có doanh nghiệp nào đủ sức thao túng thị trường. Bởi thế mức độ
cạnh tranh của ngành ở mức cao.
- Do đặc thù của ngành dược, chất lượng thuốc ảnh hưởng trực tiếp đến sức
khoẻ và sinh mạng của người tiêu dùng, vì vậy chất lượng là yếu tố quyết
định trong cạnh tranh chứ không phải là giá cả. Để cạnh tranh được bắt buộc
các DN phải đáp ứng được các yêu cầu và tiêu chuẩn quốc tế áp dụng cho
ngành. Đến cuối năm 2010 sẽ có rất nhiều doanh nghiệp sản xuất dược buộc
phải ngừng hoạt động, chuyển sang gia công cho những doanh nghiệp đủ
tiêu chuẩn, điều này đã tạo sự cạnh tranh giữa các DN. Nếu muốn tồn tại thì
DN buộc phải đầu tư, thay đổi để đạt chuẩn.
- Chi phí bán hàng (trong đó chủ yếu là chi phí hoa hồng, lót tay cho các bác
sĩ kê toa, hiệu thuốc) chiếm một tỷ trọng tương đối lớn (20-40%) trong tổng
chi phí sản xuất của các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm trong nước và
ngày càng có xu hướng tăng cho thấy mức độ cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong ngành dược ngày càng cao.
- Do vốn ít, các nhà sản xuất trong nước đều phải nghĩ đến lợi nhuận nhất
thời, tập trung sản xuất quá nhiều các loại dược phẩm thông thường và phải
cạnh tranh nhau trong mảng thị phần nhỏ hẹp. Tuy nhiên, mảng thị phần hẹp
này cũng có nguy cơ bị thôn tính khi Việt Nam gia nhập WTO khi các mức
thuế cho dược phẩm giảm mạnh. Như vậy khi gia nhập WTO, môi trường
cạnh tranh trong ngành dược sẽ càng gay gắt hơn khi các doanh nghiệp dược
phẩm trong nước phải đối đầu với các tập đoàn dược phẩm nước ngoài với
tiềm lực về vốn, trình độ quản lý, trình độ công nghệ cao.
2. Sức mạnh nhà cung cấp: Cao
- Hầu như các sản phẩm dược trong nước đều là thành phẩm, được gia công
từ nguyên liệu nhập ngoại, còn số các nguyên liệu dược, kể cả các phụ gia
và tá dược, được sản xuất trong nước rất ít. Nhà cung cấp của ngành dược
chủ yếu là các hãng dược phẩm nước ngoài. Nguồn nguyên liệu đầu vào
chiếm 40-60% trong cơ cấu giá vốn và 90% nguyên liệu tân dược, 85%
nguyên liệu đông dược được nhập khẩu từ nước ngoài. Các DN dược Việt
Nam vẫn chủ yếu sản xuất các dòng thuốc phổ thông, do đó sử dụng nhiều
các loại dược liệu giá rẻ và vốn là mặt hàng chủ lực của Trung Quốc và Ấn
Độ.
- Ngành dược hiện đang đối mặt với quá nhiều rủi ro (Rủi ro về tỷ giá, Rủi
ro biến động giá cả nguyên liệu, Rủi ro về chất lượng nguyên liệu, Rủi ro về
thương mại, Rủi ro về bất ổn chính trị, Rủi ro về thiên tai, dịch bệnh…) khi
phụ thuộc quá nhiều vào các nhà cung cấp nguyên liệu nước ngoài.
3. Sức mạnh khách hàng: Thấp
- Do sản phẩm của ngành dược thuộc nhóm sản phẩm thiết yếu, liên quan
đến tính mạng và sức khỏe người sử dụng nên cầu về thuốc là không thể trì
hoãn được và không có sự mặc cả về giá khi khách hàng sử dụng sản phẩm
dược.
- Quyết định lựa chọn sản phẩm dược của khách hàng phụ thuộc vào thông
tin từ: bác sỹ kê đơn;kinh ngiệm cá nhân; lời khuyên của người thân, dược
tá.
