Tải bản đầy đủ (.doc) (259 trang)

Giáo Trình Đại Cương Giáo Dục Trẻ Khuyết Tật Trí Tuệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.97 KB, 259 trang )

GIÁO TRÌNH ĐẠI CƯƠNG GIÁO DỤC TRẺ KHUYẾT TẬT TRÍ
TUỆ
GIÁO TRÌNH
ĐẠI CƯƠNG GIÁO DỤC TRẺ KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ
PGS. TS. NGUYỄN THỊ HOÀNG YẾN (Chủ biên)
ThS. ĐỖ THỊ THẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ cái

Tên tiếng Việt

Tên tiếng Anh

Hiệp hội Chậm phát triển trí tuệ

American Association of Metal



Retardation

AD

Rối loạn Tự kỉ

Autism disorder

ADD

Rối nhiễu giảm tập trung


Attention Deficit Disoder

AD/HD

Tăng động/giảm tập trung

Attention Deficit/ Hyperactivity

viết tắt
AAMR

Disoder
ASD

Rối loạn phổ tự kỉ

Autism Spectrum Disorders

CPTTT

Chậm phát triển trí tuệ

Metal Retardation

CDD

Rối loạn không hòa nhập ấu

Childhood Disintegrative


thơ

Disorder

Sổ tay chẩn đoán và thống kê

Diagnostic and Statiscal

các rối nhiễu tinh thần – Mĩ

Menual of Mental Disorders

GV

Giáo viên

Teacher

HV

Hành vi

Behavior

IASSID

Tổ chức nghiên cứu khoa học

International Association for


quốc tế về người khuyết tật trí

the Scientific Study of Mental

tuệ

Deficiency

Hệ thống phân loại quốc tế các

International Statistical

bệnh và các vấn đề sức khoẻ

Classification of Diseases and

liên quan - Xuất bản lần thứ 10

Related Health Problems ICD

DSM- IV

ICD 10


10
PDD

Rối loạn phát triển diện rộng


Pervasive Developmental
Disorders

KTTT

Khuyết tật trí tuệ

Intellectual disability
MỤC TIÊU

Giáo trình trang bị những kiến thức cơ bản về giáo dục trẻ khuyết tật trí
tuệ như: khái niệm, các đặc điểm tâm lí, bước đầu cung cấp phương pháp
phát triển kĩ năng giao tiếp và quản lí hành vi cho trẻ khuyết tật trí tuệ giúp
sinh viên bước đầu tiếp cận và thực hiện một số hoạt động giáo dục cho trẻ
khuyết tật trí tuệ.
Kiến thức: Người học nắm được những kiến thức cơ bản có liên quan
đến giáo dục trẻ khuyết tật trí tuệ: Khái niệm, nguyên nhân, các hội chứng
thường có liên quan đến khuyết tật trí tuệ, đặc điểm tâm lí của trẻ khuyết tật
trí tuệ; phương pháp phát triển giao tiếp cho trẻ khuyết tật trí tuệ và quản lí
hành vi của trẻ khuyết tật trí tuệ.
Kĩ năng: Người học có được những kĩ năng trong việc tìm hiểu những
vấn đề liên quan đến trẻ khuyết tật trí tuệ (những khó khăn về thể chất - tâm
thần, đặc điểm tâm lí…), có kĩ năng giao tiếp và quản lí hành vi của trẻ khuyết
tật trí tuệ.
Thái độ: Có thái độ trân trọng khả năng và nhu cầu của trẻ khuyết tật trí
tuệ, tôn trọng, khích lệ trẻ học tập; yêu nghề, tận tâm với giáo dục trẻ khuyết
tật trí tuệ, tích cực, chủ động tìm kiếm và áp dụng kiến thức, kĩ năng vào thực
tiễn giáo dục trẻ khuyết tật trí tuệ.



Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ
1. Khái niệm khuyết tật trí tuệ (Intellectual disability)
Ngay từ những năm đầu của thế kỉ XX vấn đề nghiên cứu trẻ khuyết tật
trí tuệ (KTTT) đã được nhiều nhà khoa học quan tâm như: các bác sĩ, các nhà
tâm lí học, giáo dục học, sinh học, giải phẫu…
Alfred Binet và Theodore Simon là những người đầu tiên phát minh ra
Trắc nghiệm chỉ số trí tuệ vào đầu thế kỉ XX, họ cho rằng những người có chỉ
số trí tuệ dưới 70 bị coi là KTTT.
Theo Edgardoll (1941) định nghĩa, một trẻ KTTT phải biểu hiện ở 6 tiêu
chí sau: 1) Không thích nghi được với xã hội; 2) Trí thông minh thấp hơn mức
bình thường; 3) Không có khả năng phát triển trí tuệ cao hơn nữa; 4) Chỉ đạt
ở mức độ phát triển nhất định; 5) Mức độ phát triển tuỳ theo sự phát triển của
thể chất; 6) Không có khả năng chữa trị được.
Năm 1954 Benda cho rằng: KTTT là người không có khả năng điều
khiển bản thân và xử lí các vấn đề của riêng mình, hoặc phải được dạy mới
biết làm, họ có nhu cầu về sự giám sát, kiểm soát và chăm sóc cho sức khoẻ
của bản thân mình và cần đến sự chăm sóc của cộng đồng.
Theo Luria (1966) thì: “Trẻ KTTT là những trẻ mắc phải bệnh về não rất
nặng từ khi còn trong bào thai hoặc trong những năm tháng đầu đời. Bệnh
này cản trở sự phát triển của não, do vậy nó gây ra những sự phát triển
không bình thường về tinh thần… Trẻ KTTT dễ dàng được nhận ra do khả
năng lĩnh hội ý tưởng và khả năng tiếp nhận thực tế bị hạn chế”.
AAMR cho rằng: KTTT là một dạng tật có đặc điểm là bị hạn chế đáng
kể trong việc thực hiện chức năng trí tuệ và các kĩ năng thích nghi thực tế,
thích nghi xã hội, kĩ năng nhận thức. Loại tật này bắt đầu trước 18 tuổi.
Năm 1991, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện cho rằng: KTTT (còn gọi là chậm
khôn hay thiểu năng trí tuệ) là hiện tượng thấp kém về trí tuệ của một cá nhân
so với các thành viên khác trong xã hội. Biểu hiện qua việc cá nhân đó không



có khả năng hoàn thành các công việc trí óc và các hoạt động khác tương
ứng với lứa tuổi hoặc gặp nhiều khó khăn, hạn chế trong thích nghi xã hội. Về
phương diện bệnh lí, cần phân biệt KTTT với mất trí hay tổn thương trí tuệ.
Theo chúng tôi, KTTT là một dạng tật có đặc điểm là bị hạn chế đáng
kể trong việc tiếp thu, hạn chế về khả năng thực hiện chức năng trí tuệ của
một cá nhân so với các thành viên khác trong xã hội, khó khăn trong các kĩ
năng thích nghi thực tế. Điều này làm cho một cá nhân KTTT khó khăn trong
việc hoàn thành các công việc trí óc và các hoạt động khác tương ứng với lứa
tuổi hoặc gặp nhiều khó khăn, hạn chế trong thích nghi xã hội.
Theo khái niệm về KTTT như trên, chúng ta có thể thấy rằng nhân tố
chủ yếu quyết định các đặc điểm và đặc thù của một người KTTT là sự hạn
chế về trí tuệ, về khả năng nhận thức và kém thích nghi với xã hội.

