TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
Khoa Kinh tế và kinh doanh quốc tế
======o0o======
Tiểu luận môn: Kinh tế phát triển
Đề tài
Nguyên nhân dẫn đến vấn đề bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay
Thực hiện:
Nhóm 24
Giáo viên hướng dẫn:
Ths. Vũ Hoàng Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
Khoa Kinh tế và kinh doanh quốc tế
======o0o======
Tiểu luận môn: Kinh tế phát triển
Đề tài
Nguyên nhân dẫn đến vấn đề bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay
Thực hiện:
Nhóm 24
Giáo viên hướng dẫn:
Ths. Vũ Hoàng Nam
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới, các khái niệm
“tăng trưởng”, “tiến bộ”, “cách mạng công nghệ”, “mức sống cao”, “thời đại thông
tin”… đã trở nên quen thuộc. Nhưng bên cạnh đó, “bất bình đẳng” cũng là cụm từ
không hề xa lạ hiện nay. Đây là một trong những vấn đề bất cập ở cả các nước phát
triển, đang và chậm phát triển, liên quan đến nhiều lĩnh vực như bất bình đẳng về
chính trị, kinh tế…. Tuy chỉ là một khía cạnh nhỏ, bất bình đẳng về thu nhập lại ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế-xã hội. Đó là sự chênh lệch về thu nhập giữa
các cá nhân hay nhóm người trong xã hội. Mức độ bất bình đẳng về thu nhập cùng
với mức thu nhập bình quân đầu người là yếu tố quyết định tỷ lệ nghèo đói của
nước đó. Điều đó kéo theo sự lãng phí nguồn lực; những mâu thuẫn, xung đột xã
hội dễ nảy sinh; môi trường bị hủy hoại, đặc biệt ở các nước chậm phát triển.
Việt Nam tuy đạt được những tiến bộ to lớn trong tăng trưởng kinh tế và cải
thiện đời sống nhân dân nhờ quá trình tiến hành cải cách kinh tế, nhưng lại phải đối
mặt với bất bình đẳng về thu nhập tăng; vì trong thể chế kinh tế cũ, đại bộ phận dân
chúng có mức sống đồng đều thấp. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng: người nghèo và
nhiều nhóm bất lợi khác được hưởng lợi ít hơn từ quá trình tăng trưởng cũng như cơ
chế, chính sách điều tiết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
vẫn còn nhiều bất cập. Không thể lựa chọn một xã hội không tăng trưởng cũng như
không thể lựa chọn một xã hội bất bình đẳng cao. Là một nước đi sau và vừa được
xếp vào nhóm các quốc gia có mức thu nhập trung bình nên tăng trưởng nhanh luôn
là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược và chính sách của Việt Nam. Tuy vậy, Chính
phủ Việt Nam nhấn mạnh rằng công bằng xã hội và đảm bảo cho mọi người dân đều
có quyền hưởng lợi từ tăng trưởng và phát triển cũng quan trọng không kém. Chính
vì thế, việc nghiên cứu về tình trạng này rất quan trọng, không chỉ trong việc hướng
tới sự bình đẳng trong xã hội mà còn góp phần tìm kiếm các biện pháp để nâng cao
hiệu quả và hiệu lực của tăng trưởng kinh tế xã hội.
Hiện nay đã có một vài nghiên cứu về bất bình đẳng trong thu nhập ở Việt
Nam, tuy nhiên vẫn chưa đánh giá được toàn bộ vấn đề trong bối cảnh kinh tế hội
nhập và tự do hóa thương mại cũng như chưa đưa ra được đánh giá tổng quan theo
các vùng, qui mô, ngành kinh tế. Vì vậy, nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài:
“Nguyên nhân dẫn đến vấn đề bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở Việt Nam
hiện nay” với mục tiêu trả lời hai câu hỏi: thực trạng bất bình đẳng thu nhập ở Việt
Nam hiện nay như thế nào? đâu là những kênh và nhân tố ảnh hưởng đến gia tăng
bất bình đẳng thu nhập trong thời gian qua?, trong đó đi sâu vào việc phân tích để
tìm ra các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến bất bình đẳng trong thu nhập trong những
năm gần đây-thời kỳ chịu tác động lớn của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: thu nhập của người lao động ở Việt Nam
(chia theo vùng, ngành, giới tính), các yếu tố ảnh hưởng đến mức lương, mức chênh
lệch giữa thu nhập của lao động theo các phân nhóm trên. Về phạm vi nghiên cứu,
đề tài tập trung nghiên cứu các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến sự bất bình đẳng trong
thu nhập ở Việt Nam, bao gồm : đặc điểm cá nhân người lao động như giới tính,
kinh nghiệm và trình độ nghề nghiệp, khả năng tiếp cận việc làm trong khu vực
chính thức, trình độ giáo dục, nhóm ngành nghề, các yếu tố về vị trí địa lý và thay
đổi về chính sách...Thời gian nghiên cứu: từ sau đổi mới đến nay. Phương pháp sử
dụng là tổng hợp và phân tích số liệu mức sống dân cư, lao động và việc làm lấy từ
các cuộc điều tra qui mô quốc gia kết hợp số liệu thống kê và các nguồn khác (WB,
UNDP,…).
Với đối tượng và phạm vi được xác định như trên, kết cấu của bài tiểu luận
được gồm hai phần như sau:
I.Thực trạng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam.
II.Nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam.
Trong phạm vi cho phép hạn hẹp, tiểu luận này chỉ có thể nêu lên các vấn đề
được nghiên cứu, những kết quả khái quát nhất từ việc phân tích, thống kê số liệu;
hạn chế tối đa số lượng các bảng, biểu đồ. Do giới hạn về kiến thức và phương pháp
nghiên cứu nên nhóm không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp
của thầy cô và các bạn để tiểu luận được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I.
Thực trạng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam.
1. Bất bình đẳng thu nhập chung
Trong những năm qua, bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam đang trở nên xấu đi
khi chênh lệch thu nhập giữa các bộ phận dân cư ngày càng lớn hơn. Bất bình đẳng
kéo theo nhiều hệ luỵ cho xã hội và là nguyên nhân kéo lùi tăng trưởng kinh tế
trong tương lai.
Một trong những thước đo bất bình đẳng thu nhập tốt nhất mà các nhà kinh
tế vẫn hay sử dụng trong các nhiên cứu và phân tích là hệ số GINI. Hệ số GINI đã
lượng hoá một cách tương đối mức độ bất bình đẳng thu nhập ở các quốc gia. Dưới
đây là bảng hệ số GINI theo thu nhập của Việt Nam trong những năm qua.
Bảng 1:Bảng hệ số GINI theo thu nhập của Việt Nam
Năm
1993
1998
2000
2003
2006
Hệ số GINI theo
0.34
0.39
0.42
0.42
0.43
thu nhập
(Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam từ năm 1993-1996, Tổng cục thống
kê)
Bảng số liệu cho thấy hệ số GINI của Việt Nam tăng qua các năm. Tốc độ tăng
khá nhanh: 0.34 năm 1993 và tới năm 2006 thì tăng lên 0.43. Rõ ràng, mức độ bất
bình đẳng thu nhập của Việt Nam đang có xu hướng xấu đi. Theo chỉ tiêu đánh giá
của WorldBank, các nước đang phát triển hệ số GINI nằm trong khoảng 0.3-0.6.
Như vậy, chênh lệch thu nhập ở Việt Nam ở mức vừa phải. Theo một bài viết năm
1999 của nhóm “Công tác về vấn đề Nghèo”, Việt Nam vẫn là một xã hội khá bình
đẳng, mức độ bình đẳng của Việt Nam tương đương với các nước Nam Á nhưng lại
thấp hơn các nước Đông Á.
Bảng 2: Hệ số GINI về thu nhập ở một số nước châu Á.
