ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------
NGUYỄN VĂN THUÂN
TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI VỀ LÝ TRIỀU QUỐC SƯ
NGUYỄN MINH KHÔNG Ở CHÙA CỔ LỄ - NAM ĐỊNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học dân gian
Hà Nội - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------
NGUYỄN VĂN THUÂN
(Thích Mật Tôn)
TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI VỀ LÝ TRIỀU QUỐC SƯ
NGUYỄN MINH KHÔNG Ở CHÙA CỔ LỄ - NAM ĐỊNH
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số: 60 22 01 25
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS LÊ CHÍ QUẾ
Hà Nội – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
tƣ liệu, nguồn trích dẫn, ví dụ trong luận văn này đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận trong luận văn dựa trên những cứ liệu khoa học đã đƣợc
trình bày và chƣa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Thuân
LỜI CẢM ƠN
Đến nay, trải qua gần hai năm học tập phấn đấu, luận văn đã hoàn thành. Tác
giả xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã tận tình dạy bảo trong suốt thời
gian theo học tại khoa Văn học, trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội, đồng thời tác giả xin cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy
cô khoa Văn học, cảm ơn tập thể lớp QH-2015-X, chuyên ngành Văn học dân gian
và bạn bè đồng nghiệp.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo hƣớng dẫn - GS.TS. Lê
Chí Quế. Thầy đã chỉ dạy tận tình cho tôi ngay từ cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu
cho đến khi luận văn này hoàn thành.
Do khả năng và thời gian học tập, nghiên cứu chƣa nhiều, mặc dù bản thân
đã có nhiều cố gắng, song cũng không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả mong
nhận đƣợc sự chỉ dẫn và những ý kiến góp ý của thầy cô, đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 7 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Thuân
MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................ .01
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... .03
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. .03
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... .04
2.1. Lược điểm lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội ................................. .04
2.2. Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết về Lý triều Quốc sư Nguyễn Minh Không
và lễ hội chùa Cổ Lễ, Nam Định .......................................................................... .08
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... .13
4. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ .13
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................. .13
6. Dự kiến đóng góp của luận văn....................................................................... .14
7. Cấu trúc của luận văn ..................................................................................... .15
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI…………………………………...…….16
1.1. Một số vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài…………………………...… 16
1.1.1. Một số khái niệm………………………………...…………………………16
1.1.2. Mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội…………………………………24
1.2. Khái quát về chùa Cổ Lễ (Trực Ninh, Nam Định)………………………...26
1.2.1. Thị trấn Cổ Lễ……………………………………………………………...26
1.2.2. Chùa Cổ Lễ……………………………………………...………………….31
1.3. Nhân vật lịch sử -Thiền sư Nguyễn Minh Không ……………………....... 36
Tiểu kết chương 1……………………………………………………………...…40
Chương 2: TRUYỀN THUYẾT VỀ LÝ TRIỀU QUỐC SƯ NGUYỄN MINH
KHÔNG Ở CHÙA CỔ LỄ, NAM ĐỊNH…………………………………….....42
2.1. Truyền thuyết về Lý triều Quốc sư Nguyễn Minh Không…………..……....42
2.2. Nhận xét truyền thuyết về Lý triều Quốc sư Nguyễn Minh Không……...48
2.3. Sự chuyển hoá thể loại để mở rộng giá trị thẩm mỹ trong hệ thống truyền
thuyết về Lý triều Quốc sư Nguyễn Minh Không………………………….......56
1
2.4. Nội dung cơ bản của truyền thuyết Lý triều Quốc sư Nguyễn Minh Không..60
2.5. Hình thức nghệ thuật của truyền thuyết về Lý triều Quốc sư Nguyễn Minh
Không……………………………………………………………………………..68
Tiểu kết chương 2…………………………………………………………….…..78
Chương 3 : LỄ HỘI LÝ TRIỀU QUỐC SƯ NGUYỄN MINH KHÔNG Ở
CHÙA CỔ LỄ, NAM ĐỊNH………………….……………………………...…..80
3.1. Nguồn gốc lễ hội………………………………………………………...……80
3.2. Thời gian và không gian diễn ra lễ hội…………………………………..…81
3.3. Mô tả lễ hội……………………………………………………………...……82
3.4. Ý nghĩa của lễ hội………………………………………………………........91
3.5. Bước đầu so sánh lễ hội chùa Cổ Lễ (Cổ Lễ, Trực Ninh, Nam Định) với lễ
hội làng Tống Xá (Tống Xá, Ý Yên, Nam Định)………………………...…......94
3.5.1. Nét tương đồng……………………………………………………………..95
3.5.2.Nét khác biệt……………………………………………………………..….95
Tiểu kết chương 3……………………………………………………………...…97
KẾT LUẬN…………………………………………………………………….....99
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………...101
PHỤ LỤC………………………………………………………………………..109
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Là bộ phận ngôn từ của folklore, văn học dân gian đƣợc nghiên cứu từ góc
độ thể loại. Trong các thể loại của văn học dân gian, theo sự phân chia tƣơng đối
thống nhất của các nhà nghiên cứu (trong nƣớc và trên thế giới), truyền thuyết là
thể loại tự sự dân gian đƣợc nhận diện bởi sự liên quan đặc biệt đến lịch sử dân tộc.
Truyền thuyết và lễ hội vốn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nhờ truyền
thuyết, lễ hội bám chặt gốc rễ vào mảnh đất đời sống, trở thành một nhu cầu không
thể thiếu trong đời sống tâm linh của con ngƣời. Truyền thuyết là chiếc cầu nối
giữa niềm tin, cảm xúc của cộng đồng với tín ngƣỡng, phong tục, tập quán. Niềm
tin trong truyền thuyết đƣợc hiện thực hóa trong lễ hội.
Thiền sƣ Nguyễn Minh Không còn đƣợc gọi là Lý triều Quốc Sƣ, Đức Thánh
Tổ, là một Thiền sƣ giỏi về Phật pháp, pháp thuật, có công chữa bệnh cho vua Lý...
Dân gian còn tôn Ông là Ông Tổ nghề đúc đồng ở Việt Nam. Tên tuổi Thiền sƣ
Nguyễn Minh Không gắn liền với bao truyền thuyết, lễ hội ở nhiều chùa ở khu vực
đồng bằng Bắc Bộ. Đây là hiện tƣợng văn hóa rất đáng lƣu ý.
Trong cuộc đời tu luyện Phật học, cứu nhân độ thế, Quốc sƣ Nguyễn Minh
Không có nhiều công lao trong việc xây dựng chùa, tháp, trong đó có ngôi chùa Cổ
Lễ (Trực Ninh - Nam Định). Sau khi Ông mất, nhân dân Cổ Lễ phối thờ Ông tại
ngôi chùa này để thể hiện lòng tôn kính đối với vị cao tăng, có công với dân, với
nƣớc.
