Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Chinh sach cua mi doi voi viet nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.82 KB, 39 trang )

ĐỀ TAØI:
Chính saùch của Mỹ ñối với Phaùp (1940-1956)
về vấn ñề Việt Nam.

Trang 1


MỤC LỤC
Trang
A. DẪN LUẬN.

1. Lý do chọn đề tài................................................................................2
2. Lòch sử vấn đề..................................................................................... 2
3. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................3
4. Bố cục................................................................................................. 4
B. NỘI DUNG.
MỞ ĐẦU: Mỹ luôn thèm muốn có được chỗ đứng ở Việt Nam thuộc

Pháp........................................................................................................ 6
I. Mỹ tìm mọi cách để loại Pháp ra khỏi Việt Nam (giữa 1940 đến
giữa 1945)
1. Mỹ muốn mượn tay Nhật để loại Pháp ra khỏa Việt Nam.............7
2. Mỹ lên án chế độ thực dân của Pháp ở Việt Nam..........................8
3. Mỹ ngăn cản Pháp có tiếng nói tại các diễn đàn quốc tế.............9
4. Mỹ ngăn cản Pháp tham chiến ở Đông Dương..............................9
5. Mỹ không cứu Pháp khi Pháp bò Nhật đảo chính.........................11
6. Mỹ ngăn cản Pháp trở lại Việt Nam sau chiến tranh...................12
7. Mỹ chủ trương đặt Việt Nam dưới sự ủy trò quốc tế.....................12
II. Mỹ giúp Pháp đặt lại ách thống trò ở Việt Nam.
1. Lý do Mỹ giúp Pháp đặt lại ách thống trò ở Việt Nam.................13
2. Mỹ giúp Pháp tái chiếm Việt Nam...............................................15


3. Mỹ khuyên Pháp dùng giải pháp “Bảo Đại”...............................17
4. Mỹ giúp Pháp đẩy mạnh chiến tranh chống Việt Nam.
a) Sau chiến thắng của cách mạng Trung Quốc..............................21
b) Sau chiến tranh Triều Tiên bùng nổ............................................22
5. Mỹ buộc Pháp kéo dài chiến tranh chống Việt Nam
a) Mỹ ngăn chặn xu hướng giải quyết chiến tranh Đông Dương
bằng con đường thương lượng.........................................................................23
b) Mỹ và kế hoạch Navarre của Pháp......................................26
c) Mỹ và chiến cuộc Điện Biên Phủ.........................................28
d) Mỹ phá hoại hội nghò Geneve..............................................29
III. Mỹ hất cẳng Pháp độc chiếm miền Nam Việt Nam......................30
C. KẾT LUẬN........................................................................................................... 36

Trang 2


A. DẪN LUẬN
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Năm mươi năm chiến thắng Điện Biên Phủ đã trôi qua và giờ đây
Việt Nam đang bước vào giai đoạn ổn đònh và phát triển. Chiến thắng Điện
Biên Phủ là chiến thắng lòch sử và vẻ vang của dân tộc Việt Nam nhưng đó
cũng là thất bại nặng nề của Pháp. Tuy nhiên, thất bại đó cũng không phải
là thất bại của riêng Pháp, mà trong đó có cả thất bại của Mỹ. Trong suốt
thời gian từ 1945 –1954, Mỹ đã liên tục viện trợ và gia tăng viện trợ chho
Pháp. Vì thế có thể nói thất bại của Pháp ở Việt Nam cũng chính là thất bại
của Mỹ ở Việt Nam.
Như vậy, vì sao Mỹ lại liên tục viện trợ cho Pháp? Và trước khoảng
thời gian đó, Mỹ có thực hiện chính sách viện trợ cho Pháp hay không, cũng
như từ sau thất bại Điện Biên Phủ, Mỹ có còn tiếp tục viện trợ cho Pháp
nữa hay không ? Tất cả những điều đó đã thôi thúc em ngược dòng lòch sử