Tên nước
Năm điều tra
Hệ số GINI
Việt nam
2004
0.423
Cam-pu-chia
1999
0.45
In-đô-nê-xi-a
2002
0.343
Lào
2002
0.347
Ma-lai-xi-a
1999
0.443
Phi-li-pin
2000
0.461
Thái lan
2002
0.420
Sing ga po
1998
0.425
Ấn độ
1999
0.325
Trung Quốc
2001
0.447
Hàn Quốc
2003
0.306
Nhật Bản
1993
0.249
(Nguồn :Ngân hàng phát triển châu Á, 2006, “Những chỉ tiêu chủ yếu của các
nước đang phát triển thuộc châu Á, Thái Bình Dương”)
Tuy nhiên, hệ số GINI của Việt Nam chưa tính tới chênh lệch thu nhập từ tài
sản thừa kế, đầu cơ đất đai, tham nhũng, tài sản thừa kế…. Liệu cách nhìn về bất
bình đẳng như vậy có thoả đáng không? Trên thực tế tình trạng bất bình đẳng ở Việt
Nam cao hơn so với sự thể hiện qua hệ số GINI. (Ohno, 2008).
Xem xét trên bình diện chênh lệch giữa nhóm có thu nhập bình quân đầu
người cao nhất và nhóm có thu nhập bình quân thấp nhất:
Bảng 3: Chênh lệch giữa nhóm có thu nhập cao nhất và thấp nhất
Thu nhập bình quân đầu người một
Hệ số chênh lêch giữa nhóm
tháng (Đơn vị:Nghìn đồng)
Năm
thu nhập cao nhất với nhóm
Nhóm có thu Nhóm có thu nhập
có thu nhập thấp nhất
nhập cao nhất
thấp nhất
1995
519.6
74.3
7.0
1996
574,7
78,6
7.3
1999
741.6
97.3
7.6
2002
872.9
107.0
8.1
2004
1182.3
141.8
8.3
2006
1542.0
184
8.4
(Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam từ năm 1993 đến 2006)
Qua bảng, ta có thể thấy tình trạng bất bình đẳng thu nhập tuyệt đối ở Việt
Nam khá đáng lo ngại. Chênh lệch thu nhập giữa nhóm cao nhất và nhóm thấp nhất
ngày gia tăng qua các năm. Hệ số này đến năm 2006 lên tới 8.4, khá cao so với một
số nước trong khu vực: Cam-pu-chia là 4.7 (năm 1999), Lào 5.4, In-đô-nê-xi-a 5.2,
Thái Lan 5.7 (năm 2002). Rõ ràng có một sự đánh đổi giữa tăng trưởng và bất bình
đẳng thu nhập của Việt Nam trong các năm qua. Khi tốc độ tăng trưởng kinh tế
ngày càng nhanh cùng với toàn cầu hoá và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ, vấn đề bất bình đẳng ngày càng nghiêm trọng, đòi hỏi cần có các biện
pháp hạn chế sự gia tăng bất lợi này.
2. Bất bình đẳng theo nhóm xã hội
Bảng 4: Hệ số GINI theo thu nhập theo khu vực
Năm
2002
2004
2006
Cả nước
0,420
0,420
0,424
Thành thị
0,410
0,410
0,393
Nông thôn 0,360
0,370
0,378
2008
0,434
0,404
0,385
2010
0,433
0,402
0,395
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, “Kết quả khảo sát mức sống dân cư 2010”)
Bảng trên cho thấy bất bình đẳng theo thu nhập ở khu vực thành thị cao hơn
khu vực nông thôn. Điều này có thể giải thích bởi một thực tế là ở những nơi có
mức xuất phát điểm thấp, khoảng cách về giàu nghèo thường nhỏ hơn những nơi có
mức xuất phát điểm cao hơn. Một điều đáng lưu ý là từ năm 2002 đến 2010, trong
khi bất bình đẳng ở khu vực thành thị có xu hướng giảm (0,98 lần), thì ở khu vực
nông thôn lại có xu hướng tăng (1,08 lần).
Biểu đồ 1: Tổng chi tiêu bình quân đầu người 1 tháng theo nhóm xã hội năm
2002-2010
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Xét về bất bình đẳng trong chi tiêu, biểu đồ trên cho thấy chênh lệch tổng chi
tiêu bình quân 1 nhân khẩu 1 tháng giữa khu vực thành thị và nông thôn có xu
hướng giảm trong thời ky 2002-2010. Cụ thể, tỷ lệ giữa tổng chi tiêu bình quân 1
nhân khẩu 1 tháng là 2,15 lần (2002), 2,08 lần (2004), 2,02 lần (2006), 2,01 lần
(2008) và 1,92 lần (2010).
Bảng 5: Tỷ lệ hộ nghèo theo khu vực (Đơn vị: %)
Năm
2004
2006
2008
2010
Cả nước
23,2
15,5
13,4
10,7
Thành thị
13,7
7,7
6,7
5,1
Nông thôn 26,4
18,0
16,1
13,2
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Xem xét bất bình đẳng về tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam theo khu vực cho thấy,
mặc dù tỷ lệ hộ nghèo ở cả thành thị và nông thôn giảm nhanh trong thời kỳ 20042010 nhưng chênh lệch về tỷ lệ nghèo giữa hai khu vực này ngày càng lớn: từ 1,93
lần năm 2004 lên 2,57 lần năm 2010. Điều này phản ánh phần nào tình trạng gia
tăng bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận các nguồn lực để giảm nghèo ở khu vực nông
thôn và thành thị.
3. Bất bình đẳng theo dân tộc
Đất nước ta là một nước có rất nhiều dân tộc cùng sinh sống, 64 tỉnh thành là
54 dân tộc anh em. Trong số đó đa số là các dân tộc thiểu số, dân tộc Kinh/Hoa là
nhóm dân tộc chiếm đông đảo dân cư nhất. Trong rất nhiều năm gần đây, Đảng và
Nhà nước ta đã có rất nhiều những chính sách hỗ trợ cho đồng bào các dân tộc thiểu
số, tuy nhiên những số liệu thực tế vẫn phản ánh sự tồn tại của chênh lệch về thu
nhập giữa các dân tộc.
Biểu đồ 2: Chi tiêu bình quân đầu người theo dân tộc (Đv: nghìn đồng, giá
năm 1993 )
(Nguồn: Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2007))
Từ biểu đồ trên ta có thể thấy chênh lệch chi tiêu bình quân đầu người giữa
nhóm dân tộc Kinh/Hoa và nhóm dân tộc thiểu số ngày càng lớn. Năm 1993, chi
tiêu bình quân đầu người của người Kinh/Hoa chỉ gấp 1,72 lần của người dân tộc
thiểu số thì đên năm 2004 con số đó đã tăng lên 2,15 lần. Hơn nữa, sự khác nhau về
tốc độ chi tiêu bình quân đầu người của nhóm dân tộc Kinh/Hoa và nhóm dân tộc
thiểu số cũng ngày càng tăng. Trong thời kì 1993 – 2004, chi tiêu bình quân đầu
người của nhóm dân tộc Kinh/Hoa tăng 98% thì đối với nhóm dân tộc thiểu số tốc
độ tăng thấp hơn nhiều, chỉ đạt 58%.
Bảng 6: Tỉ lệ nghèo và chênh lệch tỉ lệ nghèo theo dân tộc ( Đơn vị: %)
Nhóm dân tộc
1993
1998
2002
2004
Dân tộc thiểu số
86
75
69
61
Kinh/Hoa
54
31
23
14
Chênh lệch tỉ lệ nghèo giữa 2 32
41
46
47
nhóm
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Mặc dù tỉ lệ nghèo của nhóm dân tộc thiểu số có sự giảm nhanh, 25% trong
thời kì 1993 – 2004, nhưng tốc độ giảm nghèo của nhóm này lại thấp hơn của nhóm
người Kinh/Hoa. Từ bảng trên ta có thể thấy chênh lệch tỉ lệ nghèo giữa 2 nhóm
dân tộc có xu hướng liên tục tăng, từ 32% năm 1993 lên tới 47% năm 2004. Thậm
chí nếu người dân tộc thiểu số sống cùng một vùng với người Kinh/Hoa họ cũng bị
tutuj hậu hơn so với người Kinh/Hoa.
