TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
BÀI GIẢNG
GIÁO
TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)
MỸ HỌC & GIÁO DỤC
THẨM MỸ
Dành cho sinh viên ĐHSP Ngữ văn & ĐH GD Mầm non
TÁC GIẢ: LƯƠNG HỒNG VĂN
Năm: 2016
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1 KHÁI LƯỢC VỀ LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG MỸ HỌC ........................ 3
1.1 Mỹ học là gì..................................................................................................... 3
1.2 Quan niệm mỹ học phương Đông. .................................................................. 4
1.3. Quan niệm mỹ học phương Tây. .................................................................... 6
1.4. Sự hình thành và phát triển mỹ học Mác - Lênin.......................................... 9
CHƯƠNG II MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA MỸ HỌC
................................................................................................................................. 12
2.1. CÁI THẨM MỸ ........................................................................................... 12
2.2 HOẠT ĐỘNG THẨM MỸ ........................................................................... 16
2.3 Ý THỨC THẨM MỸ .................................................................................... 21
2.4 CÁI ĐẸP........................................................................................................ 27
2.5. CÁI CAO CẢ ............................................................................................... 34
2.6. CÁI BI VÀ CÁI HÀI ................................................................................... 38
CHƯƠNG III ĐẶC TRƯNG, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG THẨM MỸ CỦA
NGHỆ THUẬT ....................................................................................................... 43
3.1. THỰC CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG THẨM MỸ - NGHỆ THUẬT ........... 43
3.2. ĐỐI TƯỢNG CỦA NGHỆ THUẬT. .......................................................... 44
3.3. HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VÀ TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT. .......... 45
3.4. BẢN CHẤT XÃ HỘ NGHỆ THUẬT ........................................................ 47
3.5. CHỨC NĂNG XÃ HỘI - THẨM MỸ CỦA NGHỆ THUẬT .................... 51
CHƯƠNG IV BẢN CHẤT CỦA GIÁO DỤC THẨM MỸ.................................. 54
4.1. KHÁI NIỆM “GIÁO DỤC THẨM MỸ” .................................................... 54
4.2. BẢN CHẤT CỦA GIÁO DỤC THẨM MỸ Ở NHÀ TRƯỜNG GDMN .. 55
4.3. CƠ SỞ THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA GIÁO DỤC
THẨM MỸ Ở NHÀ TRƯỜNG GDMN ............................................................. 58
CHƯƠNG V NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC GIÁO DỤC THẨM MỸ Ở
TRƯỜNG GIÁO DỤC MẦM NON ....................................................................... 61
5.3. GIÁO DỤC NĂNG LỰC THẨM MỸ NGHỆ THUẬT ............................. 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 70
1
LỜI NÓI ĐẦU
Mỹ học và giáo dục thẩm mỹ trang bị những kiến thức cơ bản về mỹ học và
giáo dục thẩm mỹ.
Cuốn giáo trình hướng tới làm sâu sắc thêm một số khái niệm cơ bản của mỹ
học và giáo dục thẩm mỹ. Đồng thời, vận dụng những quan điểm này vào hoạt
động dạy học và giáo dục học sinh.
Trong qua trình biên soạn, tác giả đã theo sát chương trình môn học do
Trường Đại học Quảng Bình ban hành. Những vấn đề cơ bản nhất của mỹ học và
giáo dục thẩm mỹ được trình bày ở dạng khái quát, tinh giản cho phù hợp với tính
chất của một giáo trình đại cương.
Do khả năng còn có hạn cho nên khó tránh khỏi những thiếu sót, rất mong
đồng nghiệp và các bạn sinh viên góp ý để tác giả sửa chữa nâng cao chất lượng
trong lần soạn sau.
2
CHƯƠNG 1
KHÁI LƯỢC VỀ LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG MỸ HỌC
1.1 Mỹ học là gì
Mỹ học là khoa học về bản chất của ý thức thẩm mỹ và hoạt động thẩm mỹ
nơi con người nhằm khám phá và phát minh ra những giá trị trên cơ sở quy luật
của cái đẹp, trong đó nghệ thuật là giá trị cao nhất. Nó bao gồm các tiền đề lý luận
sau đây:
Mỹ học là một khoa học, nghĩa là nó được xây dựng trên cơ sở của các khái
niệm và mệnh đề suy lý của tư duy trừu tượng, hướng đến việc tìm hiểu những vấn
đề có tính bản chất và quy luật của ý thức thẩm mỹ và hoạt động thẩm mỹ.
Đó là khoa học về hoạt động của tinh thần, ý thức con người trong khi hướng
tới thế giới và chính mình. Như vậy mỹ học không nhằm nghiên cứu vẻ đẹp của
một dòng sông hay một bản nhạc mà nhằm nghiên cứu ý thức của con người trong
khi phát hiện ra vẻ đẹp của dòng sông và sáng tạo ra cái đẹp của nhạc phẩm, từ đó
mà rút ra đặc điểm chung của phạm trù “cái đẹp”...
Mỹ học gắn liền không chỉ sự khám phá rá những giá trị đã có trong thế giới
hiện thực hay trong thế giới tâm linh của con người, mà còn với sự phát minh, sáng
tạo ra những giá trị mới. Như vậy mỹ học không thể bằng lòng với lý luận phản
ánh mà phải vươn tới lý luận về sự sáng tạo của con người theo quy luật của cái
đẹp.
Những giá trị nói ở đây là những giá trị được hình thành và phát triển trên cơ
sở quy luật của cái đẹp, tức là những giá trị thẩm mỹ. Nói đến giá trị là nói đến cái
nhìn, cách đánh giá, nghĩa là nói đến mối quan hệ. Chỉ có thể khám phá, phát minh
ra những giá trị thẩm mỹ. Tư cách chủ thể của con người đối với thế giới hiện ra
trên nhiều mối quan hệ khác nhau: kinh tế, chính trị, đạo đức... Quan hệ thẩm mỹ
không nhất thiết đối lập với các quan hệ đó, nhưng nhất thiết phải khác về bản chất
với các quan hệ đó. Quan hệ thẩm mỹ không đặt nền tảng trên sự thoả mãn những
động cơ về kinh tế, sự mưu cầu những lợi ích về chính trị hay sự chiều theo những
quy luật đạo đức hiện hành. Quan hệ thẩm mỹ là quan hệ làm thanh lọc con người,
tách con người khỏi những mối ràng buộc có tính cách vật chất nhằm thiết lập một
3
sợi dây tinh thần giữa con người đối với thế giới và đối với chính mình trên cơ sở
của cái đẹp
Thừa nhận thiết kế mỹ thuật và những phương diện khác nhau của đời sống
thẩm mỹ cũng là hoạt động khám phá và phát minh ra các giá trị thẩm mỹ, điều đó
không có nghĩa là đánh đồng vai trò của chúng với vai trò của nghệ thuật trong tư
cách đối tượng nghiên cứu của mỹ học. Cần phải xem nghệ thuật là giá trị thẩm mỹ
cao nhất bởi vì ở đó quy luật về sự hài hoà - tức là quy luật của cái đẹp - được thực
hiện hoàn hảo hơn đâu hết. Không phải ai khác mà chính những nghệ sĩ tài năng là
thầy dạy cho công chúng biết thế nào là giá trị thẩm mỹ. Mặt khác, với tư cách là
đối tượng ưu tiên nhất của nghiên cứu mỹ học, nghệ thuật không chỉ tạo tiền đề
cho sự thai nghén và ra đời những tư tưởng mỹ học sâu sắc mà góp phần điều
chỉnh, uốn nắn những tư tưởng mỹ học đã lỗi thời và lạc hậu.
1.2 Quan niệm mỹ học phương Đông.
Trong thời cổ đại Phương Đông, những quan niệm mỹ học đã ra đời cùng với
sự xuất hiện các khái niệm mỹ học cơ bản.