4. Nguy cơ thay thế: Thấp
- Không giống như các nhu cầu về thực phẩm hay giải trí. Nhu cầu về thuốc
được xem là nhu cầu không thể chuyển đổi và thay thế. Người bệnh muốn
khỏi bệnh thì chỉ dùng thuốc để chữa bệnh.
- Tùy theo từng loại bệnh mà người bệnh mắc phải và tùy theo sự lựa chọn
phương pháp chữa trị mà người bệnh có thể sử dụng sản phẩm thuốc tân
dược hay là thuốc đông dược.
5. Rào cản gia nhập: Cao
- Rào cản công nghệ: Công nghệ hóa dược tại Việt Nam còn khá yếu với
công nghệ lạc hậu. Bình quân đầu tư cho một dây chuyền sx thuốc đảm bảo
chất lượng khoảng 30 đến 35 tỷ tùy theo quy mô của nhà máy, đầu tư nhiều
dây chuyền thì chi phí có thể tăng cao hơn. Chi phí để nghiên cứu và sản
xuất ra 1 loại thuốc mới đặc trị mất khoảng 13 năm với chi phí khoảng 8.000
triệu đô. Tỷ lệ đầu tư nghiên cứu thuốc mới của các công ty trong nước chỉ
chiếm khoảng 3% doanh thu.
- Rào cản chính sách của Chính Phủ: Dược phẩm là loại hàng hóa đặc biệt,
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của con người nên được chính
phủ quản lý rất chặt chẽ. Các doanh nghiệp muốn sản xuất một sản phẩm
mới thì phải thông qua một quá trình xét duyệt rất lâu dài và phức tạp của
chính phủ. Hiện nay hành lang pháp lý để nghiên cứu và thử nghiệm thuốc
trên người tại Việt Nam vẫn chưa được xây dựng hoàn chỉnh nên công tác
thử nghiệm gặp rất nhiều khó khăn.
III. PHÂN TÍCH CHIẾN LƯỢC MARKETING CỦA MỘT SỐ
DOANH NGHIỆP DƯỢC BẰNG CÁCH ỨNG DỤNG MÔ HÌNH 4P
MARKETING
1. Sản phẩm (Product)
Traphaco
Là một doanh nghiệp có bề dày về hoạt động kinh doanh
và sản xuất trong ngành dược phẩm, Traphaco sở hữu một
danh mục sản phẩm đa dạng, phong phú về chủng loại,
đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhiều đối tượng
khách hàng. Traphaco luôn đề ra những chiến lược và mục
tiêu rõ ràng trong việc phát triển thương hiệu, tính năng,
mẫu mã, bao bì, chất lượng và độ an toàn của sản phẩm.
Traphaco luôn cố gắng phát huy và củng cố vị trí là doanh
nghiệp sản xuất đông dược hàng đầu Việt Nam bằng cách
tập trung vào sản xuất và kinh doanh các sản phẩm đông
dược dựa trên những lợi thế về nền sinh học da dạng của
Việt Nam.
Dược Hậu
DHG là doanh nghiệp dược đầu ngành tại Việt Nam, một
Giang
trong những lý do để DHG đạt được vị trí như hiện nay là
nhờ DHG đã hoạch định một chiến lược sản phẩm rất tốt.
Với phương châm “hướng vào khách hàng” DHG không
ngừng đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng, mẫu
mã bao bì đáp ứng sự tín nhiệm của khách hàng. Chiến
lược phát triển sản phẩm được DHG định hướng như sau:
mở rộng quy mô sản xuất và liên kết với các nhà máy sản
xuất dược trong và ngoài nước; phát triển nhóm hàng đặc
trị, đáp ứng cho hệ thống bệnh viện, cạnh tranh trực tiếp
với hàng ngoại; phát triển nhóm thực phẩm chức năng
nhằm đa dạng hóa đồng tâm; phân chia các nhóm hàng,
mỗi nhóm hàng, mỗi nhãn hàng chủ lực được đầu tư, xây
dựng và quản lý một cách chặt chẽ; phát triển nền tảng cho
vùng có thu nhập thấp; đáp ứng 100% thuốc thiết yếu của
Bộ Y tế quy định.
