BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHẠM THỊ HIỀN
QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC
VỚI VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Ở THÀNH PHỐ HỘI AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đà Nẵng - Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
PHẠM THỊ HIỀN
QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC
VỚI VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Ở THÀNH PHỐ HỘI AN
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80
LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐOÀN THẾ HÙNG
Đà Nẵng - Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Hiền
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................. 2
3. Đối tượng nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu ..................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 2
5. Bố cục đề tài.......................................................................................... 3
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu............................................................... 3
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN.................................. 7
1.1. NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN............................................... 7
1.1.1. Các quan điểm trong triết học về sự phát triển ............................... 7
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự phát triển ............... 23
1.2. LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH........................................ 32
1.2.1. Du lịch, hoạt động du lịch và ngành kinh tế du lịch ..................... 32
1.2.2. Phát triển du lịch và những vấn đề đặt ra hiện nay....................... 41
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN VỚI VẤN ĐỀ
PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở HỘI AN HIỆN NAY................................. 46
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ........................................................................ 49
CHƯƠNG 2. DU LỊCH HỘI AN DƯỚI GĨC NHÌN CỦA QUAN
ĐIỂM PHÁT TRIỂN........................................................................... 50
2.1. TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở HỘI
AN.......................................................................................................... 50
2.1.1. Tiềm năng du lịch và những nét đặc thù của thành phố Hội An .. 50
2.1.2. Thực trạng phát triển du lịch của Hội An trong thời gian qua...... 64
2.2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN VÀO PHÁT TRIỂN
NGÀNH DU LỊCH Ở HỘI AN HIỆN NAY ......................................... 68
2.2.1. Phát triển Du lịch ở Hội An gắn với bảo tồn di sản văn hóa ........ 68
2.2.2. Giải quyết các mâu thuẫn để phát triển du lịchở Hội An ............. 72
2.3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH Ở HỘI AN HIỆN
NAY....................................................................................................... 81
2.3.1. Cơ sở đề xuất các giải pháp .......................................................... 81
2.3.2. Các giải pháp chủ yếu ................................................................... 86
2.3.3. Một số kiến nghị, đề xuất.............................................................. 95
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ........................................................................ 96
KẾT LUẬN........................................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 98
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (Bản sao)
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
2.1.
2.2.
Tên bảng
Khách lưu trú tại Hội An giai đoạn 2001-2005 và
2006-2009
Khách tham quan đến Hội An giai đoạn 20012005 và 2006-2009
Trang
64
65
Khách tham quan đến Khu dự trữ sinh quyển Thế
2.3.
giới Cù Lao chàm Cù Lao Chàm trong giai đoạn
66
2005- 2009
2.4.
2.5.
2.6.
2.7.
2.8.
2.9.
Doanh thu du lịch giai đoạn 2001-2005 và 20062009
Dự báo khách tham quan Hội An giai đoạn 2015 2020
Dự báo khách tham quan Cù Lao Chàm giai đoạn
2015 - 2020
Dự báo khách lưu trú Hội An giai đoạn 2015 2020
Dự báo nhu cầu phòng khách sạn Hội An đến
năm 2020
Dự báo nhu cầu lao động trong du lịch Hội An
đến 2020
66
83
83
84
84
84
2.10.
Dự báo chi tiêu trung bình của khách du lịch
85
2.11.
Dự báo thu nhập từ du lịch Hội An đến năm 2020
85
2.12.
Dự báo chỉ tiêu GDP và vốn đầu tư cho du lịch
Hội An
86
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mỗi nguyên lý, quy luật trong hệ thống phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác - Lênin không chỉ là sự giải thích đúng đắn về thế giới mà cịn là
phương pháp luận khoa học làm công cụ cho việc nhận thức và cải tạo thế
giới. Nội dung nguyên lý về sự phát triển phản ánh con đường phát triển của
mọi sự vật, hiện tượng và các quá trình trên thế giới. Đó là một q trình vận
động theo chiều hướng đi lên: từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là khuynh hướng phổ quát của
tự nhiên, xã hội và tư duy.
Xuất phát từ nguyên lý về sự phát triển cung cấp cho chúng ta nguyên
tắc phương pháp luận về quan điểm phát triển. Quan điểm này đòi hỏi trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần quán triệt sự phát triển, luôn
xem xét sự vật trong chiều hướng phát triển. Đồng thời, tích cực tạo những
điều kiện thuận lợi cho những cái mới, tiến bộ ra đời trên cơ sở kế thừa những
hạt nhân hợp lý của cái cũ. Quán triệt quan điểm phát triển cũng là nguyên tắc
chung nhất chỉ đạo mọi hành động suy nghĩ của con người, đòi hỏi mỗi chúng
ta khi xem xét sự vận động, biến đổi, và phát triển của thế giới phải có tư duy
năng động, linh hoạt, mềm dẻo, phải nhận thức cái mới và ủng hộ cái mới.
Là một di sản văn hóa thế giới, thành phố Hội An đang trở thành điểm
đến lý tưởng của du khách trong và ngoài nước. Dễ dàng nhận thấy, điểm
sáng nhất trong bức tranh kinh tế Hội An chính là vai trị và những đóng góp
từ ngành Du lịch. Trong xu thế hội nhập, giao lưu kinh tế - văn hóa của khu
vực và thế giới, với những ưu thế là một Trung tâm du lịch, là giao điểm của
con đường giao lưu kinh tế - văn hóa trong nước và quốc tế, Hội An sẽ có
những thuận lợi to lớn để phát triển kinh tế, đặc biệt là du lịch. Nhưng đồng
thời, sự phát triển của du lịch ở Hội An cũng đang đứng trước những thách
2
thức to lớn. Đó sẽ là những rào cản cần được giải quyết để ngành Du lịch ở
Hội An phát triển.