Ở Ai Cập, Babilon, cái thẩm mỹ, cái đẹp được quan niệm là những cái gắn
liền với đời sống vật chất, với hệ thống vũ trụ và với cấu trúc nghệ thuật. Tư tưởng
mỹ học Ấn Độ đã diễn ra trong sự xung đột giữa những quan niệm về cái đẹp, cái
cao cả đậm màu sắc tôn giáo và những quan niệm về cái thẩm mỹ nằm trong đời
sống của những người cùng khổ (nông nô, thợ thủ công và trí thức bình dân). Các
đại biểu nổi tiếng nhất của mỹ học cổ Ấn Độ đều thuộc về các hệ thống triết học
chủ yếu đương thời; và tư tưởng mỹ học thường lẫn vào các quan niệm triết học
chung. Tư tưởng mỹ học duy vật. (Mimansa, Samkhya, Nyaya-Vaisesika,
Lokayata, v.v...) xem cái thẩm mỹ có cội nguồn từ thế giới hiện thực, từ vật chất
phi ý thức hoặc từ nguyên tử, còn ý thức thẩm mỹ là sản phẩm của cảm giác, là
hình ảnh của đối tượng, khách thể. Do đó, sáng tạo thẩm mỹ không thể ở ngoài con
người, “thân thể” con người, cũng như không thể tách rời nhận thức kinh nghiệm
của con người. Chính những người lao động bình thường là chủ nhân của các giá
trị văn hoá thẩm mỹ.
4
Đối với các xu hướng triết học - tôn giáo (vedanta, Phật giáo, v.v...), cái thẩm
mỹ, quan hệ thẩm mỹ là sản phẩm của ý thức thuần tuý, của “linh hồn vũ trụ” hay
“linh hồn cá thể”. Đời sống thẩm mỹ, hoạt động thẩm mỹ của con người rút cuộc
lại cũng nằm trong “luân hồi” và “nghiệp”. Như thế, mọi sáng tạo văn hoá thẩm
mỹ của con người đều không thể thoát ra khỏi mục tiêu “niết bàn”, “Không”.
Trên thực tế, các quan niệm thẩm mỹ ở Ấn Độ cổ đại có xu hướng chuyển dần
sang duy tâm chủ quan và hữu thần.
Tư tưởng mỹ học cổ đại Trung Hoa có từ rất sớm (thế kỷ VI trước CN) khi xã
hội ở vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Mỹ
học được xem là một bộ phận, yếu tố của triết học, đạo đức và chính trị, đồng thời
là công cụ “tranh minh” về tư tưởng và vũ khí đấu tranh vì lợi ích giai cấp và xã
hội.
Mỹ học Tung Hoa là sự đan cài và đầy mâu thuẫn giữa các luận thuyết mỹ
học khác nhau. Kuynh hướng tích cực nhất là xem cái “mỹ” có nguồn gốc ở cái
“chân” của tự nhiên. Vì vậy, cái “mỹ” của nghệ thuật cần lĩnh hội cái “chân” đó
(có chọn lọc) thông qua sự thể hiện cái “tâm”, “cái “tình” thuần khiết của người
sáng tạo. Quan niệm này được thể hiện đặc sắc, phong phú trong thi ca và hội hoạ.
Khuynh hướng mỹ học quý tộc thường đề cao “đạo”, “lý tưởng” phụ thuộc vào hệ
tư tưởng thống trị và xem cái thẩm mỹ là phẩm chất “người quân tử” (kẻ đại diện
cho quyền lực tinh thần của giai cấp thống trị). Từ góc nhìn “Phương Đông” và
“bản địa”, mỹ học cổ đại Trung Hoa đã xây dựng một hệ thống lý luận và các
phạm trù cơ bản. Nó đề cao sự hoà đồng giữa chủ thể và khách thể, giữa con người
với tự nhiên, xã hội. Thấm đượm triết lý nhân sinh, đạo đức và chính trị, mỹ học
đòi hỏi sự thống nhất giữa mỹ và thiện, tình, ý và đạo lý, sáng tạo thẩm mỹ và
trách nhiệm xã hội. “Lịch trình phát triển của nó (mỹ học cổ đại Trung Hoa) bao
trùm cả hệ thống quy ước của quân chúng và sự đòi hỏi của cá tính con người”.
Mỹ học cổ đại Trung Hoa đã phát triển trên cơ sở của sự xung đột đa dạng, quyết
liệt giữa “bách gia, chư tử”. Nho gia với Khổng tử. Mạnh Tử, Mặc gia với Mặc Tử,
Đạo gia với Lão Tử, Trang Tử, Pháp gia với Hàn Phi: Âm Dương- Ngũ Hành,
Dịch truyền, Dịch kinh; v.v... Khổng Tử, Lão Tử, Tuân Tử, Khuất Nguyên, Tư Mã
5
Thiên, Lưu Hiệp, Viên Mai, Nguyễn Tịch, Hàn Dũ, Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn, Đỗ
Phủ v.v... là những chủ soái chủ mỹ học cổ đại Trung Hoa. Mỹ học cổ đại Trung
Hoa đã có một lịch sử lâu dài và có những thành tựu quý báu, lớn lao. Song, do
nảy sinh và phát triển trên cơ sở của phương thức sản xuất châu Á và chế độ nông
nô, phong kiến, mỹ học này đã không thể vượt lên được và về sau thường rơi vào
duy tâm siêu hình.
Đặc điểm nổi bật của tư tưởng mỹ học Việt Nam dưới chế độ phong kiến là
sự gắn bó chặt chẽ giữa sáng tạo thẩm mỹ và đời sống nhiều mặt của dân tộc. Chủ
nghĩa nhân văn về con người và đất nước là cơ sở tinh thần trực tiếp của cảm hứng
nghệ thuật. Cái đẹp, cái cao cả, cái anh hùng dường như đồng nhất với cái thẩm
mỹ. Còn cái tâm, cái hồn của con người hoàn toàn hoà hợp với tự nhiên và số phận
của dân tộc. Về mặt triết học, đó là những quan niệm mỹ học có tính duy vật mộc
mạc. Tuy nhiên, ảnh hưởng của quan niệm “văn dỉ tải đạo” và thuyết “định mệnh”,
“thiên mệnh” đã phần nào che mờ cái “chân”, cái “thiện” và cái “mỹ”. Quan niệm
mỹ học của Lý Đạo Tái, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn
Du, Ngô Thời Nhậm, Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Lý Văn Phúc... đã hướng cái
thẩm mỹ vào những giá trị vật chất và tinh thần của con người và đất nước. Đặc
biệt, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyên Gia Thiều, Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát
đã tiếp cận những giá trị tư tưởng mỹ học hiện thực chủ nghĩa.
Mỹ học trong thời đại phong kiến (Trung Hoa, Ấn Độ, Việt Nam...) đã chịu
một “chế độ kiểm duyệt châu Á”. Điều đó giải thích tại sao những tư tưởng mỹ học
trên đây vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi những quan niệm thần bí, siêu hình.
1.3. Quan niệm mỹ học phương Tây.
Ở phương Tây, mỹ học với tính cách là một trong những hình thái ý thức xã
hội và là một yếu tố của triết học, lần đầu tiên được hình thành trong xã hội chiếm
hữu nô lệ. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ Hy Lạp, những khuynh hướng mỹ học
chính (gắn liền với các học thuyết triết học) đã có những thành tựu lý luận rõ rệt.
Các quan niệm mỹ học duy vật của Héraclite, Démocrite, Aristoteles, Epicure đã
xem cái thẩm mỹ có nguồn gốc ở các thuộc tính vật chất, các quan hệ bên trong
của tồn tại khách quan. Quan niệm của các nhà mỹ học Hy Lạp về mối quan hệ
6
giữa hiện thực khách quan và ý thức thẩm mỹ cũng có yếu tố biện chứng duy vật.
Ngược lại, mỹ học duy tâm của phái Pythagore, Soctate và đặc biệt Platon cho
rằng: cơ sở của cái thẩm mỹ là các quan hệ có bản tính ý niệm, cái đẹp là ý niệm tự
tồn tại, cũng như nghệ thuật không có giá trị nhận thức.
Mỹ học phong kiến Trung cổ Tây Âu đã tiếp thu và mở rộng mỹ học duy tâm
cổ đại. Các nhà thần học cho cội nguồn của cái thẩm mỹ, cái đẹp chỉ tìm thấy ở
thần thánh: Thần thánh là cái đẹp, cái cao cả vĩnh cửu, siêu cảm và tuyệt đối: do
vậy, nghệ thuật cần hoàn toàn phụ thuộc vào giáo lý Nhà Thờ và niềm tin đối với
Đảng tối cao.