Bất bình đẳng lớn giữa nguời dân tộc thiểu số và người Kinh/Hoa còn được
thể hiện ở các chỉ tiêu xã hội. Trong thời kì 1993 – 2004, ngoại trừ việc sử dụng
điện, tất cả các chỉ số khác như có sử dụng tivi, xe máy, điện thoại, nước sạch và đạt
tiêu chuẩn vệ sinh, người dân tộc thiểu số đều có khoảng cách càng xa so với người
Kinh/Hoa. So sánh giữa 2 nhóm khu vực nông thôn/thành thị và người dân tộc thiểu
số/người Kinh-Hoa cho thấy sự bất bình đẳng giữa dân tộc thiểu số và người KinhHoa ngày càng lớn hơn bất bình đẳng giữa nông thôn và thành thị. Điều này cho
thấy giải quyết vấn đề bất bình đẳng trong thời gian tới phải đặt trọng tâm vào khu
vực miền núi.
4. Bất bình đẳng theo vùng
Mặc dù tất cả các vùng của Việt Nam dều dược hưởng lợi từ tăng trưởng kinh
tế, bất bình đẳng đo lường theo hệ số Gini theo tiêu dùng lại có sự khác nhau theo
vùng. Bất bình đẳng cao nhất ở vùng Đông Nam Bộ, nơi có những trung tâm đo thị
lớn và năng động của đất nước như thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa,
Vũng Tàu…. Bất bình đẳng đã tăng tương đối ở các vùng như miền núi phía Bắc,
đồng bằng sông Hồng, Bắc Tung Bộ và Tây Nguyên. Các vùng Nam Trung Bộ và
đồng bằng sông Mekong không có sự thay đổi lớn về bất bình đẳng trong thời gian
qua.
Bảng 7: Bảng hệ số GINI theo vùng
Vùng
1993
1998
2002
2004
Cả nước
0,34
0,35
0,37
0,37
Miền núi phía Bắc
0,25
0,26
0,34
0,34
Đồng bằng sông Hồng
0,32
0,32
0,36
0.36
Bắc Trung Bộ
0,25
0,29
0,30
0,31
Nam Trung Bộ
0,36
0,33
0,33
0,34
Tây Nguyên
0,31
0,31
0,36
0,36
Nam Bộ
0,36
0,36
0,38
0,38
Đồng bằng sông Mekong
0,33
0,30
0,30
0,31
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Một khía cạnh khác để xem xét bất bình đẳng theo vùng là xem xét tốc độ tăng
chi tiêu bình quân đầu người theo vùng.
Biểu đồ 3: Biểu đồ chi tiêu bình quân đầu người theo vùng( Đv: nghìn đồng,
giá năm 1993 )
(Nguồn: Viện Khoa học xã hội Việt Nam 2007)
Ta thấy ở các vùng có tốc độ tăng chi tiêu bình quân đầu người cao trong thời
kì 1993-2004 là đồng bằng sông Hồng (111%), Đông Bắc Bộ (117%) và Đông Nam
Bộ (133%). Trong khi đó, tốc độ tăng chi tiêu bình quân đầu người ở các vùng
Đông Bắc, đồng bằng sông Mekong và Nam Trung Bộ chỉ lần lượt là 52%, 63%,
67%. Do đó, khoảng cách về chi tiêu bình quân đầu người giữa các vùng phát triển
và các vùng chậm phát triển ngày càng lớn. Năm 1993, chi tiêu bình quân đầu
người ở vùng đồng bằng Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông Hồng cao hơn
vùng Tây Bắc, lần lượt là 1,91 va 1,37 lần thì đen năm 2004 các con số đó đã lần
lượt tăng lên 2,93 va 1,89 lần.
5. Bất bình đẳng theo giới.
Một phần tư thế kỷ qua (1986-2012) đã chứng kiến quá trình chuyển đổi kinh
tế-xã hội ngoạn mục của Việt Nam, phát triển từ một trong những nước nghèo nhất
thế giới trở thành một nước có thu nhập trung bình. Như một hệ quả trực tiếp, vấn
đề bình đẳng giới của nước ta đã có bước chuyển biến to lớn, nhưng vẫn tồn tại
những chênh lệch quan trọng về giới. Thu nhập vốn là một trong những thước đo
đánh giá những chênh lệch này khá hiệu quả. Mặt khác, vấn đề giới cũng phản ánh
một khía cạnh bất cập trong bất bình đẳng thu nhập hiện nay.
Bất bình đẳng giới về thu nhập đề cập tới mối quan hệ phân phối thu nhập và
giới. Theo đó, sự bất bình đẳng giới trong thu nhập là phân biệt trong thu nhập được
hưởng của lao động nam và lao động nữ, mặc dù có cùng các đặc tính năng lực và
năng suất lao động như nhau( Rio, C. D và các cộng sự, 2006).
Những nghiên cứu, khảo sát tích cực cho thấy: chênh lệch theo thu nhập xét
theo giới tính ở Việt Nam thấp hơn nhiều nước Đông Nam Á khác. Thực tế, theo
nhiều thước đo, thu nhập của phụ nữ đã tăng lên đáng kể. Theo WDI của WB, năm
2010, Việt Nam có 73% phụ nữ trong độ tuổi lao động (từ 15 tuổi trở lên) tham gia
vào lực lượng lao động, chiếm 49% lực lượng lao động. Như vậy, tỷ lệ nữ tham gia
lao động gần bằng nam giới. Đáng chú ý là, tỷ lệ phụ nữ tham gia lao động trong
lĩnh vực dịch vụ (30%) lại cao hơn nam giới (26%) 1. Có trên 20% tổng số doanh
nghiệp ở Việt Nam do phụ nữ làm chủ, chủ yếu thuộc về khu vực thương mại, dịch
vụ, sản xuất, chế biến nông sản, thủy sản. Nhiều tấm gương phụ nữ trẻ làm kinh tế
giỏi không những chỉ làm giàu cho bản thân mà còn đóng góp được nhiều cho xã
hội. Theo UNDP thì tại Việt Nam nếu nam giới kiếm được 1$ thì nữ giới sẽ kiếm
được 0,69$ (năm 2007). Khi phụ nữ có việc làm, họ sẽ có thu nhập và mang đến sự
tự chủ về kinh tế, sự chia sẻ các quyết định trong gia đình và các cơ hội bình đẳng
hơn đối với phụ nữ.
Tuy nhiên, khi tìm hiểu các dữ liệu một cách kỹ lưỡng hơn, các vấn đề đặt ra
cho thấy: Việt Nam còn phải vượt qua rất nhiều thách thức trên con đường bình
đẳng hóa thu nhập giữa lao động nam và nữ. Tuy có tỷ lệ tham gia lao động tương
đương nhau, nhưng phụ nữ và nam giới vẫn tập trung vào những ngành nghề khác
biệt nhau.
Khoảng cách giới về tiền lương nhìn chung đã giảm từ năm 1990 và ngày nay
đang ở mức 65% so với giai đoạn 1992-1993. Theo dữ liệu Khảo sát lực lượng lao
động của WB, trung bình nữ giới được trả lương bằng khoảng 75% so với lương
của nam giới (năm 2009).
Bảng 8: Khoảng cách giới về thu nhập trong tháng theo nghề nghiệp
Nghề nghiệp
Khoảng cách giới về thu nhập trong tháng
2007
2009
Lãnh đạo trong mọi lĩnh vực
120,6
84,3
Chuyên gia cao cấp
83,7
82,6
Chuyên gia trung cấp
94,4
94,2
Cán bộ/nhân viên
103,8
116,1
Lao động có kỹ năng trong dịch vụ 77,6
72,5
cá nhân, bảo đảm an ninh và bán
hàng
Lao động có kỹ năng trong nông 67,7
64,7
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp
Lao động có kỹ năng trong tiểu thủ 69,4
60,4
công nghiệp và các lao động chân
1 Báo cáo “Bình đẳng giới và Phát triển” (Gender equality and Development) của WB
tay có kỹ năng khác
Lao động lắp ráp và vận hành máy 65,3
móc
Lao động không có kỹ năng
80,0
Tổng số
73,7
65,0
75,1
75,1
(Nguồn: Điều tra lao động, 2007 và 2009, Khoảng cách giới được tính bằng tỷ lệ
giữa thù lao bình quân của nữ giới trên thù lao bình quân của nam giới).