Lễ hội chùa Cổ Lễ (Trực Ninh - Nam Định) là một trong những lễ hội truyền
thống tiêu biểu của tỉnh Nam Định, tƣởng niệm Thiền sƣ Nguyễn Minh Không
(ngày14 tháng 9 Âm lịch), một ngày trọng đại đi vào tiềm thức nhân dân trong
vùng.
Mặt khác, trong hoàn cảnh đất nƣớc Việt Nam hiện nay đang đổi thay từng
ngày, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trƣớc tốc độ phát triển về mọi lĩnh vực cùng
với hội nhập quốc tế, văn hóa truyền thống dễ bị mai một nếu nhƣ chúng ta không
3
có ý thức gìn giữ và lƣu truyền cho thế hệ sau. Trong sự đa dạng, phong phú của
văn hóa truyền thống dân tộc, chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng của
truyền thuyết, lễ hội ở địa phƣơng, vùng, miền, góp phần tạo nên giá trị văn hóa cổ
truyền dân tộc.
Cho đến nay, số lƣợng các công trình của các nhà khoa học nghiên cứu, sƣu
tầm về truyền thuyết gặt hái đƣợc những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, mảng
truyền thuyết và lễ hội ở địa phƣơng nghiên cứu theo góc độ văn học dân gian vẫn
còn ít đƣợc quan tâm. Trong xu thế chung ấy, truyền thuyết và lễ hội về Thiền sƣ
Nguyễn Minh Không ở chùa Cổ Lễ (Trực Ninh - Nam Định) cũng thu hút sự chú ý
của các nhà khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này chủ
yếu nghiên cứu theo góc độ sử học, chứ không phải dƣới góc độ văn học dân gian.
Nhân vật Nguyễn Minh Không, các truyền thuyết về Ông vẫn còn nhiều điểm chƣa
đƣợc làm rõ.
Với những lý do trên, tôi lựa chọn Truyền thuyết và lễ hội về Lý triều Quốc
sư Nguyễn Minh Không ở chùa Cổ Lễ, Nam Định làm đề tài luận văn Thạc sĩ,
ngành Văn học dân gian, với mong muốn phần nào làm sáng tỏ thêm về nhân vật
Nguyễn Minh Không, vị trí của Thiền sƣ Nguyễn Minh Không trong tâm thức cộng
đồng cƣ dân Nam Định. Đồng thời, cũng qua nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội về
Thiền sƣ Nguyễn Minh Không ở chùa Cổ Lễ, Nam Định, giúp chúng ta thêm một
lần nữa hiểu sâu về văn học dân gian nói chung, truyền thuyết nói riêng của dân
tộc, vừa là một hiện tƣợng văn học, vừa là một hiện tƣợng văn hoá.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Lược điểm lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội
2.1.1. Lược điểm lịch sử nghiên cứu truyền thuyết
Ở nƣớc ta, thể loại truyền thuyết xuất hiện khá sớm nhƣng thuật ngữ truyền
thuyết, vấn đề nghiên cứu truyền thuyết ra đời muộn, vào khoảng nửa cuối thế kỷ
XX. Dựa trên tài liệu về nghiên cứu truyền thuyết, dựa trên kết quả công trình
4
nghiên cứu của Trần Thị An, xin có một lƣợc điểm lịch sử nghiên cứu truyền
thuyết nhƣ sau:
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi trong lời tựa Kho tàng truyện cổ tích Việt
Nam cho rằng: “Truyền thuyết thƣờng dùng để chỉ những câu chuyện cũ những sự
việc lịch sử còn đƣợc quần chúng truyền lại nhƣng không đảm bảo về mặt chính
xác có thể do truyền rộng mà sai lạc, đồng thời cũng có thể do tƣởng tƣợng của dân
chúng phụ họa thêu dệt mà càng sai lạc hơn” và truyền thuyết “phần nhiều chƣa
đƣợc xây dựng thành truyện. Chúng mới chỉ là từng mẩu chuyện”[9,tr.48]. “Nếu
truyền thuyết - hiểu theo nghĩa rộng - đạt đến chỗ hoàn chỉnh thì tùy theo nội dung,
nó có thể trở thành cổ tích hay thần thoại…”[9,tr.49].
Trên tạp chí Nghiên cứu văn học từ 1960 - 1961 có đăng tải cuộc tranh luận
sôi nổi về truyền thuyết Mị Châu - Trọng Thuỷ. Điều các tác giả bàn đến ở đây là
những vấn đề truyền thuyết này đặt ra và còn nhiều tranh cãi.
Báo nhân dân số 549, ngày 29 - 4 - 1969, đăng bài viết Nhân ngày giỗ tổ Vua
Hùng của cố Thủ tƣớng Phạm Văn Đồng. Bài báo nêu ra vấn đề mấu chốt của
truyền thuyết là mối quan hệ giữa lịch sử và truyền thuyết.
Năm 1971, công trình Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự
dân gian Việt Nam, tập trung những bài nghiên cứu về truyền thuyết đã xuất bản.
Các tác giả Nguyễn Ngọc Côn, Tầm Vu, Phan Trần, Đinh Gia Khánh và Kiều Thu
Hoạch có những đóng góp lớn, trong đó đáng chú ý là bài Truyền thuyết anh hùng
trong thời kỳ phong kiến của tác giả Kiều Thu Hoạch. Ông đƣa ra định nghĩa, phân
loại truyền thuyết, đồng thời đƣa ra cái nhìn tổng quát, kiến giải sâu sắc về bản chất
thể loại. Ông nhận xét: “Có thể nói lễ hội là một bộ phận hữu cơ không thể thiếu
đƣợc của truyền thuyết anh hùng Việt Nam... chính nhờ những lễ hội mà truyền
thuyết anh hùng có dịp đƣợc nhắc nhở, đi sâu vào ký ức của nhân dân”[22,tr.220].
Năm 1973, trong bài Tìm hiểu quan hệ giữa thần thoại, truyền thuyết và diễn
xướng tín ngưỡng phong tục, tác giả Nguyễn Khắc Xƣơng nêu lên mối quan hệ
giữa thần thoại, truyền thuyết và lễ hội: “Thần thoại, truyền thuyết lƣu truyền bằng
5
miệng trong dân gian đã đƣợc tái hiện cụ thể và sinh động trƣớc nhân dân qua nghệ
thuật diễn xƣớng hỗn hợp”[84,tr.98].
Năm 1974, trong Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, tác giả Cao
Huy Đỉnh có chƣơng Dòng tự sự lịch sử với nền độc lập nước nhà và những gương
công đức tài trí An Dương Vương đến đầu Lê, viết về truyền thuyết. Mặc dù, ông
mới đi vào phân tích những tác phẩm cụ thể nhƣng ngƣời đọc cũng tiếp thu đƣợc
nhiều kiến thức quý báu về lý luận; những gợi ý về diện mạo chung của thể loại
này.
