Bảng số liệu hay các biểu đồ đều để ở phần phụ lục gây khó khăn cho việc theo dõi, đối chiếu, nghiên
cứu và sắp xếp như thế này cũng hoàn toàn sai khoa học
Biểu đồ 3 bạn viết:” Đây là biểu đồ so sánh tình trạng bất bình đẳng thu nhập trên thế
giới và ở 1 số quốc gia (Xem Phụ lục 1 – Biểu đồ 3)” nhưng bảng này là phần trăm
phân phối thu nhập vì thế nên người đọc không hiểu từ đó phải xem chỉ tiêu như thế
nào để biết được tình trạng bất bình đẳng
Còn những nhận xét được bôi dấu đỏ hoặc vàng để trong () dưới bài tiểu luận
MỤC LỤC
1
(Phần nội dung gồm 28 trang từ trang 5 đến trang
33)LỜI MỞ ĐẦU
Trong những thập niên trở lại đây, nền kinh tế thế giới nói chung đã có những
sự tăng trưởng vượt bậc cả về chất và lượng. Thế giới đã chứng kiến sự vươn lên mạnh
mẽ của các cường quốc. Nền kinh tế Hoa Kỳ với sự phát triển từ những năm 1920, trải
qua những cuộc suy thoái lớn, những chi phí cho chiến tranh cũng không hề nhỏ
nhưng hiện tại đây vẫn là một trong những nền kinh tế có quy mô lớn nhất thế giới.
Nằm trong khối liên minh châu Âu, Đức đã có sự phục hồi thần kỳ từ những hậu quả
nặng nề sau cuộc chiến thế giới lần II, là nước có vị trí cao trong xếp hạng GDP danh
nghĩa của thế giới. Những năm trở lại đây, nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh
chóng, hiện là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau khi vượt qua được Nhật Bản. Những
nền kinh tế lớn mạnh này đã và đang chi phối nền kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế cũng mang tính chất hai mặt. Mặc dù nền kinh tế
phát triển với tốc độ chưa từng có, song tăng trưởng kinh tế dẫn đến tình trạng các
nước giàu ngày càng giàu hơn và các nước nghèo ngày càng nghèo đi. Vấn đề bất bình
đẳng trong phân phối thu nhập đang là một trong những vấn đề cấp bách.
Để làm rõ hơn về vấn đề này, chúng em xin đi sâu vào phân tích nền kinh tế Ấn
Độ bởi sự bùng nổ kinh tế ở Ấn Độ đã giúp hàng triệu người thoát khỏi cảnh nghèo
đói nhưng đồng thời cũng khiến cho chênh lệch về thu nhập tăng lên trông thấy. “Theo
tạp chí Forbes, Ấn Độ hiện có 69 tỷ phú, tăng thêm 17 người so với năm 2009. Tổng
số tài sản của 40 nhà tỷ phú hàng đầu của Ấn Độ trị giá 243 tỷ USD, tăng 14 tỷ trong
ba năm từ 2009 với mức 229 tỷ USD. Tuy nhiên, các tổ chức chống nghèo đói ở Ấn
Độ cảnh báo rằng số người nghèo ở nước này cũng trên đà tăng. Theo một báo cáo
của Chính phủ Ấn Độ năm 2012, trong số 1,2 tỷ dân nước này có tới 836 triệu người
sống với mức thu nhập chưa đầy 20 rupee (45 xu USD)/ngày
[1]
Theo kết quả điều tra 2010, số lượng người nghèo ở 8 bang của Ấn Độ nhiều
hơn 26 quốc gia nghèo nhất châu Phi cộng lại. Trong bản báo cáo Chỉ số đói nghèo
toàn cầu năm 2008, Ấn Độ xếp thứ 66 trong số 88 quốc gia. Ấn Độ cũng được biết đến
như là một quốc gia có tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi tử
[1]
[1]
Nguồn: />2
vong cao nhất thế giới. Theo thống kê của Chính phủ Ấn Độ cách đây hai năm,
khoảng 60% trong tổng số hơn 10 triệu trẻ em ở bang Madhya Pradesh bị suy dinh
dưỡng”
[2]
Với những thông tin này, có thể nói Ấn Độ là một trong những nước điển hình
cho tình trạng bất bình đẳng trong thu nhập. Đây cũng chính là lý do khiến chúng em
mạnh dạn lựa chọn đề tài để thực hiện tiểu luận trong môn học Kinh tế phát triển, bài
phân tích về Ấn Độ mong rằng sẽ đưa đến cho chúng ta cái nhìn đa chiều và sâu rộng
hơn đối với vấn đề này.
Trong khuôn khổ kiến thức có giới hạn, bài viết còn nhiều sai sót và phải sử dụng
một số thuật ngữ từ các bài viết của trang web, các tác giả có uy tín. Mong các thầy cô
trong khoa thông cảm và tạo điều kiện cho chúng em. Qua đây chúng em cũng xin
được gửi lời cảm ơn tới giảng viên – Cô Nguyễn Thị Hải Yến đã luôn quan tâm giúp
đỡ và tạo điều kiện tốt cho chúng em hoàn thành bài tiểu luận của mình.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
[2]
[2]
Nguồn: />ngheo-kho.html
3
A. Lý thuyết chung về bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
I. Giải thích các khái niệm và cách đo lường
1. Các khái niệm
- Phân phối thu nhập: Trong phạm vi một nước, phân phối thu nhập là cách mà
thu nhập quốc dân của nước đó được chia cho công dân của mình
- Bình đẳng về thu nhập: là khi mọi người nhận được khoản thu nhập như
nhau.Bình đẳng là một tiêu chuẩn khách quan
- Công bằng về thu nhập: là khi mỗi người và mọi người nhận được mức thu
nhập (hay hưởng thành quả kinh tế) xứng đáng với khả năng, nỗ lực, trình độ và
sự sẵn sàng chịu rủi ro của mình.Công bằng là một khái niệm mang tính chủ
quan (thay đổi theo không gian và thời gian)
- Từ khái niệm bình đẳng (equality) và công bằng (equity), chúng ta có khái niệm
đối ngược là bất bình đẳng (inequality) và bất công bằng (inequity).
Vấn đề bình đẳng và giảm tình trạng bất bình đẳng đã trở thành vấn đề cốt lõi của
mọi vấn đề phát triển.Và trên thực tế, nó đã trở thành mục tiêu chủ yếu của chính sách
kinh tế.
2. Các thước đo bất bình đẳng
a) Đường Lorenz
• Khái niệm: Đường Lorenz biểu thị mối liên hệ giữa tỷ lệ phần trăm thu nhập
quốc dân cộng dồn và phần trăm dân số cộng dồn tương ứng.
• Do nhà thống kê người Mỹ- C.
Lorenz xây dựng năm 1905.
• Đường Lorenz biểu thị mối quan
hệ giữa nhóm dân số xếp theo thu
nhập từ thấp đến cao cộng dồn và
tỷ lệ thu nhập tương ứng của họ
• Đặc điểm của đường Lorenz:
4
- Đường Lorenz luôn nằm dưới đường 45
0
.
- Đường Lorenz càng xa đường 45
0
thể hiện mức độ bất bình đẳng càng lớn.
- Đường Lorenz luôn lõm xuống dưới.
- Ưu điểm: Đường Lorenz cho phép hình dung được tình trạng bất bình
đẳng một cách cụ thể, trực quan( biểu diễn bằng hình học).
- Hạn chế: Đường Lorenz chưa lượng hóa và so sánh được mức độ bất bình
đẳng khi hai đường Lorenz cắt nhau. Mọi sự so sánh chỉ mang tính chất
định tính.