2. Các nguyên nhân gây nên khuyết tật trí tuệ
Theo DSM- VI, KTTT có thể do các nguyên nhân sinh học hoặc xã hội
gây nên hoặc do cả hai nguyên nhân. Trong số những người bị KTTT thì có
khoảng 30 - 40% không rõ nguyên nhân. Số người bị KTTT xác định được
nguyên nhân có tỉ lệ phân bổ như sau:
- Nguyên nhân di truyền: chiếm khoảng 5%.
- Biến đổi bất thường trong thời kì đầu của sự phát triển: chiếm khoảng
30%.
- Bất thường khi mang thai hoặc khi sinh: chiếm khoảng 10%.
- Tổn thương thời kì mới sinh hoặc thời ấu thơ: chiếm khoảng 5%.
- Môi trường và các khuyết tật tinh thần khác: chiếm khoảng 15 - 20%.
2. 1. Những nguyên nhân có trước khi sinh
2.1.1. Những yếu tố nội sinh
Đột biến nhiễm sắc thể gây nên hội chứng: Down, Klinefelter, Turner,
thể ba ở cặp nhiễm sắc thể 13, 18… Đây là nguyên nhân phổ biến nhất gây



nên tật KTTT. Với những đứa trẻ mắc phải hội chứng này, người ta còn có thể
quan sát được nhiều rối loạn bên ngoài chỉ bằng mắt thường.
- Hội chứng Down (Down syndrome): Do sự không phân li của cặp
nhiễm sắc thể thứ 21 nên ở những người này có ba cặp nhiễm sắc thể ở cặp
21 (gọi là thể ba) và bộ nhiễm sắc thể của người mang hội chứng Down là 2n
= 47, + 21.  
- Thể ba ở cặp nhiễm sắc thể 13 (2n = 47, +13) thường gây chết ở trẻ
sơ sinh, dưới ba tháng tuổi nên hiếm thấy ở người lớn. Một số ít sống đến 5
tuổi. Triệu chứng là não teo đi, mất trí, bị điếc và nhiều dị dạng khác ở nội
quan và các cơ quan bên ngoài.
- Thể ba ở cặp nhiễm sắc thể 18 (2n = 47, +18), biểu hiện mất trí và
nhiều tật bẩm sinh. Trẻ sinh ra bị hội chứng này thường do các bà mẹ lớn
tuổi.
- Hội chứng Turner (Turner syndrome) (2n = 45, X): Người bị hội chứng
này có 44 NST thường và một nhiễm sắc thể giới tính X. Hội chứng được
H.H. Turner phát hiện vào năm 1938. Những trẻ em bị hội chứng này thường
chết trong bào thai, hơn 90% sảy thai đột ngột, rất ít người sống đến tuổi
trưởng thành (1/15000). Nếu sống đến tuổi trưởng thành thì thường có những
dị hình như không có buồng trứng, thiếu các tính trạng giới tính thứ cấp do đó
không có con, KTTT và nhiều dị dạng bên ngoài khác. Nguyên nhân có thể do
một tinh trùng không có nhiễm sắc thể giới tính, cũng có thể mất đi một NST
giới tính XX hay XY. Dạng thứ hai này thuộc “thể khảm” thường có ít dị hình
hơn, có thể tạo tính cái và vẫn có thể có con.
- Hội chứng Klinefelter (47, XXY): Hội chứng này do H.F. Klinefelter mô
tả năm 1942, chỉ xuất hiện ở nam giới nhưng không bình thường về tuyến
sinh dục, có một số đặc điểm giống nữ (có vú như nữ), không có con, KTTT,
thân hình cao không cân đối, chân quá dài, mù màu. Nguyên nhân có thể
trong quá trình thụ tinh, hợp tử được hình thành từ tinh trùng có NST giới tính
Y với một trứng đặc biệt có NST giới tính XX, kết quả là tạo ra bộ NST lưỡng



bội gồm 22 cặp NST thường và cặp NST giới tính kiểu XXY (thừa một NST
X).
* Lỗi gen: (chủ yếu do thiếu một chất men nào đó) dẫn đến rối loạn các
chuyển hoá: Hội chứng PKU, San filippo, chứng xơ cứng dạng củ, gây nhiễm
sắc thể, Rett, William Beuren, Angelman, Prader Willy.
- Hội chứng Phenylketonuria (PKU), do gen lặn gây ra. Do một nguyên
nhân nào đó gen bị đột biến. Lúc mới sinh thường vẫn khoẻ, nhưng sau một
số tuần thì bị mất trí, nhiều trẻ không đi được, không nói được, lên cơn động
kinh, KTTT và có thể dẫn đến bị điên. Việc rối loạn chuyển hoá bẩm sinh dẫn
đến sự thừa (tích tụ) một số chất, đồng thời có thể thiếu một số chất khác,
hơn nữa có thể xuất hiện những chất mới vốn không có và không cần cho cơ
thể, từ đó dẫn đễn sự đầu độc cơ thể làm xuất hiện bệnh. Bệnh này cần được
phát hiện sớm, có thể phát hiện ngay từ khi còn nằm trong tử cung. Khi đã
phát hiện được khâu bị rối loạn có thể không dùng những chất mà cơ thể
không chuyển hoá được hoặc bổ sung những chất cơ thể còn thiếu.
- Hội chứng Alcaptonuria (còn gọi là Ancapton) do một gen lặn gây ra,
thường xảy ra trong những gia đình có người trong họ (cùng dòng họ) lấy
nhau. Lúc còn bé, trẻ thường chưa bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nhưng về sau
dẫn đến nhiều biến loạn khác nhau như trẻ bị KTTT.
- Hội chứng Gãy NST X (Fragile X syndrome): Năm 1991, các nhà khoa
học phát hiện ra gen gây ra gãy nhiễm sắc thể X (gọi là gen FMR 1). Đối với
những cá nhân bị hội chứng gãy nhiễm sắc thể X, một đột biến ở FMR1 làm
cho gen gãy gập.
- Hội chứng Prader - Willi syndrome (viết tắt là PWS) là một rối loạn gen
phức tạp. Trong hầu hết trường hợp, PWS được coi là do một lỗi về gen xảy
ra một cách tự phát tại hoặc gần thời điểm thụ thai vì những lí do chưa được
phát hiện. Trong một tỉ lệ nhỏ PWS (dưới 2%), một đột biến gen không ảnh
hưởng đến cha mẹ được truyền sang cho đứa con và ở những gia đình này,
có thể hơn một trẻ sẽ bị ảnh hưởng. Một rối loạn giống như PWS cũng có thể

xuất hiện sau khi sinh nếu như phần hypothalamus của não bị tổn thương do


chấn thương hoặc phẫu thuật. Hội chứng này thường gây ra trương lực cơ
thấp, tầm vóc nhỏ, phát triển tình dục không đầy đủ, chậm phát triển nhận
thức, có vấn đề về hành vi (HV) và một cảm giác đói kinh niên mà dẫn đến ăn
quá nhiều và sự béo phì có thể nguy hiểm đến tính mạng, về cơ bản PWS
xảy ra là do việc thiếu một số gen trên một trong hai NST số 15 - thường là
NST do người bố truyền cho. Trong hầu hết các trường hợp, có hiện tượng
“biến mất” những gen quan trọng trên NST. Đối với các trường hợp còn lại,
toàn bộ NST từ người bố bị mất và thay vào đó sẽ có 2 NST số 15 từ mẹ.
Việc thiếu những gen quan trọng từ người bố ở những người PWS làm rối
loạn cảm giác ăn uống. Nguyên nhân gây ăn nhiều là do ở người PWS có
một khe hở trên phần hypothalamus của não mà thường là nơi tạo cảm giác
về đói và no. Mặc dù nguyên nhân gây hở vẫn chưa được tìm ra nhưng rõ
ràng là những người có khe hở này không bao giờ thấy no và luôn muốn ăn
mà không thể kiềm chế được. Thêm vào vấn đề này, những người PWS
thường có ít nhu cầu về thức ăn hơn những người không có PWS vì cơ thể
họ có ít cơ hơn và có xu hướng tiêu thụ ít calo hơn.
- Bệnh U bã nhờn: Đây là một bệnh trội của nhiễm sắc thể thường. Gần
đây, người ta phát hiện thấy rằng sự đột biến ở gen và ở NST cặp 9 và 16
chính là nguyên nhân gây bệnh. Khoảng 60% các trường hợp mắc bệnh xuất
hiện dạng đột biến mới/tự nhiên ở những cha mẹ khoẻ mạnh bình thường.
Trong những trường hợp này, nguy cơ sinh thêm con mang bệnh tăng dần:
1/100 đến 1/10000. Khoảng 40% cha mẹ khác có những hội chứng nhẹ của
bệnh, nếu được kiểm tra sẽ phát hiện chồng hoặc vợ là người mắc chứng đột
biến. Có khoảng 50% cặp vợ chồng này sẽ sinh con bị bệnh U bã nhờn. Hiện
nay, vẫn chưa có đủ khả năng để tiến hành chẩn đoán trước khi sinh. Tỉ lệ trẻ
mắc bệnh U bã nhờn là: 1/10.000. Các loại u rải rác xuất hiện trong não, mặt,
tay, chân, lưng, tim, phổi… Trẻ mắc bệnh này thường có có vấn đề về ngủ, rối