IMEXPHARM Với thị phần tiêu thụ sản phẩm dược đứng thứ 2 ở Việt
Nam, các sản phẩm dược của Imexpharm được sử dụng
khá rộng rãi và được nhiều người biết đến. các sản phẩm
của Imexpharm phong phú về chủng loại và có chất lượng
đạt tiêu chuẩn Châu Âu. Tất cả các sản phẩm của công ty
đều được giới thiệu đầy đủ về thông tin trên website riêng
của công ty giúp mọi người có thể dễ dàng tìm hiểu về
chức năng, công dụng cũng như kiểu dáng, mẫu mã của
từng sản phẩm. Imexpharm thực hiện nghiêm ngặt qui
trình quản lý chất luợng sản phẩm, luôn đầu tư đổi mới
thiết bị và ứng dụng các qui trình công nghệ tiên tiến vào
sản xuất để không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng
sản phẩm phục vụ nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng
cao, góp phần giảm nhẹ chi phí điều trị của khách hàng.
Dược Cửu
Là một trong những doanh nghiệp dược hàng đầu Việt
Long
Nam, DCL cũng đã xây dựng một chiến lược sản phẩm
riêng nhằm cạnh tranh với các đối thủ khác trong ngành.
Với phương châm là “dùng kỹ thuật cao để sản xuất ra
nhiều sản phẩm đặc thù, phát triển bền vững”, sản phẩm
của DCL chủ yếu là sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của khách hàng. Do đó DCL tiếp tục đầu tư phát triển
các sản phẩm đã được thị trường chấp nhận và nghiên cứu
phát triển sản phẩm mới bổ sung danh mục sản phẩm của
công ty ngày một phong phú đa dạng để từng bước thay
thế dần các sản phẩm nhập khẩu. Với thế mạnh về sản
xuất sản phẩm Capsule và dụng cụ y tế sử dụng một lần,
DCL có chiến lược ngày càng nâng cao sản lượng và
chủng loại các loại sản phẩm Capsule và các dụng cụ y tế
sử dụng một lần nhằm mở rộng thị phần ở các dòng sản
phẩm này để tăng doanh thu, lợi nhuận cho công ty.
2. Giá (Price)
Traphaco
Mặc dù thị trường nội địa có sự cạnh tranh gay gắt, nguồn
nguyên liệu đầu vào luôn có sự biến động song Traphaco
luôn có chủ trương ổn định giá bán sản phẩm với mức tối
đa. Chiến lược giá được Traphaco sử dụng là chiến lược
giá khác biệt dựa trên ưu thế về uy tín doanh nghiệp khi
nghiêm túc thực hiện các cam kết về chất lượng và hiệu
quả điều trị vượt trội của sản phẩm mới nhờ quá trình
nghiên cứu phát triển được chú trọng. Traphaco cũng áp
dụng một tỷ lệ chiết khấu hợp lý nhằm ổn định giá thành
sản phẩm nhờ đó các sản phẩm của Traphaco được nhiều
khách hàng tin dùng.
Dược Hậu
DHG xây dựng một chiến lược giá khác biệt so với các đối
Giang
thủ cạnh tranh trong ngành, cụ thể: giá bán các sản phẩm
của DHG được xác định theo từng phân khúc thị trường
mục tiêu. Đặc biệt, DHG đã xây dựng được một hệ sản
phẩm đáp ứng tốt đầy đủ nhu cầu điều trị và có giá cả phù
hợp với thu nhập của người dân vùng nông thôn. Vì thế
sản phẩm của DHG đã xâm nhập vào thị trường có thu
nhập thấp với lượng tiêu thụ lớn, thương hiệu DHG ngày
càng trở nên quen thuộc và gần gũi với người dân. Bên
cạnh đó DHG còn đẩy mạnh đầu tư cho những sản phẩm
kháng sinh thế hệ mới thay thế hàng ngoại với chất lượng
ngang bằng và mức giá bán chỉ bằng 50% giá sản phẩm
nhập khẩu. ngoài ra DHG cũng đầu tư vào những sản
phẩm dành cho người cho thu nhập cao phù hợp với cơ
chế thị trường.