Bảng số liệu trên cho thấy khoảng cách giới về tiền lương thay đổi đáng kể
theo nghề nghiệp. Khoảng cách về lương tháng nhỏ hơn với các nghề nghiệp bậc
cao – thực tế nữ giới kiếm được nhiều hơn nam giới trong một số lĩnh vực kỹ năng
cao, nhưng những người làm nghề đó nhìn chung chiếm một phần rất nhỏ trong
toàn bộ lực lượng lao động. Khoảng cách này lớn hơn nhiều với những nghề kém
kỹ năng – nơi tập trung phần lớn lực lượng lao động: 80% lao động không có kỹ
năng năm 2007 giảm xuống còn 75 % năm 2009. Tỷ lệ thù lao của nữ so với nam ở
công việc quản trị, quản lý, chuyên môn và dịch vụ cao hơn. Tuy nhiên, khoảng
cách tiền lương của nữ và nam ở công việc giản đơn có kỹ năng lại thấp hơn ở công
việc không yêu cầu kỹ năng.
Khác biệt về khu vực làm việc cũng ảnh hưởng đến khoảng cách tiền lương
theo giới. Sự đa dạng của các ngành nghề ở đô thị đã đặc biệt hỗ trợ cho sự phân
công lao động theo giới. Theo thống kê, ở khu vực nông thôn, có tới 80% công việc
thuộc về lĩnh vực nông nghiệp, do đó sự lựa chọn nghề nghiệp là hạn chế, và sự
phân biệt giới trong nghề nghiệp không nhiều. Ở khu vực đô thị, phụ nữ tập trung
rất nhiều vào buôn bán, công nghiệp nhẹ (đặc biệt là dệt may), công sở nhà nước và
dịch vụ xã hội, còn nam giới lại chiếm ưu thế trong các ngành nghề có kỹ năng như
khai thác mỏ, cơ khí và chế tạo. Những lĩnh vực có ít đại diện của phụ nữ là quản lý
hành chính và các lĩnh vực khoa học. Thậm chí, cả ở những nghề nơi mà phụ nữ
chiếm số đông, như công nghiệp dệt may hay giảng dạy tiểu học, nam giới vẫn
chiếm một tỷ lệ lớn trong các vị trí lãnh đạo cao hơn.
Hơn nữa, tại Việt Nam, phụ nữ chủ yếu làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân
nên không được hưởng chế độ an sinh xã hội. Hơn 50% phụ nữ hiện đang làm công
việc nội trợ nên không có thu nhập trực tiếp. Dữ liệu từ Khảo sát mức sống hộ gia
đình 2008 cho thấy 44 % nam giới không tham gia vào các công việc nhà trong khi
nữ giới chỉ có 21 %. Tỷ lệ nam giới không tham gia công việc gia đình cao, nếu có
tham gia thì cũng chỉ một vài giờ, điều này cho thấy sự tồn tại kéo dài của chuẩn
mực xã hội coi những công việc gia đình không được trả lương là công việc của nữ
giới và hạn chế khả năng của nữ giới trong việc tham gia làm kinh tế, đạt tới các
mức thu nhập cao hơn.
II. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam.
1. Mô hình tăng trưởng và cơ chế phân bổ nguồn lực
Trong những năm qua, Việt Nam đã lựa chọn mô hình tăng trưởng và thực
hiện định hướng phân bổ nguồn lực cho các doanh nghiệp, nghành, dự án sử dụng
nhiều vốn, các vùng kinh tế trọng điểm, các doanh nghiệp nhà nước. Việc lựa chọn
mô hình tăng trưởng và cơ chế phân bổ nguồn lực như vậy đã tác động mạnh đến
bình đẳng và kéo dài khoảng cách thu nhập.
Có mối liên hệ nào giữa tăng trưởng và bất bình đẳng trong thu nhập? Có phải
khuynh hướng tự nhiên là các nước sẽ càng bất bình đẳng khi giàu lên? Và những
quy trình kinh tế xã hội nào thúc đẩy sự thay đổi này? Có rất nhiều những nghiên
cứu xoay quanh vấn đề này trong đó công trình của Simon Kuznets. Ông cho rằng
mối quan qua hệ này là kết quả của những xung lực đối chọi nhau,một số sẽ làm bất
bình đẳng nhiều hơn và một số khác sẽ làm bất bình đẳng giảm đi. “Đường
Kuznets” nổi tiếng chính là kết quả của những xung lực đối kháng này. Kuznets cho
rằng phân phối thu nhập sẽ xấu đi trong giai đoạn công nghiệp hóa và sau đó cải
thiện khi các nước trở nên giàu hơn. Điều này khá đúng với hoàn cảnh của Việt
Nam khi chúng ta đang trong quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hoá. Trong những
năm qua, khi nền kinh tế thế giới còn gặp nhiều khó khăn thì tốc độ tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam vẫn mức cao. Theo số liệu Tổng Cục Thống kê mức tăng
trưởng GDP trung bình của Việt Nam trong giai đoạn 2000-2011 là 7.11 %,với mức
đỉnh cao là 8.46 % năm 2007. Tốc độ tăng này trong những năm qua đã gây làm vấn
đề bất bình đẳng nghiêm trọng hơn. Các động lực tác động gây nên bất bình đẳng
nhiều hơn bao gồm sự tập trung tiết kiệm ở khu vực có thu nhập cao hơn, sự tập
trung những tài sản tạo thu nhập ở nhóm cao nhất trong phân phối thu nhập; tỉ lệ thu
nhập phi nông nghiệp gia tăng; sự khác biệt trong thu nhập bình quân trong thu
nhập công nghiệp và nông nghiệp. Trong những giai đoạn đầu của công nghiệp hóa
hiện đại hóa, dân di cư làm việc trong các ngành công nghiệp nhận mức lương thấp
các nhà đầu tư thu được nhiều lợi nhuận hơn. Tỷ lệ tử vong giảm trong khi mức
sinh sản vẫn cao làm người lao động mất đi sức mạnh đàm phán. Hơn nữa, mức
tăng trưởng liên tục của Việt Nam trong những năm qua gây nên mức làm phát cao
đã gây khó khăn đặc biệt cho tầng lớp dân nghèo. Phần lớn thu nhập của người
nghèo dùng cho nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng và dịch vụ thiết yếu trong khi giá cả
những loại này leo thang chóng mặt và thu nhập không đuổi kịp đã làm mức sống
thực sự của nhiều người sa sút. Trong khi đó một bộ phận những người có thu nhập
cao lại tận dụng được những cơ hội của tăng trưởng và thu nhập càng nhân lên.
Những chính sách xã hội của chính phủ lại không đủ bù đắp khoảng cách thu nhập
càng lớn này. Hầu hết mức đầu tư vào nông nghiệp và phát triển nông thôn khá èo
ọt,nếu không muốn nói là một nghịch lý lớn khi so với mức đầu tư ồ ạt vào những
nghành công nghiệp khác thậm chí cả những nghành công nghiệp bị thua lỗ. Chính
lẽ đó mà vấn đề bất bình đẳng càng sâu sắc.