Đầu những năm 90, cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của Đại học
Tổng hợp, đƣợc viết lại, tác giả Lê Chí Quế dành một chƣơng viết về truyền thuyết.
Trong đó, tác giả vẽ lên bộ mặt của thể loại truyền thuyết trên cái khung là định
nghĩa, phân loại, phân tích dẫn chứng.
Trong bài viết Truyền thuyết dân gian với tâm lý cộng đồng người Việt, tác
giả Bùi Quang Thanh cho rằng: “Cũng từ miếng đất hội làng, tác giả góp phần thiết
thực thức tỉnh nỗi nhục nô lệ, ý thức về sự thống nhất nhƣ một lẽ sống còn, ý thức
thà chết chứ không cam chịu sống quì cho ngƣời Việt Nam trên các chặng đƣờng
lịch sử”[62,tr.68].
Năm 1996, tác giả Lê Văn Kỳ trong Mối quan hệ giữa truyền thuyết người
Việt và lễ hội các anh hùng, nêu lên định nghĩa hội, lễ, mối quan hệ giữa hội, lễ
nhƣ hội lễ về Hai Bà Trƣng, Thánh Gióng... trong mối quan hệ với truyền thuyết
xung quanh những mặt này.
Trong cuốn giáo trình Văn học dân gian của trƣờng Đại học sƣ phạm Hà
Nội, dùng cho Đại học từ xa, các tác giả dành một chƣơng viết về truyền thuyết.
Tác giả nêu lên một cách khá sâu sắc các vấn đề đặc trƣng, nội dung, ý nghĩa và
nghệ thuật của truyền thuyết. Từ những kiến thức này, tác giả đƣa ra phƣơng pháp
phân tích tác phẩm truyền thuyết, phân tích dựa trên những mô-típ cấu thành tác
phẩm và phân tích gắn với nghi lễ, hội lễ.
6
Trong cuốn sách Đặc trưng thể loại và việc văn bản hoá truyền thuyết dân
gian Việt Nam (vốn là luận án Tiến sĩ Ngữ văn cùng tên của tác giả), Trần Thị An,
(Nxb Khoa học xã hội, 2014), xác lập hệ thống tiêu chí nhận diện thể loại truyền
thuyết dân gian Việt Nam; mô tả thực trạng tồn tại của thể loại này trong một số
loại hình văn bản, thẩm định chất dân gian của các truyền thuyết đƣợc ghi chép; chỉ
ra các cấp độ văn học hóa đan xen vào việc văn bản hóa truyền thuyết; phân tích
một số truyền thuyết cụ thể để chỉ ra sự vận động của truyền thuyết từ góc độ văn
bản.
Điểm qua các nghiên cứu chuyên và không chuyên về truyền thuyết trong
văn học dân gian Việt Nam, tôi rút ra một số nhận định sau:
Thời kỳ đầu, các nhà nghiên cứu đều thống nhất: Truyền thuyết ra đời sau
thần thoại nhƣng vẫn có yếu tố song trùng với thần thoại. Mặt khác, truyền thuyết
và cổ tích cũng có những nét gần gũi nhau. Thời kỳ sau, các nhà nghiên cứu đều
coi truyền thuyết là một thể loại riêng của văn học dân gian. Đặc biệt, các tác giả
chứng minh, đi sâu phân tích về đặc trƣng, nội dung, ý nghĩa, phân loại truyền
thuyết một cách rõ ràng, độc lập so với thể loại khác trong văn học dân gian.
Những năm gần đây, có nhiều hƣớng nghiên cứu mới về truyền thuyết, trong
đó nổi bật là hai hƣớng nghiên cứu: Hƣớng nghiên cứu truyền thuyết dựa trên văn
bản thuần túy và hƣớng nghiên cứu truyền thuyết vừa dựa trên văn bản, vừa gắn
với hoạt động diễn xƣớng, đặc biệt thông qua lễ hội. Trong hai hƣớng nghiên cứu
này, chúng ta thấy hƣớng thứ hai ngày càng đƣợc nhiều ngƣời quan tâm hơn và
mang lại ý nghĩa thiết thực. Nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội về Lý triều Quốc sƣ
Nguyễn Minh Không ở chùa Cổ Lễ, Nam Định, tôi cũng kế thừa các hƣớng nghiên
cứu này.
2.1.2. Lược điểm lịch sử nghiên cứu về lễ hội
Trong những năm gần đây, các công trình nghiên cứu về tôn giáo, tín
ngƣỡng và lễ hội đƣợc quan tâm nhiều hơn, trên các bình diện khác nhau nhƣ: Tôn
giáo học, khoa học xã hội, văn học dân gian... Vấn đề lễ hội và tôn giáo tín ngƣỡng
7
đƣợc đề cập ở nhiều mức độ khác nhau. Trong đó có những công trình nghiên cứu
có ý nghĩa quan trọng nhƣ:
Lễ hội cổ truyền (Viện văn hóa dân gian, Nxb Khoa học xã hội,1992), các tác
giả đề cập đến vấn đề lễ hội, môi trƣờng liên quan đến sự hình thành lễ hội, lịch sử,
cơ cấu, phân loại các biểu hiện và giá trị của hội làng, ở đồng bằng Bắc Bộ.
Sáu mươi lễ hội truyền thống ở Việt Nam, tác giả Lê Trung Vũ, Thạch
Phƣơng (Nxb Khoa học xã hội, 1992) đề cập đến sáu mƣơi lễ hội truyền thống ở cả
ba miền của Việt Nam.
Lễ cầu mùa của các dân tộc ở Việt Nam, Phan Hữu Dật, Lê Ngọc Thắng, Lê
Sĩ Giáo, Lâm Bá Nam, (Nxb Văn hóa dân tộc, 1993), đề cập đến lễ cầu mùa của
ngƣời Kinh, các dân tộc vùng Việt Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Trƣờng Sơn Tây Nguyên.
Từ điển hội lễ Việt Nam, Bùi Thiết, (Nxb Văn hóa thông tin, 2000), tập hợp
hệ thống, chỉnh lí, biên soạn tất cả hội lễ truyền thống, từng diễn ra trên khắp lãnh
thổ nƣớc ta từ xƣa tới nay.
Lễ tục, lễ hội truyền thống xứ Thanh, Lê Huy Trâm - Hoàng Anh Nhân, (Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà nội, 2001), đƣa quan điểm nhận thức, nghiên cứu lễ hội, nhấn
mạnh đến việc quan sát, tiếp cận lễ hội trong sự tổng thể của nó, chứ không nên
tách phần lễ riêng, phần hội riêng.