IMEXPHARM Chiến lược giá của Imexpharm là thống nhất về giá. Công
ty xác định giá bán thống nhất đến người sử dụng trên toàn
quốc. các sản phẩm chất lượng đạt tiêu chuẩn Châu Âu
của công ty có giá bán bình quân cao hơn các sản phẩm
cùng dược tính so với các sản phẩm khác được sản xuất
trong nước. Imexpharm đã áp dụng chiến lược giá này vì
công ty xác định khách hàng mục tiêu là những người
bênh có nhu cầu sử dụng thuốc có chất lượng cao.
Dược Cửu
Chiến lược giá của DCL là thực hiện giá bán thống nhất,
Long
công khai kèm chính sách hoa hồng, chế độ khuyến mãi
cho từng đối tượng khách hàng. Do sự cạnh tranh thị phần
trong ngành dược ngày càng gay gắt nên DCL thực hiện
chính sách giá bán tốt đối với các sản phẩm hoàn hảo và
giá bán thấp đối với các sản phẩm cần thâm nhập thị
trường, nhằm giữ vững thị phần, thực hiện chiến lược cạnh
tranh lành mạnh. Với chiến lược này DCL bước đầu cạnh
tranh có hiệu quả, thị phần của công ty ngày càng mở
rộng.
3. Phân phối (Place)
Traphaco
Traphaco rất chú trọng đầu tư phát triển hệ thống phân phối
do bởi các sản phẩm đông dược của Traphaco chủ yếu
được phân phối qua kênh OTC. Mạng lưới phân phối trải
rộng 3 miền và các sản phẩm của Traphaco có mặt trên
khắp 64 tỉnh thành. Traphaco có trụ sở chính tại Hà Nội,
chi nhánh miền Trung tại Đà Nẵng, chi nhánh miền Nam
tại TP HCM và 53 đại lý trên các tỉnh thành. Traphaco đã
có mặt tại phần lớn các cơ sở điều trị bao gồm cả các bệnh
viện lớn có thói quen sử dụng thuốc tân dược chủ đạo.
Hiện nay, Traphaco đã có chi nhánh tại Lào, Campuchia và
Ukraina. Thị trường tiêu thụ lớn nhất của TRA là ở các tỉnh
phía bắc, chiếm 70% doanh thu, riêng Hà Nội chiếm 41%,
các tỉnh miền trung chiếm 13%, các tỉnh phía nam chiếm
17%, riêng TP HCM chiếm 11%. Tuy có một hệ thống
phân phối rộng khắp nhưng Traphaco chưa khai thác mạnh
tiềm năng thị trường phía nam, trong khi tiêu thụ dược
phẩm các tỉnh phía nam chiếm 54% của cả nước.
Dược Hậu
Là doanh nghiệp dược có thị phần tiêu thụ lớn nhất Việt
Giang
Nam, chiến lược phân phối của DHG là “Nơi nào có người
dùng thuốc, nơi đó có DHG”. Thực hiện theo phương châm
này các sản phẩm của DHG được phân phối rộng khắp
thông qua các nhà thuốc, bệnh viện, trung tâm y tế, phòng
khám, các công ty TNHH, các nhà bán sỉ, các đối tác
chuyển nhượng trong và ngoài nước, hệ thống siêu thị,
trường học…Chiến lược phân phối của DHG những năm
gần đây là “đưa sản phẩm vào hệ điều trị cả nước”, chuyển
dịch cơ cấu phân phối từ hệ thương mại qua điều trị. Chiến
lược này đã giúp cho người bệnh biết đến sản phẩm của
DHG và sau khi hết thời hạn điều trị họ đã dùng những toa
thuốc này để mua tại các cửa hàng thuốc và trung tâm phân
phối. Điều này đã góp phần làm tăng thị phần cũng như
doanh thu của hệ điều trị. Ngoài ra DHG còn xây dựng
được mạng lưới bán hàng tại các thị trường xuất khẩu
truyền thống ở Moldova, Ukraina, Nga…Và chiến lược lâu
dài của DHG là mở rộng thị trường xuất khẩu sang các
nước Đông Âu, Châu Âu và các nước trong khối
ASEAN…
IMEXPHARM Imexpharm có chiến lược xây dựng hệ thống phân phối
thông qua các nhà phân phối thuốc độc quyền đặt tại các
địa phương. Khi thị trường tại một địa phương đạt mức
phát triển ổn định và đủ lớn thì công ty sẽ triển khai xây
dựng và phát triển đội ngũ trình dược viên tại đó để hỗ trợ
nhà phân phối trong chào hàng và nhận đơn đặt hàng các
sản phẩm dược.