Vấn đề phát triển du lịch ở Hội An ngày càng nhận được sự quan tâm
của các đơn vị quản lý, của chính quyền Tỉnh cũng như của cộng đồng dân cư
nơi phố cổ. Vì vậy, việc tìm con đường phát huy những thế mạnh và giải
quyết những khó khăn, thách thức để phát triển du lịch nói riêng và kinh tế xã hội nói chung đang trở thành một yêu cầu vừa mang tính lý luận và thực
tiễn. Từ đó, chúng tơi chọn vấn đề “Quan điểm phát triển của triết học với
vấn đề phát triển du lịch ở thành phố Hội An” làm luận văn tốt nghiệp của
mình để góp phần vào sự phát triển của thành phố Hội An.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về quan điểm phát triển trong triết học, luận văn trình
bày và luận giải thực trạng phát triển của ngành Du lịch ở thành phố Hội An.
Từ đó, đề xuất phương hướng và biện pháp nhằm vận dụng quan điểm phát
triển vào thực hiện tốt hơn vấn đề phát triển ngành du lịch trên địa bàn thành
phố Hội An hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu và Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là tập trung làm rõ quan điểm phát
triển, vận dụng vào trong công tác phát triển du lịch ở thành phố Hội An trong
thời gian qua và chiến lược phát triển du lịch trong những năm đến.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là tập trung làm sáng tỏ việc vận dụng
nguyên lý về sự phát triển vào phát triển du lịch Hội An trên cơ sở những số
liệu từ năm 2000 - 2010 và hướng quy hoạch du lịch đến năm 2015 tầm nhìn
đến năm 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê và so sánh.
3
- Phương pháp lôgic và lịch sử, quy nạp và diễn dịch
- Kết hợp lý luận và thực tiễn
5. Bố cục đề tài
Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục Tài liệu tham khảo, đề tài
gồm 2 chương 6 tiết.
Chương 1. Những vấn đề về lý luận.
Chương 2. Du lịch Hội An dưới góc nhìn của quan điểm phát triển
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Liên quan đến Nguyên lý về sự phát triển đã được rất nhiều công trình
nghiên cứu của các nhà triết học, những học giả nổi tiếng đề cập đến. Trong
đó, có một số cơng trình nghiên cứu dưới dạng sách và giáo trình như:
- “Lich sử phép biện chứng”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002;
Quyển sách gồm 6 phần: Phần 1: Lênin nghiên cứu phép biện chứng với tính
cách là logic học và lý luận nhận thức; Phần 2: Lênin nghiên cứu phép biện
chứng của chủ nghĩa đế quốc. Phép biện chứng của chiến lược và sách lược
của cách mạng xã hội chủ nghĩa; Phần 3: Lênin phát triển phép biện chứng
duy vật trong thời kỳ sau cách mạng tháng Mười. Bước đầu của sự quá độ
lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; Phần 4: Những vấn đề của lý
thuyết biện chứng trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô; Phần 5: Biện chứng của thời kỳ chủ nghĩa xã hội đã thắng lợi
và chuyển dần lên chủ nghĩa Cộng Sản ở Liên Xô; Phần 6: Sự phát triển phép
biện chứng duy tính cách logic học, lý luận nhận thức và phương pháp luận
của khoa học.
-“Giáo trình triết học Mác - Lênin” Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2009. Trong chương 2: Phép biện chứng duy vật, các tác giả đã trình bày tóm
tắt quan điểm siêu hình về sự phát triển, sau đó trình bày ngun lý về sự phát
triển dưới góc độ phép duy vật biện chứng. Phát triển là một quá trình vận
4
động của sự vật theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp đến cao, từ kém
hồn thiện đến hồn thiện hơn. Các tác giả cũng đã khái quát các tính chất của
sự phát triển như: (1)Tính khách quan; (2) Tính phổ biến và (3) Tính đa dạng
phong phú của sự phát triển. Từ đó, rút ra các ý nghĩa phương pháp luận của
sự phát triển. Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định
hướng việc nhận thức và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi hoạt
động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Theo đó cần
phải: Xem xét sự vật và hiện tượng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển,
trong “sự tự vận động”, trong sự biến đổi của nó; Ln đặt sự vật, hiện tượng
theo khuynh hướng đi lên. Phát triển là q trình biện chứng, bao hàm tính
thuận, nghịch, đầy mâu thuẫn vì vậy, phải nhận thức được tính quanh co,
phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển; Xem xét sự vật,
hiện tượng trong quá trình phát triển cần phải đặt q trình đó trong nhiều giai
đoạn khác nhau, trong mối liên hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện tại và tương
lai trên cơ sở khuynh hướng phát triển đi lên đồng thời phải phát huy nhân tố
chủ quan của con người để thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật, hiện
tượng theo đúng quy luật; Phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến,
đối lập với sự phát triển.
-“Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy vấn đề cốt yếu” tác giả Phạm Xuân
Nam do Nxb Khoa học xã hội phát hành, được biên soạn với nội dung bao
gồm 7 chương. Trong đó, Chương 1. Quan niệm về triết lý, triết lý phát triển;
Chương 2. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về triết lý phát
triển xã hội tổng quát và Chương 7. Triết lý về mối quan hệ giữa con người và
tự nhiên trong phát triển bền vững. Đây là những nguồn tham khảo rất ý nghĩa
cho tác giả. Nội dung sách là kết quả nghiên cứu của 6 đề tài nhánh thuộc
chương trình nghiên cứu khoa học cấp bộ của Trung tâm Khoa học xã hội và
Nhân văn Quốc gia từ cuối năm 1997 đến năm 2001.
5
- “Triết học” đồng tác giả PGS,TS Lê Hữu Ái & PGS,TS Nguyễn Tấn
Hùng cũng đã nghiên cứu về nguyên lý sự phát triển một cách khái quát nội
dung, tính chất và con đường của sự phát triển. Đó là đường “xốy ốc” trong
đó bao gồm cả những bước thụt lùi tương đối. Nguồn gốc của sự phát triển
xuất phát từ chính bản thân của sự vật, là kết quả giải quyết mâu thuẫn bên
trong của sự vật.
Ngồi ra, cịn một số cơng trình khác có đề cập đến sự phát triển dưới
góc độ quan niệm của các triết gia như: “Triết học Hy Lạp cổ đại” của PTS.
