Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Đề cương luận văn: TRUYỀN THUYẾT VỀ QUỐC SƯ NGUYỄN MINH KHÔNG ở CHÙA CO LỄ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.85 KB, 54 trang )

TRUYỀN THUYẾT VỀ QUỐC SƯ NGUYỄN MINH KHÔNG Ở CHÙA
CỔ LỄ, TRỰC NINH, NAM ĐỊNH

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề đề tài
Trong các thể loại tự sự dân gian, truyền thuyết đóng vai trò và có vị trí
quan trọng. Truyền thuyết ra đời trên cơ sở những sự kiện lịch sử của dân tộc,
gắn liền với đời sống cộng đồng, phản ánh những khía cạnh lịch sử theo con
mắt và quan niệm của nhân dân. Hệ thống truyền thuyết Việt Nam rất đa dạng
và phong phú. Các nhà nghiên cứu dân gian đã bỏ ra rất nhiều công sức để
nghiên cứu và sưu tầm về hệ thống truyền thuyết người Việt. Đã có rất nhiều
công trình được xuất bản xứng đáng với tầm vóc yều cầu đặt ra. Tuy nhiên, số
lượng các truyền thuyết hiện còn đang lưu truyền trong dân gian là rất lớn.
Truyền thuyết về Nguyễn Minh Không là một hệ thống truyện kể dân gian
được lưu truyền rộng rãi trong nhiều địa phương ở Việt Nam, nhất là vùng
châu thổ sông Hồng. Ông là một vị thiền sư nổi tiếng ở nước ta trong buổi đầu
gây dựng nền độc lập tự chủ. Dưới vương triều đời Lý, ông cùng với Dương
Không Lộ đã có công đi quyên giáo đồng để đúc ''tứ đại khí''- bốn báu vật
bằng đồng đúc của nước ta, xây dựng và làm cho nghề đúc đồng Việt Nam đạt
tới đỉnh cao rực rỡ. Ông được nhân dân suy tôn là tổ sư nghề đúc đồng. Bên
cạnh đó ông còn là một danh y nổi tiếng đã có công chữa bệnh hóa hổ cho vua
Lý Thần Tông, có công sáng lập và làm trụ trì nhiều ngôi chùa nổi tiếng. Ông
được nhà vua phong là Quốc sư do đã có công lớn đối với bách tính lê dân.
Tính từ trước đến nay số lượng các công trình nghiên cứu, sưu tầm
truyền thuyết khá nhiều nhưng mảng truyền thuyết về tổ nghề còn ít được


quan tâm. Trong tình hình chung ấy, việc nghiên cứu truyền thuyết về tổ nghề
đúc đồng sẽ cho chúng ta một cái nhìn hệ thống nhằm nhận biết sâu sắc
những giá trị Foklore cũng như việc bảo lưu phát triển các làng nghề thủ công
ở nước ta.Thờ tổ nghề là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, thể hiện sự


biết ơn những vị sáng lập, mở mang tri thức ngành nghề cho nhân dân, di
dưỡng đạo lý ''uống nước nhớ nguồn'', ''ăn quả nhớ người trồng cây''… Rất
nhiều nơi trên khắp nước ta, hoặc là những ngôi chùa ông đã trụ trì, đã xây
dựng; hoặc là những nơi còn lưu lại dấu chân một thời đơm đó của ông;
nhưng phổ biến là các làng nghề đúc đồng đều lập nơi thờ tự để tưởng nhớ ơn
đức của Nguyễn Minh Không. Tuy nhiên, mỗi địa phương, mỗi vùng miền lại
có cách tưởng niệm và lưu truyền khác nhau tuỳ theo đặc điểm phong tục, tập
quán của mỗi địa phương. Lễ hội tưởng niệm tổ nghề của làng đúc đồng Tống
Xá là một trong những nét sinh hoạt văn hoá độc đáo của địa phương.
Nghề chế tác kim loại, trong đó có nghề đúc đồng xuất hiện từ rất sớm.
Những làng nghề chuyên về đồ đồng mà ''dân biết mặt, nước biết tên" là: Đại
Bái (Bắc Ninh), Ngũ Xã (Hà Nội), Trà Đông (Thanh Hoá), Vó - Bưởi (Hà
Bắc), Đông Mai (Hà Bắc), Đề Kiều (Hải Dương), Đồng Quỹ (Nam Định)…
Trong đó Tống Xá được xem như một cái nôi của làng nghề đúc đồng Việt
Nam. Ngày nay, sản phẩm đúc đồng của Tống Xá không chỉ làm giàu cho dân
làng mà còn làm đẹp cho đời, cho đất nước. Rất nhiều những công trình mang
tầm cỡ quốc gia được sáng tạo bởi chính bàn tay tài hoa và tâm sức của các
nghệ nhân trong làng
Hiện nay, nhiều làng nghề đúc đồng toàn quốc đang đứng trước nguy
cơ bị mai một hoặc tạm lắng xuống vì không đáp ứng được nhu cầu và thị
hiếu xã hội thay đổi thì làng nghề đúc đồng Tống Xá vẫn trụ vững, ngày càng
phát triển mạnh mẽ hơn. Người dân Tống Xá sống bằng nghề đồng, làm giàu


bằng nghề đồng luôn khẳng định thương hiệu sản phẩm trên toàn quốc và
quốc tế.
Từ những lý do nêu trên, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu ''Truyền
thuyết về đức Thánh Tổ Nguyễn Minh Không và lễ hội làng nghề Tống Xá
ở Yên Xá- Ý Yên- Nam Định'' là một vấn đề quan trọng, hấp dẫn với hành
trình tìm về nguồn gốc các làng nghề nói chung đảm bảo tính khoa học, tính

chỉnh thể và tính toàn diện.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Truyền thuyết về đức Thánh Tổ Nguyễn Minh Không- một anh hùng văn
hoá, đã từ lâu đã được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu. Ngay từ thế kỷ XIII,
XIV, XV các nhà Nho đã sưu tầm truyền thuyết về Nguyễn Minh Không:
-Trong sách "An Nam chí lược" của Lê Tắc(thế kỷ XIII-XIV), có một
mục chép về Nguyễn Minh Không và Giác Hải cùng đi khuyến hoá lấy đồng.
Cả hai đều có phép đi thuyền vượt gió, trong đó Minh Không thì đi được trên
mây, Giác Hải thì rẽ được dưới nước.
-Cuốn "Nam ông mộng lục" tác phẩm còn lại duy nhất của Hồ
Nguyên Trừng hoàn thành năm 1483 gồm 31 chuyện có chuyện về Nguyễn
Minh Không với tiêu đề: "Minh Không thần dị". Tác giả đã ghi lại những
phép thần dị biến hoá tài tình của Quốc sư Nguyễn Minh Không như: niêu
cơm ăn hết lại đầy; phép rút đất đi từ Giao Thủy về Thăng Long hơn 300 dặm
chỉ trong phút chốc… Sau này truyện được chép lại trong ''Tổng tập văn học
dân gian người Việt'' Kiều Thu Hoạch chủ biên với tiêu đề: ''Truyện sư
Nguyễn Minh Không''. Trong truyện có đoạn: ''Đến tối khi lên thuyền, nhà sư
dặn sứ giả và các thuỷ thủ đều nên ngủ kĩ một giấc…Sứ giả nài xin không