Dược Cửu
DCL áp dụng chiến lược phân phối khác biệt so với các đối
Long
thủ cùng ngành. Chiến lược phân phối của DCL là phân
thành 3 hệ thống kênh phân phối hoạt động theo nguyên
tắc trực tuyến:
a, Hệ thống phân phối dược phẩm OTC: DCL đầu tư xây
dựng và phát triển hệ thống phân phối thuốc tốt GPP tại
các hiệu thuốc trực thuộc công ty trong cả nước vì mục tiêu
cao nhất là vì sức khỏe cộng đồng.
b, DCL có hệ thống bán hàng riêng biệt cho các bệnh viện,
trung tâm, cơ sở y tế chuyên khoa dưới các hình thức đấu
thầu, cung cấp dài hạn, khối lượng lớn thông qua các nhà
phân phối chuyên nghiệp.
c, DCL còn có hệ thống phân phối trực tiếp sản phẩm
Capsule và nguyên liệu sản xuất thuốc tân dược cho các
công ty, xí nghiệp, nhà sản xuất dược phẩm trong cả nước.
4. Quảng bá (Promotion)
Traphaco
Traphaco rất coi trọng chiến lược quảng bá và xây dưng
thương hiệu với định hướng là trở thành một thương hiệu
của công chúng, một doanh nghiệp hướng tới người tiêu
dùng với mục đích chăm lo cho sức khỏe của cộng đồng.
Traphaco xây dựng thương hiệu theo 2 kênh: trực tiếp và
thông qua các nhãn hiệu sản phẩm. Traphaco cũng là một
trong những công ty đi tiên phong trong việc đầu tư sang
tạo biểu tượng của doanh nghiệp nhằm tạo nên sự khác
biệt đối với người tiêu dùng thông qua việc thể hiện những
nét văn hóa riêng của công ty. Do sản phẩm đông dược
của Traphaco chủ yếu được bán qua kênh OTC nên được
phép quảng cáo rộng rãi. Phát huy lợi thế này Traphaco đã
sử dụng dịch vụ của các công ty tư vấn quảng cáo và
truyền thông uy tín để quảng cáo rộng rãi các sản phẩm
của mình. Chi phí dành cho hoạt động này chiếm khoảng
6% trên tổng doanh thu. Ngoài ra định vị được nhóm
khách hàng mục tiêu của công ty là những người ở độ tuổi
trung niêm nên Traphaco đã xây dựng chương trinhg
“chăm sóc sức khỏe người cao tuổi” với nhiều hình thức.
Nhờ áp dụng một chiến lược quảng bá và xây dựng
thương hiệu một cách hợp lý, Traphaco đã trở thành một
thương hiệu đông dược uy tín, lớn nhất nước.
Dược Hậu
Mặc dù thương hiệu DHG đã được xác lập song DHG vẫn
Giang
không ngừng đầu tư cho việc phát triển thương hiệu. DHG
có một phòng Marketing với đội ngũ nhân viên đông đảo
phụ trách 3 bộ phận lớn là : quản lý nhãn hàng, marketing
bán hàng và marketing dịch vụ. DHG xây dựng thương
hiệu công ty thông qua các chương trình PR và xây dựng
các nhãn hàng thông qua các chương trình truyền thông,
quảng cáo, PR, hội thảo, ngày hội giới thiệu sản phẩm và
các hoạt động cộng đồng. Chính nhờ việc chú trọng vào
công tác quảng bá và xây dựng thương hiệu mà các nhãn
hàng của DHG đã trở nên quen thuộc đối với người tiêu
dùng và giới điều trị.