Để khắc phục, người ta dùng hệ số Gini
b) Hệ sô Gini
• Khái niệm: Hệ số Gini cho biết tỷ lệ giữa diện tích tạo ra bởi đường phân giác
và đường cong Lorenz.
• Hệ số Gini được đưa năm 1912 và được tính dựa trên đường Lorenz.
• Công thức tính: Hệ số Gini= A/(A+B)
• Đặc điểm:
- Hệ số Gini nhận giá trị từ 0 đến 1. Gini càng lớn: mức độ bất bình đẳng
càng cao. Tuy nhiên, WB tổng kết là Gini trong thực tế là 0,2<Gini<0,6.
Nước có thu nhập thấp: 0,3- 0,5; nước có thu nhập cao: 0,2-0,4.
- g = 0: phản ánh sự bình đẳng tuyệt đối, đường Lorenz trùng với đường
chéo, diện tích A=0
- g =1: phản ánh sự bất bình đẳng tuyệt đối, đường Lorenz nằm xa đường
chéo nhất.
- Ưu điểm: Lượng hóa được mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu
nhập.
- Hạn chế: Chưa thể hiện được sự so sánh giưa nhóm có thu nhập cao nhất
và thấp nhất trong một quốc gia.
5
Có trường hợp: Hệ số Gini giống nhau nhưng hình dạng đường cong
Lorenz khác nhau => Hệ số Gini : thước đo không nhất quán.
3. Các mô hình về bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
a) Mô hình chữ U ngược của S.Kuznets
• Do S.Kuznets xây dựng từ nghiên cứu thực nghiệm năm 1955
• Dùng tỷ số thu nhập của 20% giàu nhất/thu nhập của 20% nghèo nhất (Tỷ số
Kuznets)
• Giả thuyết của Kuznets: bất bình đẳng tăng lên ở giai đoạn đầu và giảm ở giai
đoạn sau, khi lợi ích của tăng trưởng lan tỏa rộng hơn.
• Một số nghiên cứu sau đó đã kiểm chứng giả thuyết
Tuy nhiên, giả thuyết của S.Kuznets chưa giải thích được:
• Nguyên nhân cơ bản nào tạo ra sự thay đổi trong bất bình đẳng;
• Mức độ khác biệt giữa các nước áp dụng các chính sách khác nhau tác động vào
tăng trưởng và bất bình đẳng
Chưa trả lời được câu hỏi cho các nước đang phát triển là: (1) Liệu các
nước có thu nhập thấp tất yếu phải chấp nhận mức độ bất bình đẳng tăng lên
trong quá trình tăng trưởng kinh tế hay không, và (2) Các nước này có thể trông
6
đợi rằng bất bình đẳng sẽ tự giảm đi khi tăng trưởng đạt tới một mức độ nhất
định hay không
b) Mô hình tăng trưởng trước, bình đẳng sau của A. Lewis
• Mô hình này nhất trí với Kuznets về mô hình chữ U ngược
• Mô hình này giải thích được nguyên nhân của xu thế này: Lúc đầu khi LĐ dư
thừa trong nông nghiệp được thu hút vào công nghiệp vẫn chỉ được trả lương ở
mức tối thiểu, còn nhà tư bản có thu nhập được tăng cao do quy mô mở rộng và
do lao động của công nhân đem lại; Giai đoạn sau, khi lao động được thu hút
hết và trở nên khan hiếm tương đối thì lương được tăng lên bất bình đẳng về
thu nhập giảm. ( tăng mới đúng, dạng bất bình đẳng do tiền lương khác nhau)
• Theo A.Lewis, bất bình đẳng về thu nhập là điều kiện cần thiết để có tăng
trưởng. Bất bình đẳng làm cho thu nhập tập trung vào số ít người tăng tiết
kiêm và đầu tư phân phối lại một cách vội vã sẽ hạn chế tăng trưởng kinh tế.
• Cách lý giải của A.Lewis về mối quan hệ giữa bất bình đẳng và tăng trưởng dựa
trên giả định gì về xu hướng tiết kiệm biên khi thu nhập thay đổi
c) Mô hình tăng trưởng đi đôi với bình đẳng của H. Oshima
• Mô hình này cho rằng có thể hạn chế bất bình đẳng ngay từ giai đoạn đầu của
tăng trưởng
• Ban đầu, cải thiện khoảng cách giữa thu nhập ở thành thị và ở nông thôn dựa
trên chính sách cải cách ruộng đất, trợ giúp của Nhà nước về giống, kỹ thuật, mở
rộng ngành nghề để cải thiện thu nhập ở nông thôn
• Sau đó, cải thiện khoảng cách về thu nhập giữa xí nghiệp có quy mô lớn và quy
mô nhỏ ở thành thị, giữa trang trại lớn và trang trại nhỏ ở nông thôn
• Theo H. Oshima tiết kiệm sẽ tăng lên ở tất cả các nhóm dân cư vì sau khi thỏa
mãn các khoản chi, các nhóm dân cư bắt đầu tiết kiệm và tiếp tục đầu tư phát
triển sản xuất và đầu tư cho giáo dục –đào tạo cho con em họ.
d) Mô hình phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế của WB
7
• WB cho rằng tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với bình đẳng, hay giải quyết các
vấn đề phúc lợi để đảm bảo trong quá trình tăng trưởng, phân phối thu nhập dần
dần được cải thiện hoặc ít nhất là không xấu đi.
• Theo WB, nguyên nhân cơ bản của bất bình đẳng trong phân phối thu nhập là do
bất bình đẳng trong sở hữu tài sản
• Biện pháp: (1) Phân phối lại tài sản như cải cách ruộng đất, tăng cường cơ hội
giáo dục cho nhiều người, tín dụng nông thôn, chính sách tiêu thụ nông sản,
chính sách công nghệ, (2) Phân phối lại từ tăng trưởng: WB đưa ra đánh giá dựa
trên chỉ tiêu như: 1% tăng trong GDP làm giảm bao nhiêu % số người nghèo để
giám sát xem tăng trưởng có đi đôi với xóa đói giảm nghèo và giảm bất bình
đẳng không. (tự dưng lại cho phần biện pháp vào mỗi cái cuối???)
II. Nguyên nhân - ảnh hưởng của bất bình đẳng
1. Nguyên nhân của bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
Để có giải pháp cho công bằng xã hội, trước tiên ta tìm hiểu những nguyên nhân
dẫn đến bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập vừa là vấn đề của lịch sử để lại, vừa là
vấn đề của sự phát triển mà quốc gia nào cũng vấp phải. Một vấn đề đặt ra là tại sao có
người nghèo và người giàu? Nguồn gốc của sự giàu có và nghèo đói là ở đâu? Có
nhiều nguyên nhân và các nguyên nhân có thể đan xen, thâm nhập vào nhau, nhưng
quy tụ lại có hai nhóm nguyên nhân chủ yếu là bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
từ tài sản và từ lao động.
a) Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ tài sản.
Trong nền kinh tế thị trường, một bộ phận thu nhập của các cá nhân được phân
phối theo sở hữu các nguồn lực. Tùy theo các yếu tố sản xuất mà mỗi người có được
cũng như việc định giá của các yếu tố đó trên thị trường cạnh tranh mà chúng có ảnh
hưởng đến mức thu nhập của mỗi cá nhân. Cách phân phối như vậy gọi là phân phối
thu nhập từ tài sản. Tài sản của mỗi cá nhân có được là do những nguồn hình thành
khác nhau.
- Do được thừa kế tài sản: Mỗi người được thừa kế tài sản ở các mức độ khác nhau.
Nhiều cá nhân sinh ra đã là người giàu vì họ được thừa kế một cơ nghiệp lớn. Sự bất
8
công về thu nhập do của cải thừa kế tập trung vào tay một số ít người đã gây nhiều sự
phản đối và một cách được chính phủ áp dụng để hạn chế sự bất bình đẳng này là đánh
thuế cao vào tài sản thừa kế và quà tặng.