Mỹ học thời đại Phục Hưng đã phát triển truyền thống mỹ học duy vật cổ đại.
Shakespeare, Cervantes đã xem tự nhiên và con người là đẹp và nghệ thuật có
nhiệm vụ tái tạo cái đẹp đó. Đối với các nhà văn hoá Phục Hưng, tự nhiên và con
người là nguồn gốc và đối tượng của mô tả nghệ thuật; cũng như các khoa học
khác, nghệ thuật cần vươn tới sự nhận thức đúng đắn sự thật khách quan với nhiệt
tình khẳng định. Những quan điểm mỹ học duy vật trên hoàn toàn đối lập với mỹ
học phong kiến và giáo lý Nhà Thờ trong “đêm dài trung cổ”, đã góp phần quan
trọng vào “một cuộc đảo lộn tiến bộ lớn nhất” (F.Engen).
Mỹ học của chủ nghĩa cổ điển là cái bóng in đậm màu sắc của chủ nghĩa duy
lý trong triết học. Nó đòi hỏi cái đẹp phải là “tự nhiên đã được tinh chế” qua lý
tưởng duy lý với các chuẩn mực giáo điều, khô cứng hoàn toàn xa rời tính cụ thể,
sinh động của các hiện tượng thẩm mỹ trong hiện thực.
Mỹ học Khai Sáng đã phát triển rực rỡ với các đại biểu: Voltaire,
Montesquieu, Diderot, Rousseau, Goethe, Schiller... Khuynh hướng duy vật của họ
đòi hỏi phải lấy hiện thực làm cơ sở khách quan của các phạm trù mỹ học cơ bản,
xem nghệ thuật có bản chất xã hội và cần đạt tới tính nhân dân. Tuy nhiên, do
phương pháp tư duy siêu hình, mỹ học Khai Sáng đã xem xét các hiện tượng thẩm
mỹ và sáng tạo nghệ thuật một cách cô lập, máy móc và không vận động. Các nhà
Khai Sáng chỉ thừa nhận “con người chân chính trong hình tượng một công dân
trừu tượng” (C.Mác). Công lao to lớn của mỹ học Khai Sáng là đã khẳng định sức
mạnh của lý tưởng nhân đạo, lý trí và ý thức tự do trong con người là những yếu tố
7
cơ bản của quan hệ thẩm mỹ: đồng thời, đã chống lại các quan niệm mỹ học phong
kiến, thần bí và các công thức “vô hiệu” của chủ nghĩa cổ điển.
Đỉnh cao nhất của mỹ học duy tâm Phương Tây trước Mác là mỹ học cổ điển
Đức với các đại biểu nổi tiếng nhất: Kant, Fichte, Schellinge, Hegel. Mặc dầu có
nhiều mâu thuẫn, nhưng những quan niệm mỹ học của Kant chứa đựng một loạt
phỏng đoán thiên tài về bản chất của cái thẩm mỹ và các phạm trù cơ bản của mỹ
học, về ý thức thẩm mỹ và nguyên tắc thẩm mỹ. Nhược điểm nghiêm trọng của mỹ
học Kant là đã phủ nhận tính khách quan của các quy luật thẩm mỹ; chủ quan hoá
tuyệt đối đặc thù của cái thẩm mỹ và tách cái thẩm mỹ ra khỏi các lĩnh vực liên
quan (đạo đức, khoa học, chính trị và các lĩnh vực thực tiễn xã hội). Trong hệ
thống mỹ học duy tâm khách quan của Hegel, phương pháp biện chứng đã được
vận dụng để giải quyết các vấn đề thuộc bản chất cái thẩm mỹ và các phạm trù cơ
bản của mỹ học. Quan điểm biện chứng cũng đã đưa Hegel đến những khám phá
mới về quy luật phát triển và vai trò của nghệ thuật trong đời sống xã hội, về hình
tượng nghệ thuật và các hình thức riêng biệt của sáng tạo nghệ thuật. Hegel là một
trong số những người đầu tiên vạch rõ tính thù địch của chủ nghĩa tư bản đối với
nghệ thuật. Mặt khác, triết học duy tâm khách quan của Hegel đã quy cái thẩm mỹ
và nghệ thuật về “sự tự nhận thức các ý niệm tuyệt đối”, xem tính lịch sử của nghệ
thuật phụ thuộc vào cái lôgic tư biện thần bí. Đó là “chủ nghĩa duy vật lộn đầu
xuống dưới”.
Tư tưởng mỹ học tiên tiến Nga thế kỷ XIX giữ vai trò đặc biệt lớn lao trong
sự phát triển mỹ học trước Mác. Các đại biểu chính của khuynh hướng này là
Biêlinxki, Gherxen, Tsernưsevxki. Đôbrôliubov, Tônxtôi, Đôxtôievxki.. Trong khi
phê phán mỹ học duy tâm cổ điển Đức, mỹ học tiên tiến Nga đã giải quyết theo
tinh thần duy vật hàng loạt vấn đề thuộc mỹ học và nghệ thuật: Bản chất khách
quan của cái thẩm mỹ và các phạm trù liên quan; tính hiện thực, tính tư tưởng và
tính nhân dân, vai trò cải tạo và nhân đạo hoá con người của nghệ thuật; khẳng
định giá trị tích cực của chủ nghĩa hiện thực và phê phán nghệ thuật suy đồi. Tư
tưởng mỹ học tiên tiến Nga “đã tiến sát tới chủ nghĩa duy vật biện chứng và đã
dừng lại trước chủ nghĩa duy vật lịch sử”, với giá trị có “tầm quan trọng thế giới”.
8
(Lênin) Mỹ học phi macxit hiện đại là một trong những biểu hiện tập trung nhất
của cuộc khủng hoảng tư tưởng tư sản hiện nay. Mặc dù có nhiều trường phái,
khuynh hướng “đối lập” nhau, nhưng các luận thuyết vẫn có “một tiếng nói
chung”, “một điểm hội tụ”: phủ nhận “đến tận gốc rễ” bản chất và năng lực sáng
tạo thẩm mỹ của con người. Đối với các nhà mỹ học tư sản hiện đại, hoạt động
thẩm mỹ, ý thức thẩm mỹ chỉ là “bản sao của Chúa”; là “cấu trúc ngữ nghĩa thuần
tuý”; là “cái tôi tự do nổi loạn”; là “quá trình cảm nghiệm trực giác phi lý tính”; là
“sự hoạt động và lòng tin vào cái gì đó có lợi v.v... Xét về mặt thế giới quan và
phương pháp luận, mỹ học tư sản hiện đại là chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình
của triết học tư sản đã được “tái sinh” trong mỹ học và lý luận nghệ thuật tư sản
phương Tây hiện đại.
1.4. Sự hình thành và phát triển mỹ học Mác - Lênin.
Sự ra đời của mỹ học Mác được xem là một bước ngoặt căn bản trong sự phát
triển tư tưởng mỹ học toàn thế giới. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và các quan
niệm duy vật về lịch sử là cơ sở triết học chung của mỹ học Mác -Lênin. Nhờ đó,
mỹ học mới giải thích đúng đắn bản chất cái thẩm mỹ, ý thức thẩm mỹ và hoạt
động thẩm mỹ, các quy luật vận động và phát triển của nghệ thuật. Lần đầu tiên
trong lịch sử tư tưởng mỹ học, quan điểm khoa học macxit đã vạch rõ: Ý thức
thẩm mỹ, với các hình thức biểu hiện khác nhau của nó, là sự phản ánh hiện thực
tự nhiên, xã hội, và là một hình thái của ý thức xã hội. Đồng thời, sự nẩy sinh, phát
triển của ý thức thẩm mỹ, hoạt động thẩm mỹ và sáng tạo nghệ thuật có cơ sở
khách quan ngay trong quá trình thực hiện của cuộc sống con người với những
điều kiện tồn tại xã hội của nó.
C.Mác và F.Engen đã đặc biệt nhấn mạnh vai trò quyết định của thực tiễn xã
hội đối với sự hình thành và phát triển con người với tư cách chủ thể nhận thức và
sáng tạo thẩm mỹ. Con người chủ động, tích cực cải tạo thế giới “theo quy luật của
cái đẹp” và chỉ trong thực tiễn, bản chất “tổng hoà những quan hệ xã hội” của con
người mới bao hàm quan hệ thẩm mỹ và hoạt động sáng tạo thẩm mỹ.