loạn HV, KTTT, động kinh…
- Hội chứng Rett (Rett syndrome): Được phát hiện vào năm 1996 do
Adreas Rett (người Áo). Hiện nay chưa rõ nguyên nhân một cách chính xác,


tuy nhiên rất có thể hội chứng này là bệnh di truyền trội liên quan đến nhiễm
sắc thể giới tính: thường là bé gái mang bệnh này, còn bé trai mang bệnh sẽ
chết trước khi sinh. Các cặp vợ chồng không phải lo ngại sẽ sinh thêm con
gái bị hội chứng này do “những đột biến mới”. Tỉ lệ xuất hiện: 1/10000 bé gái.
Triệu chứng của bệnh là: Trẻ phát triển bình thường cho đến lúc 6 tháng tuổi,
sau đó dừng lại; cử động của đôi tay giảm dần, trẻ giao tiếp và liên hệ bằng
mắt cũng ít hơn. Sau hai năm, sự suy giảm thể hiện rõ ràng và diễn ra nhanh
hơn, chẳng hạn như về ngôn ngữ và vận động của tay: cọ sát tay theo một
kiểu nhất định, “cử động vò quần áo”, và “mút tay”, về sau, trẻ có thể lên động
kinh và tự làm mình bị tổn thương theo nhiều cách, chẳng hạn như cắn vào
ngón tay, cấu, véo hoặc đánh vào mặt mình. Sau 3 đến 10 tuổi, vận động của
trẻ sẽ giảm dần: bị liệt cứng, thất điều: hầu hết các bé gái đều phải sử dụng
xe lăn sau 10 tuổi. Có thể thấy rõ trẻ bị vẹo cột sống và phát triển kém. Trẻ
thường mắc phải chứng thở quá nhanh hoặc ngừng thở. Đôi khi, vào cuối giai
đoạn này, bệnh động kinh giảm đi và khả năng giao tiếp của trẻ có tiến triển
hơn so với trước.  
- Hội chứng Angelman (Angelman syndrome): Nãm 1965, Harry
Angelman, một bác sĩ nhi khoa người Anh đã phát hiện ra bệnh. Hầu hết trẻ
mắc phải hội chứng này đều bị mất đoạn NST ở cặp số 15 và di truyền từ mẹ.
Không chỉ xét nghiệm nhiễm sắc thể của người mẹ mà ngay cả các chị em
gái của người mẹ đó. Nguy cơ sinh thêm con có hội chứng này là 1 - 50%. Tỉ
lệ: 1/20 - 30000. Trẻ có triệu chứng như: gặp khó khăn khi bú sữa mẹ và phát
triển không bình thường. Lúc mới sinh, diện mạo bên ngoài vẫn bình thường,
nhưng sau này mắt trở nên vô hồn, miệng luôn cười tươi và cằm rất phát
triển. Đầu thường nhỏ quá cỡ (chu vi của đầu quá bé). Cơ bắp của các chi rất

phát triển (khi được ẩm trong vòng tay của mẹ, trẻ tỏ ra không được thoải
mái, người cứng lại). Khi trẻ bắt đầu biết đứng và biết đi, sự phát triển bất
thường của cơ bắp là lí do gây nên những bước đi rộng và chân luôn cứng.
Khi lên bốn tuổi, cử động đập tay trở nên tự nhiên hơn mỗi khi trẻ bước đi.
Trẻ hay mút tay, hiếu động và lười liên hệ bằng mắt (hiện tượng này giảm dần
khi trẻ lớn lên), hay thò lò mũi xanh và chảy nước dãi. Trẻ hay thè lưỡi. Chúng


thích chơi nước, bóng và các đồ chơi bằng nhựa có nhiều màu sắc. Trẻ
thường bị rối loạn về giấc ngủ: chúng thức dậy về đêm do hoạt động nhiều
hơn trẻ bình thường. Sau năm thứ nhất, trẻ bị động kinh (85% trẻ bị động
kinh). Tật vẹo đốt sống và giảm sắc tố da xuất hiện rõ rệt.
* Rối loạn nhiều yếu tố: Nứt đốt sống, quái tượng không não, tràn dịch
màng não, tật đầu nhỏ, rối loạn chức năng tuyến giáp.
- Nứt đốt sống: Do sự không khép kín được máng thần kinh ở phần
sau, có vài đốt sống không đóng kín được ống thần kinh (tuỷ sống). Kết quả
là vùng tuỷ sống không được bảo vệ có thể phình ra ngoài tạo thành một cái
túi đen. “Túi thần kinh” này được bao bọc bởi một lớp màng rất mỏng có thể
để dịch tuỷ sống vào não rỉ qua. Nguyên nhân của dị tật này hiện nay vẫn
chưa được tìm ra. Nhưng cứ 250 đến 5000 trẻ sinh ra có một trẻ bị tật nứt đốt
sống.
Nứt đốt sống là một dị tật bẩm sinh nặng, thường chết thai hoặc sơ sinh
bị chết, nếu có sống sót thì thường tật nguyền và KTTT. Khi phát hiện tật, cần
phải tiến hành phẫu thuật sớm để bảo vệ túi thần kinh cho trẻ, nếu không trẻ
sẽ bị chết sớm.  
- Tật đầu to (Não úng thuỷ): Là tình trạng “ứ đọng trong não” thường
gặp ở 4 trong số 5 trẻ bị tật nứt đốt sống. Dịch hình thành trong não không
chảy xuống tuỷ sống như bình thường mà tích tụ lại và gây tăng áp lực trong
não và hộp sọ. Mặc dù trẻ đẻ ra đầu trông như bình thường nhưng dần dần to
lên và chứa đầy dịch. Hội chứng này có thể xuất hiện ngay sau khi sinh và

tiến triển nặng dần trong vòng hai năm đầu, có thể dẫn tới tử vong. Một số
trường hợp bệnh ngừng tiến triển, trạng thái tinh thần và cơ thể tốt lên rõ rệt.
Bệnh có thể được điều trị bằng các phương pháp phẫu thuật, dùng các thuốc
giảm áp lực dịch não tuỷ.
- Tật đầu nhỏ: Là kết quả của sự phát triển bất bình thường của não.
Tật đầu nhỏ có thể là khuyết tật riêng biệt, cũng có thể là khuyết tật do sự tác
động của nhiều tác nhân trong quá trình thai nghén hoặc sau đó như nhiễm
trùng, chấn thương khi đẻ, mẹ mắc bệnh Phênylxêtôn niệu, bị nhiễm xạ… Tật