Nhƣ vậy, điểm qua các công trình nghiên cứu về lễ hội, chúng ta có thể thấy,
trong những năm gần đây, đề tài này đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu,
nhằm khôi phục, gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.
2.2. Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết về Lý triều Quốc sư Nguyễn Minh
Không và lễ hội chùa Cổ Lễ, Nam Định
2.2.1. Các công trình viết về truyền thuyết Lý triều Quốc sư Nguyễn Minh
Không
Ngay từ thế kỷ XIII, XIV, XV, các nhà Nho sƣu tầm truyền thuyết về Lý
triều Quốc sƣ Nguyễn Minh Không:
8
Trong sách An Nam chí lược của Lê Tắc (thế kỷ XIII - XIV), có một mục
viết về Thiền sƣ Nguyễn Minh Không và Thiền sƣ Giác Hải cùng đi khuyến hóa
lấy đồng. Nhƣng những thông tin mà An Nam chí lược nêu ra rất sơ sài, không đầy
đủ để hình dung về nhân vật Nguyễn Minh Không.
Trong cuốn Nam ông mộng lục, tác phẩm còn lại duy nhất của Hồ Nguyên
Trừng, hoàn thành năm 1483, gồm 31 chuyện, có chuyện về Thiền sƣ Nguyễn
Minh Không với tiêu đề: Minh Không thần dị. Nội dung sách ghi chép về các sử
thoại và một số chuyện về những nhân vật nƣớc Nam thời Lý - Trần, gồm đủ loại:
nhà nho, thầy thuốc, đạo sĩ, nhà thơ, thầy tu, tƣớng sĩ, các vua đời Trần, hoặc bà
con thân thích với tác giả. Đối với Hồ Nguyên Trừng, đó là những sự kiện và
những con ngƣời tiêu biểu của nƣớc Nam. Câu chuyện về Thiền sƣ Nguyễn Minh
Không rất sơ sài, không viết rõ về quê quán, lai lịch của Thiền sƣ Nguyễn Minh
Không. Đặc biệt, sách Nam ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng bị lẫn lộn giữa sự
tích Không Lộ và sự tích Minh Không.
Trong sách Thiền uyển tập anh ngữ lục, tái bản năm 1715, dƣới thời Lê, niên
hiệu Vĩnh Thịnh (thứ 11), có bài viết về ngƣời kế thừa tâm pháp của dòng Tì-ni-đalƣu-chi (đời thứ 13), ghi chép tiểu sử, hành trạng của Thiền sƣ Nguyễn Minh
Không. Thiền uyển tập anh ghi chép khá rõ ràng: có hai vị Thiền sƣ Không Lộ và
Thiền sƣ Minh Không. Thiền sƣ Không Lộ họ Dƣơng, Thiền sƣ Minh Không tức
Nguyễn Chí Thành (1066 -1141), trụ trì chùa Quốc Thanh, phủ Trƣờng Yên, quê ở
hƣơng Đàm Xá, châu Đại Hoàng. Nhƣng Thiền uyển tập anh không nhắc đến
chuyện vua Lý Thần Tông mắc bệnh “hoá hổ” và câu chuyện Thiền sƣ Nguyễn
Minh Không chữa bệnh hóa hổ cho vua nhƣ nhiều sách khác nói đến.
Trong sách Lĩnh Nam chích quái do Trần Thế Pháp biên soạn (cuối thế kỷ XV),
viết chung truyện Thiền sƣ Nguyễn Minh Không nhƣng lại nằm trong phần phụ lục
ghi về Thiền sƣ Từ Đạo Hạnh. Vì thế, lai lịch, xuất thân của Thiền sƣ Nguyễn
Minh Không không đƣợc quyển sách này ghi rõ.
9
Trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư - bộ sử thời Lê, do sử quan Ngô Sĩ Liên và
các sử thần triều Lê biên soạn, những sự kiện liên quan đến cuộc đời Thiền sƣ
Nguyễn Minh Không đƣợc ghi nhƣ sau: “Năm 1136, Vua bệnh nặng, chữa thuốc
không khỏi. Nhà sƣ Minh Không chữa khỏi, phong là Quốc sƣ. Tha thuế dịch cho
vài trăm hộ”[40,tr.326]. Với vài dòng sơ lƣợc về Thiền sƣ Nguyễn Minh Không,
cho thấy một vị Thiền sƣ gắn với việc chữa khỏi bệnh cho vua, đƣợc phong Quốc
sƣ, đƣợc nhân dân thờ phụng ở nhiều nơi.
Trong Đại Nam nhất thống chí, tập 4, của Quốc sử quan triều Nguyễn, bản
dịch của Phạm Trọng Điềm, phần tỉnh Ninh Bình, mục từ miếu ghi chuyện Thiền
sƣ Nguyễn Minh Không với cốt truyện tƣơng tự nhƣ Lĩnh Nam chích quái.
Năm 1893, Nguyễn Văn On biên soạn cuốn Nam Định tỉnh địa dư chí, trong
đó phần Nhân vật, Cổ tích có kể sơ lƣợc về Thiền sƣ Nguyễn Minh Không, chùa
Cổ Lễ. Nhƣng những thông tin ở đây về Thiền sƣ Nguyễn Minh Không cũng rất sơ
sài.
Trong quyển Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1974, tác giả Nguyễn Đổng Chi đặt truyện Thiền sƣ Nguyễn Minh Không
trong hệ thống truyện cổ tích, rõ nhất ở truyện: Từ Đạo Hạnh hay sự tích Thánh
Láng.
Bài tiểu luận Hình bóng người anh hùng sáng tạo văn hóa trong truyền
thuyết dân gian Không Lộ, tác giả Nguyễn Quang Vinh xác định sự tích Thiền sƣ
Dƣơng Không Lộ hay Thiền sƣ Nguyễn Minh Không là hiện tƣợng văn hóa phức
tạp, nhiều tầng, nhiều lớp, đƣợc tích hợp thêm màu sắc dân gian kỳ ảo. Với cách
nhìn của ngƣời nghiên cứu văn học dân gian, tác giả bài tạp chí cho rằng: “Có
Không Lộ của sử sách, có Không Lộ của dân gian. Trong giới nhà nho và các nhà
sƣ, Không Lộ là cái tên đã từng đƣợc dùng để chỉ hai nhà sƣ có thật trong lịch sử.
