Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

MỐI QUAN hệ GIỮA văn HOÁ với giáo dục thẩm mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.4 KB, 7 trang )

MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HOÁ VỚI
GIÁO DỤC VÀ THẨM MỸ
Ths. Lê Thị Mỹ Hạnh
Khoa Giáo dục Đại cương
Văn hoá là gì?
Theo UNESCO, hiện nay trên thế giới có khoảng hơn 400 định nghĩa về
"văn hoá", điều đó cho thấy việc xây dựng một định nghĩa khoa học, đầy đủ về
"văn hoá" là vô cùng khó khăn. Từ những góc độ và những cơ sở lí giải khác nhau,
mỗi nhà văn hoá học đều cố gắng đưa ra một định nghĩa khả dĩ. Để tìm hiểu mối
quan hệ giữa văn hóa với giáo dục và thẩm mỹ, trước hết, chúng ta cần hiểu được
khái niệm về văn hóa cũng như những đặc trưng của chúng.Trong bài viết này,
chúng tôi xin giới thiệu định nghĩa của Hồ Chí Minh- một trong số những định
nghĩa tương đối phổ biến đang được nhiều nhà văn hoá học chú ý.
"Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là
sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn"( Hồ Chí Minh).
Theo ĐN trên thì văn hoá bao gồm những yếu tố cơ bản sau:
Lí giải nguồn gốc của văn hoá là các phương thức hoạt động và giao tiếp của con
người (tổ chức đời sống và xã hội).
Chỉ ra bản chất của văn hoá là cơ chế tổng hợp, phổ quát và là động lực để hình
thành, phát triển xã hội và con người. Vì vậy, muốn đổi mới xã hội, đổi mới con
người thì phải xây dựng một nền văn hoá mới.
Xác lập các yếu tố cấu thành văn hoá, gồm:
Các yếu tố vật chất: ăn, ở, mặc, ngôn ngữ, chữ viết; trong đó ngôn ngữ là
công cụ tư duy và giao tiếp chỉ con người mới có.
Các yếu tố tinh thần: đạo đức, phát luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật; trong đó pháp luật, đạo đức là thể chế xã hội; văn học , nghệ thuật là hoạt


động tinh thần.
Khi bàn về khái niệm văn hóa, bên cạnh định nghĩa của Hồ Chí Minh nêu trên,
một số định nghĩa cũng được nhiều nhà văn hóa học chú ý như định nghĩa của
UNESCO, Ra- hát-ma Nê Ru và định nghĩa của P. GS- Viện sĩ Trần Ngọc Thêm.
Phần lớn các tác giả này đều cho rằng văn hóa bao gồm hai yếu tố cơ bản là vật
chất và tinh thần. Tuy nhiên, mỗi nhà văn hóa học lại có cách lí giải tương đối khác
nhau.
Theo UNESCO ,văn hóa bao gồm tổng thể các giá trị về vật chất và tinh thần; tổ
chức xã hội, đó là các phương thức sống; những quyền cơ bản về con người; đức
tin tự nguyện của con người, đó là các truyền thống tín ngưỡng.
P. GS-Viện sĩ Trần Ngọc Thêm cũng cho cho rằng văn hóa là một hệ thống hữu
cơ các giá trị vật chất và tinh thần, nó thể hiện trình độ của mỗi dân tộc trong quá


trình lịch sử của mình . Đặc biệt, ông còn nhấn mạnh điểm thống nhất căn bản
mang tính nhân loại khi nhận thức về văn hóa là tính sáng tạo,đó là cốt lõi của văn
hóa. Điểm khác biệt giữa các nền văn hóa của mỗi cộng đồng dân tộc là ở mức độ
của tinh thần nhân văn của nền văn hóa ấy.
Bên cạnh đó, Ra –hát- ma Nê Ru lại đề cao văn hóa ở các giá trị tinh thần bao
gồm các vấn đề về tư tưởng, đạo đức và lối sống của một cộng đồng dân tộc. Trong
đó, tư tưởng vừa là thước đo sự tiến bộ, vừa là tầm vóc của một thời đại, một dân
tộc và một cá nhân nào đó. Ngay cả một tác phẩm nghệ thuật,nếu không có tư
tưởng thì coi như cũng chẳng có gì cả, tất nhiên đó là tầng tư tưởng đã được hình
tượng hóa, nằm ở chiều sâu của hình tượng.
Các chức năng của văn hoá
* Chức năng giáo dục:
Văn hoá là những chuẩn mực xã hội, là những khuôn mẫu xã hội được tích luỹ
trong quá trình lâu dài của mỗi cộng đồng dân tộc; nó được cố định hoá dưới dạng
ngôn ngữ, biểu tượng, phong tục tập quán, nghi lễ, luật pháp, đạo đức... Tất cả
những yếu tố trên cấu thành một nền văn hoá nhất định; nó có vai trò quyết định