não nhỏ di truyền theo cơ chế di truyền lặn nhiễm sắc thể thường, cũng có
trường hợp di truyền theo cơ chế di truyền trội nhiễm sắc thể thường. Nếu
được chăm sóc tốt, các trẻ mắc tật này có thể tăng tuổi thọ cao hơn, giáo dục
tốt có thể giúp trẻ thích nghi một phần trong cuộc sống.
2.1.2. Do các yếu tố ngoại sinh
* Do lây nhiễm khi bà mẹ mang thai: Sởi rubella hay còn gọi là sởi Đức,
nhiễm Toxoplasma, vi rút cự bào, giang mai, nhiễm HIV. Do có tác động đến
bào thai gây nên KTTT, vi rút thường tác động ở thời kì phôi, kí sinh trùng ở
thời kì thai, còn vi trùng có thể lây bệnh ở cả thời kì phôi và thai.
- Sởi Rubella:
Do bác sĩ Geeg tìm ra, ông mô tả trẻ bị KTTT kèm đục thuỷ tinh thể
bẩm sinh bởi những bà mẹ bị nhiễm Rubella, nhất là trong thời kì 3 - 4 tháng
đầu mang thai. Trẻ có nhiều dị tật bẩm sinh khi nhiễm bệnh này như: mắt nhỏ,
bệnh tim bẩm sinh, điếc, dị dạng xương sọ, tăng động - giảm tập trung, múa
vờn, động kinh. Trước khi mang thai, các bà mẹ cần kiểm tra và tiêm thuốc
phòng bệnh, không nên mang thai trong tình trạng mang bệnh hoặc gần nơi
người mang bệnh.
- Bệnh giang mai bẩm sinh: Phôi thai bị nhiễm khuẩn giang mai của
người mẹ truyền qua nhau thai. Tổn thương thường khu trú ở hệ thần kinh
trung ương gây ra trạng thái viêm não, viêm màng não, dị dạng sọ, mũi lõm

hình yên ngựa, da nhạt có sắc vàng, răng mọc lộn xộn, điếc, đục thủy tinh
thể, gan lách to, dị dạng xương, phản xạ gân xương không đều ở hai bên, liệt
cơ mặt… và trẻ chậm phát triển ở nhiều dạng khác nhau, thường gặp ở mức
độ nặng. Biện pháp phòng chống tốt nhất là trước khi mang thai người mẹ
nên đến kiểm tra sức khoẻ tại bệnh viện, nếu có bệnh phải ngăn bệnh trước
khi sinh con, khi trẻ ra đời mà được phát hiện cần tiêm thuốc chống bệnh
giang mai ngay.
- Bệnh nhiễm kí sinh trùng Toxoplasmosis: Là loại kí sinh trùng sống ở
nhiều vật chú, hầu hết ở các loại vật có vú và chim. Thường là bệnh bẩm sinh


do mẹ truyền sang cho con qua đường nhau thai. Mức độ KTTT dựa vào thời
kì kí sinh trùng sớm hay muộn. Những trẻ mắc bệnh này sau khi sinh vài tuần
thường có triệu chứng sốt cao, viêm phổi, rối loạn đường ruột, viêm màng
não, viêm võng mạc, có điểm đóng vôi ở não, ứ nước não và lên cơn co giật.
Khi mang thai bà mẹ nên tránh không tiếp xúc gần với các loại vật chú đó, ví
dụ như: chó, mèo, chim, phân và nước tiểu của các con vật này, đồng thời
cũng không nên ăn các loại thức ăn tái hay tiết canh…
* Do nhiễm độc: một số loại y dược mà bà mẹ dùng, chẳng hạn như
thuốc chống động kinh, chất rượu cồn, chụp tia x- quang, chất độc màu da
cam (thế hệ thứ hai), kháng thể Rh.
- Sự lạm dụng thuốc và dùng sai chỉ định đã trở thành nguyên nhân lớn
ảnh hưởng tới sức khoẻ và tàn tật hiện nay trên thế giới. Điều này do một
phần kê đơn bừa bãi và chỉ định sai (ví dụ một số loại thuốc dùng trong thời kì
mang thai có thể sẽ gây dị tật bẩm sinh). Thuốc có thể chữa được bệnh, tuy
nhiên khi mang thai hoặc cho con bú bà mẹ nên cẩn trọng trong việc dùng
thuốc.
- Kháng thể Rh (sự không tương hợp nhóm máu). Yếu tố Rh là một hệ
nhóm máu, những người có yếu tố Rh gọi là Rh+ (dương), còn những người
không có yếu tố Rh gọi là Rh” (âm). Khi bà mẹ có yếu tô Rh” lấy chồng Rh+

các con có thể là Rh+ hoặc Rh”. Nếu thai là Rh+, trong quá trình mang thai
một lượng nhỏ hồng cầu của thai nhi có thể lọt qua nhau thai và đi vào trong
máu của người mẹ. Trong điều kiện này, cơ thể sản xuất ra kháng thể chống
lại yếu tố Rh, kháng thể này từ cơ thể của người mẹ xâm nhập vào thai nhi.
tác động lên hồng cầu của thai nhi, thai nhi bị chứng thiếu máu tan huyết, ở
lần có thai đầu tiên đứa trẻ vẫn phát triển và được sinh ra. những lần thai sau
nếu vẫn là Rh+ thì tác hại càng thể hiện rõ hơn và có thể sẩy thai. Trẻ được
sinh ra trong trường họp này thường có triệu chứng của thần kinh, như: múa
vờn, điếc, lên cơn co giật, rung giật nhãn cầu, lác mắt, liệt nửa người, chậm
phát triển với nhiều mức độ khác nhau, nhưng có nhiều trường hợp trí tuệ của
trẻ vẫn phát triển bình thường. Xét nghiệm yếu tố Rh là một trong những chỉ


định trong trường hợp bất thường về sinh sản như trường hợp sẩy thai và có
thể thay máu cho trẻ ngay sau khi chào đời.
- Rượu: Trong rượu có chất cồn làm ảnh hưởng tới sự phát triển trí não
của thai nhi. Có tới 1/3 số con cái của những người nghiện rượu nặng bị mắc
nhiều vấn đề gọi là hội chứng thai nhi nhiễm độc từ rượu. Các trẻ nhỏ mắc
hội chứng này biểu hiện ở ba đặc điểm chính: chậm lớn, khuôn mặt có những
nét đặc biệt dễ nhận ra như đầu nhỏ, mắt nhỏ, tai vểnh ra phía sau.
- Thuốc lá: Những phụ nữ có mang hút nhiều thuốc lá sẽ dễ dẫn đến bị
đẻ non hơn người không hút thuốc lá, trẻ sinh ra thường thiếu cân và KTTT.
- Hêrôin và mêtanđon: Các chất gây ngủ này thấm qua nhau thai và
ngấm vào phôi hoặc vào thai. Con cái của người nghiện ma tuý cũng bị
nghiện. Sau khi sinh ra, những đứa trẻ này có các triệu chứng lên cơn nghiện
như khó thở, nôn mửa, run rẩy và co giật. Để giảm bớt các tác hại này, nên
cho các trẻ bị nghiện đó dùng các chất thuốc ngủ với liều lượng “duy trì” và
sau đó giảm dần dần. Ngay cả khi thôi dùng thuốc ngủ, các trẻ nhỏ này vẫn
còn nhiều vấn đề. Khi còn bé chúng có khuynh hướng trở thành quá nhạy
cảm vì hệ thần kinh của chúng dễ bị “quá tải”, chúng có chiều hướng tránh né

sự kích thích và qua đó bỏ qua các cơ hội thăm dò và học tập từ môi trường
xung quanh. Sau này tính nhạy cảm quá mức sẽ gây khó khăn cho việc học
tập. Khi lớn lên, chúng thường có những vấn đề về HV như: quá hiếu động và
khả năng duy trì, chú ý kém.
- Côcain: Phụ nữ có thai nếu dùng côcain sẽ có nguy cơ cao hơn mức
trung bình về các chuyện sảy thai, thai chết lưu trong bụng mẹ (do nhau thai
sớm tách ra khỏi thành tử cung) và đẻ non. Trẻ sinh ra có khả năng thiếu cân
và đầu nhỏ hơn cỡ trung bình. Một số dễ bị kích động trong khi đó có nhiều
trẻ lại ủ rũ, đáp ứng môi trường xung quanh một cách uể oải. Các trẻ này
phần lớn thời gian chỉ ngủ hoặc kêu khóc.
- Do nhiễm HIV: Vi rút HIV làm giảm khả năng suy giảm miễn dịch của
con người, là vi rút gây ra bệnh AIDS, là mối đe doạ cho thai nhi. HIV có thể đi
qua nhau thai và xâm nhập vào thai; vi rút này cũng có thể lan truyền sang