C.Mác và F.Engen đã chứng minh rằng, trong điều kiện xã hội có đấu tranh
giai cấp, ý thức thẩm mỹ mang đặc điểm giai cấp, tức là chịu sự quy định của các
9
quyền lợi, nguyện vọng của các giai cấp nhất định ở những hình thái kinh tế - xã
hội nhất định.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã vạch ra tính mâu thuẫn của chủ
nghĩa tư bản đối với văn hoá thẩm mỹ và nghệ thuật; đồng thời khẳng định vai trò
quyết định của cách mạng vô sản trong việc làm hình thành và phát triển một nền
văn hoá thẩm mỹ mới có giá trị nhân văn - nhân đạo toàn thế giới.
Giai đoạn Lênin trong lịch sử tư tưởng mỹ học macxit phản ánh một bước tiến
của lý luận nhận thức thẩm mỹ trong thời đại cách mạng vô sản. Lý luận nhận thức
biện chứng duy vật của Lênin là cơ sở tư tưởng triết học đặc biệt quan trọng để giải
thích bản chất và vai trò cải tạo xã hội của hoạt động thẩm mỹ và ý thức thẩm mỹ.
Trong khi phát triển học thuyết Mác về ý thức xã hội, Lênin đã lý giải nguyên tắc
tính đảng, tính nhân dân của ý thức thẩm mỹ và sáng tạo nghệ thuật. Nguyên tắc
Lênin đòi hỏi văn hoá, nghệ thuật phải thuộc về sự nghiệp cách mạng do Đảng
lãnh đạo, “phục vụ hàng triệu và hàng chục triệu người lao động, tức là tinh hoa,
sức mạnh, tương lai của đất nước”. Từ quan điểm lý luận phản ánh, Lênin giải
quyết một cách khoa học vấn đề điều kiện kinh tế - xã hội và tự do thật sự của nghệ
sĩ, vấn đề kế thừa và phát triển, truyền thống và hiện đại của văn hoá thẩm mỹ và
sáng tạo nghệ thuật. Để phát triển học thuyết Mác về văn hoá tinh thần, quan niệm
Lênin đã nêu rõ hai thứ văn hoá trong mỗi nền văn hoá dân tộc, xác định tính mâu
thuẫn không thể điều hoà được giữa văn hoá dân chủ, tiên tiến và văn hoá phản dân
chủ, phản động. Đồng thời nguyên tắc Lênin về văn hoá vô sản là cơ sở tư tưởng
để xây dựng văn hoá thẩm mỹ xã hội chủ nghĩa.
Quan niệm văn hoá, văn nghệ Hồ Chí Minh đánh dấu một bước ngoặt đặc biệt
lớn lao trong lịch sử phát triển văn hoá tinh thần Việt Nam và chủ nghĩa nhân văn
ở thời đại chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc và lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những yêu cầu khách quan của văn hoá thẩm mỹ xã hội chủ
nghĩa có tính dân tộc, trách nhiệm “chiến sĩ” của nghệ sĩ và mục đích “phục vụ
nhân dân, phục vụ cách mạng” của mọi hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Nhấn mạnh
vai trò của thực tiễn cách mạng đối với sáng tạo thẩm mỹ; coi trọng giá trị thẩm
mỹ của cái đẹp, cái cao cả được phản ánh trong hoạt động thẩm mỹ và nghệ thuật
10
đối với việc giáo dục, cảm hoá quần chúng lao động; tư tưởng văn hoá thẩm mỹ
Hồ Chí Minh thực sự là những nguyên tắc nền móng cho sự phát triển của đời sống
thẩm mỹ dân tộc xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
11
CHƯƠNG II
MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA MỸ HỌC
2.1. CÁI THẨM MỸ
1. Khái niệm “cái thẩm mỹ”.
- Định nghĩa “cái thẩm mỹ”
Cái thẩm mỹ là một khái niệm (phạm trù) phản ánh toàn bộ giá trị thẩm mỹ
chung của các sự vật, hiện tượng thẩm mỹ trong hiện thực (tức của các khách thể
thẩm mỹ, đối tượng thẩm mỹ.
- Nguồn gốc và cơ sở khách quan của cái thẩm mỹ.
Lao động, hoạt động thực tiễn của con người là nguồn gốc và là cơ sở khách
quan của cái thẩm mỹ. Bằng lao động, hoạt động thực tiễn và thông qua lao động,
hoạt động thực tiễn này, con người đã được hình thành và phát triển trong đó có
năng lực (khả năng) thẩm mỹ.
Nhờ lao động, hoạt động thực tiễn, con người phản ảnh và nhận thức hiện
thực, biến hiện thực thành khách thể thẩm mỹ, đối tượng thẩm mỹ. Chính trong lao
động, hoạt động thực tiễn, con người đã được hình thành và phát triển trong đó có
năng lực (khả năng) thẩm mỹ.
Nhờ lao động, hoạt động thực tiễn, con người phản ánh và nhận thức hiện thực,
biến hiện thực thành khách thể thẩm mỹ, đối tượng thẩm mỹ. Chính trong lao
động, hoạt động thực tiễn, con người mới nắm được các phẩm chất thẩm mỹ của
các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Quá trình lao động, hoạt động thực tiễn là quá trình “hoạt động xã hội”
(C.Mác). Bởi vậy, cái thẩm mỹ với tính cách là sản phẩm tất yếu, khách quan của
lao động, hoạt động thực tiễn cũng mang tính xã hội, được xã hội hoá. Tính xã hội
của cái thẩm mỹ chính là tính khách quan của cái thẩm mỹ.
- Giá trị thẩm mỹ.
Giá trị thẩm mỹ là tác dụng tích cực (hoặc tiêu cực) của khách thể thẩm mỹ,
đối tượng thẩm mỹ trong quan hệ thẩm mỹ đối với con người và đối với xã hội nói
chung. Trong quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực, các khách thể
thẩm mỹ, đối tượng thẩm mỹ có thể đem đến cho chủ thể giá trị thẩm mỹ làm phát
12
triển con người về mặt thẩm mỹ (tích cực) hoặc làm tha hoá con người về mặt
thẩm mỹ (tiêu cực).
Trong cái thẩm mỹ, giá trị thẩm mỹ là thuộc tính chung nhất có vị trí bao trùm
và cũng là mục đích cuối cùng và cao nhất của cái thẩm mỹ. Nếu cái thẩm mỹ là
kết quả của mối quan hệ của chủ thể thẩm mỹ đối với đối tượng thẩm mỹ, thì chính
giá trị thẩm mỹ là biểu hiện của chất lượng cái thẩm mỹ. Vì vậy, khi nói tới cái
thẩm mỹ cũng có nghĩa là nói tới giá trị thẩm mỹ của nó.
Cũng trong cái thẩm mỹ, giá trị thẩm mỹ, con người vừa sáng tạo thẩm mỹ
vừa hưởng thụ (tiếp nhận) thẩm mỹ. Sáng tạo và hưởng thụ cái thẩm mỹ giá trị
thẩm mỹ là yêu cầu thường xuyên và cần thiết của con người. Cái thẩm mỹ và giá
trị thẩm mỹ trở thành nội dung và thước đo chất lượng sống của con người, nhất là
chất lượng của văn hoá - xã hội.
2.2.1 Bản chất và nội dung của cái thẩm mỹ.
- Mối quan hệ của chủ thể thẩm mỹ đối với khách thể thẩm mỹ.
Cái thẩm mỹ chỉ có được khi có mối quan hệ giữa chủ thể thẩm mỹ và khách
thể thẩm mỹ (đối tượng thẩm mỹ). Cái thẩm mỹ được xem là kết quả của sự hoạt
động thẩm mỹ của con người, trong đó là quan hệ biện chứng giữa chủ thể thẩm
mỹ và đối tượng thẩm mỹ. Giá trị thẩm mỹ cũng chỉ được xác định trong mối quan
hệ này.
Chủ thể thẩm mỹ là con người tiếp cận, nhận thức trước đối tượng thẩm mỹ,
trong đó chủ thể thẩm mỹ cảm thụ, xem xét và định giá trị thẩm mỹ của đối tượng
thẩm mỹ bằng ý thức thẩm mỹ của mình. Chủ thể thẩm mỹ là thành phần chủ
động, tích cực trong quan hệ thẩm mỹ của mình đối với đối tượng thẩm mỹ.