trong việc hình thành nhân cách, lối sống, nếp nghĩ, cách đối nhân xử thế... của các
thành viên trong cộng đồng.
Xét về bản chất, văn hoá là nội dung của giáo dục và cũng là mục tiêu của giáo
dục. Các quốc gia trên thế giới đều coi giáo dục là con đường cơ bản nhất để gìn
giữ và phát triển văn hoá bởi phát triển văn hoá chính là động lực để phát triển xã
hội. Với ý nghĩa ấy, UNESCO đã nêu ra 4 mục tiêu (nguyên lí) của nền giáo dục
tương lai cho nhân loại là:
(1) Học để biết.
(2) Học để làm.
(3) Học để chung sống.
(4) Học để làm người, để tự khẳng định mình.
Bốn mục tiêu trên đã bao hàm trong nó dường như đầy đủ các thuộc tính của
văn hoá: tri thức, quan hệ, phát triển và hoàn thiện, ý thức về cái bản ngã...
Nhờ chức năng giáo dục của văn hoá mà con người có thể tồn tại, phát triển, hoàn
thiện trong trạng thái cân bằng động với thiên nhiên và xã hội.
Đây là chức năng bao trùm nhất, cơ bản nhất và mang tính quyết định.
* Chức năng chuyển giao giá trị văn hoá:
Văn hoá bao giờ cũng được hình thành trong một quá trình, được tích luỹ qua
nhiều thế hệ, mang trong nó tính lịch sử, bồi đắp cho nó một bề dày, một chiều sâu
nhất định. Thế nhưng, mỗi thế hệ, mỗi đời người đều là hữu hạn trong dòng chảy
vô tận của lịch sử văn hoá, vậy làm cách nào để chuyển giao các giá trị văn hoá một
cách có hiệu quả?
Trong thực tế, mỗi thế hệ và mỗi đời người đều sống trong những thời đại cụ thể,
những điều kiện lịch sử cụ thể trong hai mối quan hệ chủ yếu:
Quan hệ đồng đại: Chịu sự giáo dục, tác động, chi phối của văn hoá thời
đại.
Quan hệ lịch đại: Tiếp thu, kế thừa, chọn lọc, phát triển những tinh hoa văn
hoá trong lịch sử.



Như vậy, mỗi thế hệ và mỗi con người đã vô tình hay có ý thức vừa sáng tạo,
vừa chuyển giao các giá trị văn hoá. Nói cách khác, con người vừa là sản phẩm của
lịch sử văn hoá, vừa là chủ thể sáng tạo ra những giá trị văn hoá của thời đại.
Có thể nói một cách tổng quát: Văn hoá là những giá trị đã ổn định và những giá
trị đang hình thành, đó chính là chức năng chuyển giao giá trị văn hoá.
* Chức năng kích thích sáng tạo văn hoá:
Quá trình thẩm thấu những giá trị văn hoá là quá trình mà con người nhận biết và
được giáo dục bởi văn hoá, quá trình ấy giúp cho con người có những hiểu biết mới
và những khát vọng mới. Tri thức và khát vọng gây hưng phấn cho con người, kích
thích con người lao động và sáng tạo theo qui luật của cái đẹp.
Văn hoá bao gồm một hệ thống các giá trị, vì vậy con người cũng được kích thích
theo nhiều thang giá trị khác nhau, ở những lĩnh vực khác nhau, chẳng hạn:
Kích thích khát vọng chiếm lĩnh tri thức đỉnh cao (con người văn hoá - trí
tuệ).
Kích thích khát vọng sáng tạo nghệ thuật (con người văn hoá - nghệ sĩ).
Kích thích khát vọng tạo lập quan hệ xã hội (con người văn hoá - xã hội).
Kích thích khát vọng khẳng định bản thân (con người văn hoá - bản ngã).
...
Với chức năng này, văn hoá sẽ trở thành một động lực và một nguồn năng lượng
vô tận giúp cho con người sống có ích và không ngừng phát triển, hoàn thiện.
* Chức năng liên kết xã hội:
Cùng với tư cách là một giá trị, văn hoá còn đồng thời là những hình thái hoạt
động đặc thù có chức năng liên kết xã hội rất hiệu quả, chẳng hạn:
Lễ hội là nơi gặp gỡ, giao lưu rộng rãi của vùng, miền, quốc gia... Thông
qua lễ hội, con người ngày càng xích lại gần nhau, đồng cảm với nhau trong cuộc
sống hơn.
Giỗ Tết cũng là nơi tụ họp gia đình, gia tộc và hàng xóm láng giềng; nó
giúp cho con người có thể bỏ qua những bất hoà để tìm ra tiếng nói chung về huyết
thống hoặc tình làng nghĩa xóm truyền thống.
Phong tục tập quán giống như một chất keo gắn bó các thành viên trong