được, mọi người đành nằm sấp giả ngủ, duy cảm thấy bên thuyền có gió lạnh.
Phút chốc trăng lên, gọi dậy thuyền đã cập bến Đô Thành, vượt hơn ba trăm
dặm''[21,tr.896].
-Đến sách "Việt điện u linh" của Lý Tế Xuyên(thế kỷ XIV đời nhà
Trần) có ghi chép truyện về Minh Không gắn thêm với Giác Hải ở các sự
kiện: hai sư nấu niêu cơm "Thạch Sanh"; hai sư cùng đi thuyền; hai sư cùng
chữa bệnh hoá hổ cho vua Lý Thần Tông. Sau, truyện này cũng được chép lại
trong ''Tổng tập văn học dân gian người Việt'' tập 4[21]. Sự lắp ghép giữa
hai vị thiền sư này thể hiện rõ ở chi tiết làm phép chữa bệnh: ''Minh Không

nhường cho Giác Hải đốt lửa đun vạc, lửa cháy rất mạnh, dầu sôi lên sùng
sục. Minh Không nhúng tay vào trong vạc dầu lấy đủ một trăm cái đanh ra.
Giác Hải nhường Minh Không làm phép, Minh Không lấy cành hoè nhúng
xuống dầu, vẩy khắp mình vua…''[21,tr.884].
-Trong sách "Thiền uyển tập anh ngữ lục" được tái bản năm 1715
dưới thời Lê niên hiệu Vĩnh Thịnh(thứ 11) có bài viết về người kế thừa tâm
pháp của dòng Tì-ni-đa-lưu-chi(đời thứ 13) có ghi chép tiểu sử, hành trạng
của thiền sư Minh Không. Nhưng sau này 1993, tái bản "Thiền uyển tập
anh'' nhóm dịch giả Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thuý Nga lại không chép truyện
Quốc sư Minh Không. Theo Nguyễn Duy Hinh trong "Tư tưởng Phật Giáo
Việt Nam" vì trong sách đó "có tình tiết chữa bệnh hoá hoá hổ cho vua Lý
Thần Tông, tương tự như trong ''Lĩnh Nam chích quái" nhưng lại có những
đối thoại xa lạ với Phật Giáo"[ tr.213].
-Tiếp đến một thư tịch cổ khác là "Lĩnh Nam chích quái" do Trần Thế
Pháp biên soạn(cuối thế kỷ VX) cũng chép chung truyện Nguyễn Minh
Không với Từ Đạo Hạnh. Trong truyện, trước khi hoá, Từ Đạo Hạnh đã
truyền tâm ấn cho Nguyễn Minh Không, khi vua Lý Thần Tông hoá hổ


Nguyễn Minh Không đã dùng y thuật của mình chữa khỏi bệnh cho vua và
được phong "Quốc sư". Truyện cũng được chép lại trong "Tổng tập văn học
dân gian người Việt'' tập 4 với tiêu đề: "Truyện Từ Đạo Hạnh và Nguyễn
Minh Không". Mối quan hệ Đạo Hạnh-Minh Không thể hiện qua đoạn: "Đạo
Hạnh thấy người (chỉ Minh Không) tiết tháo bèn truyền tâm ấn, lại đặt tên
cho... Đạo Hạnh đã hoá Minh Không trở về chùa cũ cầy ruộng… Khi đó Lý
Thần Tông bỗng mắc bệnh lạ, tâm thần rối loạn, tiếng kêu đau đớn gầm rú
đáng sợ... Triều đình bèn sai sứ thần đi tìm được Minh Không'' [21,tr.874875].
-Trong bộ ''Đại Việt sử ký toàn thư''-bộ sử thời Lê do thần Ngô Sĩ
Liên khởi biên thì những sự kiện liên quan đến cuộc đời Nguyễn Minh Không
được chép như sau: năm 1136, ''Vua bệnh nặng, chữa thuốc không khỏi. Nhà

sư Minh Không chữa khỏi, phong là Quốc sư. Tha thuế dịch cho vài trăm hộ''
[33,tr. 326].
-Trong "Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam" Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội 1974. Nguyễn Đổng Chi đặt truyện Minh Không trong hệ thống truyện
cổ tích, rõ nhất ở truyện:"Từ Đạo Hạnh hay sự tích Thánh Láng". Ở đây,
trong cách nhìn dân gian, "chàng" Minh Không được coi là người bạn và anh
em kết nghĩa cùng Từ Đạo Hạnh và Dương Không Lộ. Mặt khác, câu chuyện
còn được nhập cục với truyện sư Khổng Lồ. Về hình thức kết cấu câu và cách
dẫn chuyện cũng thay đổi phù hợp lối kể chuyện dân gian với những câu mở
đầu và chuyển đoạn kiểu như :"Vào thời Lý …", "Một hôm…", "Lại nói
chuyện Từ Vinh…."
-Đến cuốn "Đại Nam nhất thống chí" tập 4 trong " Quốc sử quan
triều Nguyễn 1992", bản dịch của Phạm Trọng Điềm, phần tỉnh Ninh Bình,


mục "từ miếu" cũng chép chuyện Nguyễn Minh Không với cốt truyện tương
tự như "Lĩnh Nam chích quái".
-Bài tiểu luận "Hình bóng người anh hùng sáng tạo văn hoá trong
truyền thuyết dân gian Không Lộ"(Tạp chí văn học, số 6, 1974), tác giả
Nguyễn Quang Vinh đã xác định sự tích thiền sư Dương Không Lộ hay
Nguyễn Minh Không là hiện tượng văn hoá phức tạp, nhiều tầng, nhiều lớp,
được tích hợp thêm màu sắc dân gian kỳ ảo. Vốn là nhân vật thuộc tiểu truyện
thiền sư, hình tượng Nguyễn Minh Không dễ dàng chuyển hoá thành nhân vật
của chuyện kể dân gian, truyền thuyết và cổ tích. Sau này Lã Đăng Bật cũng
có khảo sát công phu về vấn đề này ở bài "Đền thờ danh sư Nguyễn Minh
Không" [56].
-Năm 1994, trong "Hồ sơ di tích đền thờ Đức Thánh Tổ làng Tống
Xá'' của Sở văn hoá-Thông tin và thể thao Nam Hà, các tác giả đã ghi chép
khái quát về tên gọi địa điểm, đường đi đến, nêu truyền thuyết và công trạng
của thiền sư Nguyễn Minh Không, các di vật, đồ thờ tiêu biểu. Trong hồ sơ

cũng miêu tả sơ lược lễ hội làng Tống Xá diễn ra từ mồng 10 đến 12 tháng 2
Âm lịch hàng năm.
-Trong cuốn "Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam'' tập 1, Nxb Giáo
dục, năm 1999, tác giả Trần Thị An và Nguyễn Thị Huế ghi lại truyện Nguyễn
Minh Không cùng với Từ Đạo Hạnh cốt truyện gần giống với "Lĩnh Nam
chích quái".
-Năm 2000, nhà nghiên cứu dân gian Lê Xuân Quang ra mắt cuốn sách
"Truyện Đức Không Lộ- Minh Không"- Nxb Văn hoá dân tộc. Đây là cuốn
sách đã sưu tầm khá đầy đủ truyền thuyết dân gian về Đức Thánh Tổ Minh