đứa bé khi sinh ra do tiếp xúc với máu của người mẹ có chứa vi rút hoặc lan
truyền khi bú mẹ. Một phụ nữ có thể mang vi rút HIV trong mình mười một
năm mà không thể hiện triệu chứng gì, vì vậy không biết mình bị HIV dương
tính khi mang thai. Không phải đứa trẻ nào có mẹ bị HIV cũng đều bị nhiễm
HIV. Các trẻ bé bị nhiễm HIV có biểu hiện những vấn đề có liên quan tới bệnh
này ngay lúc mới sinh hoặc không có triệu chứng gì sau nhiều năm. Dấu hiệu
đầu tiên của HIV thường là không lớn lên được, tiếp đó là mắc chứng viêm
nhiễm nặng như viêm phổi chẳng hạn. Quá trình phát triển não cũng bị ảnh
hưởng, gây nhiều vấn đề về phát triển vận động và nhận thức.
2.2. Những nguyên nhân trong khi sinh
2.2.1. Thiếu ôxi ở trẻ
Do thời gian sinh quá lâu, do nhau thai, trẻ không thở hoặc không khóc
ngay sau khi sinh.
Việc sinh quá nhanh hoặc quá lâu cũng làm suy nhau thai, chèn ép
cuống nhau thai làm trẻ bị ngạt thở. Lúc mới sinh việc thiếu ôxi có thể là do sa

(ép) cuống rốn, vì vậy việc cung cấp máu lên não bị cắt đứt hoặc do cuống
rốn tự cắt rời khỏi người mẹ trước khi sinh ra. Chính nhân tố gây ngạt này đã
gây tổn thương não, trẻ dễ bị KTTT và bị khiếm thính. Việc thiếu ôxi ở trẻ còn
do bệnh của người mẹ, mẹ phải lao động nặng liên tục trước khi sinh cũng là
nguyên nhân gây KTTT ở trẻ. Chúng ta cần lưu ý rằng tác hại của việc thiếu
ôxi sẽ ít đi nhờ vào những cải tiến nhanh chóng trong việc quan tâm, chăm
sóc những trẻ “trong tình trạng nguy hiểm” khi vừa chào đời.
Sinh khó phải nhờ vào các dụng cụ trợ giúp của thuốc men cũng làm rối
loạn nguồn cung cấp ôxi. Kết quả là các bộ phận nhạy cảm nhất như: não, tai,
mắt sẽ bị tổn thương trước tiên.
2.2.2. Tổn thương trong lúc sinh
Tổn thương não do tử cung co quá mức dẫn đến mẹ đẻ khó, do dùng
hoặc do tác hại của dụng cụ y tế trợ giúp khi sinh như dùng phoóc- sép để
kéo đầu trẻ ra trong khi sinh có thể dẫn đến tổn thương não, chảy máu não.


2.2.3. Đẻ non hoặc thiếu trọng lượng (tức là thời gian mang thai của bà
mẹ đủ nhưng trọng lượng của đứa trẻ ít).
Đẻ non được xác định khi trọng lượng của trẻ lúc sinh ra dưới 2,3kg.
Đẻ non thường dẫn đến KTTT hoặc điếc tiếp nhận. Trong thời kì mang thai,
bà mẹ thiếu ăn, đứa con thường bị đẻ non hoặc cân nặng thấp, những trẻ này
có nguy cơ bại não. Một vài dị tật bẩm sinh cũng liên quan tới tình trạng thiếu
ăn của bà mẹ trong những tháng đầu mang thai. Tuy nhiên hiện nay số trẻ đẻ
non bị khuyết tật ít hơn nhờ vào một số phương tiện chăm sóc, điều trị đặc
biệt sau khi sinh đã được cải tiến, tạo điều kiện cho việc sinh dễ dàng hơn,
đồng thời cũng do kiến thức của chúng ta trong việc nhận biết những ảnh
hưởng của việc dùng thuốc gây nên. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý tình trạng
sau: 
+ Đặt trẻ sinh non trong lồng ấp (kính) để ít nhất những ngày đầu tiên
sau khi chào đời môi trường xung quanh có thể được kiểm soát một cách cẩn

thận.
+ Khi sự chăm sóc phải chú ý không để cho ôxi được cung cấp quá
nhiều bởi vì chất này sẽ ảnh hưởng đến võng mạc của trẻ.
+ Cần lưu ý tiếng ồn phát ra từ các loại động cơ máy móc dùng trong
phòng đặt lồng ấp này. Khi áp suất lớn (trên 95 dB SPL) có thể là nguyên
nhân gây mất sức nghe do ảnh hưởng của tiếng ồn nhiều hơn là do việc đẻ
non.
+ Việc kiểm soát lưu thông ôxi là một phần quan trọng nhất trong quá
trình chăm sóc trẻ sơ sinh. Nếu áp suất trong máu trẻ quá thấp thì sẽ tổn hại
đến não. Nếu quá cao thì mắt sẽ bị tổn thương và những tổn hại nghiêm trọng
khác có thể phát sinh.
2.2.4. Lây nhiễm: vi rút Herper hoặc giang mai
Herpes, theo chữ Hi Lạp cổ có nghĩa là bò hoặc trườn, là tên của một
họ virut trong đó có virut Herpes simplex 1 (HSV- 1), và virut Herpes simplex
2; (HSV- 2), là hai tác nhân gây bệnh cho người. HSV- 1 thường gây các


nhiễm virut vùng miệng, mặt và viêm não; trái lại, HSV- 2 thường gây các
nhiễm virut sinh dục và có thể lây truyền từ mẹ sang trẻ sơ sinh. Cả hai virut
này đều gây nhiễm virut tiềm ẩn tại các nơron cảm giác, và một khi được tái
hoạt, sẽ tạo nên những tổn thương ở gần hoặc ngay nơi virut xâm nhập vào
cơ thể.
Viêm não do HSV là một tai họa và được xem là nguyên nhân thường
gặp nhất của các trường hợp viêm não lẻ tẻ có gây tử vong. Trên 70% bệnh
nhân không điều trị bị tử vong và chỉ có 2,5% trong số bệnh nhân sống sót
phục hồi được chức năng thần kinh bình thường. HSV tác động đến tất cả
các vùng của hệ thần kinh, gây viêm màng não, viêm não và viêm rễ thần
kinh. HSV còn được phân lập ở đường hô hấp của các bệnh nhân bị hội
chứng suy hô hấp cấp tiến triển và co thắt phế quản cấp. Trong tình huống
này, nó làm gia tăng mức độ nặng và tử vong.  

2.3. Những nguyên nhân sau khi sinh
Có rất nhiều các yếu tố tác động đến sự phát triển thể chất của trẻ làm
ảnh hưởng tới trí tuệ của các em. Các yếu tố này có thể gộp thành ba nhóm:
2.3.1. Viêm nhiễm
Viêm màng não gây ra do bệnh sởi, ho gà, quai bị, thuỷ đậu và viêm
phổi (có thể gây ra bệnh tràn dịch màng não sau này). Viêm màng não sẽ ít
diễn ra hơn nếu bà mẹ tiến hành các biện pháp phòng ngừa trong thời kì thai
nghén, sinh đẻ và nếu đứa trẻ được tiêm phòng đầy đủ.
2.3.2. Tổn thương não
Tổn thương não do chấn thương đầu nặng vì tai nạn hoặc do ngạt,
hoặc tổn thương do các bệnh (u não) hay do tác động của chỉnh trị: phẫu
thuật, dùng phóng xạ… Nhiệt độ cơ thể hạ đột ngột, tăng đột ngột cũng gây
nên tổn thương não.
2.3.3. Nhiễm độc