cộng đồng với nhau, ở một mức độ nào đó nó còn có khả năng điều tiết hài hoà các
mối quan hệ, góp phần tạo ra sự ổn định cho xã hội.
Tín ngưỡng cũng là một hình thái hoạt động góp phần giáo hoá con người rất
có hiệu quả. Con người đến với tôn giáo để hướng thiện, phục thiện, hành thiện và
đó chính là nhân tố có thể làm nên sức mạnh kì diệu tử vì đạo!
Có thể nói, tất cả các hình thái hoạt động văn hoá lành mạnh đều có chức năng
liên kết xã hội và cải tạo con người.
* Chức năng thẩm mỹ:
Bi-ê-lin-xki, nhà tư tưởng lớn của nước Nga thế kỉ XIX từng khẳng định:
"Cảm xúc về cái đẹp là một điều kiện làm nên phẩm giá con người. Phải có
nó con người mới có được trí tuệ, phải có nó nhà bác học mới vươn tới những tư
tưởng tầm cỡ thế giới, mới hiểu được bản chất và các hiện tượng trong tính thống
nhất của chúng... Phải có nó con người mới có thể không gục ngã dưới sức đè nặng
trĩu của cuộc đời để làm nên những chiến công... Thiếu nó thì không có thiên tài,


không có trí thông minh; mà chỉ còn lại cái thứ đầu óc tỉnh táo một cách ti tiện
mưu cầu cho những toan tính nhỏ nhen bệnh hoạn"
Trong ý kiến trên, tác giả đã đề cập đến phần linh hồn của văn hoá, bởi:
Văn hoá là sự sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần theo qui luật của
cái đẹp.
Thấm nhuần văn hoá cũng tức là cảm nhận được cái đẹp trong sáng tạo,
thưởng thức và quan hệ.
Văn hoá là động lực cho sự sáng tạo, là bệ phóng cho những thiên tài.
...
Như vậy, nói đến văn hoá tức là nói đến cái đẹp. Vô cảm trước cái đẹp thì chỉ còn
lại thứ đầu óc tỉnh táo tầm thường, nhỏ nhen, ích kỉ.
* Chức năng giải trí:
Sống là một quá trình hoạt động liên tục của con người, trong đó dù là hoạt
động cơ bắp hay hoạt động tinh thần thì sức chịu đựng của con người là có giới