- Do hành vi tiêu dùng và tiết kiệm khác nhau của các cá nhân ảnh hưởng lớn đến sự
khác nhau về của cải tích lũy được. Có những người tiết kiệm nhiều để tích lũy một
lượng của cải khi về hưu. Trái lại, có những người sẵn sàng tiêu dùng hết những gì
mình kiếm được mà không lo nghĩ cho tương lai.
Trong số các nguyên nhân nêu trên thì sản xuất kinh doanh là một cách quan
trọng nhất để tăng thu nhập và tăng tài sản của mỗi cá nhân.
b) Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ lao động
Lao động là điều kiện cơ bản tạo ra thu nhập. Tuy nhiên, với kỹ năng lao động,
điều kiện lao động và tính chất khác nhau. Dưới đây sẽ phân tích một số nguyên nhân
chính dẫn đến bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ lao động.
- Do khác nhau về khả năng lao động và kỹ năng lao động dẫn đến khác nhau về thu
nhập. Xu hướng chung là những người có sức khỏe, có khát vọng, có trí tuệ được giáo
dục và có trình độ học vấn cao sẽ nhận được mức thu nhập cao hơn, những người
nghèo là những người có trình độ học vấn thấp nên ít cơ hội kiếm được việc làm tốt,
ổn định. Học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định có lien quan đến đầu tư, kinh
doanh, giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái… Như vậy, không những học vấn ảnh
hưởng đến thế hệ hiện tại mà cả thế hệ tương lai
- Do khác nhau về cường độ làm việc : Ngay cả khi cơ hội làm việc của cá nhân là như
nhau nhưng cường độ làm việc của họ khác nhau thì cũng sẽ dẫn đến mức thu nhập
không bằng nhau.
- Do khác nhau về nghề nghiệp, tính chất công việc : Đây là một số yếu tố quan trọng
quyết định sự khác biệt về tiền lương. Những công việc phổ thông đòi hỏi ít kỹ năng
thường được trả lương thấp, còn công việc chuyên môn có hàm lượng chất xám nhiều
sẽ được hưởng mức lương cao hơn.
- Do những nguyên nhân khác. Ngoài các nguyên nhân nói trên còn có thể có nhiều
nguyên nhân khác ảnh hưởng đến sự bất bình đẳng trong thu nhập từ lao động, như sự
phân biệt đối xử trong xã hội, xuất phát của các cá nhân hay sự không hoàn hảo của thị
9
trường lao động, ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác đều có liên quan đến sự
khác biệt về tiền lương của các cá nhân.
c) Do ảnh hưởng của lạm phát cao.
Lạm phát khiến nhiều người lo lắng. Ngân hàng phát triển Châu Á ADB
khuyến cáo, ảnh hưởng lạm phát sẽ giảm sức mua của người nghèo và làm tăng bất
bình đẳng về thu nhập, có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng. Sự chênh lệch thu nhập
ngày càng nghiêm trọng có thể khiến nhiều quốc gia trong vài năm tới sẽ sớm phải tạm
biệt những kỷ lục tăng trưởng hoàn mỹ.
2. Ảnh hưởng của bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
Tình trạng bất công, bất bình đẳng về phân phối thu nhập trong xã hội đang
tăng lên, đe dọa an ninh kinh tế, an ninh xã hội, cản trở cải cách ở nhiều quốc gia trên
thế giới.
a) Chênh lệch khoảng cách giàu nghèo
Đây là ảnh hưởng đầu tiên và trực tiếp nhất do bất bình đẳng trong phân phối
thu nhập gây ra. Tình trạng bất bình đẳng càng gia tăng thì xã hội chia ra hai tầng lớp
giàu – nghèo càng rõ rệt. Khoảng cách này tạo ra những xu hướng ứng xử kinh tế khác
nhau đối với mỗi người dân, tạo ra hậu quả tiêu cực cho toàn xã hội.
b) Sự thụt lùi về tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp leo thang.
Tại nhiều quốc gia khác, sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập đã làm cho
nền kinh tế trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Kể từ thập niên 1980 đến nay, vấn
nạn này đã kéo lùi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế lớn nhất thế giới xuống khoảng
1/3. IMF đã so sánh ví von chính sách đó với việc dùng thuỷ triều dâng cao làm nổi
những tàu thuyền đang gặp khó khăn, mà quên mất rằng chỉ một vài trong số đó là tàu
thuỷ còn đại bộ phận là những chiếc ca nô. Những chiếc ca nô nhỏ thiếu trọng tải lớn,
thiếu trang thiết bị để lèo lái trước triều cường nên rất dễ bị lật nhào. Tăng trưởng kinh
tế chỉ làm giàu cho thiểu số mà không đem lại lợi ích cho số đông.
Từ đó suy rộng ra, tại mọi nền kinh tế, dù giàu có hay nghèo khó, bất bình đẳng
tỷ lệ nghịch với tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ thuận với sự suy yếu của nền kinh tế đó.
(làm giàu cho thiểu số đồng nghĩa với việc bất bình đẳng và tăng trưởng tỉ lệ thuận
chứ)
10
Bất bình đẳng là nhân tố có sức ảnh hưởng sâu rộng nhất hơn cả những yếu tố
mà chính phủ các nước hiện nay đang ra sức củng cố như đầu tư nước ngoài, mở cửa
kinh tế, tỷ giá hối đoái hay tiềm lực của những định chế lớn. Nói nôm na, muốn đất
nước đi lên thì phải lấy dân làm gốc. Vì thế mỗi quốc gia cần có các chính sách giảm
thiểu bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
Ngoài ra, ông Sanjay Mathur đến từ Ngân hàng Hoàng gia Scotland RBS cho
biết, cùng với việc khoảng cách thu nhập gia tăng, sự tăng trưởng thần tốc của nền
kinh tế và lạm phát cao hiện nay có thể tạo thành một cú sốc mang tính hủy hoại cho
các quốc gia: “Lạm phát giá thực phẩm ảnh hưởng vô cùng nặng nề cho người nghèo.
Nó có thể tác động lâu dài tới sức mua của nhóm người có thu nhập thấp, từ đó cản trở
thị trường tăng trưởng và phát triển”.
c) Knhi sự bất bình đẳng lên đến đỉnh điểm hàng loạt xung đột xã hội sẽ
phát sinh.
Đó là quy luật. Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập làm cho đói nghèo tăng,
gây bất mãn lớn trong người dân, do đó có thể gây ra sự đổ vỡ của một bộ máy chính
trị, hủy hoại các chính sách vĩ mô của những nước này, đẩy cao các tệ nạn xã hội.
Trong sáu năm trở lại đây, kinh tế thế giới tăng trưởng liên tục, nhưng thực chất phần
lớn của chiếc bánh tăng trưởng nằm trên dĩa của người giàu. Sự tăng trưởng của Trung
Quốc và Ấn Độ đã không mang lại sự tăng trưởng cho từng người dân. Ở Trung Quốc,
việc tư nhân hoá đất công bắt đầu vào năm 1980 và tăng mạnh vào những năm 1990
đã chuyển nhiều đất đai của nhà nước thành tài sản riêng của nhiều “cá nhân đặc biệt”,
khiến những người này giàu thêm và ngày càng có khoảng cách thu nhập xa hơn đại
bộ phận người dân .