Chất độc có ở môi trường xung quanh như khói xe, ống dẫn nước bằng
chì, màu vẽ chì hoặc một số loại mĩ phẩm. Ngoài ra chất độc còn có trong
thức ăn, nước uống, không khí nơi làm việc
- Thức ăn có chất độc: ở một số nơi đây là nguyên nhân lớn gây khuyết
tật. Hàng ngàn người Ấn Độ được trả công bằng các loại đậu lăng độc (leltils)
và bị liệt. Những người dân nghèo này biết điều đó nguy hiểm nhưng họ
không có gì khác để ăn. Tình trạng này có thể được cải thiện nếu công sức
lao động được trả xứng đáng, tệ nạn xã hội sẽ được giảm bớt.
- Chất độc chứa Flo (Fluorosi) chủ yếu có ở trong nước uống. Đó là
nguyên nhân hay gặp gây biến dị xương (ưỡn gối quá mức) ở một số vùng
của Ấn Độ và một số nơi khác. Một số biện pháp về y tế cộng đồng là cần
thiết để cung cấp nước sạch cho những người dân ở vùng này.
Lưu ý: Mặc dù quá nhiều Flo sẽ có hại, song Flo là chất cần thiết cho
sự phát triển của xương và răng. Một vài nơi cần phải tách bớt Flo ra khỏi

nước uống, nhưng có nơi lại cần phải cho thêm Flo vào nước.
- Điều kiện làm việc nguy hiểm: Không khí ô nhiễm và thiếu các biện
pháp bảo vệ lao động gây nên nhiều loại khuyết tật: bỏng, cụt chi, mù, chấn
thương cột sống và chấn thương sọ não.
- Một số loại thuốc nguy hiểm: Nhiều loại thuốc gây khuyết tật đã bị cấm
sản xuất, nhưng ở một số nơi vẫn thấy tiếp tục bán các loại thuốc đó. Ví dụ:
Thuốc ỉa chảy có chứa Clioquynol làm cho hàng ngàn người bị mù và liệt ở
Nhật Bản. Giá thuốc quá đắt, lạm dụng thuốc hoặc thiếu hiểu biết trong việc
sử dụng thuốc đã gia tăng số lượng người nghèo đói và khuyết tật trên thế
giới ngày nay. Để việc cung cấp thuốc thiết yếu và sử thuốc một cách đúng
đắn, cả thầy thuốc lẫn người dân cần được giáo dục tốt hơn và luật quốc gia,
luật quốc tế cũng cần phải có hiệu quả hơn, mạnh mẽ hơn.
- Khuyết tật do kim tiêm: Tiêm bằng kim và bơm tiêm không sạch sẽ
gây nhiễm trùng, đôi khi các nhiễm trùng này có thể dẫn đến liệt, tổn thương
tuỷ sống hoặc chết.


Một vài loại thuốc tiêm có thể gây hại, phản ứng dị ứng nặng, ngộ độc,
điếc và tổn thương não bộ khi không cần thiết phải tiêm.
Các bác sĩ, nữ hộ sinh thường lạm dụng việc tiêm các loại hoocmon
kích thích cuộc đẻ. Kết quả là nhiều trẻ sơ sinh bị tổn thương não, bại não,
động kinh.
Khuyết tật thường gặp nhất do tiêm là bị liệt do bại liệt. Một số chuyên
gia cho rằng hàng năm có trên hai triệu trẻ em bị bại liệt do tiêm khi đang
nhiễm vi rút bại liệt. Hầu hết các loại thuốc tiêm đó là không cần thiết. Điều
này xảy ra như sau: Trẻ bị nhiễm vi rút bại liệt thường có vài dấu hiệu giống
như cảm lạnh hoặc cảm cúm. Hầu hết chúng sẽ bình phục mà không bị bại
liệt, nhưng nguy cơ bị bại liệt sẽ tăng lên nếu các cơ của trẻ bị tổn thương do
thuốc kích thích. Việc tiêm bất cứ loại thuốc nào cũng gây kích thích cơ. Các
xung điện được truyền tới tủy từ các cơ bị kích thích và gây nên sự biến đổi

tại đó tạo thuận lợi cho vi rút bại liệt gây liệt cơ. Điều không may là trẻ bị lạnh
hay cảm cúm do vi rút bại liệt gây nên thường được các bậc cha mẹ đưa đến
thầy thuốc để tiêm, kết quả là trẻ bị liệt, thường chân bị tiêm sẽ liệt nặng hơn.
Nhiều người nghĩ rằng liệt ở chân sau khi tiêm là do kim tiêm đâm vào “dây
thần kinh”. Hàng năm, trên thế giới nạn dịch tiêm không cần thiết đã làm cho
hàng triệu người ốm đau, tử vong, khuyết tật, đặc biệt là trẻ em. Điều quan
trọng để tránh cho trẻ nhỏ khỏi bị bại liệt và mắc các khuyết tật khác là các
cha mẹ, thầy thuốc cần nhớ rằng, không tiêm cho trẻ khi trẻ có dấu hiệu bị
cảm lạnh, cúm vì rất có thể trẻ đang bị nhiễm vi rút bại liệt. Nếu tiêm lúc này
trẻ sẽ dễ dàng bị bại liệt và gây nên KTTT. Đấu tranh với việc lạm dụng thuốc
và dùng thuốc không đúng chỉ định cũng là một phương pháp phòng ngừa
quan trọng như tiêm chủng, dùng nước sạch, nhà vệ sinh đúng quy cách.
Nhân viên y tế, GV và các tổ chức khác trong cộng đồng hãy hợp tác cùng
nhau để đánh tan huyền thoại về tiêm. Để giúp mọi người cân nhắc lợi hại
của bất cứ loại thuốc nào trước khi sử dụng, nên có những bài báo, những
phóng sự truyền hình gợi ý, nhắc nhở giúp mọi người hiểu tác hại của việc
tiêm không cần thiết.


Gần đây việc sử dụng hoá chất để diệt sâu bọ đã trở thành vấn đề lớn
ảnh hưởng đến sức khoẻ. Để đề phòng các bệnh này, người dân cần phải
biết sự nguy hiểm không những cho họ mà cả cho trẻ em.
2.3.4. Suy dinh dưỡng
- Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ bị thiếu ăn sẽ dễ mắc những bệnh nhiễm trùng
và bị nặng hơn. Trẻ bụ bẫm thường tiêu chảy nhẹ hơn. Ở những đứa trẻ gầy
gò ốm yếu, suy dinh dưỡng, tiêu chảy thường dẫn đến mất nước nặng, sốt
cao, đôi khi tổn thương não kèm theo co giật hoặc bại não.
- Ở một vài vùng núi cao, việc thiếu iốt trong thực phẩm cũng gây ảnh
hưởng đến việc suy dinh dưỡng và tổn thương não. Điều này dẫn đến một
dạng khuyết tật gọi là bệnh ngu đần (Cretinism). Trẻ có triệu chứng da khô, ít

tóc, đầu nhỏ, KTTT. Đây là bệnh chữa được nếu được phát hiện sớm, nhất là
sau khi sinh.
2.4. Các nguyên nhân do môi trường
Những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của đứa trẻ là:
- Không được chăm sóc đầy đủ về y tế và thể chất: Thiếu dinh dưỡng,
nhiễm độc chì, không được tiêm phòng đầy đủ.
- Sử dụng ngôn ngữ một cách rất hạn chế trong gia đình, cụ thể là chỉ
sử dụng những câu rất ngắn với những mẫu câu và vốn từ giới hạn.
- Việc nuôi dưỡng đứa trẻ nói chung theo cách: cuộc sống của nó do
người khác định đoạt. Trong một hoàn cảnh như vậy, một người thường
không tự kiểm soát cuộc sống của mình, do vậy họ ít khi tin rằng hành động
của họ là quan trọng và quyết định sự thành bại của chính họ. Điều này cũng
có thể là nguyên nhân dẫn đến việc trẻ học kém ở trường.
- Ít có cơ hội được đến trường.
- Thiếu thốn về tâm lí xã hội: Đứa trẻ sinh ra thiếu sự chăm sóc nhạy
cảm, không được khuyến khích hoặc bị các khiếm khuyết về giác quan, kích
thích quá mức, bị bỏ rơi hoặc bị lạm dụng.