hạn. Khi đã tới "cái giới hạn" nào đó thì con người có nhu cầu nghỉ ngơi, vui chơi
giải trí để phục hồi sức lao động của mình. Cái "khoảng thư giãn" giữa nhịp sống
hối hả ấy không chỉ thuần tuý là thả lỏng cơ bắp, mà ở những mức độ khác nhau,
nó là sự "thay đổi hình thái hoạt động" ,đó chính là hoạt động văn hoá. Các hoạt
động văn hoá này có nhiều hình thức phong phú đa dạng như: câu lạc bộ, nhà văn
hoá, lễ hội, du lịch, thi đấu thể thao...
Hoạt động giải trí của văn hoá luôn mang ý nghĩa thư giãn về tinh thần, do đó
ngay trong chức năng giải trí nó đã bao hàm cả chức năng giáo dục, chức năng
chuyển giao văn hoá, chức năng liên kết...
*Chức năng dự báo:
Bản chất của hoạt động văn hoá là hoạt động trí tuệ, hoạt động sáng tạo; vì vậy
trong quá trình hoạt động văn hoá, con người dần dần phát hiện ra những qui luật
của tự nhiên, qui luật của xã hội, qui luật của con người... Những khám phá đó mở
rộng tầm hiểu biết, khả năng phán đoán, suy luận và trí tưởng tượng của con người.
Nhờ các khả năng trên, con người có thể dự báo về thiên nhiên, xã hội, con người
một cách khoa học và xây dựng được các phương án thích ứng cho sự tồn tại của
chính mình.
Những dự báo của văn hoá vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn
cao; nó giúp cho con người ngày càng cộng sinh tốt hơn với môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội.
Như vậy, văn hoá là hoạt động sáng tạo theo qui luật của cái đẹp, nó tạo nên
một thiên nhiên thứ hai, một môi trường thứ hai nuôi dưỡng con người. Với ý nghĩa
đó, văn hoá đồng thời thực hiện nhiều chức năng như là những tác nhân góp phần
quan trọng vào việc hình thành, phát triển và hoàn thiện con người văn hoá. Con
người văn hoá thường xuyên được các chức năng văn hoá chi phối, điều chỉnh một
cách vừa tự giác vừa không tự giác. Nói cách khác, khi nào con người thoát li khỏi
các hoạt động văn hoá tức là khi ấy con người đã tha hoá. Tìm hiểu các chức năng
của văn hoá sẽ giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn bản chất của văn hoá và vị trí, vai trò
của văn hoá trong đời sống xã hội; đặc biệt là tầm văn hoá trong các sáng tác nghệ
thuật như: văn chương, âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc…



Các chức năng của văn hoá luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau, vì vậy
không nên tuyệt đối hoá vai trò của một chức năng nào. Có thể, trong những trường
hợp cụ thể, cần nhấn mạnh chức năng giáo dục bởi nhờ chức năng này, văn hoá tạo
nên sự phát triển liên tục của lịch sử nhân loại và lịch sử dân tộc. Các chức năng
khác là các phương diện, các lĩnh vực có vai trò cụ thể hoá chức năng giáo dục.
Hiểu biết đầy đủ về các chức năng của văn hoá chính là khẳng định mục tiêu cao cả
của văn hoá: văn hoá vì con người, vì sự phát triển và hoàn thiện của con người.
Mối quan hệ giữa chức năng giáo dục và chức năng thẩm mỹ
Khi ta khẳng định văn hoá vừa nội dung vừa là mục đích của giáo dục (giáo
dục là phương tiện đem văn hoá của loài người đến cho từng cá nhân để biến mỗi
cá nhân trở thành con người có văn hoá) cũng có nghĩa là giáo dục phải tuân theo
qui luật của cái đẹp, thấm nhuần cái đẹp, xúc động trước cái đẹp... Đó là cốt lõi
làm nên phẩm giá con người (Bi-ê-lin-xki). Nói cách khác, giáo dục có nghĩa là
giáo dục thẩm mỹ - Với tư cách là một bộ phận của Mỹ học.
Lí luận về giáo dục thẩm mỹ, dưới những hình thức nhất định, đã xuất hiện
từ thời cổ đại. Trong các hệ thống mĩ học của Pla-tôn, A-ri-xtốt, Khổng Tử... ta có
thể bắt gặp những tư tưởng rất sâu sắc về vai trò của giáo dục thẩm mỹ, về những
hình thức, những phương thức giáo dục thẩm mỹ. Trong tiến trình vận động, phát
triển của triết học và mỹ học, lí luận về giáo dục thẩm mỹ cũng từng bước được
hoàn thiện. Các nhà mỹ học thời kì Phục Hưng, khi đề cao những giá trị đích thực
của con người trần thế, cũng tức là họ đã đem lại cho giáo dục thẩm mỹ một tinh
thần nhân văn cao cả. Các nhà mỹ học Khai sáng như Sếch-xpia, Đi-đơ-rô, Létxing... đã bước đầu xây dựng những lí luận, những cương lĩnh giáo dục thẩm mỹ,
trong đó thể hiện mối quan hệ khăng khít giữa đạo đức với thẩm mỹ. Những nhà
mỹ học duy tâm cổ điển Đức như Kan-tơ, Hê-ghen, Phơ-bách... tuy có những khía
cạnh cực đoan khác nhau, nhưng đều có một tiếng nói chung là đề cao vai trò của
cái đẹp trong cuộc sống đối với giáo dục thẩm mỹ.
Với một bề dày lịch sử hơn hai ngàn năm, mĩ học nói chung, lí luận về giáo
dục thẩm mỹ nói riêng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, trước khi