Đối tượng thẩm mỹ là các sự vật, hiện tượng thẩm mỹ trong hiện thực khách
quan có (hoặc không có) tính chất và trình độ hài hoà thẩm mỹ, hoàn thiện thẩm
mỹ nhất định. Các đối tượng thẩm mỹ bao giờ cũng là các sự vật, hiện tượng cụ thể
- cảm tính, toàn vẹn, sinh động và biểu cảm.
- Nhu cầu thẩm mỹ, lợi ích thẩm mỹ và mục đích thẩm mỹ.
Cái thẩm mỹ luôn luôn mang trong bản thẩn mình nhu cầu thẩm mỹ, lợi ích
thẩm mỹ và mục đích thẩm mỹ. Nhu cầu thẩm mỹ là cái nhất thiết phải có về mặt
13
thẩm mỹ mà con người đang đòi hỏi được đáp ứng. Lợi ích thẩm mỹ là cái đáp ứng
một cách hiện thực nhu cầu thẩm mỹ, trong đó lợi ích thẩm mỹ đã thoả mãn được
về mặt thẩm mỹ mà con người đòi hỏi. Ở đây, nhu cầu thẩm mỹ và lợi ích thẩm mỹ
luôn đi liền với nhau, tác động và quy định lẫn nhau.
Mục đích thẩm mỹ là mục tiêu sâu xa, là thước đo (chuẩn mực) và cũng là sản
phẩm của nhu cầu thẩm mỹ và lợi ích thẩm mỹ, trong đó con người xác định cái
thẩm mỹ cần có, nên có. Mục đích thẩm mỹ là cái thẩm mỹ, giá trị thẩm mỹ có tính
lý tưởng mà hoạt động thẩm mỹ của con người hướng tới, vươn tới để chúng trở
thành hiện thực.
Sự vận động và phát triển của con người đã khiến cho nhu cầu thẩm mỹ, lợi
ích thẩm mỹ và mục đích thẩm mỹ vận động và phát triển. Chính sự vận động và
phát triển của nhu cầu thẩm mỹ, lợi ích thẩm mỹ và mục đích thẩm mỹ là động lực
tích cực để đời sống thẩm mỹ của cá nhân và của xã hội nói chung ngày càng trở
nên đa dạng, sâu sắc và phát triển.
- Tính chất xã hội của cái thẩm mỹ.
Là sản phẩm của đời sống xã hội và là nhân tố của con người trong xã hội
nhất định, cái thẩm mỹ bao giờ cũng mang tính xã hội lịch sử - cụ thể, tính giai cấp
(trong xã hội có giai cấp), tính cộng đồng, tính dân tộc và tính nhân loại - thời đại.
Đồng thời, xét đến cùng, cái thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ của nó chịu sự quy định,
quyết định của hình thái kinh tế - xã hội và sự tác động của các hình thành ý thức
xã hội (ý thức chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, khoa học, triết học...).
Cái thẩm mỹ tồn tại trong dạng con người - cá nhân quan hệ thẩm mỹ với hiện
thực. Con người - cá nhân là “cá nhân hiện thực”, “là một” thực thể xã hội. Bởi
vậy, cái thẩm mỹ vừa mang cái chung (của xã hội) vừa mang cái riêng, chỉ có ở
một cá nhân riêng lẻ, và cái chung này chỉ tồn tại trong cái riêng thông qua cái
riêng nhất định. Đương nhiên, cái riêng nói trên không ở ngoài cái xã hội do con
người - cá nhân, thực chất là một bản chất do “tổng hoà những quan hệ xã hội”
(C.Mác), tạo nên. Chính nhờ tính cá nhân của chủ thể thẩm mỹ mà cái thẩm mỹ trở
nên phong phú, đa dạng và nhiều chiều.
14
Cái thẩm mỹ, với tính cách là một giá trị thẩm mỹ bao giờ cũng có một giá trị
xã hội nhất định. Xuất phát từ những điều kiện xã hội nhất định và thể hiện một
quan hệ xã hội nhất định, cái thẩm mỹ mang trong bản thân nó một giá trị xã hội
nào đó. Ở đây có thể là giá trị xã hội có tính tích cực (như cái đẹp, cái cao cả), hoặc
có tính tiêu cực (như cái xấu, cái thấp hèn). Cái thẩm mỹ tích cực là một hình thức
tham gia vào quá trình phát triển của xã hội.
2.3. Các hình thức biểu hiện của cái thẩm mỹ.
- Cáí thẩm mỹ - tự nhiên.
Cái thẩm mỹ - tự nhiên là cái thẩm mỹ được thể hiện trong quan hệ thẩm mỹ
của con người đối với các hiện tượng, các sự vật tự nhiên. Quan hệ thẩm mỹ, giá
trị thẩm mỹ trong cái thẩm mỹ - tự nhiên là quan hệ thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ
chủ yếu về cái đẹp - tự nhiên và cái cao cả - tự nhiên. trong cái thẩm mỹ - tự nhiên
con người trực tiếp hưởng thụ thẩm mỹ bằng niềm vui, sự hào hứng với tâm trạng
êm dịu hoặc ngạc nhiên, thích thú cao độ.
- Cái thẩm mỹ - xã hội.
Cái thẩm mỹ - xã hội là cái thẩm mỹ được thể hiện trong quan hệ thẩm mỹ của
con người đối với các sự vật, hiện tượng của sự tác động lẫn nhau giữa người với
người. Cái thẩm mỹ - xã hội có nội dung phản ánh bao quát, tổng hợp toàn bộ bản
chất của hiện thực xã hội về mặt thẩm mỹ. Đặc trưng cơ bản của cái thẩm mỹ - xã
hội là sự phản ánh trực tiếp con người trong tính đa diện và riêng biệt của nó, trong
tính xã hội nhiều vẻ và phức tạp của nó về mặt thẩm mỹ. Cái đẹp, cái xấu, cái cao
cả, cái thấp hèn trong xã hội, cái bi, cái hài luôn luôn chứa đựng những quan hệ xã
hội có tính sinh động và có tính quy luật phổ biến, trong đó mặt thẩm mỹ của “số
phận con người” chiếm vị trí cốt lõi và nổi bật.
- Cái thẩm mỹ - thực tiễn.
Cái thẩm mỹ - thực tiễn là cái thẩm mỹ được thể hiện trong hoạt động thực
tiễn sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần của con người, trong đó quan hệ thẩm
mỹ và giá trị thẩm mỹ của con người đối với hiện thực cần cải tạo được bộc lộ một
cách toàn diện và triệt để. Đặc trưng cơ bản của cái thẩm mỹ - thực tiễn là sự sáng
tạo “theo quy luật của cái đẹp” vừa chịu sự quy định trực tiếp của ý thức thẩm mỹ
15
thuộc chủ thể thẩm mỹ, vừa phụ thuộc vào nhu cầu và bản chất của hoạt động thực
tiễn thuộc xã hội. Cái thẩm mỹ - thực tiễn đã đem lại giá trị thẩm mỹ cơ bản nhất,
quyết định nhất cho đời sống thẩm mỹ của xã hội. Trong thời đại ngày nay, khi
con người không ngừng mở rộng và nâng cao khả năng hoạt động thực tiễn, cái
thẩm mỹ, đặc biệt là cái đẹp, được biểu hiện sâu sắc và phong phú trong cái thẩm
mỹ - thực tiễn.
- Cái thẩm mỹ - nghệ thuật.
Cái thẩm mỹ - nghệ thuật là cái thẩm mỹ được thể hiện trong sáng tạo nghệ
thuật và trong thưởng thức (tiếp nhận) nghệ thuật. Cái thẩm mỹ - nghệ thuật là một
hình thức biểu hiện tập trung nhất và sáng tạo nhất của cái thẩm mỹ nói chung.
Đặc trưng chung, cơ bản của cái thẩm mỹ - nghệ thuật là, từ hình tượng nghệ thuật
với các quan hệ xã hội nhiều chiều, phức tạp và sinh động của con người được diễn
tả, nghệ thuật đã đem lại định hướng phát triển cái đẹp, cái cao cả của con người,
nhằm nhân đạo hoá đời sống tâm linh và tình cảm con người.