Chỉ riêng một năm qua, Trung Quốc phải đối đầu với hàng loạt vụ biểu tình lớn
nhỏ xảy ra. Tất cả vụ này đều bắt nguồn từ sự phẫn nộ của dân nghèo vì bị thu hồi
ruộng đất một cách bất minh và bất bình trước sự vô trách nhiệm của các doanh nghiệp
công nghiệp đối với môi trường. Trong khi đó, ở Ấn Độ các nhóm bạo động, thường
được biết đến với cái tên Naxalites, đang lợi dụng sự phân hoá giàu nghèo để thực hiện
các vụ tấn công đã gây nên tình trạng bất ổn ở một số khu vực nông thôn nước này. Sự
việc nghiêm trọng đến mức, vào năm 2006 Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh từng
11
tuyên bố rằng Naxalites “là mối đe doạ an ninh nội địa lớn nhất đối với Ấn Độ kể từ
khi được độc lập”.
B. Tình hình bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ở Ấn Độ
I. Khái quát chung về nền kinh tế Ấn Độ
Ấn Độ là một quốc gia có lịch sử phát triển từ rất lâu đời với nền văn minh sông
Hằng nổi tiếng thế giới, có diện tích rộng lớn, lao động dồi dào (1,2 tỷ dân – năm
2010), tài nguyên thiên nhiên phong phú. Nằm trong khu vực Nam Á, Ấn Độ được coi
là nền kinh tế lớn nhất chiếm đến 79% GDP của cả khu vực.Sau khi giành được độc
lập năm 1947, Ấn Độ xây dựng nền kinh tế tự lực, tự cường trên cơ sở kế hoạch
hóa.Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trung bình 3,5%. Ấn Độ đang mạnh mẽ vươn
lên trở thành một cường quốc kinh tế ở khu vực.
Từ năm 1991, Ấn Độ tiến hành cải cách, áp dụng mô hình kinh tế mới mở cửa,
dựa nhiều hơn vào dịch vụ và tri thức để phát triển công nghệ thông tin (IT), coi đây là
đầu tàu cho toàn bộ nền kinh tế. Năm 2008, khu vực dịch vụ đóng góp tới 56% GDP,
công nghiệp 22% và nông nghiệp 18,5%. Năm 2007-2008, Tổng GDP đạt khoảng 1,16
nghìn tỷ USD, tăng trưởng GDP đạt 9%, xuất khẩu đạt 159 tỷ USD (tăng 25,8%), nhập
khẩu đạt 239,65 tỷ USD (tăng 29%), FDI đạt 32,44 tỷ USD, dự trữ ngoại tệ đạt 249,3
tỷ USD (đến tháng 2/2009). Ấn Độ đang mạnh mẽ vươn lên trở thành một cường quốc
kinh tế ở khu vực. Năm 2009 tăng trưởng GDP của Ấn Độ đạt 7,4% dù chịu ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, năm 2010 chứng kiến sự
phục hồi mạnh mẽ của kinh tế Ấn Độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,3%. Những dự báo gần
đây của các tổ chức kinh tế thế giới, năm 2011, GDP của Ấn Độ có thể tăng trưởng với
tốc độ 9,0% trong năm tài khoá 2011-2012. Ấn Độ hiện xếp thứ 11 trên thế giới về
khía cạnh GDP.Trong thời gian qua, Ấn Độ đã có nhiều nỗ lực để kích thích nền kinh
tế, mặc dù lạm phát vẫn là yếu tố tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nước này còn có kế hoạch áp
dụng một bộ luật thuế mới được cho là hiệu quả hơn kể từ tháng 4/2011 với hy vọng sẽ
mang lại 1,5%-2,0% tăng trưởng GDP cho nền kinh tế. Ngành nông nghiệp Ấn Độ dự
kiến có một mùa vụ bội thu nhờ tình hình thời tiết thuận lợi. Từ những triển vọng trên
đã khiến Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Thủ tướng Manmohan Singh phải nâng dự báo
12
tăng trưởng từ mức 8,5% lên 9% trong năm tài khoá 2010-2011, lạm phát sẽ giảm từ
mức hai con số xuống còn 6,5% vào tháng 3 năm tới.
Các số liệu về kinh tế Ấn Độ cập nhật 30/3/2011 theo Hồ sơ thị trường của
VCCI- Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam:
• Tăng trưởng GDP cao thứ 2 sau Trung Quốc- bình quân 8,5% trong 5 năm qua.
• Trong suốt thời gian suy thoái toàn cầu năm 2009, Ấn Độ tăng trưởng 6,7%.
• Điểm đến hấp dẫn thứ 3 đối với các khoản đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
(FDI).
• Dự trữ ngoại tệ (năm 2010) là 307 tỷ USD.
• Cạnh tranh xếp thứ 134 quốc gia:
- Xếp thứ 4 về thị trường nội địa
- Xếp thứ 28 về đổi mới
- Xếp thứ 16 về sức mạnh của thị trường tài chính
- Xếp thứ 25 về sức mạnh của ngành Ngân hàng
• Thị trường ngoại tệ- xếp thứ 17 thế giới. Doanh thu mỗi ngày là 40 triệu USD
Theo Cục xúc tiến thương mại:
Nông nghiệp chiếm xấp xỉ 17,1% GDP của Ấn Độ trong năm 2010 và tạo công
ăn việc làm cho khoảng 52% dân số trong độ tuổi lao động. Ấn Độ là một trong những
nước chăn nuôi lớn nhất thế giới và cũng là nhà sản xuất hàng đầu thế giới về mía
đường, chè và đậu. Ấn Độ cũng là một trong những nhà sản xuất rau quả, lúa mì, gạo,
sữa và gia vị lớn nhất thế giới.
Ngành công nghiệp dệt may có vai trò sống còn trong nền kinh tế Ấn Độ. Sản
xuất của ngành công nghiệp này chiếm 4% GDP và 20% đầu ra của nền công nghiệp,
chiếm 15% kim ngạch xuất khẩu. Là ngành đứng thứ hai chỉ sau nông nghiệp, công
nghiệp dệt may có số lượng lao động gần 38 triệu người. Hiện sợi bông vẫn là chất
liệu chiếm ưu thế, song Ấn Độ đang trở thành nhà sản xuất đứng thứ 2 trên thế giới về
mặt hàng lụa và đứng trong danh sách 5 nước sản xuất vải sợi hàng đầu thế giới.
13
Ngành dịch vụ và phần mềm ở Ấn Độ được cả thế giới biết đến nhờ những giải
pháp phần mềm chất lượng cao và giá rẻ. Do nhu cầu từ bên ngoài tăng cao, yêu cầu
vốn đầu tư thấp, tỷ lệ lợi nhuận cao nên xuất khẩu phần mềm đã trở thành ngành công
nghiệp đóng góp phần lớn vào sự tăng trưởng chung của công nghệ thông tin tại Ấn
Độ.
Ngoài ra còn có các chỉ số khác:
(Xem tại Phụ lục 1 – Bảng 1)
Trong năm tài chính 2011-2012 (bắt đầu từ ngày 01/4/2011 và kết thúc vào
ngày 31/03/2012) tổng thu nhập quốc dân của Ấn Độ tăng khoảng 7,1% cao hơn số
liệu ước tính đã công bố trước đó tăng trưởng ở mức 6,9%."Thể trạng" kinh tế Ấn Độ
6 tháng đầu năm 2012 không được sáng sủa, với mức tăng trưởng GDP của quý IV tài
khoá 2011-2012 (kết thúc vào ngày 31/3/2012) chỉ đạt 5,3% - mức thấp nhất trong 9
năm và tăng trưởng GDP trong toàn tài khoá 2011-2012 là 6,5% (mức thấp nhất trong
vòng 3 năm trở lại đây), so với 8,4% của tài khoá 2010-2011.