Khi thì để trỏ nhà sƣ Dƣơng Không Lộ, quê ở đất Hải Thanh (thuộc các huyện
Xuân Thủy, Nam Ninh, tỉnh Nam Định ngày nay), thuở nhỏ làm nghề đánh cá, đời
Lý Thần Tông tu thiền định ở chùa Hà Trạch cùng thiền sƣ Giác Hải, mất năm
10
1120, khi thì lại để trỏ vào nhà sƣ Nguyễn Chí Thành, hiệu là Minh Không, quê
làng Đàm Xá, huyện Gia Viễn, Ninh Bình có công chữa khỏi ác tật cho Lý Thần
Tông, đƣợc phong Lý triều quốc sƣ. Minh Không từng ở chùa Không Lộ, hƣơng
Giao Thủy (nên có lẽ vì thế cũng mang tên Không Lộ chăng?); nhà sƣ mất năm
1141. Theo sách Thiền uyển tập anh, thiền sƣ Dƣơng Không Lộ là ngƣời kế thừa
thứ chín của phái thiền sƣ Vô Ngôn Thông; thiền sƣ Nguyễn Minh Không là ngƣời
kế thừa đời thứ mƣời ba, phái thiền sƣ Tì-ni-đa-lƣu-chi”[79,tr.62]. Nhƣ vậy, bài
viết phần nào làm sáng tỏ nhân vật Nguyễn Minh Không.
Năm 1984, tác giả Phạm Đức Duật viết bài Sự tích Không Lộ - Minh Không
qua quyển sách chữ Hán mới sưu tầm, đăng trên Tạp chí Hán Nôm, (số 1). Tác giả
trình bày những vấn đề nhận thức đƣợc về Thiền sƣ Không Lộ, Minh Không qua
quyển Quốc sư bảo lục của Đặng Xuân Bảng. Qua đó, tác giả khẳng định: “dù có
nhiều lớp văn hóa đan xen nhƣng Không Lộ và Minh Không là hai ngƣời khác
nhau”[12, tr.140]
Trong cuốn Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục, năm
1999, tác giả Trần Thị An và Nguyễn Thị Huế ghi truyện Thiền sƣ Nguyễn Minh
Không cùng với Thiền sƣ Từ Đạo Hạnh, cốt truyện gần giống với Lĩnh Nam chích
quái.
Năm 2000, nhà nghiên cứu dân gian Lê Xuân Quang ra mắt cuốn sách
Truyện Đức Không Lộ - Minh Không, Nxb Văn hoá dân tộc. Trong cuốn sách này,
tác giả điểm lại một số truyền thuyết liên quan đến Thiền sƣ Nguyễn Minh Không.
Tác giả Chu Huy trong bài Về nhân thân hai vị Quốc sư thời Lý Dương
Không Lộ và Nguyễn Minh Không, đăng trên Tạp chí Văn hoá nghệ thuật (số8),
2006, chứng minh hai vị Thiền sƣ đời Lý Dƣơng Không Lộ và Nguyễn Minh
Không có công lao hành trạng giống nhau, là hai nhân vật khác nhau trong lịch sử.
Năm 2008, tác giả Nguyễn Xuân Diện công bố Những phát hiện mới nhất về
Tứ Bất Tử Việt Nam, cho rằng ngoài Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử, Thánh
Gióng và Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Thiền sƣ Nguyễn Minh Không từng có thời kỳ
11
đƣợc nhân dân tôn thờ nhƣ vị linh thiêng trƣờng sinh bất tử trong thần điện Việt
Nam.
Cũng năm 2008, trên Tạp chí Hán Nôm, (số 6) (91), tr.62-70, công bố bài
viết của tác giả Phạm Đức Duật Vấn đề tiểu sử hai thiền sư đời Lý: Dương Không
Lộ và Nguyễn Minh Không, cơ bản làm rõ lai lịch, tiểu sử của Thiền sƣ Nguyễn
Minh Không.
2.2.2. Các công trình viết về lễ hội chùa Cổ Lễ
Năm 2000, Nguyên Hồng - Trung Tín viết cuốn Chùa Cổ lễ văn hóa cách
mạng, Nxb Tôn giáo. Trong cuốn sách này, các tác giả trình bày về tiểu sử, truyền
thuyết về Thiền sƣ Nguyễn Minh Không liên quan đến chùa Cổ Lễ.
Năm 2003, Hồ Đức Thọ viết cuốn Lễ hội cổ truyền ở Nam Định, Nxb Khoa
học xã hội. Trong cuốn sách này, tác giả trình bày một số lễ hội cổ truyền tiêu biểu
ở Nam Định. Lễ hôi chùa Cổ Lễ cũng đƣợc tác giả phác họa những vấn đề cơ bản.
Năm 2014, tác giả Trần Mạnh Quang viết bài Thiền sư Nguyễn Minh Không
và một số lễ hội Phật giáo tiêu biểu ở miền Bắc, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, (số
4), thống kê sơ lƣợc một số lễ hội ở miền Bắc tôn vinh Thiền sƣ Nguyễn Minh
Không.
Điểm qua lịch sử nghiên cứu truyền thuyết về Lý triều Quốc sƣ Nguyễn
Minh Không và lễ hội chùa Cổ Lễ, Nam Định, tôi nhận thấy:
Thứ nhất: Truyền thuyết về Lý triều Quốc sƣ Nguyễn Minh Không rải rác
xuất hiện ở nhiều tài liệu, nhiều địa phƣơng, tuy đƣợc nghiên cứu, hoặc dƣới góc
độ văn hóa, hoặc dƣới góc độ văn học nhƣng chƣa có công trình chuyên sâu, quy
mô.
Thứ hai: Lễ hội chùa Cổ Lễ mặc dù đƣợc tìm hiểu nhƣng còn khái quát, chƣa
có nhà nghiên cứu nào khảo sát một cách chi tiết, hệ thống.
Tuy vậy, tôi xem thành quả nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc là những ý
kiến gợi mở, là nguồn tham khảo có giá trị để tôi thực hiện đề tài “Truyền thuyết và
lễ hội về Lý triều Quốc sư Nguyễn Minh Không ở chùa Cổ Lễ, Nam Định”.
12
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu truyền thuyết về Lý triều Quốc sƣ Nguyễn Minh
Không, đƣợc ghi chép bằng văn bản và những truyền thuyết đƣợc truyền miệng
trong dân gian. Đặc biệt, tôi cũng nghiên cứu truyền thuyết về Lý triều Quốc sƣ
Nguyễn Minh Không dƣới góc độ diễn xƣớng. Đó là lễ hội chùa Cổ Lễ, Nam Định,
để thấy đƣợc hết giá trị của truyền thuyết này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tìm hiểu, phân tích, đánh giá các giá trị tƣ tƣởng thẩm mỹ của
những truyền thuyết về Lý triều Quốc sƣ Nguyễn Minh Không, dƣới góc độ khoa
học văn học dân gian, trên các phƣơng diện: Giá trị tƣ tƣởng qua nội dung phản
ánh, ý nghĩa nghệ thuật qua các mô-típ cơ bản, ý nghĩa tín ngƣỡng trong tâm thức
của ngƣời dân. Để làm đƣợc điều này, theo đặc trƣng thể loại truyền thuyết, luận
văn có khảo sát các chi tiết lễ hội chùa Cổ Lễ, Nam Định.