2.2 HOẠT ĐỘNG THẨM MỸ
1. Đời sống xã hội và đời sống thẩm mỹ của con người.
- Đời sống xã hội.
Đời sống xã hội là toàn bộ hoạt động vật chất và tinh thần của con người
trong mối quan hệ của sự tác động lẫn nhau giữa người với người . “Xã hội là sản
phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người” (C.Mác). Thực chất của đời
sống xã hội là mối quan hệ giữa con người với con người trong các tập đoàn, giai
cấp, cộng đồng, dân tộc và thế giới. Quan hệ giữa con người với nhau trong nhóm,
gia đình, tập thể cũng mang tính xã hội. Trong các quan hệ trên, sự hoạt động của
con người trong mọi lĩnh vực của hiện thực đã tạo nên đời sống xã hội.
Trong đời sống xã hội, đời sống sản xuất vật chất có tính cơ bản nhất và giữ
vai trò quyết định đối với mọi hoạt động khác. Đời sống tinh thần (ý thức) là phản
ánh đời sống sản xuất vật chất và có tác động trở lại đời sống vật chất của xã hội.
- Đời sống thẩm mỹ.
Đời sống thẩm mỹ là một hình thức đặc biệt của đời sống xã hội, trong đó
hoạt động của con người có tính hài hoài thẩm mỹ và hoàn thiện thẩm mỹ.
16
Thực chất của đời sống thẩm mỹ là con người trong mối quan hệ xã hội đã
hoạt động để sáng tạo, “chế tạo” bản thân mình và thế giới xung quanh “theo quy
luật của cái đẹp” (C.Mác). Cũng trong sự sáng tạo, “chế tạo” này con người hưởng
thụ cái đẹp do chính mình tạo ra.
Đời sống thẩm mỹ là một nhân tố, yếu tố cấu thành đời sống xã hội. Trong
mọi lĩnh vực của đời sống sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần đều có hoạt động
của con người để tạo nên đời sống thẩm mỹ. Đời sống thẩm mỹ và hoạt động thẩm
mỹ của con người gắn liền, hoà tan vào bất cứ hoạt động nào của con người trong
đời sống xã hội. Sự tồn tại và phát triển của đời sống xã hội bao giờ cũng bao hàm
sự tồn tại và phát triển của đời sống thẩm mỹ - đời sống thẩm mỹ trở thành động
lực và mục tiêu của đời sống xã hội. Mặt khác, chính đời sống xã hội lại tác động
và quy định sự tồn tại và phát triển của đời sống thẩm mỹ, đời sống thẩm mỹ trở
thành sản phẩm tất yếu của đời sống xã hội.
- Vị trí của con người.
Con người là chủ thể của sự sáng tạo cuộc sống xã hội và đời sống thẩm mỹ.
Con người là lực lượng quyết định sự tồn tại và phát triển của hiện thực, của mọi
giá trị vật chất và giá trị tinh thần, trong đó có giá trị thẩm mỹ.
Đồng thời, con người cũng là sản phẩm tất yếu của xã hội. Sự hình thành và
phát triển của nhân cách con người bao giờ cũng gắn liền với những điều kiện vật
chất và tinh thần mang tính lịch sử - cụ thể của xã hội. Mặt thẩm mỹ của nhân cách
con người cũng nằm ngoài sự quy định trên.
Tư cách chủ thể - sản phẩm trong đời sống xã hội và đời sống thẩm mỹ của
con người là cơ sở để cắt nghĩa mục đích của con người: Con người tồn tại và phát
triển cho chính nó và vì chính nó. Mọi đời sống thẩm mỹ, mọi hoạt động thẩm mỹ
của con người cũng chỉ nhằm cho con người vì con người.
2. Hoạt động thẩm mỹ của con người.
- Khái niệm “hoạt động thẩm mỹ”.
Hoạt động thẩm mỹ là một khái niệm phản ánh các hiện tượng hoạt động của
con người do nhu cầu thẩm mỹ, lợi ích thẩm mỹ và mục đích thẩm mỹ quy định
nhằm tạo ra cái thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ nhất định.
Xét về nguồn gốc, hoạt động thẩm mỹ được hình thành và phát triển trong
quá trình lao động sản xuất vật chất của xã hội. Chính quá trình này đã tạo ra cho
17
con người năng lực thẩm mỹ cùng với những nhu cầu thẩm mỹ, lợi ích thẩm mỹ và
mục đích thẩm mỹ. Đồng thời, hoạt động thẩm mỹ đã làm cho con người thật sự là
người và làm cho lao động sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần của xã hội phát
triển.
Năng lực (khả năng) thẩm mỹ, nhu cầu thẩm mỹ, lợi ích thẩm mỹ và mục đích
thẩm mỹ là các yếu tố mang tính chất người. Con người đã vươn tới nhu cầu thẩm
mỹ, lợi ích thẩm mỹ và mục đích thẩm mỹ để đáp ứng sự tồn tại và phát triển tính
chất người của con người. Chính hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu
thẩm mỹ, lợi ích thẩm mỹ và mục đích thẩm mỹ của mình đã quy định nội dung,
hình thức, tính chất của hoạt động thẩm mỹ. Sản phẩm của quá trình hoạt động
thẩm mỹ là cái thẩm mỹ, giá trị thẩm mỹ, tức là những cái đáp ứng nhu cầu thẩm
mỹ, lợi ích thẩm mỹ và mục đích thẩm mỹ của con người.
- Các đặc điểm của hoạt động thẩm mỹ.
Tính tổng hợp - phổ biến là một đặc điểm cơ bản của hoạt động thẩm mỹ.
Hoạt động thẩm mỹ đòi hỏi năng lực nhiều mặt của con người: trí tuệ, tình cảm, ý
chí, tâm lý, sinh lý, nhân sinh quan, thế giới quan v.v.. Nói đòi hỏi ở con người có
phẩm chất chân - thiện - mỹ, thể hiện bản chất nhân văn, nhân đạo của con người.
Tính phổ biến gắn liền với tính tổng hợp của hoạt động thẩm mỹ. Ở bất cứ lĩnh vực
nào của đời sống, con người cũng đều mong muốn cải tạo, sáng tạo để chúng trở
nên toàn vẹn, hợp lý, hài hoà, hoàn thiện và hấp dẫn. Bởi vì con người có khả năng
“sản xuất theo kích thước của bất cứ loài nào và ở đâu cũng biết vận dụng bản chất
cố hữu của mình vào đối tượng” (C.Mác). Trong hoạt động thẩm mỹ, con người tự
phát triển bản chất người của mình làm cho chính bản thân con người và làm cho
toàn bộ thế giới xung quanh trở nên đẹp, cao cả, thấm đẫm chất nhân văn.
Tính sáng tạo thẩm mỹ là một đặc điểm nổi bật của hoạt động thẩm mỹ. Sáng
tạo thẩm mỹ là một dạng sáng tạo đặc biệt của con người. Hoạt động thẩm mỹ đã
tạo nên một thế giới thứ hai bên cạnh thế giới đã có, đang có trong hiện thực - một
“tự nhiên thứ hai”. Sáng tạo thẩm mỹ là tạo nên cái phù hợp với bản chất người,
tạo nên cái đẹp theo quy luật của cái đẹp. Sáng tạo thẩm mỹ là tạo nên cái mới về
chất để đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ, lợi ích thẩm mỹ và mục đích thẩm mỹ không
18
ngừng phát triển của con người. Sáng tạo thẩm mỹ là biểu hiện của năng lực vượt
trước về mặt thẩm mỹ của con người.
Về mặt cấu trúc, hoạt động thẩm mỹ là sự thống nhất biện chứng của ba yếu
tố cơ bản: chủ thể hoạt động thẩm mỹ, đối tượng hoạt động thẩm mỹ và phương
tiện hoạt động thẩm mỹ. Chủ thể hoạt động là con người - một “Cá nhân hiện
thực”, một “thực thể xã hội” có năng lực thẩm mỹ về nhiều mặt. Chủ thể thẩm mỹ
giữ vai trò chủ động, tích cực trong toàn bộ quá trình hoạt động thẩm mỹ. Đối
tượng hoạt động thẩm mỹ là khách thể hiện thực có các thuộc tính, nội dung bên
trong được bộc lộ ra bên ngoài qua các thuộc tính, cấu trúc, hình thức gợi cảm,
biểu cảm khiến con người có thể cảm nhận và tác động qua lại được. Phương tiện
(tư liệu) hoạt động thẩm mỹ là toàn bộ vốn tri thức văn hoá thẩm mỹ vật chất và
tinh thần mà chủ thể hoạt động thẩm mỹ có được và chúng được huy động để cải
biến đối tượng hoạt động thẩm mỹ nhằm đạt tới cái thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ.