Không và ở đó ông in bài diễn ca xâu chuỗi tất cả những truyền thuyết về
Đức Thánh Tổ Minh Không.
-Năm 2003, Vũ Thị Thắm, Sinh viên khoa ngữ văn trường Đại học Sư
Phạm Hà Nội đã làm khoá luận tốt nghiệp với đề tài "Truyền thuyết về Đức
Thánh Tổ Không Lộ với lễ hội chùa Keo trong đời sống dân gian ở Hành
Thiện". Tác giả đã đề cập nội dung, nghệ thuật của truyền thuyết, bước đầu lý
giải sự hợp nhất của hai nhân vật Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không
trở thành một nhân vật trong truyền thuyết. Luận văn đã nghiên cứu truyền
thuyết về Dương Không Lộ gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian ở địa phương
Hành Thiện.
-Trong "Truyện dân gian Trấn Sơn Nam xưa", năm 2005, Nxb Lao
động, tác giả Lương Hiền ghi chép về Nguyễn Minh Không theo tư liệu điền
dã qua lời kể của Cụ Nguyễn Kim Sơn, 75 tuổi ở Song Lãng, Vũ Thư, Thái
Bình với tiêu đề: "Truyền thuyết về quốc sư Triều Lý-Không Lộ Minh và sự
tích chùa Keo Thái Bình". Truyện ghi rõ tiểu sử, hành trạng của Nguyễn
Minh Không. Ông kết bạn với Giác Hải, Đạo Hạnh, cùng đi khuyên giáo đồng
ở phương Bắc. Truyện còn ghi lại một số bài kệ, câu hát đồng dao minh hoạ
về thiền sư Minh Không.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là kết hợp khảo sát nghiên
cứu tư lịêu tại chỗ gồm toàn bộ nhưng tư liệu mà các nhà nghiên cứu đã viết;
nghiên cứu xử lý những tư liệu điền dã do nhân dân địa phương kể lại; đồng
thời chứng kiến lễ hội tưởng nhớ ông tổ nghề Nguyễn Minh Không ở làng


nghề đúc đồng Tống Xá cùng những sinh hoạt tín ngưỡng văn hoá dân gian ở
địa phương.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi khảo sát để lấy tư liệu trong phạm vi làng Tống Xá. Tuy
nhiên truyền thuyết về thiền sư Nuyễn Minh Không không chỉ bó hẹp trong
một làng, vì vậy chúng tôi phải xem xét, đặt hệ thống những truyền thuyết
này trong phạm vi vùng châu thổ sông Hồng và quốc gia.
4. Mục đích, yêu cầu của đề tài
4.1 Mục đích
Đề tài khảo sát để đánh giá thẩm mỹ để làm sáng tỏ một hiện tượng văn
học dân gian trong đời sống văn hoá dân gian của một làng nghề thủ công truyền
thống của dân tộc. Qua đó làm rõ được giá trị đặc thù của truyền thuyết gắn với
phong tục, tập quán địa phương, góp phần giữ gìn truyền thống văn hoá làng và
thúc đẩy nghề đúc Tống Xá ngày càng phát triển phồn thịnh.
4.2 Yêu cầu
Từ mục đích trên, đề tài đặt ra những yêu cầu sau đây:
-Sưu tầm, khảo sát các tư liệu đã thành văn liên quan đến vấn đề nghiên
cứu.
-Tập hợp, ghi chép xử lý khoa học những tài liệu còn được lưu truyền trong
dân gian trên tất cả các phương diện sinh hoạt văn hoá và văn học nghệ thuật.
-Bước đầu so sánh với lễ hội chùa Keo làng Hành Thiện (Xuân HồngXuân Trường-Nam Định) để làm nổi bật sắc thái địa phương của lễ hội làng
nghề Tống Xá.



5. Phương pháp nghiên cứu
Văn học dân gian như cái tên của nó, nghĩa là văn học của dân gian, tức
tự chúng mang trong mình tính dị bản và tính nguyên hợp. Cho nên nghiên
cứu một vấn đề mang tính dân gian phải nghiên cứu trong môi trường diễn
xướng. Vì vậy, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau đây:
- Phương pháp xã hội học: điền dã, ghi chép các truyện kể của nhân
dân, đặc biệt của người cao tuổi; quay phim, chụp ảnh, ghi âm, phỏng vấn…
những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: vận dụng các chuyên đề khác như sử
học, dân tộc học, khảo cổ học, văn hoá học… để hỗ trợ đắc lực cho đề tài.
-Phương so sánh loại hình: nhằm nhận diện được những sắc thái riêng
mang bản sắc địa phương của làng nghề Tống Xá.
-Phương pháp phân tích, tổng hợp: từ kiến thức, tư liệu còn thô mộc
chúng tôi sẽ tiến hành hệ thống hoá để nêu bật các vấn đề cần nghiên cứu một
cách hiệu quả.

NỘI DUNG CHÍNH
I.Nguyễn

Minh Không và chùa Cổ Lễ
1. Nguyễn Minh Không

Không giống như những nhân vật lịch sử khác, vị Thánh Tổ Nguyễn
Minh Không được chính sử ghi chép một cách rõ ràng, cẩn thận, những điều
ta biết về ông bây giờ chỉ là những gì khảo cứu lại, song chúng ta biết được
phần nào về con người ông:


Tại làng Điềm Xá, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình có ông Nguyễn Tất