4. Mục đích nghiên cứu
Luận văn là bƣớc tổng hợp mới về những thành tựu nghiên cứu, tìm hiểu
truyền thuyết và lễ hội về Lý triều Quốc sƣ Nguyễn Minh Không ở chùa Cổ Lễ,
Nam Định. Luận văn hệ thống hóa, khảo sát diện mạo truyền thuyết và lễ hội về Lý
triều Quốc sƣ Nguyễn Minh Không ở chùa Cổ Lễ, Nam Định.
Trong khuôn khổ của đề tài, ngƣời viết phân tích, tổng hợp những đặc điểm,
nội dung và nghệ thuật của truyền thuyết. Qua đây, những truyền thuyết về Thiền
sƣ Nguyễn Minh Không đƣợc xem xét trong mối quan hệ với lễ và hội đƣợc tổ
chức ở địa phƣơng. Từ đó, với tƣ cách là nhà sƣ xuất gia ở chùa Cổ Lễ, Nam Định,
ngƣời viết sẽ đánh giá khách quan, không suy diễn cảm tính về truyền thuyết và lễ
hội chùa Cổ Lễ, Nam Định.
5. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu đề tài, ngƣời viết sử dụng một số phƣơng pháp nghiên
cứu cơ bản sau:
13
5.1. Phương pháp thống kê
Luận văn tập hợp các bản kể về truyền thuyết và lễ hội về Lý triều Quốc sƣ
Nguyễn Minh Không ở chùa Cổ Lễ, Nam Định. Xác định số lƣợng các mô-típ, các
dị bản để rút ra kết luận cụ thể.
5.2. Phương pháp điền dã
Trực tiếp gặp gỡ, trao đổi với những ngƣời hiểu biết về truyền thuyết và lễ
hội về Thiền sƣ Nguyễn Minh Không ở chùa Cổ Lễ, Nam Định.
Tìm hiểu, sƣu tầm truyền thuyết và lễ hội về Thiền sƣ Nguyễn Minh Không
ở chùa Cổ Lễ, Nam Định qua các địa phƣơng xung quanh lƣu truyền.
Trực tiếp tham dự lễ hội để tìm hiểu về tín ngƣỡng của ngƣời dân.
5.3. Phương pháp so sánh
Đặt các bản kể trong sự đối sánh với nhau. Thông qua sự phân tích cấu trúc
của bản kể, so sánh từng bản kể để tìm ra các mô-típ giống nhau, khác nhau. Từ đó
tìm hiểu ý nghĩa của các mô-típ.
5.4. Phương pháp liên ngành
Giữa truyền thuyết và lịch sử có quan hệ với nhau, do đó có thể vận dụng
phƣơng pháp lịch sử để nghiên cứu.
Đặc biệt vận dụng mối quan hệ giữa văn hóa tín ngƣỡng, tôn giáo để lý giải
một số vấn đề có liên quan đến đề tài.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình khoa học đi sâu nghiên cứu các vấn đề chính truyền
thuyết và lễ hội về Thiền sƣ Nguyễn Minh Không ở chùa Cổ Lễ, Nam Định dƣới
góc nhìn văn hóa, văn học dân gian.
Tổng hợp các mô-típ truyền thuyết về Thiền sƣ Nguyễn Minh Không và lễ
hội chùa Cổ Lễ, Nam Định, đánh giá dựa trên cơ sở những tiến bộ khoa học nghiên
cứu văn học dân gian hiện nay.
Lễ hội chùa Cổ Lễ, Nam Định đƣợc khảo tả chi tiết, cụ thể phần lễ, phần
hội, để thấy đƣợc mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội.
14
Trên cơ sở kế thừa, tham khảo các tài liệu nghiên cứu về Thiền sƣ Nguyễn
Minh Không ở chùa Cổ Lễ, Nam Định, luận văn đóng góp phần nhỏ vào việc bảo
lƣu và phát triển vốn văn học dân gian của địa phƣơng nói riêng và dân tộc nói
chung.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính đƣợc trình bày trong luận
văn:
Chương 1: Tổng quan về đề tài
Chương 2: Truyền thuyết về Lý triều Quốc sư Nguyễn Minh Không ở Chùa
Cổ Lễ, Nam Định
Chương 3: Lễ hội về Lý triều Quốc sư Nguyễn Minh Không ở Chùa Cổ Lễ,
Nam Định
15
Chương 1:
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1.1. Một số vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm truyền thuyết
Từ khi truyền thuyết đƣợc quan tâm nghiên cứu, nhiều nhà nghiên cứu đƣa
ra định nghĩa về truyền thuyết theo quan niệm và cách hiểu của họ.
Theo tác giả Kiều Thu Hoạch, trong cuốn Tổng tập văn học dân gian người
Việt, các tác giả Nhóm Lê Quý Đôn, trong công trình Lược khảo lịch sử văn học
Việt Nam, bƣớc đầu đƣa ra định nghĩa về truyền thuyết: “Truyền thuyết là tất cả
những chuyện lƣu hành trong dân gian có thật xảy ra hay không thì không có gì
đảm bảo. Nhƣ vậy có những truyền thuyết lịch sử, mà cũng có những truyền thuyết
khác, hoặc dính dáng về một đặc điểm địa lí (Chuyện nàng Tô Thị, chuyện Núi
Vọng Phu, vv...), hoặc giải thích những phong tục tập quán hoặc nói về sự tích các
nghề nghiệp, và tất cả những chuyện kì lạ khác”[22,tr.26]. Khái niệm của nhóm Lê
Quý Đôn định nghĩa khá rộng về truyền thuyết. Dƣờng nhƣ, họ quy tất cả những
truyện lƣu hành trong dân gian đều là truyền thuyết. Bởi, chúng ta thấy các tác giả
đó quan niệm: thứ nhất, những truyện ấy có thật hay không có thật, không quan
trọng; thứ hai, đối tƣợng của truyện không chỉ là lịch sử mà còn là địa lí, phong tục
tập quán.
Năm 1971, với bài tiểu luận Truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ phong
kiến, trong sách Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt
Nam, Nxb Khoa học Xã hội, tác giả Kiều Thu hoạch đƣa ra quan niệm cho đến nay
vẫn đƣợc nhiều nhà nghiên cứu chấp nhận: “Truyền thuyết là một thể loại truyện kể
truyền miệng, nằm trong loại hình tự sự dân gian, nội dung cốt truyện của nó kể lại
truyện tích của nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa
phƣơng theo quan điểm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là
16
khoa trƣơng, phóng đại, đồng thời cũng sử dụng các yếu tố kỳ ảo, thần kỳ nhƣ cổ
tích và thần thoại”[70,tr.71].