Quá trình hoạt động thẩm mỹ được chấm dứt trong sản phẩm thẩm mỹ, tức là kết
quả của một hoạt động thẩm mỹ nhất định: cái thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ.
- Các hình thức cơ bản của hoạt động thẩm mỹ.
Hoạt động thẩm mỹ sản xuất vật chất là một hình thức hoạt động thẩm mỹ
trong sản xuất vật chất trực tiếp tạo nên cái thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ liên hợp
chặt chẽ với cái vật chất thực dụng và giá trị vật chất thực dụng. Hoạt động thẩm
mỹ sản xuất vật chất là hình thức hoạt động thẩm mỹ có tính phổ biến và chủ yếu
trong đời sống con người và xã hội.
Hoạt động thẩm mỹ sản xuất tinh thần là một hình thức hoạt động thẩm mỹ
trong lĩnh vực hoạt động ý thức, tư tưởng của con người, trực tiếp tạo nên cái thẩm
mỹ và giá trị thẩm mỹ liên hợp chặt chẽ với lý thuyết khoa học và giá trị lý thuyết
khoa học.
Hoạt động thẩm mỹ khoa học - đời thường mà một hình thức hoạt động thẩm
mỹ trong đời sống con người ngoài hoạt động sản xuất, nhằm thoả mãn nhu cầu
thẩm mỹ của cuộc sống thường ngày và tạo nên các giá trị thẩm mỹ đại chúng.
Hoạt động thẩm mỹ sinh hoạt đời thường đi liền với nếp sinh hoạt quen thuộc của
19
cá nhân và xã hội, đồng thời nó trở thành động lực tích cực đối với sự phát triển
của cuộc sống con người nói chung.
Hoạt động thẩm mỹ nghệ thuật là một hình thức hoạt động thẩm mỹ của con
người, trong đó nghệ sĩ tái tạo hiện thực để có được cái thẩm mỹ mới, giá trị thẩm
mỹ mới đối với xã hội, còn công chúng tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật như nhận
thức và xác định cái thẩm mỹ và giá trị thẩm mỹ trước một hiện tượng thẩm mỹ có
tính khách quan độc đáo, riêng biệt. Hoạt động thẩm mỹ nghệ thuật là một hình
thức hoạt động thực tiễn - tinh thần đặc thù của con người (nghệ sĩ và công chúng
nghệ thuật): đối với nghệ sĩ, nó là sự sáng tạo thẩm mỹ độc đáo của cá nhân; còn
đối với công chúng nghệ thuật, nó là đối tượng thẩm mỹ mới để thưởng thức, tiếp
nhận.
3. Vai trò và chức năng của hoạt động thẩm mỹ trong đời sống xã hội.
- Vai trò của hoạt động thẩm mỹ trong đời sống xã hội.
Hoạt động thẩm mỹ là một bộ phận, yếu tố cấu thành hoạt động sống của con
người và là một mặt không thể thiếu của hoạt động xã hội
(bao gồm cả đời
sống thẩm mỹ của xã hội). Nó, hoạt động thẩm mỹ, là động lực của sự phát triển
đời sống xã hội và cũng là nhu cầu tất yếu của sự phát triển con người. Hoạt động
thẩm mỹ chính là hạt nhât của đời sống thẩm mỹ đối với mỗi cá nhân cũng như đối
với toàn bộ xã hội.
- Chức năng của hoạt động thẩm mỹ.
Hoạt động thẩm mỹ đem lại những giá trị thẩm mỹ nhằm thoả mãn nhu cầu
thẩm mỹ, lợi ích thẩm mỹ và mục đích thẩm mỹ của con người; những giá trị thẩm
mỹ này là những cái mà con người không ngừng tìm kiếm để phát triển chính bản
thân con người. Quá trình hoạt động thẩm mỹ cũng là quá trình làm biến đổi, cải
tạo con người và xã hội nói chung theo hướng hài hoà thẩm mỹ, hoàn thiện thẩm
mỹ, theo hướng chân - thiện - mỹ mà con người và xã hội cần có, phải có. Tạo ra
cái chân - thiện - mỹ, hoạt động thẩm mỹ là một hình thức hoạt động tích cực đầy
hiệu quả để chống lại, khắc phục sự tha hoá con người, trước hết là sự tha hoá về
mặt thẩm mỹ. Mặt khác, chỉ nhờ hoạt động thẩm mỹ, con người mới có thể sáng
20
tạo ra sản phẩm và giá trị văn hoá thẩm mỹ (văn hoá thẩm mỹ vật thể và văn hoá
thẩm mỹ phi vật thể).
- Hoạt động thẩm mỹ và sự nghiệp cách mạng xã hội của nghĩa hiện nay ở
nước ta.
Hoạt động thẩm mỹ là một nhân tố tích cực góp phần nhân văn hoá con người
theo định hướng nhân văn xã hội chủ nghĩa. Hoạt động thẩm mỹ xã hội chủ nghĩa
trở thành một lực lượng thực tiễn tham gia vào quá trình đổi mới đời sống kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Đồng thời, hoạt động thẩm mỹ tạo nên một nền văn hoá
thẩm mỹ mới về chất nhằm đáp ứng nhu cầu mới về thẩm mỹ của nhân dân, của
dân tộc.
2.3 Ý THỨC THẨM MỸ
1. Cơ sở chủ quan và khách quan của ý thức thẩm mỹ.
Những nhân tố chủ quan làm cơ sở cho ý thức thẩm mỹ.
Cơ sở chủ quan của ý thức thẩm mỹ là toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần
của chủ thể thẩm mỹ, trong đó đời sống vật chất giữ vai trò quyết định và đời sống
tinh thần có tác động tích cực. Vốn đời sống vật chất bao gồm mọi hoạt động, quan
hệ vật chất của chủ thể đối với cá nhân riêng biệt và đối với xã hội bên ngoài. Còn
vối đời sống tinh thần là ý thức, tư tưởng và quan điểm của chủ thể về chính trị,
đạo đức, văn hoá, triết học, khoa học v.v... Cần kể đến các nhân tố giáo dục, tâm
lý, sinh lý cũng tham gia tích cực vào quá trình làm hình thành và phát triển ý thức
thẩm mỹ.
- Những nhân tố khách quan làm cơ sở cho ý thức thẩm mỹ.
Cơ sở khách quan của ý thức thẩm mỹ là toàn bộ điều kiện kinh tế - xã hội,
văn hoá chung của xã hội đã tác động và quy định ý thức thẩm mỹ của chủ thể
thẩm mỹ. “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội” (C.Mác). Những quan hệ kinh tế - xã hội, văn hoá chung đã quy
định cuộc sống về mọi mặt của chủ thể thẩm mỹ - người nói chung, trong đó quy
định cả đời sống thẩm mỹ của nó. Ý thức thẩm mỹ chính là phản ánh điều kiện
kinh tế - xã hội, văn hoá của xã hội. Như thế, ý thức thẩm mỹ, như các hình thái ý
thức xã hội khác, là sự phản ánh tồn tại xã hội, tức là sự phản ánh đời sống vật chất
21
cùng toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Song, ý thức thẩm mỹ
như các hình thái ý thức khác, không phụ thuộc vào tồn tại xã hội một cách thụ
động mà có tác động tích cực trở lại tồn tại xã hội. Ý thức thẩm mỹ đã thể hiện khả
năng của ý thức nhằm sáng tạo hiện thực xã hội theo quy luật của cái đẹp.
Mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan của ý
thức thẩm mỹ.