Đạt lấy bà Lại Từ Hiền quê xã Lại Trì, huyện Trực Ninh (nay thuộc tỉnh Thái
Bình). Ông bà sinh được bốn người con trai là Nguyễn Chí Cần, Nguyễn Chí
Đức, Nguyễn Chí Thành, Nguyễn Chí Thiện và hai người con gái là Nguyễn
Thị Cúc và Nguyễn Thị Quỳ. Khi ông bà sinh hạ được hai con đầu thì tại
vùng Điềm Xá liên tiếp bị mất mùa và dịch bệnh, không thể sống nổi tại quê
hương, vợ chồng phải đưa các con đi kiếm ăn nơi xa lấy nghề đơm đó, đánh
cá để sinh sống. Ngày 14 tháng 4 niên hiệu Thái Ninh năm thứ 5 (1076) là
ngày mà bà Hiền sinh hạ Nguyễn Chí Thành. Tiếp nối nghề của cha, các con
ông Đạt trong đó có Nguyễn Chí Thành thuở nhỏ thường dùng thuyền đi đơm
đó, bắt cá để sinh sống, Những nơi mà ông thường đến bắt cá làng Lộng Khê
nay thuộc tỉnh Thái Bình, Cổ Lễ và Quần Hàn thuộc huyện Trực Ninh, Dương
Nguyên thuộc huyện Thường Nguyên, An Trung thuộc huyện Đại An, Tống
Xá thuộc huyện Phong Doanh của Tỉnh Nam Định cũ.
1. Nhà tu hành mộ đạo
Trong số các con ông thì Nguyễn Chí Thành ngay từ thủa nhỏ đã tỏ ra
là người có ý chí, quyết tâm đi tu. Khi mới xuất gia, Chí Thành theo học sư
Giác Không, thân sinh ra ông Giác Hải ở chùa Diên Phúc xã Yên Vệ, phủ Yên
Khánh, tỉnh Ninh Bình. Ông kết bạn với sư Giác Hải, tìm hiểu sâu về đạo
Phật. Là người học giỏi tinh thông mọi điều nên đã được sư phụ Giác Không
cho hiệu là Minh Không .
Theo "Thiền uyển tập anh ngữ lục", bản in tháng 4 năm Vĩnh Thịnh
thứ 11 (1715): “Thiền sư Nguyễn Minh Không mấy đời làm nghề câu cá, sau
bỏ nghề ấy mà đi tu, thường hay đọc kinh Già la ni môn. Trong các năm
Chương Thánh, Gia Khánh, thời Lý Thần Tông thường cùng là đạo hữu cùng
ở ẩn đất Hà Trạch, quên cả thân mình, ngoài không đi đến đâu, trong thì tu


thiền định. Bỗng thấy tinh thần tai mắt sáng sủa, có thể bay trên không, đi
trên băng giá, bắt được hổ phải phục, bắt được rồng phải giáng, vô cùng
quái đảm người ta không sao lường biết được. Sau tìm về một ngôi chùa ở

quận mà ở''[74] .
Trong cuốn “Không Lộ Thiền sư ký ngữ lục” bằng chữ Hán, không rõ
tên tác giả viết từ đời nào, hiện đang lưu giữ tại chùa Keo làng Dũng Nhuệ,
Thái Bình có chép: “Vị thiền sư Không Lộ ở chùa Nghiêm Quang tại Hải
Thanh, là người Hải Thanh, họ Dương, huý là Minh Không thiền sư, theo
nghiệp nhà làm nghề chài lưới... về sau bỏ nghề đi tu theo phái Đà la môn.
Năm Chương Khánh Gia Khánh thứ nhất, sư cùng bạn là Giác Hải ra nước
ngoài. Lúc đầu sư theo học cư sĩ Bảo Tài Ngô Xá rồi theo học thiền sư Thảo
Đường và đắc đạo. Thiền sư Thảo Đường truyền thụ cho giáo lý của phái
Tuyết Đậu Minh Giác. Sau đó sư cùng Giác Hải tìn đến am Mục Ngưu, làng
Đô Lâu, cùng tu ở chùa Hà Trạch. ở đây ăn bằng cây, mặc bằng cỏ, các vị tu
trì khổ hạnh tới quên mình. Ngoài đời cắt đứt mọi mưu cầu, trong tâm ngày
đêm lo thiền định. Các vị quên đói, bỏ ăn, để hết tâm trí vào việc chế đan
luyện dược. Thân hình đến nỗi như cây khô, nội tâm và ngoại cảnh không có
gì phân biệt”[73].
Thời Lý, Phật giáo được xem như một “Quốc đạo”, ảnh hưởng của phật
giáo lan khắp mọi miền đất nước. Thiền sư Nguyễn Minh Không là một vị
cao tăng, có công lớn trong việc du nhập và hoằng dương Phật pháp vào Việt
Nam nói chung và Nam Định nói riêng
Giai đoạn cuối đời ông đi chu du khắp nơi để xây dựng và mở rộng
chùa chiền như:


- Tỉnh Nam Định: chùa Nội, chùa Cấp Cô, chùa Đồng, huyện Nam
Trực; chùa Cổ Lễ huyện Trực Ninh; chùa Viên Quang huyện Xuân Trường;
chùa Cổ Liêu huyện Ý Yên.
-Tỉnh Hải Dương: chùa Dương Nam huyện Ngãi Sơn; chùa Phả Lại
huyện Quế Dương; chùa Hưng Long huyện Vĩnh Lại; chùa Quỳnh Lâm huyện
Đông Triều.
-Tỉnh Hà Bắc: chùa Giác huyện Quế Trân

-Tỉnh Hà Tây: chùa Lạc Sư huyện Thạch Thất
-Tỉnh Ninh Bình: chùa Điền Xá huyện Gia Viễn
-Tỉnh Thanh Hoá: chùa Chính Đại huyện Nga Sơn
Rất nhiều nơi lập đền thờ ông, trong đó có các nơi thờ lớn có tượng tô
là: chùa Keo Vũ Thư- Thái Bình, chùa Keo Xuân Trường- Nam Định, chùa
Cổ Lễ- Nam Định và chùa Điềm Giang- Ninh Bình.
2. Nhà truyền giáo vĩ đại
Theo ''Tài liệu Hán Nôm" về đền Thánh Tổ làng Tống Xá có đoạn:
Năm Thiên Thuận Thứ IX (1124) Nguyễn Minh Không, sang thôn Tây có
đoạn Quốc sư khuyên giáo đồng đem về nước. Từ số đồng này ông đã cùng
học trò đúc tượng Quỳnh Lâm cao hơn hai trượng tại xã Hạ Lôi, huyện Đông
Triều, tỉnh Hải Dương; đúc chuông chùa Phả Lại nặng hơn vạn cân ở trên bờ
sông Lục Đầu- huyện Quế Phong tỉnh Bắc Ninh; đúc tháp Báo Thiên cao 9
tầng tại huyện Vĩnh Thuận (nay là phủ Thọ Xương); đúc đỉnh Phổ Minh nặng
hơn 2 vạn cân tại xã Tức Mặc huyện Mỹ Lộc- Nam Định. Người đời gọi là 4
vật báu ở đất An Nam. Năm 1125 ông tiếp tục đúc chuông chùa Nghiêm