Tăng trưởng GDP bình quân đâu người giai đoạn 1990-2010 của Ấn Độ so với
một số nước thuộc OECD (Xem tại Phụ lục 1– Biểu đồ 1)
Dự đoán đến năm 2015, hơn 300 triệu người dân Ấn Độ (63 triệu hộ gia đình)
sẽ có thu nhập của hộ vượt mức 6000 Đô-la Mỹ (tương đương hơn 30000 Đô-la Mỹ
tính theo ngang giá sức mua).
Đặc biệt, theo số liệu của Hội đồng Vàng thế giới (WGC), Ấn Độ tiêu thụ 223,1
tấn vàng trong quý III năm nay, tăng 9% so với cùng kỳ năm ngoái. Với con số này,
Ấn Độ đã lấy lại được vị thế số 1 thế giới về tiêu thụ vàng. Nhu cầu vàng của Trung
Quốc giảm mạnh 8% trong quý III xuống còn 177 tấn do tăng trưởng kinh tế chững
lại. Ấn Độ và Trung Quốc đóng góp 55% tổng nhu cầu vàng thế giới. WGC cho biết,
nhu cầu của Ấn Độ tăng mạnh trở lại trong quý III khi các nhà làm trang sức nước này
tăng cường dự trữ vàng cho mùa lễ hội đến vào quý IV – thời điểm nhu cầu mua vàng
của người dân Ấn Độ tăng mạnh. WGC cho biết, lực mua từ Ấn Độ cũng có thể là một
yếu tố đẩy giá vàng tăng trong quý III.
II. Thực trạng bất bình đẳng thu nhập ở Ấn Độ
14
1. Bất bình đẳng thu nhập giữa các tầng lớp trong xã hội
Hệ số Gini đã tăng trong ba nền kinh tế lớn của khu vực là Trung Quốc, Ấn
Độ và Indonesia. Từ đầu những năm 1990 tới năm 2010, hệ số này đã tăng từ 0,32 lên
0,43 tại Trung Quốc, từ 0,33 lên 0,37 tại Ấn Độ và từ 0,29 lên 0,39 tại Indonesia.
Riêng ở Ấn Độ, bất bình đẳng thu nhập đã tăng mạnh trong 2 thập kỉ. Trong những
năm 1990, hệ số Gini của Ấn Độ rất gần với các nước đang phát triển, nhưng càng
ngày, nó càng gia tăng và có xu hướng giống các nước đang phát triển. Dưới đây là hệ
số Gini của Ấn Độ tới năm 1999 (Xem Phụ lục 1 – Biểu đồ 2)
a. Bất bình đẳng thu nhập giữa các tầng lớp trong xã hội
Ấn Độ được biết đến là 1 trong những quốc gia có nhiều triệu phú nhất trên
thế giới, nhưng những số liệu về bất bình đẳng thu nhập của đất nước này lại khiến cho
nhiều người ngạc nhiên và hoài nghi. Sự bất bình đẳng thể hiện rõ giữa các tầng lớp
trong xã hội, giữa người giàu và người nghèo.
Tầng lớp trung lưu chiếm tỉ lệ lớn và 55% dân số Ấn Độ ở độ tuổi dưới 25. Trên
380 triệu dân (tương đương 72 triệu hộ gia đình) có thu nhập của hộ vượt ngưỡng
10,000 Đô-la Mỹ (tính theo PPP), và dự đoán sẽ tăng lên 550 triệu tính đến năm 2010.
Ở Ấn Độ, theo báo cáo World Wealth Report, số người có tài sản trên 1 triệu
USD của nước này đã tăng 20,5% trong năm ngoái và số dân “triệu đô” ở Ấn Độ hiện
là 100.015 người. Nhưng đa số trong 1,2 tỉ dân Ấn Độ hiện vẫn sống trong nghèo đói.
Một khảo sát của viện Y học All India cho thấy 76% phụ nữ Ấn giàu có bị bệnh béo
phì, khảo sát của ngân hàng thế giới cho thấy 45% trẻ em Ấn Độ dưới 5 tuổi bị suy
dinh dưỡng vì nghèo. Bên cạnh đó, theo điều tra thực tế, một trong bốn người ở Ấn Độ
đang đói và mỗi đứa con thứ hai là thiếu cân và còi cọc. Trong năm 2011, Ấn Độ là 73
trong số 88 quốc gia được liệt kê trong Chỉ số nghèo đói toàn cầu hàng năm, sáu nơi
giảm so với năm trước. Chỉ số đói nghèo năm 2010 đa chiều chỉ ra rằng 8 bang của Ấn
Độ tài khoản cho nhiều người nghèo hơn trong 26 nước châu Phi nghèo nhất được kết
hợp.
Theo danh sách năm 2012 của Forbes, 48 trên tổng số 1.153 tỷ phú là từ Ấn Độ,
chiếm tỷ lệ hơn 4%. Tỷ lệ đóng góp của Ấn Độ vào GDP toàn cầu là 5,7%, tính theo tỷ
giá hối đoái "ngang giá sức mua".
15
Dưới đây là kim tự tháp thu nhập của người dân Ấn Độ năm 2010 (Xem Phụ
lục – Hình 1) (hình ảnh sắp xếp không khoa học)
Theo hình trên, ở chóp kim tự tháp tương ứng với 3 triệu hộ gia đình, tương
đương với 16 triệu dân được xếp vào hạng giàu có với mức thu nhập hàng năm là trên
1.700.000 Rs.
Tiếp theo, phần thứ 2 của kim tự tháp(phần màu hồng) tương ứng với 31 triệu
hộ gia đình, tương đương với 160 triệu dân được xếp vào hạng trung lưu với mức thu
nhập hàng năm là từ 340.000 – 1.700.000 Rs.
Phần thứ 3 của kim tự tháp ( màu đỏ ) tươmg ứng với 71 triệu hộ gia đình,
tương đương với 359 triệu dân được xếp vào thu nhập thấp với mức thu nhập là
150.000 – 340.000 Rs hàng năm
Cuối cùng là phần màu vàng tương ứng với 135 triệu hộ gia đình, tương đương
với 684 triệu dân được xếp vào hạng nghèo nàn với mức thu nhập dưới 150.000 Rs
mỗi năm.
Khối kim tự tháp thể hiện khối tài sản của Ấn Độ theo số liệu năm 2010 (Xem
phụ lục 1 – Hình 2) (hình ảnh sắp xếp không khoa học)
Nhìn vào kim tự tháp có thể thấy phần chóp màu tím của kim tự tháp thể hiện
khối lượng tài sản của những tỉ phú với số lượng của cải trên 1 tỉ đô la.
Phần màu hồng thể hiện khối lượng tài sản của tầng lớp cận tỉ phú với số lượng
tài sản là từ 500 triệu đến 1 tỉ đô la .
Phần màu đỏ thể hiện khối lượng tài sản ròng của những người có thu nhập cực
cao với số lượng tài sản là 50 – 500 triệu đô la.
Tiếp theo là khối lượng tài sản ròng của những người có thu nhập cao và không
ngừng tăng lên với số lượng tài sản là 10 – 50 triệu đô la.
Tiếp đó là khối lượng tài sản của những người có thu nhập tiềm năng với số
lượng tài sản từ 5- đến 10 triệu đô la.
Cuối cùng là khối lượng tài sản của những người có thu nhập cao với khối
lượng tài sản từ 1- 5 triệu đô la.
16
(k có nhận xét gì thêm à, chỉ mới chỉ ra mà không hề đưa ra bình luận nào thêm.
VD sự chênh lệch này so với trung bình thế giới và các nước khác là cao, hay điều này
thể hiện sự chênh lệch quá lớn về bất bình đẳng)
2. Bất bình đẳng giữa Ấn Độ với các nước trong khu vực Nam Á, Châu Á,
xếp hạng trên thế giới.