xuất hiện triết học Mác, lí luận về giáo dục thẩm mỹ vẫn chưa có một cơ sở khoa
học đích thực. Những vấn đề căn bản nhất của giáo dục thẩm mỹ chưa thực sự
được làm sáng tỏ, do đó thực tiễn giáo dục thẩm mỹ không tránh khỏi những hạn
chế nhất định.
Khi xây dựng những nguyên lí cơ bản cho chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác và Ăng-ghen không chỉ thực hiện một cuộc cách
mạng triệt để trong triết học mà cùng với điều đó, các ông đã đặt nền móng cho
việc xây dựng một hệ thống giáo dục thẩm mỹ nhân đạo và khoa học.
Nói đến giáo dục thẩm mỹ là nói đến việc làm cho hình thành và phát triển
nhu cầu và năng lực thẩm mỹ của con người. Vì vậy, điểm xuất phát hay là cơ sở
giáo dục thẩm mỹ chính là việc làm sáng tỏ thực chất, đặc trưng, những nhân tố qui
định các nhu cầu và năng lực thẩm mỹ. Tuy nhiên, điều này chỉ có thể giải quyết
được trên cơ sở một quan niệm, một cách lí giải khoa học về các nhu cầu, các năng
lực cấu thành nhân cách con người nói chung.


Các hệ thống triết học, mỹ học trước Mác có những cách nhìn nhận khác
nhau về nhân cách. Quan niệm duy tâm khách quan cho rằng nhân cách như là một
sự thể hiện những sức mạnh siêu nhiên ở bên ngoài con người, bên ngoài xã hội
loài người. Quan niệm duy tâm chủ quan lại xem xét những năng lực, những nhu
cầu của nhân cách như là những sức mạnh tiên nghiệm, bẩm sinh, nhất thành bất
biến. Quan niệm sinh học xã hội thì cho rằng năng lực nhân cách chẳng qua chỉ là
sự mở rộng, sự tăng trưởng, sự tích luỹ những bản năng xã hội ở động vật. Có thể
nói, những quan niệm duy vật trước Mác thường không thoát khỏi cách lí giải duy
tâm về xã hội và con người. Vì vậy, theo họ, bản chất con người và nhân cách của
con người cũng chỉ là một tập hợp những năng lực trừu tượng, nhất thành bất biến.
Tất cả những cách nhìn nhận đó, một mặt không đánh giá đầy đủ vai trò của
giáo dục, tức là vai trò của nhân tố xã hội trong việc hình thành năng lực và nhân
cách của con người; mặt khác cũng không thể lí giải được năng lực và nhu cầu
thẩm mỹ của con người. Vì thế các hệ thống mĩ học trước Mác không thể xây dựng

được một phương pháp luận giáo dục thẩm mỹ khoa học và có hiệu quả.
Nhìn nhận con người có nguồn gốc từ con vật là thành quả có từ trước Mác,
nhưng tới Mác mới thấy được vai trò của các nhân tố xã hội đối với sự hoàn thiện
của con người. Mác: "Sự hình thành năm giác quan là công việc của toàn bộ lịch
sử thế giới diễn ra từ trước đến nay". Tư tưởng về vai trò của lao động (nhân tố xã
hội) đối với sự hình thành, hoàn thiện các khí quan, các giác quan của con người có
một ý nghĩa đặc biệt đối với lí luận về giáo dục thẩm mỹ.
Không thể nói đến năng lực thẩm mỹ nếu ít nhất, con người không có sự
phát triển bình thường của đôi mắt, đôi tai... những cơ sở để nhận biết, cảm thụ ánh
sáng, âm thanh, màu sắc... Năng khiếu và tài năng trong lĩnh vực thẩm mỹ gắn liền
với những tố chất đặc biệt của các khí quan, các giác quan của con người.
Giáo dục thẩm mỹ, hiểu theo nghĩa hẹp, là một quá trình, một hệ thống giáo
dục xã hội, mà trong đó, chủ thể của giáo dục với một lập trường, một định hướng
giá trị nhất định, bằng những phương tiện, những hình thức nhất định, tác động lên
con người nhằm hình thành trong họ những nhu cầu và năng lực thẩm mỹ.
"Con vật chỉ xây dựng theo kích thước và nhu cầu giống loài của nó, còn
con người thì có thể làm ra mọi kích thước của bất cứ loài nào và ở đâu cũng biết
vận dụng tri thức và ý thức của mình để làm ra những sản phẩm theo qui luật của
cái đẹp" (Mác)
Đối với con người, giáo dục thẩm mỹ là nhằm mục đích hình thành các tình
cảm, thị hiếu, quan điểm và lí tưởng thẩm mỹ.
Tình cảm thẩm mỹ là một hình thái đặc biệt của tình cảm, một yếu tố cấu thành hệ
thống tình cảm của con người. Khác với những trạng thái tâm lí bản năng ở động
vật, tình cảm thẩm mỹ chỉ có thể có ở con người xã hội. Nó là phản ứng tình cảm
của con người nảy sinh trong trong sự sáng tạo và thưởng thức cái đẹp, là sự phản
ánh hiện thực một cách đặc thù, độc đáo trong ý thức con người; nó bao hàm cả
đạo đức, xúc cảm và thẩm mỹ của con người.
Thị hiếu thẩm mỹ, trước hết, được coi là sở thích của con người trong lĩnh vực
thẩm mỹ. Khi ai đó nói rằng họ thích một cảnh biển chiều, một bức hoạ, một bản
nhạc, một bài thơ... thì tức là họ đã cảm nhận và đánh giá được một giá trị thẩm mỹ