Nếu một đứa trẻ bình thường lớn lên mà ít nhận được sự quan tâm
chăm sóc, trẻ luôn phải ở trong nhà và chơi một mình, không có gì hấp dẫn
để chơi đùa và khám phá thì sẽ phát triển trí tuệ chậm hơn rất nhiều so với
những đứa trẻ được nuôi nấng đầy đủ về cả thể chất lẫn tinh thần. Nếu đứa
trẻ được đặt trong môi trường có nhiều đồ chơi hấp dẫn, được sự giúp đỡ,
chơi đùa, khám phá thì trẻ sẽ phát triển rất nhanh chóng. Sự kích thích càng
sớm càng đạt hiệu cao, để trẻ có thể tiến kịp với mức phát triển bình thường.
Khi được sống trong môi trường văn hoá xã hội, đứa trẻ sẽ bắt chước
các hình mẫu khi giao tiếp với con người, giao tiếp bằng ngôn ngữ, biết suy
nghĩ, biết bò, ngồi, đi, đứng, có đời sống tình cảm, vui buồn, yêu thương.
Những kích thích của môi trường văn hoá xã hội phải đầy đủ, đúng lúc,

phù hợp với sự phát triển sinh học của hệ thần kinh trung ương. Đặc biệt năm
năm đầu có ý nghĩa đặc biệt đối với trẻ. Các kích thích của môi trường bị
thiếu hoặc không đúng lúc đều có thể ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ của
đứa trẻ.
- Những tổn thương do lạm dụng hoặc đối xử thô bạo:
Trong những năm gần đây xuất hiện hiện tượng trẻ em đến bệnh viện
với một số thương tổn trên cơ thể như bị bỏng, gãy xương, thâm tím nặng.
Chúng được thông báo như những tai nạn nhưng thực ra đây là kết quả của
sự đánh đập, hành hạ của người lớn. Nghiên cứu cho biết việc này đã xảy ra
ở nhiều nước, trong các gia đình giàu có cũng như các gia đình nghèo.
Những tổn thương này thường gặp ở những trẻ KTTT và trẻ kém thích
nghi do những nguyên nhân sau:
+ HV của trẻ có thể thúc đẩy phản ứng dữ dội của người lớn trong gia
đình hoặc hàng xóm.
+ Trẻ em có thể không nói lên được điều gì đã xảy ra hoặc câu chuyện
của chúng không được tin tưởng.
+ Do người lớn dễ dàng nói rằng trẻ KTTT bị “tai nạn, bị thương” và
những người khác sẵn sàng tin vào điều đó.


Đôi khi trẻ em bị người lớn hoặc trẻ lớn hơn hành hạ về tình dục. Có
thể không tìm thấy tổn thương ở cơ thể, nhưng GV có thể nhận thấy sự thay
đổi HV của trẻ, dường như trẻ buồn rầu không có nguyên cớ rõ ràng hoặc trở
nên im lặng, thu mình lại.
Nếu GV nhận thấy có thể trẻ bị hành hạ nghiêm trọng ở nhà (hoặc ở
đâu đó) thì đầu tiên phải thảo luận với lãnh đạo nhà trường, yêu cầu cho trẻ
được khám xét về mặt y tế. Cần ghi chép tất cả các tổn thương trên cơ thể
trẻ. Điều đó cần thiết phải làm để bảo vệ đứa trẻ, bảo vệ nhà trường khi gia
đình có ý định tuyên bố tổn thương xảy ra ở nhà trường. Cố gắng chấm dứt
những tổn thương xấu nhất xảy ra sau đó cho chính những đứa trẻ đó hoặc

các em của nó.
Tất nhiên, nếu có cả nguyên nhân văn hoá, kinh tế và xã hội thì phải
thận trọng trong việc nhận định một đứa trẻ là KTTT nếu chỉ do trắc nghiệm
chỉ số trí tuệ thấp.
Mặc dù bảng AAMR đã phân biệt các nguyên nhân về sinh học với
những nguyên nhân tâm lí xã hội, nhưng hai loại nguyên nhân này có sự tác
động qua lại khá chặt chẽ với nhau. Lúc mới sinh, một đặc điểm sinh học dễ
quan sát thấy của trẻ thường bao hàm cả những đặc điểm do các yếu tố môi
trường tạo ra. Sau khi sinh, đặc điểm này của trẻ tiếp tục chịu ảnh hưởng bởi
vô vàn các yếu tố môi trường. Não bộ và hệ thần kinh của trẻ cực kì dễ bị tổn
thươnq bởi các yếu tố môi trường và trải nghiệm; cứ như vậy những yếu tố
này sẽ còn tạo ra nhiều ảnh hưởng lớn khác trong quá trình phát triển của
đứa trẻ. Những thành viên trong môi trường gần gũi với trẻ, đặc biệt là người
mẹ là cực kì quan trọng đối với trẻ. Thái độ và HV của người mẹ trong suốt
thời kì mang thai ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của thai nhi. Nếu người mẹ
không quan tâm đến sức khoẻ của mình và sử dụng những chất như dược
phẩm, thuốc lá, rượu thì sẽ làm tổn hại đến sự phát triển của thai nhi. Không
được chăm sóc đầy đủ ngay từ khi còn nằm trong bụng mẹ, thiếu dinh
dưỡng, bị ảnh hưởng của các chất độc, có thể là nguyên nhân gây dị tật bẩm
sinh hoặc trong lúc sinh đối với trẻ. Nếu trong thời kì mang thai mà người mẹ


phải chịu nhiều ức chế cũng có thể gây tình trạng đẻ non, sinh thiếu trọng
lượng và dễ bị kích thích ở trẻ sơ sinh.
Nhưng ngay cả khi trẻ đã ra đời, cha mẹ cũng phải tạo điều kiện để
thúc đẩy sự phát triển về tinh thần và thể chất cho đứa trẻ. Nói chung mọi
người đều nhận thấy rằng đứa trẻ được nuôi dưỡng như thế nào thì sẽ ảnh
hưởng đến sự phát triển tinh thần như thế ấy. Tuy nhiên, có nhiều trẻ được
nuôi dưỡng trong những môi trường tốt nhưng kết quả đạt được ở trắc
nghiệm chỉ số thông minh, học tập và kĩ năng cuộc sống cũng rất thấp.

Một số hội chứng kể trên mang tính ổn định tức là không lây lan hoặc
phát triển, chẳng hạn như chứng rối loạn nhiễm sắc thể, lây nhiễm hoặc tổn
thương.
Nhưng lại có một số hội chứng phát triển. Sau một giai đoạn nhất định,
xảy ra hiện tượng dị biến trong sự phát triển của trẻ và từ sau đó sự phát triển
của trẻ sẽ bị ngưng lại hoặc giảm sút, chẳng hạn như do sự sai lệch về
chuyển hoá bẩm sinh như PKU, San Filippo, Rett. Những vấn đề khác như
động kinh và liệt cứng có thể làm cho tật của trẻ nặng thêm. Chứng động kinh
đôi lúc suy giảm hoặc biến mất khi trẻ lớn dần lên, đôi lúc lại xuất hiện thường
xuyên, thậm chí ở mức độ nặng. Chứng liệt co cứng thường xuất hiện ở trẻ
sơ sinh dưới dạng nhược trương và sau đó thì trương lực giảm dần, trẻ mất
sức và không thể cử động được.
Tóm lại: Phát hiện nguyên nhân gây tật KTTT không phải là một việc dễ
dàng, KTTT thường là hệ quả của sự tác động phức tạp do nhiều loại nguyên
nhân.

3. Các dấu hiệu phát hiện trẻ khuyết tật trí tuệ
Khi một trẻ bị nghi ngờ KTTT thường có biểu hiện sau đây:
- Trẻ chậm lẫy, chậm ngồi, chậm biết đi hơn so với trẻ cùng tuổi.
- Một số trẻ có hình dáng không cân đối, ánh mắt và nét mặt khờ dại.
- Không biết chơi với đồ chơi, hay ném và đập phá đồ chơi.