Bài Những đặc điểm thi pháp của truyền thuyết lịch sử trong cuốn Thi pháp
văn học dân gian của nhà nghiên cứu Lê Trƣờng Phát, tác giả nhận định: “…Đối
ứng với dòng tự sự xã hội là dòng tự sự lịch sử gồm thể loại truyền thuyết và những
bài vè lịch sử - một biến thể thứ hai của thể loại vè - đều là những thể loại kể
chuyện về những nhân vật có thật - những sự kiện có tầm ảnh hƣởng lớn lao đến
lịch sử của cả dân tộc, của cả nƣớc. Sự khác nhau giữa vè lịch sử với truyền thuyết
là ở chỗ vè lịch sử kể về những sự kiện vẫn đang nóng hổi ý nghĩa thời sự bằng
hình thức văn vần, thể loại truyền thuyết kể về những sự kiện lịch sử đã lùi xa vào
quá khứ bằng hình thức văn xuôi”[53,tr.15].
Tác giả Nguyễn Đổng Chi trong lời tựa Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam
cho rằng: “Truyền thuyết thƣờng dùng để chỉ những câu chuyện cũ, những sự việc
lịch sử còn đƣơc quần chúng truyền lại nhƣng không đảm bảo về mặt chính xác có
thể do truyền rộng mà sai lạc, cũng có thể do sự tƣởng tƣợng của quần chúng phụ
họa thêu dệt mà càng sai lạc hơn và truyền thuyết phần nhiều chƣa đƣợc xây dựng
thành truyện. Nó mới chỉ là những mẩu chuyện... Hiện nay, truyền thuyết Việt Nam
tìm đƣợc còn ít ỏi, đƣợm khí cổ tích nhiều hơn thần thoại. Vì vậy, khi sƣu tầm thì
xếp lẫn vào cổ tích và coi nhƣ truyện cổ tích”[9,tr.49].
Đầu thập niên 90, cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của Đại học
Tổng hợp, đƣợc viết lại, nhà nghiên cứu Lê Chí Quế dành một phần viết về truyền
thuyết, trong đó tác giả đƣa ra khái niệm và đặc biệt về phân loại truyền thuyết một
cách hợp lý, đầy tính thuyết phục hơn: “Truyền thuyết là một thể loại tự sự dân
gian, phản ánh sự kiện, nhân vật lịch sử danh nhân văn hóa hay nhân vật tôn giáo
thông qua sự hƣ cấu nghệ thuật thần kỳ”[57,tr.49].
Trong 150 thuật ngữ văn học định nghĩa: “Truyền thuyết là một nhóm
những sáng tác dân gian mà đặc điểm chung là trong đó có các yếu tố kì diệu,
huyễn tƣởng nhƣng lại đƣợc cảm nhận là xác thực diễn ra ở ranh giới giữa thời gian
17
lịch sử và thời gian thần thoại, hoặc diễn ra ở thời gian lịch sử. Trong những truyền
thống văn hóa khác nhau về loại hình, khái niệm truyền thuyết mô tả những hiện
tƣợng không hoàn toàn giống nhau và liên hệ một cách khác nhau với các thể loại
dân gian khác, kể cả thần thoại”[27,tr.341]. Tác giả nhấn mạnh những đặc trƣng cơ
bản của truyền thuyết nhƣ: truyền thuyết là “sáng tác dân gian”, nghệ thuật nổi bật
là dùng các yếu tố kì diệu, huyễn tƣởng” nhằm mục đích làm cho ngƣời đọc tin vào
câu chuyện đƣợc kể từng diễn ra thật trong quá khứ.
Sách ngữ văn 10, tập 1, do Phan Trọng Luận chủ biên đƣa ra khái
niệm: “Truyền thuyết là tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật lịch sử
(hoặc có liên quan đến lịch sử) theo xu hƣớng lý tƣởng hóa, qua đó thể hiện sự
ngƣỡng mộ và tôn vinh của nhân dân đối với những ngƣời có công với đất nƣớc,
dân tộc hoặc cộng đồng cƣ dân của một vùng”[39,tr.17]. Với đối tƣợng tiếp nhận
là học sinh trung học phổ thông, khái niệm này định nghĩa về truyền thuyết trên
bốn phƣơng diện: thể loại: tự sự dân gian; đối tƣợng tự sự: nhân vật hoặc những gì
có liên quan đến lịch sử; nghệ thuật: lý tƣởng hóa; ý nghĩa: thể hiện thái độ và tình
cảm đối với lịch sử của nhân dân. Khái niệm này rất ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu.
Tác giả Trần Thị An cho rằng: “Truyền thuyết là những truyện kể dân gian
thể hiện cảm quan của nhân dân về một sự kiện liên quan đến lịch sử. Nó gạt hết
những yếu tố phụ, chỉ tập trung kể lại lai lịch và công trạng của đối tƣợng bằng
cách sử dụng những mẫu đề thần thoại và các biện pháp cổ tích”[2,tr.12].
Qua tìm hiểu một số khái niệm về truyền thuyết, tôi thấy rằng: truyền thuyết
là một thể loại tự sự dân gian; truyền thuyết kể về những việc có thật hoặc không
có thật nhƣng mang tính lịch sử theo xu hƣớng lý tƣởng hóa; khi kể, truyền thuyết
thƣờng sử dụng các yếu tố kì ảo, hoang đƣờng để tạo sự li kì hấp dẫn; qua truyền
thuyết chúng ta thấy đƣợc quan niệm nghệ thuật của tác giả dân gian về con ngƣời
và lịch sử.
18
1.1.1.2. Đặc điểm và phân loại truyền thuyết
Đặc điểm của truyền thuyết
Nhƣ chúng ta biết, giữa thể loại thần thoại, truyền thuyết và cổ tích có những
điểm tƣơng đồng với nhau. Vì vậy, có không ít tranh luận về tác phẩm này thuộc
thể loại thần thoại hay truyền thuyết, tác phẩm kia thuộc cổ tích hay truyền thuyết.
Hiện tƣợng này từng xảy ra ở các truyện nhƣ: Sơn Tinh - Thủy Tinh; Sự tích bánh
chƣng bánh dầy…
Ngoài khái niệm về truyền thuyết, cần có thêm các tiêu chí thống nhất, giúp
chúng ta nhận diện, phân biệt truyền thuyết với các thể loại khác.
Tác giả Kiều Thu Hoạch tổng hợp và chỉ ra những đặc điểm cơ bản của thể
loại truyền thuyết là các đặc tính: tính hƣ cấu lịch sử, tính cố định cụ thể, tính hƣ
ảo, thần kì và các mô-típ khi xây dựng: mô-típ sinh nở thần kì, mô-típ chiến công
phi thƣờng, mô-típ hóa thân.