Đinh Ngọc Thạch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội – 1999; “Lịch sử Triết học
phương Tây” của PGS, TS Nguyễn Tiến Dũng, Nhà xuất bản Văn nghệ, TP
Hồ Chí Minh - 2009...
Các cơng trình nghiên cứu dưới hình thức các báo cáo khoa học, bài viết
đăng trên báo, tạp chí viết về đề tài phát triển du lịch trên địa bàn thành phố
Hội An cũng hết sức phong phú, nhìn nhận từ nhiều góc cạnh khác nhau như:
Bùi Văn Tiếng (2011), “Bàn về văn hóa Hội An”, Tạp chí Phát triển kinh tế xã hội Đà Nẵng, Số 24/2011, Tr 72-75; Hội Thảo phát triển bền vững du lịch
Hội An diễn ra tại thành phố Hội An ngày 22-23 tháng 11 năm 2012, các bài
báo cáo tại Hội thảo đã có những thảo luận và đề xuất về việc xây dựng một
thương hiệu chung từ các sản phẩm du lịch vì lợi ích cộng đồng, thiết kế lại
và củng cố các trung tâm thông tin du khách, giới thiệu các bộ sản phẩm du
lịch mới mẻ và có tính văn hóa, đồng thời xác định các vấn đề cần được hỗ
trợ trong tương lai. Các bài viết trong Kỷ yếu HTKH Phát triển nguồn nhân
lực cho vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Đà Nẵng - 12/2011; Kỷ yếu
HTKH trong khuôn khổ dự án TRIG Phát triển kinh tế - xã hội miền Trung và
Tây Nguyên gắn với yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế, Đà Nẵng - 6/2012; Kỷ
yếu HTKH Phát triển nhanh và bền vững kinh tế - xã hội khu vực Duyên hải
miền Trung và Tây Nguyên, Đà Nẵng - 9/2011.
6
Các bài viết trên những trang báo mạng về chủ đề phát triển du lịch ở
Hội An cũng hết sức phong phú như: “Du lịch Hội An: Thách thức mới” dẫn
nguồn từ Báo Quảng Nam đã đề cập sơ lược về thực trạng cũng như nêu lên
các thách thức mới của du lịch Hội An trong thời gian tới; “Quan điểm phát
triển trong Chiến lược và thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội
2011-2020” dẫn nguồn từ ...
Dưới dạng các luận văn nghiên cứu và vận dụng nguyên lý về sự phát
triển như: Luận văn thạc sĩ (2008) của Nguyễn Thị Mỹ Lang: “Nguyên lý về
sự phát triển với việc nâng cao nhận thức chính trị cho đội ngũ cán bộ giảng
dạy các trường đại học, cao đẳng tỉnh Quảng Nam” Khóa luận tốt nghiệp cử
nhân Triết học của Trịnh Thị Yến tại Trường Đại Học khoa học - Đại Học
Huế năm 2011 về: “Vận dụng nguyên lý phát triển vào công tác quy họach
đội ngũ cán bộ huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa”;. Luận văn tốt nghiệp Thạc
sỹ kinh tế của Phan Văn Tú năm 2011 tại Đại học Đà Nẵng về: “Các giải
pháp để phát triển làng nghề ở thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam”...
Những cơng trình nghiên cứu nói trên đã đề cập, phân tích, làm rõ về
nguyên lý phát triển, và những cách tiếp cận vận dụng chủ nghĩa duy vật biện
chứng vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Nhưng xem xét sự
phát triển vào thực tiễn hoạt động du lịch trên địa bàn thành phố Hội An thì
chưa có một đề tài nào đề cập tới. Vì vậy, chúng tôi chọn “Quan điểm phát
triển của triết học với vấn đề phát triển du lịch ở thành phố Hội An” làm
luận văn tốt nghiệp của mình.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN
1.1. NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
1.1.1. Các quan điểm trong triết học về sự phát triển
a. Quan điểm phát triển trong triết học Hy Lạp cổ đại
Các nhà triết học tự nhiên như Talet, Acnaximen của trường phái Milet
đã tiếp cận với qua niệm về vận động và biến đổi của thế giới. Talét (625-547
tr.CN) được xem là người sáng lập trường phái Milet. Talet cho rằng, nguồn
gốc của thế giới vạn vật là nước. Nước là bản chất chung của tất thảy mọi vật,
mọi hiện tượng trong thế giới. Mọi cái trên thế gian đều được sinh ra từ nước
và khi bị phân hủy lại trở về dạng tồn tại ban đầu là nước. Nước tồn tại vĩnh
viễn, còn mọi vật do nó tạo nên thì khơng ngừng biến đổi, phát triển, sinh ra
và chết đi. Toàn thể thế giới là một chỉnh thể thống nhất, tồn tại tựa như một
vòng tuần hồn biến đổi khơng ngừng mà nước là nền tảng của vịng tuần
hồn đó.
Trong vũ trụ học của mình, Acnaximen (610-546 tr.CN) coi khơng khí
(apeirơn) là vơ hình và trong suốt là trạng thái đầu tiên của mọi vật. Tự bản
thân apeirôn sinh ra mọi cái, đồng thời là cơ sở vận động của chúng. Toàn bộ
vũ trụ được cấu thành từ apeirơn tồn tại như một vịng tuần hồn và biến đổi
khơng ngừng. Khơng khí tồn tại ở hai q trình đối lập là lỗng và đặc lại,
“khơng khí lỗng ra biến thành lửa. Khơng khí đặc lại biến thành gió, gió
thành mây, mây thành nước, nước thành đất, đất biến thành đá:
Khơng khí → gió → mây → nước → đất → đá.
Vật chất theo con đường này bằng cách hóa đặc từ khơng khí thành đá,
hoặc theo con đường ngược lại từ đá thành khơng khí bằng cách từng bước
lỗng ra”.[15, tr 14]. Nhìn chung các nhà triết học thuộc trường phái Milet đã
bước đầu nhìn nhận thế giới một cách biện chứng mặc dù còn sơ khai, chất
8
phác. Xem thế giới như một chỉnh thể thống nhất và đi tìm nguồn gốc cũng
như bản chất của nó ở một dạng vật chất cụ thể nào đó. Dầu vậy, những
quan điểm đó đã bước đầu đặt nền móng cho sự phát triển các tư tưởng duy
vật về thế giới cũng như sự phát triển.