nhất định của đối tượng. Vì vậy, thị hiếu thẩm mỹ được coi một năng lực đánh giá


thẩm mỹ của con người; năng lực này thường là hệ quả của tri thức, trình độ,
"phông" văn hoá (nói nôm na là "dân trí") của con người; do đó mà có thị hiếu cao
cả và thị hiếu thấp hèn! Về bản chất, thị hiếu thẩm mỹ bao giờ cũng là sự thống
nhất hài hoà giữa tình cảm và lí trí trên cơ sở của một lí tưởng thẩm mỹ nhất định.
Lí tưởng thẩm mỹ được coi là hình thái cao nhất của ý thức thẩm mỹ; nó vừa
bao hàm những nhân tố của tình cảm, thị hiếu; vừa bao hàm những nhân tố của lí
trí, tri thức, quan niệm. Cụ thể hơn; nó là cái đích; là khát vọng hướng tới chân,
thiện, mỹ; là sự thống nhất giữa biểu tượng và quan niệm về cái đẹp trong mối quan
hệ giữa con người với con người, con người với thiên nhiên, con người với xã hội
và con người với nghệ thuật...
Giáo dục thẩm mỹ được coi là một loại hình giáo dục đặc thù tương ứng với các
loại hình giáo dục khác (giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, giáo dục hướng
nghiệp...); nó có nhiệm vụ phát triển một năng lực đặc thù ở con người: năng lực
thẩm mĩ. Như vậy, giáo dục thẩm mỹ có tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ
thống giáo dục xã hội, hệ thống có nhiệm vụ giáo dục để phát triển toàn diện con
người. Giáo dục thẩm mỹ, hiểu theo nghĩa rộng, chính là sự hình thành văn hoá
thẩm mỹ; nghĩa là không chỉ những hoạt động thẩm mỹ đặc thù, mà ngay cả những
hoạt động ngoài thẩm mỹ (chính trị, khoa học...) cũng đều phải mang tính nhân
văn, đều phải góp phần hoàn thiện con người văn hoá - thẩm mỹ.
Tóm lại, mục đích của chức năng giáo dục là để đạt tới một lí tưởng thẩm
mỹ nhất định, còn giáo dục là phương tiện và tiền đề để con người có đủ "dân trí"
hướng tới một lí tưởng thẩm mỹ nào đó (cao hoặc thấp) và bao giờ cái lí tưởng
thẩm mỹ ấy cũng có chức năng như một tác nhân thúc đẩy sự phát triển và hoàn
thiện con người. Nghĩa là trong chức năng giáo dục đã hàm chứa chức năng thẩm
mỹ, còn chức năng thẩm mĩ sẽ làm nên tính nhân văn cho một nền giáo dục cụ thể.
Tài liệu tham khảo:
1. P. Giáo sư Viện sĩ Trần Ngọc Thêm. Cơ sở văn hoá Việt Nam. NXBGD,

1999.
2. Trần Quốc Vượng, Lâm Mĩ Dung, Tô Ngọc Thanh, Trần Thuý Anh. Cơ
sở văn hoá Việt Nam. NXBGD,1998.
3. Vĩnh Quang Lê. Về giáo dục thẩm mĩ ở nước ta hiện nay. NXB CTQG.



×