để khám phá những vấn đề vừa nói trên.
Tuy nhiên, do kiến thức còn có hạn, em chưa thể trình bày về quan hệ
giữa Mỹ và Pháp cũng như chưa thể trình bày về toàn bộ chính sách của Mỹ
đối với Pháp. Vì vậy em chỉ có thể tập trung nghiên cứu và trình bày về
chính sách của Mỹ đối với Pháp về vấn đề Việt Nam trong khoảng thời gian
từ 1940 –1956.
Nói đến lòch sử là nói về quá khứ, cái đã qua nhưng nó có thật, ta biết
được nó thông qua tư liệu, sách báo, phim ảnh… Vậy lòch sử là một môn học
rất rộng, trong khi đó em chỉ mới là người tập nghiên cứu, nên kiến thức, sự
hiểu biết của em có hạn. Chính vì vậy, bài tiểu luận này khó tránh nhiều sai
sót. Xin quý thầy cô chỉ dạy.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.
Chính sách của Mỹ đối với Pháp, cũng như chính sách của Mỹ đối với
Việt Nam cũng có một số sách báo đã trình bày. Tiếc thay, trong khi sách
báo bàn về thời kỳ 1954-1975 vô cùng phong phú, thì ngược lại, ít tác giả đề
cập đến giai đoạn trước 1954, hoặc chỉ đề cập một cách sơ sài.
Mỹ có một số ít tác phẩm nghiên cứu về qua trình Mỹ can thiệp và
xâm lược Việt Nam dành cho giai đoạn trước 1954 với một số trang khiêm
Trang 3


tốn. Tuy nhiên, do kiến thức ngoại ngữ còn hạn chế nên em chỉ có thể tiếp
cận những bản dòch của những tác phẩm đó. Chẳng hạn như:
- VietNam Verdiet (Lời phán quyết về Việt Nam) của Joseph Amter
(bản dòch của Nguyễn Tấn Cưu) dành vỏn vẹn 1 trang (trang 17-18) cho thời
Roosevelt (1933-1945) và 20 trang (các trang 18-38) cho thời Truman (19451952) trong tổng số 522 trang.
- The United States and Indochina from Roosevelt to Nixon (Nước Mỹ
và Đông Dương từ Roosevelt đến Nixon) của Peter A.Poole (bản dòch của
Vũ Bách Hợp) dành 11 trang (các trang 10-20) cho thời Roosevelt và 15

trang (các trang 21-35) cho thời Truman trong tổng số 300 trang.
Ở Việt Nam, các tác giả càng ít đề cập đến quá trình can thiệp của
Mỹ vào Việt Nam trong giai đoạn trước 1954 hơn. Chẳng hạn:
- Giáo trình lòch sử Việt Nam 1945-1975 dày 196 trang (được Hội
đồng thẩm đònh sách của Bộ Giáo Dục giới thiệu làm sách dùng chung cho
các trường Đại học sư phạm) hoàn toàn không đề cập đến chính sách của
Mỹ đối với Pháp về vấn đề Việt Nam trong những năm 40. Về thời kỳ 19501954, sách viết rất sơ sài, chỉ vài dòng ở các trang 42, 52, 58, gộp chung lại
chưa đầy một trang giấy.
- Tội ác xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam (NXB Sự
Thật, Hà Nội, 1976) đã dành từ trang 10 đến trang 42 trong tổng số 183
trang để nói về những chính sách của Mỹ đối với Việt Nam và những viện
trợ của Mỹ đối với Pháp trong khoảng thời gian trước 1954.
Như vậy, qua việc tìm hiểu trên ta thấy vấn đề nghiên cứu của em
chưa được nhiều tác giả quan tâm. Đối với em, đây là một vấn đề khó
nghiên cứu. Và vì nhận thức của bản thân còn hạn hẹp cùng với nguồn tài
liệu tham khảo không nhiều cho nên việc nghiên cứu chỉ dừng lại ở sự khái
quát chung nhất về “Chính sách của Mỹ đối với Pháp về vấn đề Việt Nam
(1940-1956)”.

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Chính sách của Mỹ đối với Pháp về vấn đề Việt Nam (1940-1956) là
một đề tài trong đó có nhiều mốc thời gian và nhiều vấn đề cần giải quyết.
Do đó, em đã chọn phương pháp lòch sử và phương pháp logic để tìm hiểu
vấn đề trên.

Trang 4


Trước khi trình bày nội dung chính, em sẽ nói sơ về quá trình nhòm
ngó của Mỹ đối với Việt Nam và sự thèm muốn có được Việt Nam thuộc

Pháp của Mỹ.
Ở phần nội dung chính, em bắt đầu nghiên cứu từ năm 1940 vì năm
đó, Mỹ bắt đầu quan tâm đến Việt Nam thuộc Pháp một cách rõ rệt. Đồng
thời trong phần nội dung chính, em sẽ chia thành 3 khoảng thời gian chính,
tương ứng với từng mục tiêu cụ thể của Mỹ đối với Pháp:
- Giữa 1940 - giữa 1945: Mỹ tìm mọi cách để loại Pháp ra khỏi Việt
Nam.
- Giữa 1945 – giữa 1954: Mỹ giúp Pháp đặt lại ách thống trò ở Việt
Nam.
- Giữa 1954 – cuối 1956: Mỹ hất cẳng Pháp, độc chiếm miền Nam
Việt Nam.
Thông qua việc nghiến cứu đó, chúng ta sẽ thấy rõ được chính sách
của Mỹ đối với Pháp về vấn đề Việt Nam (1940-1956) là nhằm gạt Pháp,
độc chiếm miền Nam Việt Nam.