Hêraclit (540-475 tr.CN) nhà biện chứng nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại.
cũng giống như những người đương thời, ơng tập trung đi tìm nguồn gốc của
thế giới và ông cho rằng lửa là nguồn gốc sinh ra mọi vật “mọi cái biến đổi
thành lửa và lửa thành mọi cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng
hóa thành vàng”. Lửa khơng chỉ là cơ sở của vạn vật mà còn là khởi nguyên
sinh ra chúng. “cái chết của lửa - là sự ra đời của khơng khí, và cái chết của
khơng khí là sự ra đời của nước, từ cái chết của nước sinh ra khơng khí (từ cái
chết của nước - lửa và ngược lại)”. Hêraclit dùng con đường đi lên và đi
xuống để mơ tả sự chuyển hóa của sự vật. Con đường đi xuống bắt đầu từ lửa
→ không khí→ nước → đất. Cịn con đường đi lên bắt đầu từ đất → nước→
khơng khí→ và cuối cùng trở về dạng tồn tại ban đầu là lửa. Nhưng theo
Hêraclit thì chuẩn mực của mọi sự vật là logos, đươc hiểu khơng chỉ là từ ngữ
mà cịn là quy luật khách quan của vũ trụ. Quy định trật tự và chuẩn mực của
mọi cái. Cái logos đó tồn tại vĩnh viễn, phổ biến và thực chất đó là quy luật
của tự nhiên. Theo ông mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều thay đổi, vận
động và phát triển không ngừng. Ông cho rằng, “Vũ trụ là một thể thống nhất,
nhưng trong lịng nó ln diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các sự vật, lực
lượng đối lập nhau”[40, tr 158]. Như vậy, Hêraclit đã có một cái nhìn biện
chứng chất phác và tiến bộ về sự vận động. Đó là vận động của sự vật gắn
liền với thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Chính mâu thuẫn tồn tại
một cách phổ biến trong sự vật đã trở thành nguồn gốc phát triển của vạn vật.
Chiếm vị trí nổi bật trong triết học Hi Lạp cổ đại là khuynh hướng
nguyên tử luận mà đại biểu là Đêmôcrit. Ông là một trong những nhà triết học
9
duy vật lớn nhất thời cổ đại. Đêmôcrit cho rằng khởi nguyên của các thế giới
là nguyên tử. Các nguyên tử được ông cho là nhỏ nhất không phân chia được,
chúng chỉ khác nhau về trật tự, hình dạng, tư thế… Vận động được xem là
bản chất của nguyên tử, “có vơ số thế giới, chúng có đại lượng khác nhau,
xuất hiện từ những khoảng vô tận, sinh ra và mất đi… Một thế giới đang phát
triển, số khác đã đạt tới sự trưởng thành, số thứ ba đang suy thoái. Các thế
giới đang ra đời ở một nơi, nhưng lại đang biến mất ở nơi khác. Chúng bị hủy
diệt, khi va chạm vào nhau. Một số thế giới không có động vật và thực vật và
hồn tồn khơng có nước”. Đêmôcrit tán đồng với quan điểm của Hêraclit khi
cho rằng từ sự vật bé nhất cho đến thế giới khơng có gì là trường tồn cả, tất cả
đều là một q trình biến đổi khơng ngừng.
Học thuyết ngun tử của Đêmôcrit là thành quả vĩ đại của tư tưởng duy
vật trong thế giới cổ đại. Những tư tưởng vũ trụ học của ông xây dựng trong
lý luận nguyên tử về cấu tạo vật chất và thấm nhuần tinh thần biện chứng tự
phát có một ý nghĩa sâu sắc đối với lịch sử triết học. Thừa nhận vũ trụ là vơ
tận và vĩnh cửu, Đêmơcrit cho rằng, có vơ số thế giới vĩnh viễn phát sinh,
phát triển và tiêu vong. Ơng phỏng đốn rằng, vận động khơng tách rời vật
chất - đó là một phỏng đốn thiên tài. Theo ơng, vận động của những ngun
tử là vĩnh viễn, khơng có điểm kết thúc.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại ngoài những tư tưởng mang khuynh
hướng duy vật, thì bên cạnh đó những tư tưởng duy tâm về sự vận động và
phát triển cũng hết sức phong phú. Nổi bật phải kể đến quan niệm về thế giới
ý niệm của Platon và thuyết hình dạng của Aristot.
Platon(427-347 TCN) là đại biểu lớn nhất trong triết học duy tâm Hy
Lạp thời kỳ cổ đại. Nhiều người đã đồng quan điểm khi cho rằng thuật ngữ
“idealism” (chủ nghĩa duy tâm) bắt nguồn từ ý niệm lần đầu tiên được Platon
đưa ra và về sau được Hegel kế thừa phát triển trong hệ thống triết học duy
10
tâm khách quan của mình. Ý niệm là gì? Theo tiếng Hi Lạp ý niệm chính là
những nghĩa rất rộng như lồi, giống, hình thức…“trong chủ nghĩa duy tâm
khách quan “ý niệm”, sản phẩm của quá trình tư duy bị “biến thành một chủ
thể độc lập dưới cái tên gọi ý niệm - chính là vị thần sáng tạo ra hiện thực”.
Đối với Mác “ý niệm chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào đầu óc
con người và được cải biến đi ở trong đó” [23, tr 35]. Học thuyết ý niệm là
vấn đề trung tâm của hệ thống triết học Platon vì vậy khơng chỉ là nền tảng
của thế giới quan mà còn là cơ sở của nhận thức.