Theo IMF Ấn Độ là 1 trong 10 nền kinh tế lớn nhất năm 2011 với tổng GDP
tính theo PPP là 2.965 tỷ USD, chỉ xếp sau Mỹ (13.860 tỷ USD), Trung Quốc (7.043
tỷ USD), Nhật Bản (4.305 tỷ USD). Tuy nhiên Ấn Độ vẫn còn những khó khăn trong
quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Một trong những vấn đề đó là tình trạng bất bình
đẳng trong phân phối thu nhập. Ấn Độ nằm trong khu vực Nam Á, nơi đã trải qua một
thời gian dài tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, trung bình 6% một năm trong vòng 20 năm
qua. Tăng trưởng GDP thực trong khu vực dự kiến sẽ là 5,8% trong năm 2012. Sự tăng
trưởng mạnh mẽ này đã dịch sang giảm nghèo và cải tiến ấn tượng trong phát triển con
người. Tuy nhiên, nghèo đói vẫn còn phổ biến trong nhiều lĩnh vực, và Nam Á có tập
trung lớn nhất thế giới của người nghèo dân hơn 500 triệu người sống ít hơn $ 1,25
một ngày. (Xem Phụ lục 1 – Bảng 2, bảng 3)
Đánh giá về tình trạng bất bình đẳng thu nhập của thế giới và các quốc gia có
thể thấy thực trạng này ở Ấn Độ luôn ở mức cao và ngày càng tăng lên. Ấn Độ là nước
có tốc độ tăng trưởng GDP nhanh trong khu vực và trên thế giới (7.4%) nhưng bất
bình đẳng thu nhập của Ấn Độ luôn ở mức cao. Trong khu vực,hệ số Gini của Ấn Độ
là 32.5 năm 2000 cao hơn Bangladesh 31.8 và Pakixtan 30.6.(hệ số gini < 1, các cụ
này cho về phần trăm nhưng mà gini cũng không được tính bằng %) Chênh lệch về
thu nhập của nhóm 10% giàu nhất và 10% nghèo nhất lớn, chứng tỏ rằng khoảng cách
giàu nghèo ở Ấn Độ là rất lớn.
Đây là biểu đồ so sánh tình trạng bất bình đẳng thu nhập trên thế giới và ở 1 số quốc
gia (Xem Phụ lục 1 – Biểu đồ 3)
III.Nguyên nhân gây ra bất bình đẳng trong thu nhập ở Ấn Độ.
17
Bất bình đẳng không phải là một hiện tượng tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các
cá nhân trong xã hội. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng này có thể phân tích
theo 3 nhóm nguyên nhân: yếu tố kinh tế, yếu tố văn hóa – giáo dục - chính trị - xã
hội, và chính sách quản lý của nhà nước và chính quyền địa phương.
1. Yếu tố kinh tế
- Cơ cấu kinh tế của Ấn Độ hiện nay như đã trình bày ở các phần trên, đang thiên
về hướng nội, kim ngạch xuất khẩu thấp, nhập siêu khoảng 60-70 tỷ USD, trong
khi nguồn nhân lực còn nhiều vấn đề (tốc độ tăng nhanh, mật độ dân số cao, lao
động chênh lệch tay nghề lớn, lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn
trong khi đóng góp vào GDP chỉ chiếm hơn 14%
[3]
- năm 2010-2011 - nguồn
Central Statistical Organisation) làm gia tăng mức chênh lệch thu nhập của
người dân ở các thành phần kinh tế khác nhau.
- Tự do kinh tế, toàn cầu hoá mở cửa nền kinh tế khiến cho sức ép cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp ở Ấn Độ ngày càng nặng nề hơn. Những người có năng
lực sẽ đào thải những người có trình độ làm việc thấp. Chế độ lương bổng và
công việc giữa các tầng lớp lao động đều được phân phối lại
- Sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội giữa các vùng miền ở Ấn Độ
làm cho sự khác biệt về thu nhập lớn hơn.
Ví dụ: Mumbai là một thành phố của Ấn Độ với lợi thế về biển nên thu nhập của
người dân ở nơi đây có thể cao hơn các vùng khác do khai thác lợi thế về du lịch biển
cũng như địa hình thuận lợi cho phát triển các khu kinh tế lớn, an toàn,ổn định.
2. Yếu tố văn hóa – giáo dục – chính trị - xã hội (chưa thấy bàn đến văn hóa
giáo dục)
- Nạn phân biệt chủng tộc và tôn giáo
Sự phân biệt giữa Ấn đen và Ấn trắng còn tồn tại ở rất nhiều doanh nghiệp Ấn
Độ.
[3]
[3]
Theo />18
Ví dụ: Mới đây một người mẫu Ấn độ đã cáo buộc ngành công nghiệp thời trang trong
nước đang có sự phân biêt chủng tộc rõ rệt khi ưu ái nhiều người mẫu da trắng hơn
nhưng cô gái da nâu địa phương đồng thời với mức thu nhập khác biệt rõ rệt.
- Bất bình đẳng giới lớn
Ở Ấn Độ, nam và nữ giới được tiếp cận với các cơ hội kinh tế khác nhau, do đó
có mức thu nhập không đồng đều. “Phụ nữ thường là những người làm việc không
lương trong gia đình hoặc làm những nghề được trả lương thấp” – bà Revenga, một
nhà phân tích tại ngân hàng Thế giới cho biết, ở Ấn Độ phụ nữ thường có mức thu
nhập thấp hơn nhiều so với nam giới, cụ thể là 40%.
[4]
- Sự phân biệt giàu nghèo của Ấn Độ không chỉ làm ảnh hưởng tới đời sống của
người dân mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến nền giáo dục Ấn Độ, và nền giáo dục nhiều
bất cập lại củng cố thêm khoảng cách giàu - nghèo.
- Số người dân Ấn Độ di cư lớn
[5]
Theo ước tính của Vụ Dân số Liên Hợp Quốc, có đến 20 triệu người Ấn Độ di
cư vào năm 2010, chủ yếu do mong muốn có được nhiều cơ hội việc làm tốt để cải
thiện cuộc sống. Vấn đề di cư trong nước đang gia tăng cả về số lượng và loại hình.
Tại Ấn Độ, bên cạnh luồng di cư thành thị - thành thị, nông thôn – thành thị di cư ở
những người có trình độ học vấn và thu nhập cao cũng đang tăng.
- Địa vị xã hội
Theo Rousseau: “Nguồn gốc của bất bình đẳng liên quan tới sở hữu tư nhân về
của cải. Những đặc điểm về kinh tế, chính trị và thị trường lao động tạo ra những khác
biệt trong thu nhập và của cải. Thực chất, sự khác biệt về vị trí của các cá nhân trong
cơ cấu xã hội gây ra bất bình đẳng kinh tế”
Địa vị xã hội của những người dân Ấn Độ khác nhau dẫn đến bất bình đẳng này là
do những nhóm thành viên của xã hội tạo nên và thừa nhân chúng. Theo nghiên cứu và
danh sách công bố do Forbes công bố thì 43% tỷ phú Ấn Độ đến từ các lĩnh vực đạt
[4]
[4]
Theo />[5]
[5]
Theo />p_p_id=62_INSTANCE_Z5vv&p_p_lifecycle=0&p_p_state=normal&p_p_mode=view&p_p_col_id=column-
3&p_p_col_count=1&_62_INSTANCE_Z5vv_struts_action=%2Fjournal_articles
%2Fview&_62_INSTANCE_Z5vv_groupId=18&_62_INSTANCE_Z5vv_articleId=92141&_62_INSTANCE_Z5vv_vers
ion=1.0
19
lợi nhuận cao nhờ lợi thế nhất định có sự tham gia và hỗ trọ đáng kể của chính phủ Ấn
Độ.