Đồng quan điểm với nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch về đặc điểm
của truyền thuyết, tác giả Lê Trƣờng Phát trong cuốn Thi pháp văn học dân gian,
trình bày một cách cụ thể hơn về các mô-típ thƣờng đƣợc sử dụng ở từng phần
trong mô hình lƣợc đồ kết cấu chung của truyền thuyết. Đó là: Ở phần mở đầu,
truyền thuyết có các kiểu mô-típ: Sự thụ thai kì lạ để sinh ra nhân vật; tƣớng lạ từ
ngay lúc lọt lòng; những biểu hiện khác thƣờng, hơn đời ngay từ lúc còn trẻ; nhân
vật xuất hiện giữa thời thế đặc biệt; nhân vật xuất thân nghèo khổ hoặc ngƣợc lại.
Phần kết gồm các kiểu mô-tip: Sự vinh phong, gia phong tên hiệu, mĩ tự của các
triều đại sau; các chi tiết về nghi lễ thờ cúng; hóa thân của nhân vật; sự hiển linh,
hiển Thánh của nhân vật. Riêng phần thứ hai, đoạn kể về cuộc đời và sự nghiệp của
nhân vật, tập trung kể lại hành trạng, hành động của nhân vật và thƣờng không sử
dụng các mô-típ. Mỗi câu chuyện, mỗi nhân vật có hành trạng, hành động riêng.
Tính hiện thực lịch sử, vì vậy, thƣờng đƣợc thể hiện đậm đặc nhất ở phần này.
19
Nhƣ vậy, quan điểm trên của tác giả Kiều Thu Hoạch là cơ sở, giúp chúng
ta nhận diện tác phẩm của thể loại truyền thuyết, phân biệt nó với thần thoại, cổ
tích - những thể loại tự sự dân gian gần gũi với truyền thuyết nhất.
Phân loại truyền thuyết
Hiện nay, chúng ta thấy có nhiều ý kiến phân loại thể loại truyền
thuyết. Sự phong phú về cách phân loại truyền thuyết là xuất phát từ những quan
niệm và tiêu chí khác nhau.
Theo tác giả Lê Trƣờng Phát, căn cứ vào nội dung của thời kì lịch sử đƣợc
truyền thuyết phản ánh, ghi chép, ý kiến của ông đồng nhất với ý kiến của nhà
nghiên cứu Hoàng Tiến Tựu. Nếu căn cứ vào lịch sử và “phạm vi những sự kiện và
nhân vật lịch sử đƣợc nhân dân quan tâm”, theo ông, những truyền thuyết về thời
các vua Hùng; những truyền thuyết về sau thời các vua Hùng”[53,tr.15]. Theo tác
giả này, nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị chia truyền thuyết thành ba tiểu loại: truyền
thuyết địa danh; truyền thuyết phổ hệ; truyền thuyết về nhân vật và sự kiện lịch
sử[70,tr.26].
Tác giả Lê Chí Quế phân loại truyền thuyết thành bốn loại: Truyền thuyết
lịch sử; truyền thuyết anh hùng; truyền thuyết về các danh nhân văn hóa; truyền
thuyết về các nhân vật tôn giáo[57,tr.115].
Tác giả Hoàng Tiến Tựu chia truyền thuyết thành bốn nhóm: Truyền thuyết
về họ Hồng Bàng; truyền thuyết về thời kì Âu Lạc và Bắc thuộc; truyền thuyết
về thời kì phong kiến tự chủ; truyền thuyết về thời kì Pháp thuộc[74,tr.55].
Theo tác giả Trần Thị An trong luận án Tiến sỹ Đặc trƣng thể loại và việc
văn bản hoá truyền thuyết dân gian Việt Nam (Viện Văn học, 2000), truyền thuyết
được chia thành các loại: Truyền thuyết nguồn gốc giống nòi; truyền thuyết anh
hùng; truyền thuyết tôn giáo; truyền thuyết tín ngưỡng; truyền thuyết địa danh.
Qua sự phân loại của các tác giả, tôi sử dụng quan điểm của tác giả Kiều Thu
Hoạch nhƣ sau:
20
Truyền thuyết nhân vật (bao gồm: Truyền thuyết về các anh hùng chống xâm
lƣợc; truyền thuyết về các anh hùng văn hóa; truyền thuyết về các anh hùng nông
dân).
Truyền thuyết địa danh, giải thích nguồn gốc tên gọi của các địa danh ở các
địa phƣơng có gắn với các sự kiện lịch sử.
Truyền thuyết phong vật, kể về các phong tục, hội hè, trò diễn… có gắn với
các nhân vật hoặc sự kiện lịch sử.
1.1.1.3. Khái niệm lễ hội
Thuật ngữ “lễ hội” mới chỉ đƣợc dùng phổ biến gần đây. Trƣớc kia chỉ dùng
từ hội, hội hè. Khoảng vài chục năm qua, chữ “lễ” mới đƣợc sử dụng nhiều hơn,
khi gọi là “hội lễ”, lúc ngƣợc lại gọi là “lễ hội”.
Lễ hội hay hội lễ, thuật ngữ này đều biểu hiện hai yếu tố lễ và hội, gắn bó
chặt chẽ với nhau, hòa quyện vào nhau. Cụ thể nhƣ sau:
Lễ: Lễ là một hệ thống các hành vi, động tác biểu hiện lòng tôn kính của dân
làng đối với thần linh, lực lƣợng siêu nhiên, phản ánh nguyện vọng, ƣớc mơ của
con ngƣời. Lễ trong lễ hội là hệ thống hành vi liên kết, có trật tự cùng hỗ trợ nhau,
gồm (cúng bái, lễ rƣớc, tế, cầu khấn) nhƣ: Lễ rƣớc nƣớc - Lễ Mộc Dục - Tế gia
quan - Rƣớc, đám rƣớc - Tế, đại tế - Lễ túc trực - Lễ hàn. Lễ không chỉ mang tính
thiêng, còn biểu thị sự tôn kính của con ngƣời đối với những sức mạnh vô hình
chƣa lý giải đƣợc nhƣng lại muốn chế ngự.
Hội: Là hoạt động vui chơi giải trí, đem lại một cảm giác thoải mái nhẹ
nhàng, rũ bỏ tất cả những lo toan, phiền muộn. Con ngƣời đƣợc hòa nhập vào cuộc
vui. Toàn bộ diễn trƣờng của lễ hội tạo thành một sân khấu lớn chứng kiến và tổ
chức mọi trò vui, hứa hẹn mọi điều may mắn, con ngƣời vui hết mình trong tinh
thần sảng khoái của tình cảm cộng đồng.
Nếu nhƣ lễ là một hệ thống tĩnh có tính quy phạm, nghiêm ngặt đƣợc cử
hành tại đình, đền, chùa, miếu, ngƣợc lại, hội là sinh hoạt dân dã phóng khoáng
21