Trong học thuyết “ý niệm” ông đưa ra hai quan niệm về thế giới các sự
vật cảm biết và thế giới các ý niệm. Trong đó thế giới các sự vật cảm biết là
không chân thực, không đúng đắn vì các sự vật khơng ngừng sinh ra và mất
đi, thay đổi và vận động, không ổn định, bền vững, hồn thiện; cịn thế giới ý
niệm là thế giới phi cảm tính, phi vật thể, là thế giới đúng đắn, chân thực, các
sự vật cảm biết chỉ là cái bóng của ý niệm. Nhận thức của con người không
phải là phản ánh các sự vật cảm biết của thế giới khách quan mà là nhận thức
về ý niệm. Thế giới ý niệm có trước thế giới cảm biết, sinh ra thế giới cảm
biết. Từ quan niệm trên Platon đã đưa ra khái niệm "tồn tại" và "không tồn
tại". "Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái nhận biết được bằng trí tuệ siêu
tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Cịn "khơng tồn tại" là vật chất, cái có tính thứ
hai so với cái tồn tại phi vật chất. Về mặt nhận thức luận Platon cũng mang
tính duy tâm. Theo ơng tri thức là cái có trước các sự vật chứ không phải là sự
khái quát kinh nghiệm trong q trình nhận thức các sự vật đó. Nhận thức con
người không phản ánh các sự vật của thế giới khách quan mà chỉ là nhớ lại,
hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã quên trong quá khứ.
Theo Platon tri thức được phân làm hai loại: Tri thức hoàn toàn đúng đắn
và tri thức mờ nhạt. Loại thứ nhất là tri thức ý niệm có được nhờ hồi tưởng.
Loại thứ hai là tri thức nhận được nhờ vào nhận thức cảm tính, lẫn lộn đúng
11
sai khơng có chân lí. Quan niệm duy tâm về thế giới đã chi phối quan niệm về
xã hội và con người. Sự khác biệt trong cấu trúc và linh hồn đã quy định sự
khác nhau về đẳng cấp xã hội. Tương ứng với ba phần của linh hồn con người
(lý tính, cảm xúc, tình cảm) chia xã hội ra làm ba hạng người tùy theo bộ
phận linh hồn nào đóng vai trị chủ đạo, đó là những kẻ thống trị, tầng lớp võ
sĩ, tầng lớp những người lao động. Trong quan niệm về thế giới Platon đã
theo lập trường duy tâm khách quan, coi mọi sự vật chỉ là sự hiện thân hay là
sự mô phỏng của ý niệm. Quan niệm này của Platon đã phủ nhận sạch trơn sự
vận động, phát triển của sự vật, cho rằng bất cứ sự vật nào cũng chỉ là sự thể
hiện đặc thù các ý niệm tương ứng dưới dạng vật chất.
Cũng giống như triết học Platon, Aristot cũng bàn tới ý niệm, nhưng
những quan niệm về thế giới ý niệm của Aristot đối lập hồn tồn với những
gì mà Platon đã trình bày trong học thuyết của mình. Theo Aristot khởi
nguyên của vạn vật, của thế giới đã có vật chất, đó là vật chất thuần túy chưa
bị giới hạn trong bất kỳ một hình thức nào cả. Tồn tại trong một trạng thái
khơng tồn tại, nghĩa là nó chưa là một cái gì cả, nhưng lại tồn tại với tư cách
là khả năng trở thành một cái gì đó.
Aristot trình bày học thuyết về bốn nguyên nhân của quá trình vũ
trụ: 1. nguyên nhân vật chất; 2. Nguyên nhân mô thức; 3. Nguyên
nhân vận động; 4. Nguyên nhân mục đích. Sự vật nào có đầy đủ
những nguyên nhân trên mới tồn tại được. Học thuyết về vận động
(kinèsis) được Aristot trình bày và phân chia thành bốn dạng vận
động có thể là: i) tăng và giảm; ii) biến đổi về chất hay chuyển hóa;
iii) xuất hiện và diệt vong; iv) chuyển dịch vị trí trong khơng gian
(vận động cơ học). Trong bốn dạng đó Aristot xem vận động trong
khơng gian là dạng chủ yếu, điều kiện của tất cả các dạng cịn lại.
Chẳng hạn sự tăng lên có nghĩa là một vật thể nào đó tiếp cận một
12
vật thể khác và kết hợp với nó, để trở thành vật thể lớn hơn, vật thể
tăng trưởng. Tương tự như vậy sự giảm đi có nghĩa là có một cái gì
đó tách ra từ một vật thể chuyển dịch trong không gian, vậy sự tăng
và giảm quyết định sự chuyển dịch trong không gian như một điều
tất yếu. Đối với sự biến đổi về chất có thể giải thích như sau: nếu
trong vật thể diễn ra sự thay đổi chất của nó thì ngun nhân của
biến đổi, chuyển hóa chính là sự liên kết vật thể đang biến đổi với
vật thể tạo nên sự biến đổi trong nó. Nhưng điều kiện của sự liên kết
là tiếp cận, mà tiếp cận chính là vận động trong khơng gian” [32, tr.
145-146].
Như vậy, Aristot đã không thừa nhận sự vận động tự thân của vật chất
mà mong muốn đi tìm nguyên nhân thực sự của vận động bên ngồi sự vật.
Aristot cịn chia vận động trong khơng gian thành: vận động vịng tròn;
vận động đường thẳng; kết hợp vận động vòng tròn và vận động đường thẳng.
Trong đó, vận động vịng trịn là vận động có tính liên tục. Theo Aristot vận
động vịng trịn là vận động hồn hảo nhất vì ba lý do: 1) vận động ấy diễn ra
liên tục, vĩnh cửu; 2) nếu cái tồn thể nào đó vận động theo vịng trịn thì
trong khi vận động, nó vẫn có thể ở trạng thái đứng im, cân bằng tương đối.
Mặc dù tất cả các bộ phận của nó, trừ trục, luôn vận động, nhưng không gian,
xét như bể chứa vũ trụ, mãi mãi vẫn vậy; 3) vận tốc của vận động vịng trịn
khơng đổi, điều mà vận động theo đường thẳng khơng thể có được do chỗ vận
tốc của nó phụ thuộc vào khoảng cách từ vật thể vận động đến vị trí định sẵn.
Ví dụ vật thể rơi càng gần mặt đất vận tốc đạt được càng nhanh [12, tr. 147].