- Ngoài ra, vấn đề gia tăng dân số, cơ cấu dân số trẻ, dồi dào gây sức ép cho việc
giải quyết việc làm cho người dân
3. Chính sách quản lý và điều tiết của cơ quan chức năng
Sự cứng nhắc, độc quyền trong luật lao động của Ấn Độ trong việc lựa chọn
những người như thế nào mới đựơc làm công việc cụ thể ra sao, làm giảm tính hiệu
quả của nền kinh tế, góp phần gây trầm trọng thêm vấn đề bất bình đẳng này.
Chủ nghĩa dân tộc về kinh tế, cả cánh tả và cánh hữu, vẫn gây cản trở đầu tư
nước ngoài quy mô lớn đổ vào Ấn Độ, làm kìm hãm sự phát triển kinh tế nước nhà,
chưa tận dụng tối đa được nguồn lao động trẻ, dồi dào.
chính sách về cơ chế quản lý của nhà nước Ấn Độ về quá trình phân phối lại tài
sản hay luật tiên lương tối thiểu ở Ấn Độ chưa hiệu quả, khiến vấn đề bất bình đẳng
trong thu nhập trở nên rắc rối hơn
Thậm chí còn có nhiều “câu chuyện đen tối” về việc Ấn Độ cho di dân để xây
đường xá, thủy điện hay khai mỏ,…Những cưỡng chế di dời, gian lận hợp đồng, thất
hứa với người nghèo này của các doanh nghiệp, của cơ quan chức trách địa phương và
sự thiếu sát sao, trách nhiệm của chính phủ làm cho tình hình bất bình đẳng này trở
nên trầm trọng hơn.
IV. Giải pháp của chính phủ Ấn Độ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
V. Giải pháp của chính phủ Ấn Độ
1. Cải cách và phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo
- Tháng 7/1991, một cuộc cải cách mạnh mẽ và toàn diện đã được Chính phủ phát
động và thực hiện cho đến ngày nay. Quá trình thực hiện cuộc cải cách về kinh tế ở Ấn
Độ từ năm 1991 đến nay được chia thành 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu (1991-1999): Ấn Độ hầu như tập trung vào cải cách mạnh mẽ
trên lĩnh vực kinh tế nhằm ổn định nền kinh tế vĩ mô, thực hiện các chính sách nhằm
20
tự do hoá nền kinh tế trên các lĩnh vực tài chính, công nghiệp, thương nghiệp và tích
cực gắn kết Ấn Độ với nền kinh tế thế giới.
+ Giai đoạn tiếp theo (từ 1999 đến nay), song song với các chính sách đổi mới
về kinh tế, Ấn Độ đã chú trọng đến các cải cách xã hội như y tế, giáo dục, xoá đói
giảm nghèo… nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống vốn rất thấp của người dân Ấn.
Điểm đặc biệt là các biện pháp cải cách ở Ấn Độ chủ yếu được thực hiện từ dưới lên
và giành được nhiều thành tựu.
- Ấn Độ bắt đầu tự do hóa thương mại từ đầu những năm 1990, và mức thuế hải
quan đã được giảm trên một số lượng lớn hàng hóa. Trong thời gian giữa những năm
1990, mức thuế suất đã được giảm hơn nữa, thậm chí đôi khi vượt quá mức cần thiết
bởi các nghĩa vụ của WTO. Kết quả là, thuế hải quan giảm dần từ khoảng 3,6% GDP
năm 1990-1991 xuống khoảng 1,8% năm 2001-2002.
- Một loạt các nhượng bộ thuế tiêu thụ đã được đưa ra để kích cầu khu vực tư
nhân và khuyến khích sự phát triển của ngành công nghiệp tư nhân. Thuế tiêu thụ đặc
biệt giảm từ 4,3% GDP trong năm 1990-1991 xuống còn 3,2% GDP năm 2001-2002.
Đánh giá:
- 10 năm sau cải cách, chỉ còn 25% số người sống dưới ngưỡng nghèo. Giảm
nghèo 13% trong vòng 10 năm trên một tổng số những 1 tỉ người (khác với nước chỉ
vài chục triệu người) không phải là chuyện nhẹ nhàng, nhất là khi đây là một nước
nông nghiệp với 60% lực lượng lao động là ở nông thôn.
2. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài
- Tỷ lệ NFEA (Trao đổi tài sản nước ngoài ròng) tăng từ 20,44% năm 1992-1993 lên
65,01% năm 2000-2001. Ấn Độ thúc đẩy trao đổi tài sản với các quốc gia bên ngoài,
làm tăng cung tiền trong nước (M2= NFA + NDA) dẫn đến việc đầu tư cho các ngành
kinh tế cũng như phúc lợi xã hội ngày càng tăng.
- Kể từ 1/4/2010, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được điều tiết bởi Chính sách đầu tư
hợp nhất do Tổng cục chính sách và xúc tiến công nghiệp (DIPP) thuộc Bộ Thương
mại và Công nghiệp ban hành. Chính sách FDI hợp nhất đầu tiên ban hành ngày
1/4/2010 phản ánh việc thực hiện khung quản lý hiện hành thông qua hợp nhất các quy
21
định trước đó về FDI trong Luật quản lý ngoại hối (FEMA) năm 1999, Quy chế quản
lý ngoại hối năm 2000 và các thông tư, quy định của Ngân hàng dự trữ Ấn Độ. Việc
hợp nhất này nhằm mục đích cụ thể hóa chính sách FDI của Ấn Độ và làm cho việc
hiểu và thực hiện chính sách FDI được tốt hơn.
3. Tăng cường phát triển nông nghiệp
- Từ năm 1991, Ấn Độ bắt đầu công cuộc cải cách toàn diện, trong đó, nông nghiệp
là lĩnh vực trọng tâm. Hàng loạt biện pháp được Ấn Độ áp dụng trong quá trình cải
cách, đó là:
+ Tăng cường kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp. Về thủy lợi, Chính phủ đã đưa
ra kế hoạch phát triển các nguồn nước, lập quỹ hỗ trợ phát triển nguồn nước cho 100
khu vực được ưu tiên. Các lĩnh vực bảo quản, chế biến, tiếp thị sau thu hoạch cũng
được tăng cường đầu tư. Việc sử dụng phân bón được chú ý hơn. Nhà nước đã chi 10
triệu USD cho chương trình cải tạo và khai thác đất hoang.
+ Nâng cao vai trò của hộ nông dân, vì kinh tế hộ vẫn giữ vai trò to lớn trong
nền nông nghiệp Ấn Độ.
+ Quản lý tốt hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, áp dụng tiến bộ kỹ thuật để
tăng sản lượng lương thực tại miền Đông và Đông Bắc, mở rộng và củng cố các hợp
tác xã.
+ Khuyến khích nghề làm vườn, trồng hoa, cây dược liệu, trồng rừng, tăng xuất
khẩu các sản phẩm thuộc lĩnh vực này.
+ Thành lập trung tâm dự báo mùa màng quốc gia giúp nông dân chủ động hơn
trong sản xuất.
+ Sửa đổi Luật Hàng hoá thiết yếu, kiểm soát chặt chẽ việc tích trữ và buôn bán
các loại nông sản nhằm ổn định thị trường.
+ Xây dựng chương trình quốc gia về công nghiệp hoá nông thôn, với kế hoạch
mỗi năm triển khai ở 100 nhóm làng xã.
22
- Sau năm 1999, cải cách kinh tế bước vào giai đoạn II với chủ trương đẩy
mạnh hơn nữa sự kiểm soát chất lượng sản phẩm và tăng cường đầu tư, hỗ trợ sản
xuất.