Một thực tế cho thấy rằng đầu tư vào các ngành công nghiệp sử dụng nhiều
vốn sẽ không thể khai thác được lợi thế nguồn lao động của Việt Nam. Lựa chọn
này có thể đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng nhưng lại không tạo ra việc làm đồng bộ
cho người lao động. Nguồn lao động phổ thông chiếm phần lớn trong cơ cấu lao
động, hầu hết làm việc trong những nghành công nghiệp ít đòi hỏi trình độ tay nghề
cao. Chính vì vậy mà công nghiệp may mặc, dệt may, da giày vẫn là những nghành
giải quyết phân lớn công ăn việc làm cho người lao động. Trong khi đó những
ngành công nghệ cao đang được quan tâm đầu tư của nhà nước lại chỉ tạo ra tăng
trưởng cao nhưng không mở rộng việc làm tương ứng. Vì vậy, tăng trưởng không
được phân bổ một cách rộng rãi trong mọi tầng lớp dân cư và gây ra tình trạng bất
bình đẳng trong thu nhập.
Việc đầu tư vào những vùng kinh tế trọng điểm có thể tạo ra tăng trưởng cao
nhưng lại gây nên bất bình đẳng thu nhập giữa các vùng. Có thể thấy rõ điều này
qua mức thu nhập chênh lệch giữa các khu vùng của nước ta như đã phân tích ở
trên. Những vùng kinh tế trọng điểm là Nam Bộ, Đồng bằng sông Hồng là những
vùng có thu nhập bình quân cao hơn rất nhiều so với khu vực trung du và miền núi
phía Bắc, Bắc Trung Bộ. Bởi đây là những khu vực tập trung nhiều khu công nghiệp
giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng lớn nhân công. Tuy nhiên, ở những
vùng miền núi và những vùng kinh tế kém phát triển, thu nhập bình quân vốn đã
thấp lại gần như không có điều kiện mở rộng thêm việc làm. Nguồn lực dành cho
các vùng có tỷ lệ đói nghèo còn quá nhỏ để tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ cho
sự phát triển ở các vùng này. Bất bình đẳng trở nên xấu hơn.
Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận được đầu tư nhiều vốn lại được hưởng
nhiều ưu đãi như bảo hộ và độc quyền nhưng lại hoạt động kém hiệu quả và tạo
được ít lợi nhuận hơn so với doanh nghiệp tư nhân. Trong khi đó, bộ phận doanh
nghiệp tư nhân lại mới tạo ra nhiều công ăn việc làm nhất. Điều này làm mất đi tính
cạnh tranh của thị trường lao động của Việt Nam, khi mà một quốc gia có lực lượng
lao động cao giá lao động rẻ. Doanh nghiệp tư nhân cũng chưa được quan tâm và
đối xử công bằng trên nhiều khía cạnh như tiếp cận tín dụng đất đai và thông tin nên
nó gây ra cản trở rất lớn cho hoạt động của khu vực doanh nhiệp này.
2. Sự phát triển của thương mai quốc tế và quá trình toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa đang là một xu thế chung của thời đại và không một quốc gia
nào không bị chịu tác động của nó. Rõ ràng toàn cầu hóa đang tạo ra rất nhiều cơ
hội cho các quốc gia kể cả các nước phát triển cũng như đang phát triển. Chưa bao
giờ thương mại quốc tế lại diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng với sự tham gia của nhiều
quốc gia, nhiều chuỗi kinh doanh, các công ty xuyên quốc gia. Các luồng vốn và tư
bản quốc tế được di chuyển rộng rãi bao gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, sự
linh hoạt của thị trường, sự gia tăng trao đổi buôn bán nước ngoài,chuyển dịch
nguồn lao động quốc tế....Toàn cầu hóa đang làm gia tăng mạnh mẽ những mối liên
hệ ảnh hưởng tác động lẫn nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn
hóa, xã hội chính trị giữa các quốc gia các dân tộc trên toàn thế giới. Một mặt nó tác
động tích cực làm thay đổi đáng kể sự phát triển kinh tế, giúp các quốc gia nhanh
chóng tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, ứng dụng được thành
tựu, công nghệ tiên tiến, mở rộng thị trường...Tuy nhiên toàn cầu hóa cũng tạo ra
những hạn chế những hệ lụy mà các quốc gia vẫn đang phải đối mặt. Một trong số
đó là vấn đề bất bình đẳng, điều này cũng không tránh khỏi ở Việt Nam.
Thương mại quốc tế diễn ra mạnh mẽ giữa các quốc gia, một bộ phận lớn lao
động có tay nghề của Việt Nam được tiếp cận với môi trường làm việc chuyên
nghiệp hơn. Các công ty nước ngoài,doanh nghiệp liên kết càng mở rộng,lao động
có mức lương cao hơn đáng kể so với những lao động phổ thông. Sự di chuyển tiến
bộ khoa học công nghệ từ các nước phát triển sang Việt Nam đã tạo cho một bộ
phận những người áp dụng được nó giàu lên nhanh chóng. Khoảnh cách chênh lệch
ngày càng mở rộng.
Toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế đang làm tăng
dòng vốn FDI vào Việt Nam. Đặc biệt, việc gia nhập WTO đã tạo ra một làn sóng
đầu tư trực tiếp nước ngoài mới vào nền kinh tế Việt Nam. Số liệu thống kê cũng
cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của các doanh nghiệp FDI trong việc tạo ra
việc làm mới trong hai thập kỷ qua, đặc biệt trong những năm gần đây. Trong giai
đoạn 2000-2005, việc làm mới được tạo ra bởi các doanh nghiệp FDI tăng trung
bình 24,4%/năm (tăng gần gấp ba lần về mặt tuyệt đối, từ 227.000 người năm 2000
lên 667.000 người năm 2005), bỏ xa khu vực doanh nghiệp nhà nước và tư nhân
3.
(lần lượt là 3,3% và 2,3%). Kết quả là tỷ trọng việc làm được tạo ra bởi các doanh
nghiệp FDI đã tăng từ 0,6% năm 2000 lên 1,6% năm 2005 ở VN.
Tuy con số này còn rất khiêm tốn nhưng với đà tăng trưởng nhanh như
vậytriển vọng việc làm được tạo ra bởi thành phần kinh tế này khá sáng sủa. Trong
tương lai, thành phần này sẽ đuổi kịp thành phần kinh tế nhà nước về mặt thu hút
lao động (năm 2005, doanh nghiệp nhà nước tuyển dụng 9,7% và doanh nghiệp tư
nhân tuyển dụng 88,8% trong tổng lực lượng lao động).
Về mặt tuyển mộ và sa thải lao động, cũng như đặt ra mức lương, khu vực
kinh tế nhà nước vẫn khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn chịu nhiều ràng buộc bởi
các quy định của Nhà nước. Do đó, một mặt, tăng trưởng trong khu vực kinh tế phi
quốc doanh chắc chắn sẽ tạo ra nhiều việc làm hơn cho lực lượng lao động dư thừa
ở khu vực thành thị. Mặt khác, khu vực phi quốc doanh, đặc biệt là các doanh
nghiệp FDI, với tốc độ tăng trưởng nhanh hơn sẽ cho phép họ tuyển mộ được (hay
cạnh tranh để thu hút) những nhân viên ưu tú từ các doanh nghiệp nhà nước. Điều
này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất của các doanh nghiệp nhà nước, tạo thêm
nhiều doanh nghiệp thua lỗ, và do đó, làm gia tăng thất nghiệp và bất bình đẳng ở
thành thị.
Số liệu từ các cuộc khảo sát cũng cho thấy các doanh nghiệp nhà nước có
năng suất thấp so với các doanh nghiệp khác, đặc biệt so với doanh nghiệp FDI.
Theo một báo cáo của Mekong Economics năm 2002, một lao động trong doanh
nghiệp FDI tạo ra 110 triệu đồng giá trị gia tăng năm 2000, so với 36 triệu đồng ở
doanh nghiệp nhà nước và 40 triệu đồng ở doanh nghiệp tư nhân. Nếu xét về chỉ
tiêu kinh doanh khác như tỷ suất lợi nhuận/tiền lương mà Bộ Lao động -Thương
binh và Xã hội tiến hành năm 2005 thì kết quả cũng tương tự, với con số 1,1 ở
doanh nghiệp FDI, 0,3 ở doanh nghiệp nhà nước, và 0,5 ở doanh nghiệp tư nhân.