Quang nặng hơn 3300 cân cân, nay là xã Nghĩa Xá- Xuân Trường- Nam
Định”[75].
Nghề đồng xuất hiện ở nước ta từ rất sớm nhưng Nguyễn Minh Không
là người đã có công xây dựng và làm cho nghề đúc đồng Việt Nam đạt tới
đỉnh cao rực rỡ của thời Lý. Ngoài việc đúc “Tứ đại khí”, ông còn dạy nghề
đúc cho nhiều nơi. Học trò của ông đã trở thành nghệ nhân nổi tiếng, trong đó
đứng đầu là ông Trần Trọng (nghệ nhân làng Ngũ Xã - Hà Nội) đúc thành
công bức tượng vĩ đại Huyền TrânTrấn Vũ cao 3,96m, nặng 9 tấn, thờ ở đền
Quán Thánh Hà Nội từ đời vua Lê Hy Tông năm 1677. Là quê hương của
nghề đồng, Nam Định có trung tâm đúc đồng nổi tiếng đó chính là Tống Xá.
3. Nhà y thuật tài ba
Trong “Đại Việt Sử ký toàn thư” Ngô Sĩ Liên đã chép: năm 1136, vua

bệnh nặng, chữa thuốc không khỏi. Nhà sư Minh Không chữa khỏi, phong là
Quốc Sư, tha thuế dịch cho vào trăm hộ”[33,tr. 326].
Trong “Không lộ thiền sư ký ngữ lục” có đoạn: “Năm Binh Thần, niên
hiệu Thiên Chương Bảo thứ tư, lúc đó Lý Thần Tông mắc một bệnh lạ, tâm thần
hoảng loạn tiếng kêu đau đáng sợ, như tiếng hổ gầm. Các lương y trong thiên hạ
triệu đến chữa đều bó tay chịu.Bỗng trong khu chợ có trẻ hát rằng:
Muốn lành bệnh thật dễ
Phải kiếm được Minh Không
Không kiếm được Minh Không
Không lành bệnh Thần Tông hoá hổ"


Triều đình sai sứ đi dò khắp nơi trong thiên hạ. Nghe đến có sư Không
Lộ là Minh Không tu ở chùa Thần Quang, làng Dũng Nhuệ huyện Giao Thuỷ,
liền tức thời sai sứ quan nội thị đưa một chiếc thuyền đến tận nơi để tìm hỏi…
Nhà sư sai mang chảo lớn đến đổ đầy dầu vào nồi đun lên. Khi dầu sôi nhà
sư thò tay khoắng bốn lần rồi tắm vua trong chảo con bệnh liền tỉnh ra và
khỏi hẳn''[73].
Chính sử ghi chép tài y thuật của Minh Không chữa khỏi bệnh cho vua
Lý Thần Tông. Khi vào truyền thuyết nhân dân đã sáng tạo ra nhằm những cốt
truyện ly kì để khẳng định tài y thuật của ông không chỉ chữa bệnh cho bề
trên mà còn là thầy thuốc của “bách tính lê dân”.
4. Nhà thơ Thiền nổi tiếng
Đức Thánh Tổ không chỉ là nhà tu hành mô đạo, nhà truyền giáo vĩ đại, nhà
y thuật tài ba mà còn được coi là nhà thơ Thiền rất nổi tiếng. Thơ của thiền sư
mang sắc thái Thiền đậm nét, ngợi ca tình yêu thiên nhiên, cảnh vật tươi đẹp của
non sông đất nước. Trong bài “Ngôn hoài” ông đã tâm tình:
''Trạch đất long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thượng cô phong đính

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.''
Dịch thơ:
''Kiểu đất long xà chọn được nơi
Tình quê lai láng chẳng hề vơi
Có khi xông thẳng lên đầu núi


Một tiếng kêu vang lạnh cả trời".
Trong bài “Ngư nhàn” ông đã viết:
''Vạn lý thanh giang vạn lí thiên
Nhất thôn tang giá nhất thôn yên
Ngư ông thụy trước vô nhân hoán
Quá ngọ tinh lai thuyết mãn thuyền''
Dịch thơ:
''Trời xanh nước biếc muôn trùng
Một thôn sương khói một vùng dâu đay
Ông chài ngủ tít ai lay
Quá trưa tỉnh dậy tuyết bay đầy thuyền''

(Kiều Thu Hoạch dịch)
Nhận xét về giá trị của thơ ông, nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai đã viết:
''Thơ ông Khổng Lọ ca ngợi thú vị đời sống đồng quê bằng một lối chủ nghĩa
trữ tình tôn giáo những không hề có ý vị cửa thiền. Nhà thơ vui mừng nhìn
địa hình, địa vật qua những đồi núi hình rồng hình rắn uốn quanh ngôi nhà
của mình. Đó là lối nhìn của các thầy địa lí. Nhà sư trèo lên đỉnh núi cao, thở
một hơi dài và nghe như hơi của con người đã lên tới cung nhà trời trên cõi
thái sư'' [63].


Ngày 3 tháng 6 năm Giáp Tuất (1154) ông đã nên tịch ở chùa Nghĩa

Xá, vạn Giao Thủy nay là Xã Xuân Ninh, huyện Xuân Thuỷ, tỉnh Nam Định,
thọ 79 tuổi.
2.

Chùa Cổ Lễ

Chùa Cổ Lễ nguyên được xây dựng từ thời Lý Thần Tông, do quốc
sư Nguyễn Minh Không sáng lập để thờ phật. Tương truyền vào thế kỷ XII,
Thiền sư Nguyễn Minh Không tu thành chính quả đã về đây dựng chùa. Trong
suốt thời gian trụ trì chùa Cổ Lễ, ngoài tu giảng Phật pháp, ngài còn bốc thuốc
chữa bệnh giúp dân, đúc nên “Tứ đại khí” lừng danh, được người dân ca tụng,
tôn xưng ông Tổ nghề đúc đồng.Chùa đầu tiên bằng gỗ theo lối kiến trúc cổ.
Tuy nhiên chùa ban đầu này đã bị đổ nát. Năm 1902, sư Phạm Quang
Tuyên về trụ trì, cho thiết kế và xây dựng lại chùa theo kiến trúc "Nhất Thốc
Lâu đài" với những yếu tố kiến trúc gô-tích giống như các nhà thờ Công giáo
có khá nhiều ở khu vực lân cận. Sau đó, chùa đã được trùng tu nhiều lần. Vật
liệu xây dựng là gạch, vôi vữa, mật mía, giấy bản tạo nên độ cố kết vững bền
của toàn bộ kiến trúc ngôi chùa.
Chùa Cổ Lễ là sự hòa nhập các yếu tố kiến trúc cổ truyền Việt Nam với các
yếu tố kiến trúc gô-tích (Gothic) của châu Âu. Đây là một ngôi chùa
thờ Phật nhưng lại mang dáng dấp một thánh đường Thiên Chúa giáo.
Trước chùa là ngôi tháp Cửu Phẩm Liên Hoa cao cao 32 m, có 8 mặt, dựng
năm 1927. Đế tháp được đặt trên lưng một con rùa lớn, đầu quay vào phía
chùa. Con rùa được nằm giữa một hồ nước hình vuông, bốn góc là bốn hòn
núi giả khá lớn, có đắp bốn con voi to bằng voi thật. Trong lòng tháp có cầu
thang gồm 98 bậc xoắn ốc đến đỉnh. Tương truyền rằng tín đồ phật tử, khách


hành hương lên đến bậc thứ 98 này, sờ tay vào bức tượng trên đỉnh tháp thì
cuộc sống sẽ luôn gặp may mắn.