Xét tới cùng, nhân tố khách quan đã quy định, quyết định nhân tố chủ quan
của ý thức thẩm mỹ. Ý thức thẩm mỹ là kết quả của sự phản ánh những điều kiện
khách quan của tồn tại xã hội. Nhưng ý thức thẩm mỹ không phải là “bản sao” của
những điều kiện khách quan của hiện thực xã hội, mà là sự phản ánh sáng tạo - tích
cực hiện thực và có tác động tích cực, tham gia một cách năng động vào quá trình
cải tạo đời sống xã hội.
2. Đặc trưng của ý thức thẩm mỹ.
Đặc trưng chung của ý thức thẩm mỹ.
- Khái niệm “ý thức thẩm mỹ”.
Ý thức thẩm mỹ là một hình thái ý thức xã hội của con người, phản ánh hiện
thực khách quan trong dạng hình tượng thẩm mỹ và tình cảm thẩm mỹ, nhằm đáp
ứng nhu cầu sáng tạo và tiếp nhận hiện thực theo quy luật của cái đẹp.
Ý thức thẩm mỹ là một trong những hình thái ý thức xã hội. Song, ý thức
thẩm mỹ không đồng nhất với các hình thái ý thức khác, bởi nó phản ánh hiện thực
nhằm mục tiêu sáng tạo và tiếp nhận hiện thực theo quy luật của cái đẹp, tạo ra cái
thẩm mỹ cũng như hoạt động thẩm mỹ.
Ý thức thẩm mỹ thực hiện chức năng phản ánh - sáng tạo hiện thực về mặt
thẩm mỹ bao giờ cũng thông qua hình tượng thẩm mỹ và tình cảm thẩm mỹ. Hình
tượng thẩm mỹ và tình cảm thẩm mỹ là những yếu tố đặc biệt quan trọng để xác
định ý thức thẩm mỹ: chúng đóng vai trò hạt nhân của ý thức thẩm mỹ.
- Đặc trưng hình tượng thẩm mỹ của ý thức thẩm mỹ.
Hình tượng thẩm mỹ là hình thức và kết quả của mối liên hệ giữa ý thức thẩm
mỹ và hiện thực khách quan, trong đó có sự thống nhất biện chứng của cái chủ
quan và cái khách quan, của lý trí và tình cảm của khái quát, trừu tượng và cụ thể,
sinh động được tập trung trong một “hình ảnh chủ quan” tương ứng với hiện thực
khách quan đã được phản ánh.
22
Hình tượng thẩm mỹ là sáng tạo chủ quan có tính chủ động, tích cực của chủ
thể thẩm mỹ khi ý thức thẩm mỹ phản ánh hiện thực khách quan. Ở đây mặt thẩm
mỹ của hiện thực đã được tái tạo trong ý thức thẩm mỹ của con người. Hình tượng
thẩm mỹ là hiện thực khách quan. Ở đây, mặt thẩm mỹ của hiện thực đã được tái
tạo trong ý thức thẩm mỹ của con người. Hình tượng thẩm mỹ là hiện thực đã được
sáng tạo theo chủ quan của chủ nghĩa thẩm mỹ khi ý thức thẩm mỹ nhận thức hiện
thực về mặt thẩm mỹ.
Khác với các hình thái ý thức khác, ý thức thẩm mỹ và hình tượng thẩm mỹ
do nó tạo ra luôn luôn ở dạng vẹn toàn, cụ thể - cảm tình, sinh động và độc đáo
nhưng vẫn mang tính khái quát, tính bản chất, tính trừu tượng và tính phổ biến nhất
định. Hình tượng thẩm mỹ là một “tự nhiên thứ hai” trong ý thức thẩm mỹ của con
người.
- Đặc trưng tình cảm của ý thức thẩm mỹ.
Tình cảm thẩm mỹ là một hình thức phản ánh có tính đặc thù hiện thực khách
quan của ý thức thẩm mỹ, bao gồm toàn bộ các cảm xúc, xúc động và cảm hứng
của con người trước mặt thẩm mỹ của hiện thực.
Trước sự vật, hiện tượng của hiện thực tồn tại trong dạng cụ thể, toàn vẹn và
biểu cảm, những phản ứng cảm xúc, rung động, xúc động của con người mang tính
chất tổng hợp, toàn diện và độc lập. Những phản ứng trên không mang tính vụ lợi
vật chất, thực dụng và khác với những phản ứng có tính chất vì lợi ích, nhu cầu
kinh tế, khoa học, đạo đức hoặc tôn giáo v.v... Tình cảm thẩm mỹ là tình cảm của
chủ thể đối với các đối tượng thẩm mỹ tồn tại trong hiện thực.
Tình cảm thẩm mỹ bao giờ cũng là quan hệ của sự hài hoà giữa chủ thể thẩm
mỹ và đối tượng, khách thể thẩm mỹ. Sự hài hoà giữa chủ thể thẩm mỹ và đối
tượng thẩm mỹ là sự đồng cảm (tán thưởng) hoặc không đồng cảm (không tán
thưởng) của chủ thể trước đối tượng thẩm mỹ. Chuẩn mực của sự hài hoà thẩm mỹ
là cái đẹp, cái cao cả. Sự hài hoà thẩm mỹ được thể hiện rất phong phú, đa dạng và
không phải bao giờ cũng một chiều, một hướng nhất định.
Các yếu tố cơ bản của ý thức thẩm mỹ.
23
- Cảm xúc thẩm mỹ. Cảm xúc thẩm mỹ là phản ứng chủ quan đặc biệt của con
người chủ thể thẩm mỹ được thể hiện bằng sự rung động, xúc động trước đối tượng
thẩm mỹ trong hiện thực khách quan.
Cảm xúc thẩm mỹ là nhân tố đặc biệt để tạo nên tình cảm thẩm mỹ của ý thức
thẩm mỹ. Thông qua các giác quan, con người khi đối mặt với sự vật, hiện tượng
thẩm mỹ đã bộc lộ những cảm xúc nhất định. Cảm xúc thẩm mỹ là một hình thức
nhận thức mặt thẩm mỹ của hiện thực, đồng thời cũng là một hình thức con người
tự nhận thức bản thân mình.
Sự thể hiện của cảm xúc thẩm mỹ rất phong phú theo nhiều “dạng”, “kiểu”, tức
là các trạng thái khác nhau và theo nhiều cấp độ khác nhau. Nó chính là các trạng
huống tình cảm của chủ thể thẩm mỹ trước các đối tượng thẩm mỹ nhất định,
trước các sự vật, hiện tượng thẩm mỹ cụ thể, riêng biệt. Các trạng thái và các cấp
độ khác nhau của cảm xúc thẩm mỹ vừa phụ thuộc vào chủ thể thẩm mỹ vừa phụ
thuộc vào đối tượng thẩm mỹ nhất định.
- Thị hiếu thẩm mỹ.
Thị hiếu thẩm mỹ là năng lực (khả năng) của chủ thể thẩm mỹ phân biệt, lựa
chọn và xác định một cách trực tiếp cái thẩm mỹ, giá trị thẩm mỹ do quan hệ với
đối tượng thẩm mỹ đưa lại. Thị hiếu thẩm mỹ bộc lộ năng lực chủ quan của chủ thể
thẩm mỹ định giá phẩm chất thẩm mỹ (mặt thẩm mỹ) đối tượng, trong đó có sự
hoà hợp giữa lý trí và cảm xúc giữa trí tuệ và tâm hồn. Sự hoà hợp này đã dẫn đến
sở thích thẩm mỹ. Sở thích thẩm mỹ là sự biểu hiện thái độ - Thích? - Không
thích? - Đẹp? - Không đẹp? Sáng tạo thẩm mỹ là biểu hiện cụ thể của thị hiếu thẩm
mỹ trước một đối tượng thẩm mỹ nào đó.
Thị hiếu thẩm mỹ lấy cái đẹp cần có, cái đẹp lý tưởng làm chuẩn mực, thước
đo để định giá thẩm mỹ và xác định sở thích thẩm mỹ đối với đối tượng thẩm mỹ.
Có thể xem thị hiếu thẩm mỹ là năng lực của chủ thể thẩm mỹ khi xét cái đẹp theo
cái đẹp cần có (lý tưởng) trước đối tượng thẩm mỹ. Điều này làm cho thị hiếu
thẩm mỹ trở nên phong phú, độc đáo cũng như thường tương đối ổn định trong mỗi
cá nhân và nhiều khi trong cả cộng đồng.
- Lý tưởng thẩm mỹ.
24