Qua các con số minh họa trên, có thể nói là lao động ở các doanh nghiệp FDI có
năng suất lao động và tiền lương cao hơn lao động ở doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp FDI đã trở thành đối thủ cạnh tranh với doanh nghiệp nhà
nước trên thị trường lao động, đặc biệt là lao động có trình độ. Rõ ràng tác động của
dòng vốn này tới bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam ngày càng sâu sắc.
Bất bình đẳng thu nhập do quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa và đô thị hoá
Quá trình thực hiện công nghiệp hóa và đô thị hóa đã dẫn đến tăng trưởng
nóng và đã làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội mới liên quan đến bất bình đẳng.
Thứ nhất, vấn đề nông dân mất việc làm ở vùng chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp. Thực tế, đất đai đóng một vai trò quan trọng như là phương tiện
đảm bảo sinh kế cho người nông dân và người nghèo. Tuy nhiên, quá trình công
nghiệp hóa và đô thị hóa đã dẫn đến tình trạng mất đất của nông dân. Ở Đồng bằng
sông Mêkong, một phần ba người nghèo nông thôn không có đất, và tỷ lệ người dân
mất đất đã tăng hơn gấp đôi từ 21% năm 1993 lên 43% năm 2002 (Mekong
Economics, 2005). Khi nông dân mất đất, nguồn thu nhập chính của họ bị giảm sút
mạnh và kéo bất bình đẳng tăng lên. Hơn nữa, quá trình chuyển đổi từ đất nông
nghiệp sang đất công nghiệp và đô thị đã làm một số người, kể cả quan chức nhà
nước, giàu lên rất nhanh chóng, trong khi biến nhiều nông dân thực sự trở thành “vô
sản” và ngân sách nhà nước thì không những không được cải thiện mà còn thất
thoát thêm do chi phí đền bù. Về thực chất, đây là quá trình chuyển đổi và phân
phối lại ruộng đất, trong đó địa tô được chuyển sang tay một số cá nhân có thế lực
kinh tế và quyền lực chính trị, trong số đó không ít người là quan chức của chính
phủ (Dapice và cộng sự, 2008).
Thứ hai, vấn đề di cư lao động từ nông thôn ra thành thị tìm việc làm tạo ra
những vấn đề xã hội của lao động nhập cư. Cần phải thừa nhận thực tế rằng di cư ra
thành thị cho phép người nghèo có thể kiếm được thu nhập cao hơn so với những
hạn chế về trình độ học vấn và kỹ năng của họ. Tuy vậy, vấn đề phát sinh là khả
năng tiếp cận các dịch vụ xã hội và sản xuất của họ vào đời sống thành thị lại bị hạn
chế. Những hiện tượng này dẫn đến hậu quả xã hội là vấn đề nghèo tương đối ngày
càng nghiêm trọng và phân hoá giàu nghèo gia tăng ở khu vực thành thị.
Thứ ba, vấn đề mất việc làm do tác động của hội nhập, khủng hoảng và suy
thoái kinh tế toàn cầu. Đối với những người di cư từ nông thôn, phần lớn họ là lao
động kỹ năng thấp và làm việc trong những ngành dễ bị biến động của các cú sốc
kinh tế như dệt may, giày dép… Do vậy, khi khủng hoảng và suy thoái kinh tế xảy
ra, phần lớn trong số này mất việc làm và lại trở về nông thôn, tạo ra sức ép mới cho
khu vực nông thôn.
4. Bất bình đẳng thu nhập do quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế
Việc định hướng ưu tiên phân bổ nguồn lực cho doanh nghiệp, ngành và dự án
dùng nhiều vốn, ưu ái các vùng có khả năng tăng trưởng cao đã tạo ra sự bất cân đối
giữa các vùng miền và làm gia tăng bất bình đẳng giữa khu vực kinh tế nhà nước và
khu vực tư nhân.
Quá trình này đã tạo ra bất bình đẳng trong việc tiếp cận những nguồn lực và
cơ hội cho một số vùng, một số ngành và một số nhóm dân cư trong nền kinh tế. Sự
bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục là một trong những bất bình đẳng về cơ hội
phát triển. Trong nền kinh tế thị trường, trình độ giáo dục điều hòa việc làm và việc
thường xuyên tiếp cận việc làm lại là nhân tố quan trọng tác động đến sự khác nhau
về thu nhập giữa các ngành và người dân. Thực tế cho thấy, việc tiếp cận giáo dục
và kết quả là trình độ giáo dục giữa nông thôn và thành thị, giữa dân tộc thiểu số và
người Kinh/Hoa theo các bậc học ngày càng lớn. Năm 2002, chênh lệch giữa nông
thôn và thành thị về tỷ lệ nhập học tiểu học là 5%, trung học cơ sở là 9% và trung
học phổ thông là 21%. Khoảng cách này giữa dân tộc thiểu số và người Kinh/Hoa
còn lớn hơn, với 8% cho bậc tiểu học, 28% cho bậc trung học cơ sở và 29% cho bậc
trung học phổ thông (World Bank, 2003). Có thể khẳng định rằng sự khác nhau
trong khả năng tiếp cận giáo dục và trình độ giáo dục là các nhân tố quyết định đến
sự khác biệt về kết quả việc làm và cuộc sống, qua đó làm gia tăng bất bình đẳng.
Tuy nhiên, ở đây cũng cần lưu ý một vấn đề là nếu sự chênh lệch về trình độ giáo
dục bắt nguồn từ sự nỗ lực của bản thân người dân thì sự bất bình đẳng này là mong
muốn vì nó tạo ra động lực cho sự phát triển.
Nền kinh tế thị trường dễ tạo ra những cú sốc và tổn thương đối với tầng lớp
người lao động và người nghèo, đặc biệt hơn đối với một nước có tỷ lệ cao số người
nghèo và ở mức cận nghèo như Việt Nam. Do vậy, hạn chế trong khả năng tiếp cận
với hệ thống an sinh xã hội cũng làm gia tăng bất bình đẳng. Tính cho đến năm
2008, tỷ lệ dân số được bao phủ bởi hệ thống bảo hiểm y tế là xấp xỉ 48%, trong khi
hệ thống bảo hiểm xã hội chỉ mới bao phủ khoảng 25% dân số. Mức độ bao phủ của
hệ thống an sinh xã hội đối với người nghèo tăng lên trong những năm gần đây
nhưng tốc độ tăng vẫn còn chậm. Hạn chế hoặc không thể tiếp cận hệ thống an sinh
xã hội cũng đã tạo ra sự chênh lệch về mức sống và làm gia tăng bất bình đẳng.
Cùng với phát triển nền kinh tế thị trường là quá trình hội nhập quốc tế gắn
với tự do hóa thương mại. Điều này đã tạo ra những dòng chảy đầu tư lớn vào trong
nước, các viện trợ và nguồn tiền chuyển về từ nước ngoài. Tuy nhiên, những tác
động này không đồng đều. Những người có khiếu kinh doanh và nắm bắt được cơ
hội của hội nhập có được thu nhập tốt, trong khi những người vốn được lợi từ chế
độ bao cấp trước đây nay lại trở thành nghèo khó (Ohno, 2008). Một số bộ phận
nông dân và dân tộc thiểu số vẫn ở khâu cuối của chuỗi trao đổi hàng hóa và được
hưởng ít lợi ích hơn từ việc bán hàng hóa của họ. Với việc nền kinh tế và cả xã hội
tiếp tục phải gắn với quá trình hội nhập kinh tế, quá trình này sẽ tiếp tục tạo ra
những kẻ thắng - người thua, kẻ được - người mất.
Phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường cũng tạo ra những sự chênh lệch về
phát triển giữa các tỉnh, các vùng. Những tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi, có nhiều
nguồn lực tự nhiên và có lực lượng lao động có trình độ đã có điều kiện phát triển
nhanh hơn các tỉnh không có những thuận lợi này. Những tỉnh có bộ máy hành
chính kém hiệu quả và những thủ tục kinh doanh khó khăn cũng đã dần tụt hậu do
khu vực tư nhân ở đó kém năng động hơn và tạo ít việc làm hơn.
Gia tăng bất bình đẳng giữa miền vúi và đồng bằng, giữa người dân tộc thiểu
số và người Kinh/Hoa trong những năm vừa qua đóng góp phần chính vào gia tăng
bất bình đẳng chung. Dân tộc thiểu số ở những vùng miền núi không chỉ tụt hậu xa
với người Kinh/Hoa ở các vùng đồng bằng trên các phương diện về điều kiện sống
như đã phân tích ở phần trên mà họ còn bị thua thiệt cả về những sức mạnh kinh tế,
chính trị và mối quan hệ xã hội. Người dân tộc thiểu số không phải tự họ tạo nên
khoảng cách bất bình đẳng càng lớn mà chính sách tạo nên sự chênh lệch về các
điều kiện sống cũng như cơ hội phát triển của họ đối với các nhóm khác đã tạo nên
sự gia tăng này.
Ngoài ra, cơ chế xin cho, bao cấp, môi trường kinh doanh nghiệp bình đẳng,
thông tin thiếu minh bạch đã tạo kẽ hở cho một số người giầu lên nhờ đầu cơ (đất
đai, chứng khoán…), buôn lậu, tham nhũng, trốn thuế…. Trong khi một bộ phận
dân cư không có cơ hội làm giầu hoặc bị chèn ép vì không có “quan hệ” tốt.
5. Bất bình đẳng giới trong thu nhập
Như đã trình bày trong phần thực trạng, đảm bảo được bình đẳng giới thu
nhập không những giải phóng sức lao động, tận dụng nguồn lực, làm lành mạnh thị
trường lao động mà còn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Phân tích bất bình đẳng giới trong thu nhập là quá trình phân tích thông tin về
thu nhập giữa nam và nữ nhằm đảm bảo rằng các lợi ích phát triển và các nguồn lực
được sử dụng và phân phối một cách hiệu quả và công bằng cho cả nam giới và phụ
nữ, đồng thời lường trước và tránh được các tác động tiêu cực mà quá trình phát
triển có thể có đối với phụ nữ hoặc đối với mối quan hệ giới. Không nhận thức đầy
đủ về vấn đề giới đồng nghĩa với việc hạn chế sự tiếp cận của phụ nữ với các nguồn
lực sản xuất và việc làm (và do đó làm giảm năng suất lao động cho cả nền kinh tế
nói chung), loại trừ lực lượng lao động nữ và công việc của phụ nữ ra khỏi quá trình
phát triển của địa phương và quốc gia (UNDP2).
Việt Nam là một nước nghèo đã trải qua những thay đổi mạnh mẽ trong thời
kỳ quá độ từ một nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế theo định hướng thị trường.
2 />
Từ những cuộc cải cách quan trọng thông qua công cuộc Đổi mới từ năm 1986, đất
nước đã đạt được những tiến bộ đáng kể thông qua việc thực hiện một loạt các biện
pháp phát triển kinh tế xã hội. Quá trình cải cách cũng đã cải thiện hơn nữa những
chỉ báo xã hội. Trong năm 2001, Việt Nam đứng thứ 109 trên tổng số 173 nước về
Chỉ số Phát triển con người (HDI) - là vị trí cao hơn mong đợi từ một nước có mức
GDP trên đầu người dưới 400 đô la Mỹ. Chỉ số Phát triển Giới của Việt Nam (GDI)
xếp thứ 89 trên tổng số 146 nước (UNDP 2002).
Bảng 9: Chỉ số Phát triển con người HDI và Chỉ số Phát triển Giới GDI trong
Khu Vực Đông Nam Á
Thứ tự xếp hạng Chỉ
Thứ tự xếp hạng
Nước
số Phát triển Con người Chỉ số Phát triển Giới
trong số 173 nước
trong 146 nước
Việt Nam
109
89
Cam-pu-chia
130
109
CHND Lào
143
119
Myanmar
127
107
Thái Lan
70
58
(Nguồn: UNDP, 2002)
Tuy vậy, những số liệu gần đây cho thấy, sự khác nhau về thu nhập vẫn còn
tồn tại, phụ nữ có thu nhập ít hơn nam giới trong mọi ngành nghề. Qua tìm hiểu,
nghiên cứu cho thấy có các yếu tố ảnh hưởng đến bất bình đẳng thu nhập theo giới
như sau:
a.
Đặc tính người lao động
Nhóm yếu tố đặc tính người lao động bao gồm các yếu tố sau: tuổi, tình trạng
hôn nhân, tình trạng sức khoẻ.
Tỷ lệ giới tính (tỷ lệ số nam/100 nữ) của Việt Nam theo số liệu thống kê năm
2003 là 96,6% và dao động theo các nhóm tuổi. Tỷ lệ giới tính là cao nhất ở nhóm
dưới 19 tuổi, tỷ lệ 2 giới cân bằng nhất trong độ tuổi 20 - 34. Sau độ tuổi 34, tỷ lệ
giới tính giảm dần và thấp nhất ở nhóm tuổi trên 70.
Về tình trạng hôn nhân, tỷ lệ kết hôn ở Việt Nam ở mức cao nhưng có sự khác
biệt nhất định về tỷ lệ kết hôn của dân số đối với nam và nữ. Tỷ lệ cao nhất đối với
nữ là 87,1% vào độ tuổi 35 -39, còn ở nam tỷ lệ cao nhất là 96,5% ở độ tuổi 45 - 49
theo sau. (số liệu như vậy thì nói lên điều gì?)
b.
Giáo dục - đào tạo
Vẫn còn những thách thức lớn trong công tác giáo dục và phát triển nguồn
nhân lực. Mặc dù tỷ lệ học sinh tiểu học đến trường trên toàn quốc chiếm tới 90%,
tỷ lệ này thấp hơn một cách đáng kể ở miền núi, miền trung và vùng đồng bằng
sông Cửu long. Tại những vùng này, sự chệnh lệch về giới trong tỷ lệ học sinh đến
trường cao hơn, đặc biệt đối với các dân tộc thiểu số. Mặc dù đã có nhiều cố gắng
lớn về đào tạo cho dân số nông thôn, trình độ chuyên môn và trình độ kỹ thuật của
họ vẫn còn ở mức thấp. Phụ nữ chiếm số đông đảo và đóng một vai trò quan trọng
trong nông nghiệp, tuy vậy sự tiếp cận của họ tới khuyến nông vẫn còn thấp và
không đầy đủ.
Tỷ lệ đi học chung của nữ và nam trong cả nước ở cấp trung học cơ sở cũng
đạt mức cao và có xu hướng tăng trong những năm gần đây. Số liệu cho thấy mặc
dù đạt nhịp độ tăng ổn định, song giữa tỷ lệ đi học chung của nữ và nam bậc trung
học cơ sở vẫn còn một khoảng cách chưa được thu hẹp, cụ thể năm học 2003-2004,
tỷ lệ này ở nữ là 86,5%, ở nam là 90,2%, chênh lệch 3,7 điểm, trong khi chênh lệch
vào năm học 2000-2001 là 3,2 điểm .
Tỷ lệ đi học chung ở trung học phổ thông năm học 2003-2004 của nữ là 45,2%
và của nam là 45,7%. Tỷ lệ này đã tăng liên tục trong những năm gần đây. Khoảng
cách về tỷ lệ đi học chung của nữ và nam ở trung học phổ thông đang dần được thu
hẹp kể từ năm 2000 đến nay .