Aristot đã chưa nhân thức được khuynh hướng phát triển đi lên của sự
vật hiện tượng mà chỉ dừng mới dừng lại ở sự vận động theo một vòng trịn
khép kín mà thơi. Đối với ơng sự phát triển được hiểu như là sự chuyển dịch
giản đơn trong không gian, ơng đã khơng trình bày được sự phức tạp, biến
13
hóa của sự phát triển. Đó chính là điểm hạn chế của ông, thể hiện sự dao động
trong lập trường duy vật và duy tâm của Aristot. Những đóng góp của Aristot
đối với sự phát triển của triết học nói riêng, của đời sống nhân loại nói chung
là hết sức lớn lao.
b. Quan điểm phát triển trong triết học cổ đại ở Trung Quốc và Ấn Độ
Triết học phương Đông mang những nét đặc thù riêng biệt so với triết
học phương Tây. Trung Quốc và Ấn Độ là hai trung tâm văn minh, văn hóa
lớn của nhân lồi. Đồng thời nơi đây cũng là hai nền triết học lớn của các dân
tộc phương Đơng cổ đại nói chung và các dân tộc châu Á nói riêng.
Triết học Ấn Độ cổ, trung đại đã đặt ra và bước đầu giải quyết nhiều vấn
đề của triết học. Trong khi giải quyết những vấn đề thuộc bản thể luận, nhận
thức luận và nhân sinh quan, triết học ấn Độ đã thể hiện tính biện chứng và
tầm khái quát khá sâu sắc, đưa lại nhiều đóng góp quý báu vào kho tàng triết
học của nhân loại. Mác từng nói rằng lịch sử phương Đơng là lịch sử tôn giáo,
điều này thể hiện rõ nhất ở Ấn Độ với rất nhiều các tôn giáo, giáo phái khác
nhau. Triết học ấn Độ là một nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tư
tưởng tôn giáo. Giữa triết học và tơn giáo rất khó phân biệt. Tư tưởng triết học
ẩn giấu sau các lễ nghi huyền bí, chân lý thể hiện qua bộ kinh Vêda,
Upanisad. Tuy nhiên, tơn giáo của ấn Độ cổ đại có xu hướng "hướng nội" chứ
không phải "hướng ngoại" như tôn giáo phương Tây. Vì vậy, xu hướng trội
của các hệ thống triết học - tôn giáo ấn Độ đều tập trung lý giải và thực hành
những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tơn giáo nhằm đạt tới sự
"giải thoát" tức là đạt tới sự đồng nhất tinh thần cá nhân với tinh thần vũ trụ
(Atman và Brahman). Trong triết học Ấn Độ có nhiều trường phái khác nhau,
và mỗi phái lại có cho riêng mình những tư tưởng, quan niệm, quan điểm
khác nhau. Quan niệm về sự phát triển cũng nằm trong số đó.
Quan điểm về sự phát triển của phái Sàmkhuya, Theo trường phái này
14
thì “sự phát triển của thế giới đi từ biểu hiện đến không biểu hiện, họ cũng coi
“thế giới này là vật chất, nguyên nhân của thế giới vì thế cũng là vật chất”
[40, tr. 126]. Thế giới vật chất là bao la, vô cùng, vô tận, không ngừng biến
đổi, vận động từ dạng này sang dạng khác, nó tồn tại vĩnh hằng, không mất đi.
Theo quan niệm của trường phái này thì thế giới được cấu tạo bởi sự biến đổi
của các yếu tố: Sattva (là trí tuệ, trí năng với thuộc tính nhẹ, sáng, tươi vui),
Rajas (là năng lượng với những thuộc tính động, kích thích), Tamas (là khối
lượng, qn tính với những thuộc tính nặng, khó khăn). Sự vận động và tác
động của các yếu tố nói trên đã phá vỡ sự cân bằng vốn có của thế giới vật
chất và tạo nên sự biến đổi, phát triển. Ở đây, phái Sàmkhuya đã rơi vào siêu
hình khi quy sự vận động của vật chất về một số thuộc tính vận động cụ thể.
Nhưng cho thấy từ rất sớm họ đã hình thành tư tưởng nguyên nhân của thế
giới là vật chất, thế giới không ngừng vận động, phát triển. Mặc dù cách lý
giải còn giản đơn, mang tính siêu hình như đã nói ở trên nhưng những tư
tưởng của trường phái Sàmkhuya đã rất tiến bộ khi chỉ ra thế giới các sự vật
tồn tại và biến đổi trong không gian và thời gian.
Jaina là một tôn giáo xuất hiện gần đồng thời với Phật giáo. Người sáng
lập ra trường phái này là là Maharvira, có hiệu là Jaina (nghĩa là Chiến thắng).
Triết học cơ bản của Jaina là học thuyết về "cái tương đối". Theo thuyết này,
tồn tại đầu tiên là bất biến, vô thủy, vô chung, sự biến đổi của vạn vật là
không cùng; thế giới vạn vật là sự thống nhất của cái biến đổi và cái bất biến.
Cái vĩnh hằng là vật chất; cái không vĩnh hằng là các dạng của vật chất (Thí
dụ: Đất sét thì khơng thay đổi, nhưng cái bình bằng đất sét thì có thể thay
đổi). Điều đó được thể hiện qua các khái niệm: 1. Tồn tại; 2. Không tồn tại; 3.
Vừa tồn tại vừa không tồn tại; 4. Không thể miêu tả; 5. Tồn tại và không thể
miêu tả; 6. Không tồn tại và không thể miêu tả; 7. Tồn tại và không tồn tại và
không miêu tả được. Phái Jaina cũng đã diễn tả được sự biến đổi không
15
ngừng của thế giới vật chất từ dạng này sang dạng khác chứ không đứng yên:
“Vật chất, vật thể là những biểu hiện của Ajiva, có đặc tính sờ mó được, có
âm thanh, mùi, sắc và vị…”[39, tr. 42]. Để giải thích cho mọi sự tồn tại trên
thế giới họ đưa ra khái niệm “tồn tại đầu tiên”. Chính cái “tồn tại đầu tiên”
đã sản sinh ra muôn vật và để duy trì thế giới đa dạng nó cần tồn tại một cách
bất biến, vô thủy, vô chung. Thế giới này là bất biến, nhưng là luôn luôn vận
động biến đổi, chứ khơng phải bất biến đứng n.