Tiếp theo ngôi tháp là một chiếc cầu cong ba nhịp bắc qua hồ Chu Tích (còn
gọi là hồ Núi), gọi là cầu Cuốn. Mặt cầu lát gạch.
Cầu Cuốn dẫn tới chùa Trình, còn gọi là Phật giáo Hội quán. Chùa Trình được
xây vào năm 1936 và trùng tu vào năm 2001. Trong chùa có tượng Phật Quan
Âm nghìn tay. Trước sân chùa Trình có 2 lư đồng khổng lồ.
Bên trái chùa Trình là đền Linh Quang Từ, được xây vào năm 1937, thờ Trần
Hưng Đạo và hai tiến sĩ họ Đào người làng Cổ Lễ là Bảng nhãn Đào Sư Mỗ
và Tiến sĩ đệ tam giáp Đào Toàn Mỗ. Bên phải chùa Trình là Khánh Quang
phủ, được xây vào năm 1937, là nơi thờ Tam Tòa Thánh Mẫu.
Sau lưng chùa Trình là một cái hồ lớn. Giữa hồ có một quả chuông nặng
9000 kg gọi là chuông Đại Hồng Chung. Quả chuông cao 4,2 m, đường kính
2,2 m, thành dày 8 cm. Miệng chuông có họa tiết hình cánh sen, thân có họa
tiết hoa lá, sông nước và một số văn tự bằng chữ Nho. Quả chuông này chưa
được đánh một lần nào nhưng dân gian truyền miệng khi đánh lên thì cả tỉnh
và một vài vùng lân cận sẽ nghe được tiếng ngân của chiếc chuông Đại hồng
chung này. Đây là một trong những quả chuông lớn nhất ở Việt Nam. Nhân
dân quanh vùng vì yêu mến chùa mà đúc tặng. Trong quá trình đúc chuông,
nhiều người đã tháo cả nhẫn, vòng, vàng hòa tan trong đó. Khi quả chuông
vừa đúc xong thì kháng chiến bùng nổ, nhân dân trong vùng đề phòng sự phá
hoại của giặc nên đã đem ngâm quả chuông xuống hồ. Đến năm 1954, chuông
mới được trục vớt và được đặt trên bệ đá cho du khách tham quan từ đó đến
nay.


Có hai chiếc cầu giả như động núi, gọi là cầu Núi, bắc qua hồ dẫn tới kiến
trúc chính của chùa Cổ Lễ, đó là chùa Thần Quang. Chính điện được thiết kế
theo kiến trúc hài hòa giữa phong cách truyền thống và hiện đại. Thần Quang
Tự được xây dựng từ năm 1914 trên nền chùa cổ từ thế kỷ 12. Năm 1995,
chùa được trùng tu lớn. Trong chùa có tượng Phật sơn son thếp vàng bằng
gỗ bạch đàn cao 4 m đặt ở trên tầng cao phải đi theo những cầu thang nhiều

bậc ở hai bên mới lên đến chỗ đặt các tượng Phật. Sau lưng tượng Phật là bàn
thờ với tượng Nguyễn Minh Không.
Từ điện Phật, có các hành lang quanh ra phía sau nối với nhà khách và nhà tổ.
Vách hành lang gắn đầy những tấm bia hậu. Ở nhà tổ có tượng Hòa thượng
Phạm Quang Tuyên.
Sau nhà thờ tổ là một gác chuông lớn có kiến trúc truyền thống gồm 3 tầng 4
mặt, gọi là Kim Chung Bảo Các. Gác chuông này cao 13m40, được xây dựng
vào năm 1997. Tầng 2 của gác chuông này có treo một quả chuông đồng to,
cao 4m20, rộng 2m03, nặng 9.000 kg. Chuông được đúc vào năm 2003. Tầng
3 có treo một quả chuông đồng nữa đúc từ thời Lê Cảnh Thịnh, nặng 300 kg.
Sau gác chuông là khu lăng mộ tổ của chùa.
Trong chùa còn có một chiếc trống bằng đồng và những chiếc thuyền dùng để
thi bơi chải. Bốn bề của chùa là vườn tược, hồ nước và sông ngòi.
Nhờ kết hợp tinh hoa kiến trúc cổ truyền Việt Nam với các yếu tố của phong
cách kiến trúc phương Tây, chùa Cổ Lễ đã trở thành một danh lam ở vùng
đồng bằng sông Hồng.


II. Truyền thuyết về quốc sư Nguyễn Minh Không ở chùa Cổ Lễ
1. Nhận xét truyền thuyết đức Thánh Tổ Nguyễn Minh Không
1.1. Hệ thống truyền thuyết đa dạng về tiểu loại
Truyền thuyết là một thể loại phổ biến của văn học dân gian, nó bao
gồm nhiểu tiểu loại, nhiều biến thể. Các nhà nghiên cứu văn học dân
gian đã đưa ra rất nhiều cách phân loại truyền thuyết khác nhau. Mỗi
cách phân loại đều gắn với tiêu chí riêng của từng tác giả. Đỗ Bình Trị
chia truyền thuyết thành ba tiểu loại: truyền thuyết địa danh, truyền
thuyết phổ hệ, truyền thuyết lịch sử. Lê Chí Quế thì chia thành ba tiểu
loại khác: truyền thuyết lịch sử, truyền thuyết anh hùng, truyền thuyết
về các danh nhân văn hoá. Còn Kiều Thu Hoạch lại mở rộng tiểu loại
thành: truyền thuyết nhân vật, truyền thuyết địa danh, truyền thuyết

phong-vật. Trong đó truyền thuyết nhân vật được tách làm ba loại nhỏ:
nhân vật anh hùng chống xâm lược, nhân vật anh hùng sáng tạo văn
hoá, nhân vật anh hùng nông dân.
Khi khảo sát hệ thống truyền thuyết đức Thánh Tổ Nguyễn Minh
Không chúng tôi nhận thấy: hệ thống truyền thuyết đức Thánh Tổ là
một tổ hợp cốt kể đa dạng về tiểu loại. Hệ thống truyền thuyết về ông
là sự hợp nhất giữa các tiểu loại: truyền thuyết địa danh, truyền thuyết
về anh hùng văn hóa, truyền thuyết phong vật.
Thứ nhất: tiểu loại truyền thuyết địa danh:
Trong cuộc đời của mình, Minh Không đã lưu bước ở nhiều địa
phương. Hành động, việc làm của ông còn để lại nhiều dấu tích khác
nhau. Cánh đồng ở huyện Nam Trực sở dĩ có tên cánh đồng Sạn là kết
quả của thuở thiếu thời ông đã từng nhặt sạn tép và ném thành 99 gò