Tỷ lệ đạt bằng cấp cao nhất của nữ giới đạt mức khá ở nhiều cấp học và bậc
học. Năm 2002, cứ 100 dân số nữ từ 15 tuổi trở lên thì có 25,5 người tốt nghiệp tiểu
học, 25,8 người tốt nghiệp trung học cơ sở và 9,4 người tốt nghiệp trung học phổ
thông; các tỷ lệ tương ứng ở dân số nam là 27,3; 29,5 và 12. Bậc trung học chuyên
nghiệp không có sự khác biệt lớn, nữ đạt 2,9% và nam 2,8%; bậc cao đẳng và đại
học nữ đạt 2,7% và nam đạt 4,2% . Riêng bậc trên đại học, tỷ lệ nữ thấp hơn 3 lần
so với nam, cụ thể nữ đạt 0,04% và nam 0,13%.
c.
Lao động và việc làm
Nhóm này bao gồm các yếu tố: ngành nghề lao động, trình độ chuyên môn, tổ
chức làm việc, kinh nghiệm làm việc.
Về ngành nghề lao động, thống kê cho thấy lao động nữ có xu hướng tập trung
cao hơn so với nam ở các ngành nông nghiệp và thương nghiệp trong khi lao động
nam tại tập trung cao hơn ở ngành thuỷ sản và xây dựng.
Năm 2002, cứ 100 lao động nữ thì có gần 60 người làm nông nghiệp; 1,5
người làm thuỷ sản; 13 làm thương nghiệp và 0,7 làm xây dựng. Cứ 100 lao động
nam thì có 51,5 làm nông nghiệp; 4,5 làm thủy sản; 7,5 làm thương nghiệp và 8 làm
xây dựng.
Trình độ chuyên môn được phân chia thành lao động kỹ thuật bậc cao, lao
động kỹ thuật bậc thấp, lao động giản đơn và quân nhân. Phụ nữ ít có cơ hội tiếp
cận với công nghệ, tín dụng và giáo dục đào tạo (như đã trình bày ở phần trên),
thường gặp nhiều khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, điều kiện để nâng cao
chuyên môn ít hơn nam giới. Phụ nữ chiếm gần 50% trong tổng số lao động nông
nghiệp và chiếm tỷ lệ cao trong số lao động tăng thêm hàng năm trong ngành này
nhưng lại chỉ chiếm 25% thành viên các khoá khuyến nông về chăn nuôi và 10%
các khoá khuyến nông về trồng trọt. Có số liệu cho thấy lao động nữ qua đào tạo chỉ
bằng 30% so với lao động nam. Bồi dưỡng chức nghiệp công chức đối với nữ cũng
chỉ chiếm tỷ lệ 30%. Do đó trong đa số trường hợp lao động nữ không có trình độ
chuyên môn cao bằng nam giới nên dễ dẫn đến chênh lệch trong thu nhập so với
nam giới.
d.
Vùng địa lý
Vùng địa lý bao gồm vùng phân theo khu vực địa lý và yếu tố thành thị/nông
thôn.
Tỷ lệ nữ tham gia hoạt động kinh tế ở nước ta duy trì ở mức cao, năm 2003,
tỷ lệ này ở nữ là 68,5%, còn ở nam là 75,8%. Mức chênh lệch giữa nữ và nam về tỷ
lệ tham gia hoạt động kinh tế trong thời kỳ 2000-2003 hầu như không thay đổi.
Đáng chú ý là giữa các vùng có sự khác biệt lớn về tỷ lệ nữ tham gia hoạt
động kinh tế. Năm 2003, tỷ lệ nữ hoạt động kinh tế là cao nhất ở Tây Bắc, đạt 80%,
tiếp theo là Tây Nguyên, đạt 78%. Tỷ lệ nữ tham gia hoạt động kinh tế thấp nhất
được ghi nhận ở Đông Nam Bộ, đạt 60%, theo sau là đồng bằng sông Cửu Long,
đạt 64%. Đặc biệt, đây cũng là hai vùng có mức chênh lệch lớn nhất về tỷ lệ tham
gia hoạt động kinh tế của nam và nữ.
Nếu phân biệt theo khu vực thành thị và nông thôn thì tỷ lệ có việc làm thường
xuyên ở thành thị thấp hơn ở nông thôn. Năm 2003, tỷ lệ nữ ở thành thị có việc làm
thường xuyên là 94,5% còn ở nông thôn là 95,8%; các tỷ lệ tương ứng ở nam là
95,8% và 96,3%. Trong thời kỳ 2000-2003, trong khi tỷ lệ thất nghiệp của nam có
xu hướng giảm thì tỷ lệ thất nghiệp nữ tăng lên, năm 2003, tỷ lệ thất nghiệp của nữ
là 6,9%, còn tỷ lệ thất nghiệp của nam là 4,4%.
e.
Môi trường chính sách liên quan đến thu nhập và vấn đề giới
Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động có nghĩa là bình đẳng về quyền, trách
nhiệm, cơ hội, đối xử và đánh giá đối với mỗi người không phân biệt giới tính của
họ về pháp lý. Việt Nam đã quy định sự bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới từ nhiều
năm nay. Điều 24 của Hiến pháp Việt Nam quy định: "Phụ nữ có quyền bình đẳng
với nam giới trong mọi lĩnh vực hoạt động- Chính trị, kinh tế, văn hóa, tại gia đình
và trong xã hội".
Các biện pháp khuyến khích cho doanh nghiệp sử dụng đông lao động nữ như
tín dụng ưu đãi, giảm thuế và cải thiện điều kiện việc làm cho lao động nữ. Đào tạo
và chuyển lao động nữ đang làm các công việc độc hại nguy hiểm có hại cho việc
sinh con và chăm sóc con cái của phụ nữ sang các công việc khác phù hợp hơn, cải
thiện điều kiện lao động và giảm thời giờ làm việc.
Tuy nhiên, còn có những yếu tố hạn chế phụ nữ tham gia vào lĩnh vực việc
làm chính thức và hưởng lợi một cách bình đẳng từ việc làm. So với mức độ phát
triển của đất nước thì Việt Nam có nhiều chính sách lao động "bảo vệ" cho lao động
nữ như chính sách phúc lợi hưu trí, sinh đẻ, hạn chế hoặc cấm phụ nữ làm các công
việc nặng nhọc, nguy hiểm... Ví dụ, trong khi các chính sách lao động nhằm bảo vệ
phụ nữ có thai là hoàn toàn cần thiết và vì lợi ích của phụ nữ cũng như xã hội, thì
các chính sách bảo vệ toàn diện không nên tạo ra chi phí quá cao để còn khuyến
khích giới chủ thuê, tuyển, đào tạo hoặc đề bạt phụ nữ. Ví dụ, Bộ luật Lao động
không cho phép tuyển phụ nữ làm việc trong các lĩnh vực được coi là độc hại cho
sức khoẻ phụ nữ. Tuy nhiên luật pháp không nên hạn chế lựa chọn về ngành nghề
của phụ nữ.
f.
Nhóm các yếu tố khác
Một số yếu tố khác như tình trạng sức khoẻ, chi tiêu bình quân đầu người cũng
có quan hệ nhất định với thu nhập.
Tình trạng sức khoẻ có quan hệ với thời gian lao động, khối lượng và chất
lượng công việc thực hiện nên nó có quan hệ tỷ lệ thuận đối với thu nhập của người
lao động.
Nhu cầu chi tiêu cũng là yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập do người lao động
phải tìm những công việc lương cao hơn để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của bản thân
và gia đình trong khi những người có nhu cầu chi tiêu ít hơn thường dễ vừa lòng với
công việc có mức thu nhập vừa phải.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu Tiếng Việt
WB, Đánh giá giới tại Việt Nam 2011
WB, Khảo sát lực lượng lao động tại Việt Nam các năm.
Diễn đàn kinh tế Việt Nam: www.rfa.org
Tổng cục thống kê, Điều tra lao động các năm
2. Tài liệu Tiếng Anh
Globalization’s impact on inequality
Mekong Economic 2002
Vietnam inequality report 2005
WB, “Gender equality and Development in Viet Nam” reports
WDI, WB: data.worldbank.org