Như vậy có thể thấy rằng trong quan niệm về thế giới của trương phái
Jaina vừa mang tính siêu hình vừa biện chứng, vừa lộ diện khuynh hướng duy
vật, nhưng đồng thời thể hiện tính chất duy tâm.
Phái Lokàyata“Lokàyata là triết học duy vật triệt để nhất trong các
trường phái triết học Ấn Độ cổ” [40, tr. 141]. Phái đã khẳng định thế giới sự
vật hiện tượng có nguồn gốc từ vật chất và ln vận động biến đổi. Thế giới
này có nguồn gốc từ bốn yếu tố vật chất là đất, nước, lửa, khơng khí. Mỗi yếu
tố đều tồn tại trong sự vận động và tác động lẫn nhau, chính từ đó cấu thành
nên vạn vật, là cơ sở tạo nên sự biến đổi đa dạng phong phú của thế giới vật
chất. Cũng theo họ ý thức nảy sinh từ vật chất. Đây là một trong những tư
tưởng có khuynh hướng duy vật, tuy nhiên lại chưa có phương pháp luận
đúng đắn, khoa học.
Đạo Phật ra đời vào thế kỷ VI tr. CN. Người sáng lập là Siddharta (Tất
Đạt Đa). Sau này ông được người đời tôn vinh là Sakyamuni (Thích ca Mâu
ni), là Buddha (Phật). Phật là tên theo âm Hán - Việt của Buddha, có nghĩa là
giác ngộ. Phật giáo là hình thức giáo đồn được xây dựng trên một niềm tin từ
đức Phật, tức từ biển lớn trí tuệ và từ bi của Siddharta. Kinh điển của Phật
giáo gồm Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Phật giáo cũng luận về thuyết
luân hồi và nghiệp, cũng tìm con đường "giải thốt" ra khỏi vịng ln hồi.
Trạng thái chấm dứt luân hồi và nghiệp được gọi là Niết bàn. Nhưng Phật
16
giáo khác các tôn giáo khác ở chỗ chúng sinh thuộc bất kỳ đẳng cấp nào cũng
được "giải thoát". Phật giáo nhìn nhận thế giới tự nhiên cũng như nhân sinh
bằng sự phân tích nhân - quả. Theo Phật giáo, nhân - quả là một chuỗi liên tục
không gián đoạn và khơng hỗn loạn, có nghĩa là nhân nào quả ấy. Mối quan
hệ nhân quả này Phật giáo thường gọi là nhân duyên với ý nghĩa là một kết
quả của nguyên nhân nào đó sẽ là nguyên nhân của một kết quả khác.
Về thế giới tự nhiên, bằng sự phân tích nhân quả, Phật giáo cho rằng
khơng thể tìm ra một nguyên nhân đầu tiên cho vũ trụ, có nghĩa là khơng có
một đấng Tối cao (Brahman) nào sáng tạo ra vũ trụ. Cùng với sự phủ định
Brahman, Phật giáo cũng phủ định phạm trù (Anatman - nghĩa là không có
tơi) và quan điểm "vơ thường".
Quan điểm "vơ ngã" cho rằng vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự "giả hợp" do
hội đủ nhân duyên nên thành ra "có" (tồn tại). Sự đa dạng của tồn tại là do
“nhân duyên” tạo ra. “Duyên ở đây phải được hiểu vừa là nguyên nhân sinh
ra cái mới, vừa là kết quả của q trình biến đổi cái cũ trước đó. Nhân nhờ
dun mà thành quả, quả nhờ duyên mà thành nhân mới, nhân mới nhờ duyên
mà thành quả mới… quá trình cứ thế nối nhau vô cùng, vô tận mà thế giới,
vạn vật, mn lồi sinh sinh hóa hóa khơng ngừng”[39, tr. 52].
Nhân duyên hội thì sự vật tạo ra, nhân duyên hết thì sự vật khơng cịn.
“Nhân dun” quan hệ với “Nhân quả”. Nhân là nghiệp lực. Quả là nghiệp
lực đã thành hiện thực nhờ hội đủ duyên. “Nhân duyên khởi” và “Nhân quả”
là nguyên lý phổ biến tuyệt đối của mọi tồn tại. Ngay bản thân sự tồn tại của
thực thể con người chẳng qua là do "Ngũ uẩn" (5 yếu tố) hội tụ lại là: sắc (vật
chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Như
vậy là khơng có cái gọi là "tơi" (vơ ngã).
Quan điểm "vô thường" cho rằng vạn vật biến đổi vơ cùng theo chu trình
bất tận: sinh - trụ - dị - diệt. Vậy thì "có có" - "khơng khơng" luân hồi bất tận;
17
"thống có", "thống khơng", cái cịn thì chẳng cịn, cái mất thì chẳng mất.
Phật giáo coi mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều là “ảo”và “giả”,
khơng có thực, chỉ do vô minh đem lại. “tất cả mọi vật đều vơ thường đều
thay đổi, khơng có vật nào là ngã cả”[39, tr. 55]. Dịng biến chuyển ấy là vơ
thủy, vơ chung, vơ cùng, vơ tận, khơng có khởi đầu khơng có kết thúc.
Quan niệm về sự phát triển trong triết học Phật giáo đã có nhiều điểm
tiến bộ song họ lại rơi vào yếu thế khi thừa nhận sự phát triển đạt tới một giới
hạn là cõi “niết bàn”.