đất. Tại sao làng Tống Xá lại xuất hiện một cánh đồng Cầu Hố? Nơi
đây chính Nguyễn Minh Không là người cùng với nhân dân đào hố, bắc
cầu xuống lòng đất để dò tìm loại đất sét qúy hiếm để nặn khuôn đúc.
Còn làng Sảy xuất hiện là do việc Nguyễn Minh Không dùng thuật "di
sơn" gánh một ngôi đình tuyệt đẹp đến một làng thuộc huyện Nam
Trực, bị làng này chê nên ông chuyển ngôi đình đi nơi khác. Thế là
làng "sảy" mất ngôi đình!..Như vậy, mỗi hành động của ông đều là
nguyên nhân xuất hiện các địa danh. Việc dân gian xây dựng nên truyền
thuyết địa danh trong chuỗi truyền thuyết về đức Thánh Tổ Minh
Không nhằm khẳng định một hiện tượng có thật, một con người có
thật đã sống và gắn bó với nhân dân. Bằng chứng của sự thật ấy hiện
nay vẫn còn đó là tên các địa danh.
Thứ hai: tiểu loại truyền thuyết về anh hùng văn hoá:
Hệ thống truyền thuyết đức Thánh Tổ Nguyễn Minh Không chủ yếu
thuộc tiểu loại truyền thuyết về người anh hùng sáng tạo ra các giá trị

văn hoá. Khác với các anh hùng chống giặc ngoại xâm, họ lập nên
những chiến công thức thời, hiển hách, vang dội trong lịch sử đấu tranh
dựng nước của dân tộc.Có khi chỉ cần một chiến thắng đã đủ làm nên
thanh danh, tiếng tăm lưu truyền sách sử đến muôn đời. Còn các anh
hùng văn hoá cứ âm thầm, bền bỉ góp sức giúp đời, giúp người để tạo
ra những giá trị văn hoá, thẩm mỹ tốt đẹp. Chiến công ấy không thức
thời nhưng lại có ý nghĩa vượt thời gian và rất đỗi phi thường được
hậu thế tôn vinh và ngợi ca. Thuộc tính của tiểu loại này sẽ được
chúng tôi thể hiện đậm nét trong phần II, mục 1, chương I.
Thứ ba: tiểu loại truyền thuyết phong – vật:


Truyền thuyết phong vật theo GS. Kiều Thu Hoạch thì đây chỉ là một
cách gọi tắt chủng loại truyền thuyết về phong tục và sản vật, chủ yếu
là những câu chuyện kể về nguồn gốc các phong tục, hội hè, trò diễn…
hoặc các sản vật có gắn với các nhân vật. Xét thuộc tính của tiểu loại
này thì truyền thuyết Nguyễn Minh Không có hai truyện kể nổi bật là
"Đúc người" và "Thợ rèn đỏ lửa có tiền, tắt lửa hết tiền".
Nghề đúc vốn là một nghề thủ công lao động hết sức vất vả. ''Sáng nổi
lửa chiều tắt lò", người thợ đúc phải tiếp xúc với than đen, khói bụi,
nóng nực và cả khí độc. Không giống như các nghề thủ công khác một
mình bản thân có thể làm ra sản phẩm, nghề đúc phải là sự phối hợp độ
khéo léo của nhiều người. Khâu kỹ thuật là vô cùng quan trọng từ tạo
khuôn, pha chế hợp kim, làm nguội…đều đòi hỏi sự tỉ mỉ và chính xác.
Muốn tạo ra các sản phẩm đúc có chất lượng lại đạt tới độ thẩm mỹ cao
thì nghề đúc tối kị là thói gian dối, tham lam, ăn bớt nguyên liệu.
Trong truyện "Đúc người" có đoạn: "Ngài nhận thấy rằng trong đám
đệ tử của mình có nhiều kẻ sinh ra thói lọc lừa điên đảo. Để sửa chữa
thói hư tật xấu của họ, đức Không Lộ-Minh Không hiện thân là một
chàng trai trẻ, xin đi theo học nghề một người thợ đúc rong". Tham

vọng của người thợ đúc là "đúc người xấu thành người tốt, người già
thành người trẻ". Khi tham vọng không thực hiện được, Minh Không
đã dạy cho người thợ đúc một bài học nhớ đời về thói lừa thầy, phản
bạn. Cũng từ bài học đó những người thợ đúc khi hành nghề không ai
dám man trá, đặc biệt là không lừa dối đồng nghiệp của mình. Trong
truyện "Thợ rèn đỏ lửa có tiền, tắt lửa hết tiền" cũng nói đến tục kị
của nghề đúc. Người thợ Cả tham lam, bớt xén, lúc phải đeo gông trên
công đường cũng đã rút ra được bài học để đời: sống với nghề thì phải
trung thực với nghề. Người thợ đúc lo sợ nhất là sự bấp bênh trong


nghề nghiệp "đỏ lửa có tiền, tắt lửa hết tiền". Bởi vậy, họ luôn đoàn
kết, giữ bí quyết nghề nghiệp, trung thực trong khâu sử dụng nguyên
liệu để giữ vững uy tín sản phẩm nghề nghiệp của mình.
2.2. Hệ thống truyền thuyết được dân gian hợp nhất hóa hai vị
Thánh Tổ Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không
Về nhân thân hai vị đức Thánh Tổ Dương Không Lộ và Nguyễn Minh
Không cũng đã được các học giả quan tâm nghiên cứu. Tác giả Chu
Huy trong bài viết "Về nhân thân hai vị quốc sư thời Lý, Dương
Không Lộ và Nguyễn Minh Không"[25]đã khẳng định đây là hai con
người hoàn toàn khác nhau. Tuy cùng sống dưới triều Lý, cùng thế kỷ
XI nhưng họ sống cách nhau đến nửa thế kỷ. Dương Không Lộ sinh
năm 1016 niên hiệu Thuận Thiên thứ 7, tịch năm Nhâm Tuất (1094).
Quê mẹ Không Lộ ở phủ Ninh Giang, Hải Dương còn quê cha ở làng
Giao Thủy, phủ Hải Thanh (sau đổi là Xuân Trường), Nam Định.
Nguyễn Minh Không sinh năm 1076 niên hiệu Thái Ninh thứ 5, tịch
năm Giáp Tuất (1154). Quê mẹ Minh Không ở Trực Ninh nay thuộc
Thái Bình còn quê cha ở làng Điềm Xá, Gia Viễn, Ninh Bình. Riêng về
năm sinh, năm mất của Nguyễn Minh Không cũng được các nhà nghiên
cứu ghi lại dưới nhiều thông tin khác nhau. Theo tác giả Bùi Văn

Nguyên trong cuốn ''Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam'', Nguyễn
Minh Không sinh măm 1085, mất năm 1161 [67,tr.560 ].Theo tác giả
Đỗ Thị Hảo trong cuốn "Nghề thủ công truyền thống Việt Nam và
các vị tổ nghề" thì Nguyễn Minh Không sinh năm Long Chương Thiên
Tự thứ 1 (1069), tịch năm Đại Định thứ 2 (1114) [19,tr.46]. Còn theo
tác giả khóa luận "Truyền thuyết về đức Thánh Tổ Không Lộ với lễ
hội chùa Keo trong đời sống dân gian ở Hành Thiện" Vũ Thị Thắm,