- Ít giao tiếp bằng mắt, chậm nói.
- Phản ứng chậm với kích thích bên ngoài.
- Khả năng phối hợp tay mắt kém.
- Không chủ động chơi với các bạn cùng độ tuổi.
- Cư xử, nói năng ngốc nghếch hơn so với tuổi.
- Tiếp thu chậm, nhanh quên, nhớ kém, khó tập trung vào hoạt động.
- Khả năng tự phục vụ bản thân gần như không tự thực hiện được mà

cần sự hướng dẫn và giúp đỡ của người khác.
- Trẻ có thể học nói muộn hơn, câu nói đơn giản, từ ngữ nghèo nàn.
- Nếu đi học, trẻ gặp nhiều khó khăn hơn các bạn cùng độ tuổi, khó nhớ
mặt chữ, gặp khó khăn trong học đọc, viết và làm toán.
Khi trẻ có các dấu hiệu này, GV cần tư vấn để cha mẹ có thể gặp gỡ
các nhà chuyên môn để được đánh giá và đưa ra những lời khuyên một cách
chính thống.

4. Chẩn đoán và phân loại mức độ khuyết tật trí tuệ
4.1. Chẩn đoán khuyết tật trí tuệ
4.1.1. Quá trình chẩn đoán khuyết tật trí tuệ
Quan sát
Cán bộ y tế quan Trẻ không đạt được những mức độ phát triển thích hợp
sát

hoặc có biểu hiện KTTT.

GV và cha mẹ Nếu không được phát hiện là bị KTTT trước tuổi đến
quan sát

trường, đứa trẻ sẽ gặp những khó khăn khi ở trong lớp
như sau:
1. Tiếp thu không nhanh bằng các bạn;
2. Khó nhớ và không biết cách khái quát những kiên thức
đã học;


3. Hạn chế hơn về khả năng thích nghi so với các bạn
đồng trang lứa.


Khám sàng lọc
Các biện pháp đánh Phát hiện ra những trẻ cần được đánh giá thêm
giá
Khám sàng lọc y tế

Bác sĩ có thể sử dụng các loại trắc nghiệm để kiểm
tra nhũng trẻ có nguy cơ bị KTTT trước tuổi đến
trường.

Kết

quả

học

tập

trường lớp

ở Một đứa trẻ không được phát hiện ra là bị KTTT
trước tuổi đến trường sẽ gặp nhiều khó khăn trong
học tập; hạn chế về khả năng đọc hiểu; kĩ năng lí
giải cũng như vận dụng toán học cũng kém.

Trắc

nghiệm

chỉ


thông minh theo nhóm

số Trắc nghiệm chỉ số thông minh theo nhóm là rất
khó làm bởi vì loại trắc nghiệm này nặng về những
kĩ năng đọc. Điểm trí thông minh thấp hơn mức
trung bình.

Trắc nghiệm kết quả Đứa trẻ đạt điểm thấp hơn nhiều so với các bạn
theo nhóm

đồng trang lứa.

Khám sàng lọc về thị Kết quả khám không thể giải thích những hạn chế
giác và thính giác

về khả năng học tập.

Trước đánh giá
GV

đưa

ra Để kiểm tra xem kết quả học tập của trẻ vẫn kém hoặc trẻ

những gợi ý dựa tiếp tục tỏ ra hạn chế về khả năng thích nghi mặc dù đã
trên sự đánh giá được can thiệp (liệu HV thích nghi và kết quả học tập của
chung
trường.

của


cả trẻ ở mức độ nghiêm trọng hoặc đứa trẻ được phát hiện là
KTTT trước tuổi đến trường, thì biện pháp này cần được
tiến hành).


Quyết định đánh giá
Nếu trẻ vẫn học kém và vẫn gặp nhiều khó khăn về khả năng thích nghi, nó
cần được sự đánh giá toàn diện của một nhóm các chuyên gia.
Các bước đánh giá không phân biệt và chuẩn mực của đánh giá
Các biện pháp đánh Phát hiện ra trẻ có KTTT.
giá
Trắc nghiệm chỉ số Hoạt động trí năng dưới mức trung bình (chiếm
thông minh cá nhân

khoảng 2- 3% dân số), trẻ có điểm số IQ khoảng 70
đến 75 điểm. Nhóm đánh giá phải đảm bảo rằng trắc
nghiệm này công bằng về khía cạnh văn hoá đối với
trẻ.

Thang trắc nghiệm Trẻ đạt điểm tương đối thấp hơn mức trung bình về hai
HV thích nghi

hoặc hơn hai nhóm kĩ năng thích nghi, chẳng hạn như
nhóm kĩ năng giao tiếp, cuộc sống gia đình, tự định
hướng và giải trí.

Kết quả mang tính Khó khăn về khả năng lĩnh hội của đứa trẻ mà không
chất giai thoại


phải nguyên nhân từ sự khác biệt về văn hoá hay ngôn
ngữ.

Đánh giá dựa trên Đứa trẻ gặp phải nhiều khó khăn trong một hoặc hơn
chương trình học

một môn học trong chương trình học ở trường địa
phương.

Quan sát trực tiếp

Trẻ gặp khó khăn hoặc không đạt kết quả gì khi học
trong lớp.

4.1.2. Tiêu chí chẩn đoán khuyết tật trí tuệ
Theo DSM - IV và AAMR, có ba tiêu chí để chẩn đoán KTTT:
* Chức năng trí tuệ dưới mức trung bình: chỉ số thông minh đạt gần 70
hoặc thấp hơn 70 trên một lần thực hiện trắc nghiệm cá nhân (đối với trẻ nhỏ
người ta dựa trên những đánh giá lâm sàng để xác định).


* Bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất là hai trong số những lĩnh vực
hành vi thích ứng sau: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kĩ năng xã
hội/liên cá nhân, sử dụng các tiện ích công cộng, tự định hướng,kĩ năng học
đường chức năng, làm việc, giải trí, sức khoẻ và an toàn.
* Tật xuất hiện trước 18 tuổi.
Chức năng trí tuệ tổng quát là chỉ số thông minh (có thể gọi là IQ hoặc
các thuật ngữ tương đương với IQ) được qua đánh giá bằng một hoặc hơn
một trắc nghiệm trên cá nhân về trí thông minh. Chức năng trí tuệ dưới mức
trung bình là chỉ số thông minh đạt khoảng từ 70 hay thấp hơn (chỉ khoảng 2

điểm so với điểm chuẩn này).
Khả năng thích nghi có nghĩa là mức độ theo kịp yêu cầu của cuộc
sống chung của cá nhân và khả năng độc lập, kiến thức văn hoá xã hội và
khả năng hoà nhập cộng đồng ở một lứa tuổi nào đó so với mức độ chuẩn
mực.
Khả năng thích nghi có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau,
chẳng hạn như giáo dục, động cơ, cá tính, cơ hội về xã hội và dạy nghề, rối
loạn tinh thần và những vấn đề sức khoẻ có thể xuất hiện cùng với KTTT.
Những khó khăn về khả năng thích nghi có thể cải thiện đáng kể nhờ sự can
thiệp của các nỗ lực giáo dục, còn chỉ số trí tuệ thì khó hơn.
Theo DSM - IV, ở những người KTTT, hành vi thích nghi dễ cải thiện
hơn năng lực trí tuệ. Đây là một gợi ý quan trọng trong quá trình giáo dục cho
những người bị KTTT.
AAMR nhấn mạnh rằng có 4 vấn đề phải cân nhắc trước khi sử dụng
tiêu chí chẩn đoán này:
- Một sự đánh giá có giá trị hiệu quả thì phải tính đến tính đa dạng về
văn hoá và ngôn ngữ, cũng như những sự khác nhau về các yếu tố giao tiếp
và HV.


×