Triết học Ấn Độ cổ đại cho chúng ta những quan niệm hết sức phong
phú, đa dạng về sự vận động, phát triển của thế giới. Tuy nhiên, những quan
niệm này đã bị bao phủ bởi những sự đậm nhạt của màu sắc tơn giáo. Do đó,
các quan điểm cũng mang yếu tố huyền bí, trừu tượng, hịa quyện với nhau
tạo nên nét đặc trưng trong triết lý về thế giới quan và nhân sinh quan của
người Ấn Độ. Đồng thời các nhà triết học Ấn Độ cũng chưa trình bày được
một cách logic, khoa học về sự phát triển. Họ mới chỉ lý giải sự vận động đó
được tạo bởi một nguyên nhân mơ hồ nào đó mà chưa thấy được nguồn gốc,
phương thức, khuynh hướng của sự phát triển.
Nền triết học Trung Quốc cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ
chiếm hữu nô lệ lên xã hội phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan
tâm hàng đầu của các nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại là những vấn đề thuộc
đời sống thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan
điểm duy tâm để giải thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề
xã hội, nhưng những tư tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn, trong việc xác
lập một trật tự xã hội theo mơ hình chế độ qn chủ phong kiến trung ương
tập quyền theo những giá trị chuẩn mực chính trị - đạo đức phong kiến
phương Đơng.
Bên cạnh những tư duy sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung
18
Quốc thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu
sắc về sự biến dịch của vũ trụ, cũng như những lý luận hết sức sâu sắc khi bàn
về sự phát triển.
Âm Dương và Ngũ hành là hai phạm trù quan trọng trong tư tưởng triết
học Trung Quốc, là những khái niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa đối
với sự sản sinh biến hóa của vũ trụ. Thuyết Âm - Dương thể hiện quan niệm
duy vật chất phác về tự nhiên, và ở đó đã thể hiện tư tưởng biện chứng sơ
khai về tự nhiên, xã hội và con người. Việc sử dụng hai phạm trù Âm Dương và Ngũ hành đánh dấu bước tiến bộ tư duy khoa học đầu tiên nhằm
thoát khỏi sự khống chế về tư tưởng do các khái niệm Thượng đế, Quỷ thần
truyền thống đem lại. Đó là cội nguồn của quan điểm duy vật và biện chứng
trong tư tưởng triết học của người Trung Hoa. Âm - Dương là hai thế lực đối
chọi nhau nhưng lại thống nhất với nhau trong vạn vật, là khởi nguyên của
mọi sinh thành biến hóa. Âm - Dương là điều kiện tồn tại và động lực của mọi
sự vận động, phát triển.
Theo thuyết Âm - Dương sự vận động và biến đổi bắt nguồn từ hai thế
lực đối lập Âm và Dương. "Dương" nguyên nghĩa là ánh sáng mặt trời hay
những gì thuộc về ánh sáng mặt trời và ánh sáng; "Âm" có nghĩa là thiếu ánh
sáng mặt trời, tức là bóng râm hay bóng tối. Về sau, Âm - Dương được coi
như hai khí; hai nguyên lý hay hai thế lực vũ trụ: biểu thị cho giống đực, hoạt
động, hơi nóng, ánh sáng, khơn ngoan, rắn rỏi, v.v. tức là Dương; giống cái,
thụ động, khí lạnh, bóng tối, ẩm ướt, mềm mỏng, v.v. tức là Âm. Chính do sự
tác động qua lại giữa chúng mà sinh ra mọi sự vật, hiện tượng trong trời đất.
Trong Kinh Dịch sau này có bổ sung thêm lịch trình biến hóa của vũ trụ có
khởi điểm là Thái cực. Từ Thái cực sinh ra Lưỡng nghi (âm dương), rồi Tứ
tượng, rồi Bát quái. Như vậy, sự tác động qua lại giữa âm - dương khơng chỉ
là nguồn gốc sinh ra vạn vật mà nó còn là nguồn gốc của mọi sự vận động
19
phát triển.
Thuyết Âm - Dương giải thích vạn vật dựa vào hai thế lực đối lập thì
thuyết Ngũ Hành dựa vào năm yếu tố khởi thủy: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Năm yếu tố này là tượng trưng cho tính chất, màu sắc và phương hướng,
chúng không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trái lại chi phối lẫn nhau theo
nguyên tắc tương sinh, tương khắc.
“Họ cho rằng quá trình tương sinh (bồi đắp, nuôi dưỡng) và tương khắc
(ước chế) là quá trình sinh diệt, và thực chất của quá trình tồn tại của vật chất
là quá trình sinh - diệt khơng thơi đó”[40, tr. 53].
Như vậy thuyết Âm - Dương, Ngũ Hành đã thừa nhận tính vật chất của
thế giới, giải thích quy luật phát triển khách quan của thế giới. Tuy còn chất
phác nhưng thuyết Âm - Dương, Ngũ Hành mang tính biện chứng cao.
Trong triết học Lão Tử, những tư tưởng về sự phát triển được thể hiện ở
phép biện chứng chất phác. Quan điểm về đạo. "Đạo" là sự khái quát cao nhất
của triết học Lão - Trang, ý nghĩa của nó có hai mặt: thứ nhất Đạo là bản
nguyên của vũ trụ, có trước trời đất, khơng biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho
nó là "đạo". Vì "đạo" q huyền diệu, khó nói nên có thể quan niệm ở hai
phương diện "vơ" và "hữu". "Vơ" là ngun lý vơ hình, là gốc của trời đất.
"Hữu" là nguyên lý hữu hình là mẹ của vạn vật. Công dụng của đạo là vô
cùng, đạo sáng tạo ra vạn vật. Vạn vật nhờ có đạo mà sinh ra, sự sinh sản ra
vạn vật theo trình tự "đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh ra vạn
vật". Đạo còn là chúa tể vạn vật và đạo là phép tắc của vạn vật. Thứ hai, Đạo
còn là quy luật biến hóa tự thân của vạn vật, quy luật ấy gọi là Đức. "Đạo"
sinh ra vạn vật (vì nó là ngun lý huyền diệu), đức bao bọc, nuôi dưỡng tới
thành thục vạn vật (là nguyên lý của mỗi vật). Mỗi vật đều có đức mà đức của
bất kỳ sự vật nào cũng từ đạo mà ra, là một phần của đạo, đức nuôi lớn mỗi
vật tùy theo đạo. Đạo đức của Đạo gia là một phạm trù vũ trụ quan. Khi giải