Nguyễn

Minh

Không

lại

sinh

năm

1066,

viên

tịch

năm

1141[48,tr16]....Tuy nhiên, để thống nhất và tôn trọng tài liệu tại chỗ

làng Tống Xá [72], chúng tôi dùng năm sinh, năm mất của Nguyễn
Minh Không là (1076-1154).
Về thân nhân thì khó thể nhầm lẫn, tuy nhiên dưới con mắt dân gian,
truyền thuyết về đức Thánh Tổ lại là sự hợp nhất hoá hai nhân vật
Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không. Nhân dân đã gọi dưới một
cái tên Khổng Minh Không. Trong quá trình sáng tạo các truyện kể,
nhân dân đã kéo hai nhân vật này lại gần nhau, nhập hai mà thành một,
tập hợp nhiều tài năng trong một tài năng. Ta có thể dễ dàng tìm thấy
trong dân gian, đặc biệt là ở những vùng thuộc địa bàn các tỉnh Thái
Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương, Hà Nội… những nơi mà đức
Thánh Tổ Minh Không đã từng du hành qua đều thấy xuất hiện truyện
kể về ông với những cái tên "đức Thánh Khổng", "đức Thánh Khổng
Minh Không, " Ông Khổng Lồ đúc chuông", "Dương Không Lộ ",
"Nguyễn Minh Không"…Vậy tại sao nhân dân lại hợp nhất hoá hai con
người này làm một? Theo chúng tôi có những lý do sau:
Thứ nhất: Dù Nguyễn Minh Không sinh cách Dương Không Lộ nửa
thế kỷ nhưng cả hai ông cùng sống vào triều Lý, khoảng thế kỷ XI-XII,
đều có tài đức, phép thuật, đều chữa khỏi bệnh cho con Vua Lý và đều
được phong làm Quốc Sư.
Thứ hai: Tại chùa Diên Phúc xã Yên Vệ, phủ Gia Khánh, tỉnh Ninh
Bình, Minh Không theo học nhà sư Giác Không, thân sinh ra ông Giác
Hải. Ông là bạn tốt của Giác Hải, được sư phụ Giác Không cho hiệu là
Không Lộ, biệt hiệu là Minh Không. Có lẽ chính tên hiệu của Nguyễn


Minh Không là Không Lộ nên dân gian đã hợp nhất giữa Nguyễn Minh
Không và Dương Không Lộ.
Thứ ba: Có một thời gian (khoảng năm 1109), Minh Không tu ở chùa trên
núi Dương Sơn thuộc xã Gia Lạc, Gia Viễn, Ninh Bình. Tại đây, ông lấy
biệt hiệu là Dương Sơn đại sư. Với tên hiệu này có lẽ dân gian cho rằng

ông là họ Dương và vì vậy việc hợp nhất với Dương Không Lộ là điều dễ
hiểu.
Thứ tư: Xuất phát từ tâm lý ngưỡng mộ, tôn sùng những anh hùng có
công tích với nhân dân, đất nước- đây là lý do chính yếu và cơ bản
nhất, các nghệ sỹ dân gian muốn ngợi ca và tô thêm cho nhân vật của
mình nhiều công trạng, tài phép hơn nữa. Họ đã kéo hai nhân vật
Dương Không Lộ-Nguyễn Minh Không lại gần nhau, tập hợp nhiều tài
năng trong một tài năng, hai mà thành một, sao cho xứng đáng với tầm
vóc người anh hùng mà họ tôn vinh..
2.3 Hệ thống truyền thuyết là sự chuyển hoá thể loại để mở rộng
giá trị- thẩm mỹ.
Từ thần thoại đến truyền thuyết:
Thần thoại là thể loại tự sự dân gian xuất hiện rất sớm, nó ra đời trong
công xã nguyên thủy, phản ánh nhận thức của con người về thế giới
khách quan thuở nguyên sơ. Để giải thích và nhận thức về vũ trụ, con
người, nhân dân đã tưởng tượng ra một vị thần mà vị thần đó chính là
khởi nguyên của thế giới. Ta đã từng gặp trong thần thoại thần Trụ Trời
hay bà Nữ Oa to lớn kỳ vĩ. Đôi tay và thân hình của các vị có thể vươn
tới trời xanh, sức khỏe của các vị là vô song, vô hạn. Những vị thần có
ngoại hình to lớn như thế được nhân dân gọi với cái tên: khổng lồ.


Trong truyền thuyết về Nguyễn Minh Không ta bắt gặp một vị
khổng lồ mà mọi hành trạng của ông đều kỳ vĩ, lớn lao. Chứng tích của
một "ông Lồ" trên khắp các tỉnh Thanh Hóa, Nam Định, Ninh Bình,
Thái Bình, Hải Dương, Hà Nội…Bàn về vấn đề này, GS.Kiều Thu
Hoạch đã kiến giải: "Điều lý thú là trong dân gian thời Lý đã đồng hóa
ông khổng lồ chinh phục tự nhiên, sáng tạo văn hóa của thần thoại Việt
cổ với truyền thuyết về sư Nguyễn Minh Không. Đây là vị sư có tài
chữa bệnh, vốn sống ở Thăng Long, đã chữa khỏi bệnh cho vua Lý

Thần Tông và được phong làm Quốc sư. Di tích khu đền Lý quốc Sư
hiện nay ở Hà Nội chính là "tịnh xá" của sư thời xưa[24,tr.775]. Như
đã trình bày phần trên, Dương Không Lộ-Nguyễn Minh Không đã được
hợp nhất hóa trong truyền thuyết mà việc biến âm Khổng Lồ-Khổng
Lộ-Không Lộ hoàn toàn có thể là một lí do khiến truyền thuyết về ông
xuất hiện một ông khổng lồ. GS.Kiều Thu Hoạch khẳng định: "Sự tích
ông Khổng Lồ trong thần thoại Việt cổ chính là cốt lõi của truyện ông
tổ đúc đồng Nguyễn Minh Không" [24,tr.775].
Minh Không vốn là một khổng lồ đã lập nhiều kỳ tích chinh phục
tự nhiên. Ông từng ném những tảng đá lớn làm kè đập, đê điều ngăn
nước lụt. Ông lại làm ra cả sấm chớp, mưa lũ để chống hạn cho dân.
Ông quẩy hai gánh nước mà tưới cho hàng trăm mẫu ruộng, nước tràn
trề xoáy thành vực, thành vũng. Có lúc ông vấp gối xuống nay còn lưu
lại khắp vùng thành vũng, thành ao…Trước của chùa Lam xã Nam
Đồng, huyện Nam Ninh có một gò đất cao nổi hẳn lên trong mùa nước,
tương truyền đó là gò đất để đó của ông. Làng Phan, Làng Rẫy thuộc
xã Nam Dương huyện Nam Ninh có nhiều ao nhỏ hai ven đường dẫn ra
cánh đồng, tương truyền là dấu chân Minh Không đi đơm đó. Xã Nghĩa
Thịnh huyện Nghĩa Hưng hiện vẫn còn vết tích của Nguyễn Minh


×