4. BỐ CỤC
A. DẪN LUẬN.

1. Lý do chọn đề tài.
2. Lòch sử vấn đề.
3. Phương pháp nghiên cứu.

B. NỘI DUNG.
MỞ ĐẦU: Mỹ luôn thèm muốn có được chỗ đứng ở Việt Nam

thuộc Pháp.
I. Mỹ tìm mọi cách để loại Pháp ra khỏi Việt Nam (giữa 1940
đến giữa 1945)
1. Mỹ muốn mượn tay Nhật để loại Pháp ra khỏa Việt
Nam.

2. Mỹ lên án chế độ thực dân của Pháp ở Việt Nam.
3. Mỹ ngăn cản Pháp có tiếng nói tại các diễn đàn quốc
tế.
4. Mỹ ngăn cản Pháp tham chiến ở Đông Dương.
5. Mỹ không cứu Pháp khi Pháp bò Nhật đảo chính.
6. Mỹ ngăn cản Pháp trở lại Việt Nam sau chiến tranh.
7. Mỹ chủ trương đặt Việt Nam dưới sự ủy trò quốc tế.
Trang 5


II. Mỹ giúp Pháp đặt lại ách thống trò ở Việt Nam.
1. Lý do Mỹ giúp Pháp đặt lại ách thống trò ở Việt Nam.
2. Mỹ giúp Pháp tái chiếm Việt Nam.
3. Mỹ khuyên Pháp dùng giải pháp “Bảo Đại”.
4. Mỹ giúp Pháp đẩy mạnh chiến tranh chống Việt Nam.
a) Sau chiến thắng của cách mạng Trung Quốc.
b) Sau chiến tranh Triều Tiên bùng nổ.
5. Mỹ buộc Pháp kéo dài chiến tranh chống Việt Nam
a) Mỹ ngăn chặn xu hướng giải quyết chiến tranh
Đông Dương bằng con đường thương lượng.
b) Mỹ và kế hoạch Navarre của Pháp.
c) Mỹ và chiến cuộc Điện Biên Phủ.
d) Mỹ phá hoại hội nghò Geneve.
III. Mỹ hất cẳng Pháp độc chiếm miền Nam Việt Nam.
C.KẾT LUẬN.

Trang 6


B. NỘI DUNG

MỞ ĐẦU: Mỹ luôn thèm muốn có được chỗ đứng ở Việt
Nam thuộc Pháp.
Từ năm 1819, Mỹ đã nhòm ngó Việt Nam. Đại úy Mỹ John White đã
hai lần chỉ huy tàu Franklin đến Việt Nam. Ngày 6 tháng 9, ông tiến ra miền
Trung, sau đó John phải sang Philippin, tại đây ông gặp Olivier – thuyền
trưởng chiếc tàu Marmion. Ngày 6/9 ông cùng Olivier trở lại Việt Nam,
ngày 7/10 ông đến Bến Nghé – Sài Gòn và muốn đặt quan hệ buôn bán ở
Việt Nam, nhưng đề nghò ấy không được xem xét đến.
Sau bốn tháng chờ đợi mà không có kết quả, John White rời Việt Nam
về Mỹ. Sau đó ông viết cuốn hồi ký dài 300 trang với nhan đề: “History of
Voyage to the China sea” được nhà xuất bản Wells và Lilly ấn hành năm
1823. Nội dung cuốn sách là những điều mà John mắt thấy tai nghe ở Việt
Nam.
Năm 1831, tổng thống Mỹ Andrew Jackson gửi một phái đoàn sang
Việt Nam, đề nghò triều đình Huế cho Mỹ mở một lãnh sự quán, nhưng vua
Minh Mạng viện nhiều lý do để từ chối.
Đầu năm sau tức là năm 1832 tổng thống A.Jackson lại cử một phái
đoàn do Edmud Robert làm trưởng đoàn mang theo lá thư viết tay của tổng
thống Mỹ xin giao hảo thông thương với Việt Nam, và vẫn bò vua Minh
Mạng khước từ.
Năm1835, Mỹ lại cử một phái đoàn khác cũng do Robert dẫn đầu
sang Việt Nam mang theo bức thư đề nghò triều đình Huế ký hiệp ước
thương mại. Nhưng tàu vừa cập bến Trà Sơn ( Đà Nẵng) Robert đã đổ bệnh
và đến ngày 12/6/1835 thì chết. Vì vậy một lần nữa việc thương thuyết
không thành.
Đến năm 1850 Mỹ lại thương lượng một lần nữa về việc xin thông
thương nhưng vẫn thất bại.
Sau nhiều lần cố gắng đặt quan hệ giao thương với Việt Nam đều
không có kết quả, Mỹ quay sang các hướng khác ở Châu Á. Trong khi đó
chính phủ Pháp ngày càng quyết tâm đánh chiếm Việt Nam.