- Ngày 28/7/2000, Chính phủ Ấn Độ công bố chính sách nông nghiệp mới, với
mục tiêu tăng trưởng 4%/năm (trước đó chỉ tăng 1,5%/năm), tập trung vào các lĩnh
vực: Nâng cấp giống gia súc trong chăn nuôi; Tăng cường áp dụng khoa học, công
nghệ vào sản xuất; Ưu tiên điện khí hoá nông thôn và thuỷ lợi; Xây dựng chiến lược
toàn diện để kiểm tra, giám sát và bảo quản những tổn thất và lãng phí nông sản Bên
cạnh đó, Ấn Độ đã đầu tư 22 triệu USD vào những khu vực sản xuất nông nghiệp lớn,
biến khu này thành một phần của nền kinh tế nông thôn.
- Về lĩnh vực tài chính, Chính phủ tiếp tục thực hiện bảo hộ nông nghiệp, tuy
nhiên, cơ cấu thuế cũng được xem xét lại để vừa tăng thu cho ngân sách, vừa bảo đảm
lợi ích cho nông dân. Hợp tác quốc tế về nông nghiệp cũng được đẩy mạnh. Tăng
cường tư nhân hoá bằng việc cho thuê đất.
- Tháng 2/2002, Ấn Độ ban hành "Luật hàng hoá thiết yếu", bỏ những hạn chế
về vận chuyển nông sản giữa các bang để nông dân có thể bán được nông sản ở mức
giá tốt nhất. Khoản ngân sách 16 tỉ USD/năm để thực hiện các biện pháp giảm thiệt hại
sau thu hoạch được đưa ra. Uỷ ban quốc gia về chăm sóc gia súc được thành lập.
- Tại Ấn Độ, chính phủ đã có những bước thu hẹp khoảng cách thành thị - nông
thôn. Điều này bao gồm việc thiết lập Hội đồng vì sự tiến bộ hành động con người và
công nghệ nông thôn (CAPART) của Bộ Phát triển nông thôn. CAPART giúp đỡ cho
các tổ chức khác nhau thực hiện hỗ trợ trong các hoạt động phát triển.
Đánh giá:
Ấn Độ có đến hơn 60% lực lương lao động tham gia vào nông nghiệp nhưng
đến năm 2006, chính phủ vẫn chỉ chi dưới 0,2% GDP vào nông nghiệp. Tuy nhiên,
một số chương trình của chính phủ như các chương trình bữa ăn giữa ngày, và
NREGA đã thành công một phần trong việc cung cấp “phao cứu sinh” cho nền kinh tế
nông thôn và kiềm chế sự gia tăng hơn nữa đói nghèo.
Nhờ những sự hỗ trợ này, ngành nông nghiệp của Ấn Độ đã đóng góp 22% vào
GDP và gần 16% vào doanh thu xuất khẩu.
23
4. Cải cách, phát triển giáo dục
• Giáo dục ở Ấn Độ được cung cấp bởi khu vực công cũng như khu vực tư nhân,
được kiểm soát và tài trợ từ ba cấp độ: trung ương, các bang và địa phương. Ấn
Độ đã đạt được sự tiến bộ về tăng tỷ lệ tham gia giáo dục và mở rộng xóa mù
chữ khoảng 2/3 dân số. Sự tiến bộ đặc biệt là trong giáo dục đại học.
• Chương trình cải cách giáo dục cấp quận, huyện (Derp) đã được đưa ra vào
năm 1994 với mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học ở Ấn Độ bằng cách cải cách
và tiếp sức cho hệ thống giáo dục tiểu học hiện tại.
• Cùng với đó, khối Liên minh Tiến bộ chung (UPA) hướng vào mục tiêu tăng
chi tiêu cho giáo dục đến 6% trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) từ các giá trị
biến động khoảng 3% thông qua Chương trình chung tối thiểu quốc gia
(NCMP) vào năm 2004.
• Những tổ chức giáo dục của Ấn Độ đến năm 2004 đã bao gồm một số lượng
lớn các học viện công nghệ. Bên cạnh các trường đại học hàng về cũng cấp nền
giáo dục đẳng cấp thế giới, có tính cạnh tranh cao cho học sinh của mình, Ấn
Độ cũng là nơi có nhiều trường đại học đã được thành lập với mục tiêu duy
nhất là kiếm tiền một cách dễ dàng.
• Giáo dục cũng đã được thực hiện miễn phí đối với trẻ em từ 6 đến 14 tuổi hoặc
lên lớp VIII theo Quyền của Trẻ em hướng tới đạo luật Giáo dục bắt buộc và
miễn phí năm 2009.
• Một mặt đáng ghi nhận của hệ thống giáo dục trung học của Ấn Độ là tập trung
vào các thành phần có khó khăn của xã hội. Các chuyên gia từ các viện nghiên
cứu thường được gọi đến để hỗ trợ trong đào tạo nghề. Một mặt khác của hệ
thống giáo dục trung học của Ấn Độ là tập trung vào nghề nghiệp dựa trên đào
tạo nghề để học sinh đạt được các kỹ năng cho việc tìm kiếm nghề theo lựa
chọn của mình.
5. Chính sách về lao động, việc làm
24
• Ấn Độ có rất nhiều đạo luật lao động, trong đó có cấm phân biệt đối xử và cấm
lao động trẻ em (Điều 24 của hiến pháp của Ấn Độ cấm lao động trẻ em), nhằm
mục đích đảm bảo các điều kiện công bằng và tính nhân đạo của công việc,
đảm bảo chính sách an sinh xã hội, mức lương tối thiểu, quyền tổ chức, hình
thành các tổ chức công đoàn và cho thi hành đàm phán tập thể.
• Thay vì đi theo sách lược cổ điển thường thấy ở châu Á là tập trung lao động
phục vụ xuất khẩu, sản xuất hàng hóa gia công rẻ mạt cho phương Tây, Ấn Độ
đã hướng đến thị trường nội địa hơn là thị trường xuất khẩu, đến tiêu thụ nội địa
hơn là đầu tư nước ngoài, đến dịch vụ hơn là công nghiệp, đến kỹ thuật cao hơn
là gia công với tay nghề thấp.
Đánh giá:
Mô hình kinh tế hướng đến tiêu thụ nội địa này “thân thiện” với dân chúng hơn
là các sách lược kinh tế khác. Nhờ đó, nền kinh tế Ấn Độ hầu như thoát khỏi
những chao đảo kinh tế toàn cầu, mức độ ổn định cũng đáng nể như tỉ lệ tăng
trưởng. Kết quả là bất bình đẳng xã hội ở Ấn Độ thấp hơn ở các nước đang
phát triển khác.
• Chương trình việc làm công (NREGA): Bộ luật bảo đảm việc làm nông thôn
chính thức được thông qua vào ngày 25/8/2005 nhằm đảm bảo công việc cho
người nông thôn trong độ tuổi đi làm. Bộ Phát Triển Nông Thôn cùng với chính
quyền địa phương triển khai và giám sát thực hiện bộ luật này. Đây là một
chương trình giảm nghèo mang tính phát triển vì chương trình đã nâng cao thu
nhập cho người dân nông thôn thông qua việc thu hút vào các hoạt động lao
động xây dựng các công trình tại địa phương. Thay bằng việc cung cấp ngân
sách cho các nhà thầu, các doanh nghiệp, Chính phủ sẽ trả trực tiếp cho những
người lao động đang cần việc làm tại những vùng nông thôn. Hiệu quả của việc
đầu tư này có ý nghĩa xã hội lớn hơn rất nhiều nếu đầu tư cho các nhà thầu.
=> Đánh giá:
- Nhằm cải thiện nhu cầu công việc của người nông dân bằng hình thức đảm
bảo 100 ngày làm việc trong một năm cho những công việc thủ công không đòi
25