IMEXPHARM Hoạt động quảng bá thương hiệu tại Imexpharm được chú
trọng nhằm tạo dựng thương hiệu Việt mạnh với sứ mạng
phát triển để đóng góp cho lợi ích xã hội cho cộng đồng.
Công ty sử dụng các đơn vị Marketing chuyên nghiệp hỗ
trợ việc xây dựng các chương trình quảng bá thương hiệu
và tổ chức các sự kiện. như: Chương trình khám bệnh từ
thiện, Chương trình “Hoa Sen nở vào đầu mỗi tháng”, tặng
thuốc cho khách hàng, Tài trợ cho các hội nghị, hội thảo
chuyên ngành…
Dược Cửu
Chiến lược quảng bá và xây dựng thương hiệu của DCL
Long
đó là đẩy mạnh các chương trình tiếp thị dưới các hình
thức hội nghị, hội thảo, giới thiệu, quảng cáo, tạo dựng
hình ảnh, thương hiệu, uy tín của công ty. Ngoài ra DCL
còn tham gia các hội chợ, triển lãm, giới thiệu sản phẩm
để khuyếch trương thương hiệu trên mọi phương tiện, trên
các diễn đàn; tham gia các hiệp hội ngành hàng, các tổ
chức chuyên môn, các hội nghề nghiệp để tìm cơ hội hợp
tác đầu tư, phát hành Catalog, tài liệu khoa học để hướng
dẫn, giới thiệu sản phẩm, cung cấp đầy đủ các thông tin về
sản phẩm cho giới điều trị và người tiêu dùng.
Kết luận
Với xu hướng phát triển cũng như hướng đến tiến trình hội nhập ngày
càng sâu rộng hơn, thì việc xuất hiện nhiều thương hiệu sản phẩm/dịch vụ
của nhiều doanh nghiệp trong nước và quốc tế làm cho bầu khí chung của
một thị trường mới nổi như Việt Nam trở nên đa dạng, phong phú và sôi
động hơn, từ đó người tiêu dùng có được nhiều sự lựa chọn phù hợp tùy theo
nhu cầu cũng như khả năng tài chính của mình…
Ngày nay không thể phủ nhận vai trò, tầm ảnh hưởng và sự ứng dụng
của marketing trong các lĩnh vực khác nhau, ngành dược không phải là một
ngoại lệ. Trong bối cảnh cạnh tranh trong ngành dược ngày càng gay gắt như
hiện nay, việc xây dựng một chiến lược marketing hợp lý có vai trò rất quan
trọng trong việc chiếm lĩnh thị phần góp phần xây dựng vị thế của doanh
nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả cho doanh nghiệp. 4 doanh nghiệp dược trên
đây là các doanh nghiệp có thị phần tiêu thụ hàng đầu của Việt Nam hiện
nay, các doanh nghiệp này đều có điểm chung là coi trọng hoạt động
marketing nhằm giúp doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm tốt nhất có thể. Các
doanh nghiệp này áp dụng một số điểm chung trong chiến lược marketing
nhưng cũng có những điểm khác biệt. Các doanh nghiệp đều xây dựng một
chiến lược marketing nhằm phát huy tối đa thế mạnh của mình để có thể
cạnh tranh với các đối thủ khác trong ngành. Với Traphaco đó là thế mạnh
về các sản phẩm đông dược, DCL là các sản phẩm Capsule và sản phẩm y tế
sử dụng một lần, Imexpharm hướng vào các sản phẩm có chất lượng và giá
thành cao, DHG là đa dạng các loại sản phẩm, các mức giá để mọi người
dân đều có thể sử dụng sản phẩm DHG. Có thể nhận thấy DHG có thể có
được vị thế và thành công như vậy chính nhờ sự định hướng marketing đúng
đắn và hợp lý của doanh nghiệp.