Đầu năm 1857 Pháp lập ủy ban nghiên cứu vấn đề Việt Nam, ngày
31/8/1858 Pháp liên minh với Tây Ban Nha tiến công Đà Nẵng, lần lượt
Trang 7


chiếm Gia Đònh, Nam Kỳ, Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Việt Nam trở thành nước
“có chủ “ theo cách nói của Lênin.
Và Mỹ đã trở thành người thua cuộc trong công cuộc thôn tính Việt
Nam, vò trí kinh tế của Mỹ ở Việt Nam còn khiêm nhường, tỷ lệ hàng ngoại
nhập của Mỹ chiếm 7,4%, trong khi hàng của Pháp chiếm 72%.
Cho đến năm 1940, thừa cơ thực dân Pháp gặp nạn, Mỹ nhảy vào
nước ta.

I. Mỹ tìm mọi cách để loại Pháp ra khỏi Việt Nam.
1. Mỹ muốn mượn tay Nhật để loại Pháp ra khỏi Việt Nam
Đến cuối thế kỷ XIX, hầu hết các nước Viễn Đông( trong đó có Việt
nam) bò các đế quốc Châu Âu chiếm làm thuộc đòa hay sứ bảo hộ. Mỹ là đế
quốc sinh sau đẻ muộn nên cũng muốn chia lại thò trường Châu Á.
Sau khi chiếm Mãn Châu làm thuộc đòa (1931), từ tháng 7 năm 1937
Nhật mở rộng chiến tranh xâm lược ở Trung Quốc. Bước sang năm 1940, lợi
dụng tình hình các đế quốc Tây Âu đang bò Hitler chiếm đóng, Nhật âm
mưu chiến đoạt các thuộc đòa của những đế quốc này ở Đông Nam Á.
Mỹ thấy đó là cơ hội để mượn tay Nhật đuổi các đế quốc Tây Âu ra
khỏi Châu Á. Một khi cả Nhật lẫn các đế quốc Tây Âu đều suy yếu vì chiến
tranh Mỹ sẽ dùng sức mạnh của mình để độc chiếm vùng này, hoặc ít ra
cũng buộc các đế quốc khác chia sẻ bớt cho Mỹ những quyền lợi trong khu
vực này. Vì vậy thay vì lên án những hành động xâm lược trắng trợn của
Nhật, Mỹ vẫn tiếp tục bán cho Nhật những mặt hàng chiến lược. Năm 1940
Mỹ vẫn tiếp tục giúp Nhật tăng cường tiềm lực kinh tế và quân sự. Những
mặt hàng như gang, thép, xăng dầu, động cơ máy bay, ô tô và các phụ tùng

thay thế của Mỹ vẫn tiếp tục được nhập vào Nhật với số lượng ngày càng
nhiều.
Bước đầu tiên trong âm mưu của Nhật làbành trướng xuống phía Nam
là chiếm đóng Đông Dương. Pháp hiểu điều đó và rất lo lắng. Thế nhưng
phản ứng của Mỹ lại khác, bởi vì chính phủ Mỹ mong muốn thấy Pháp bò
đánh đuổi khỏi Đông Dương để vấn đề tách họ ra khỏi thuộc đòa của họ
được dễ dàng hơn. Vì vậy khi Pháp “cố gắng mua vũ khí của Mỹ để bảo vệ
đất đai của Pháp trước mối đe dọa của Nhật thì Washington đã từ chối yêu
cầu đó”(1)
1()

Nước Mỹ và Đông Dương từ Roosevelt đến Nixon, NXB Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986, tr.12

Trang 8


Ngày 19/6/1940, 5 ngày sau khi thủ đô Paris lọt vào tay Đức quốc xã,
Nhật gửi tối hậu thư yêu cầu Pháp đóng cửa biên giới Việt – Trung, đình chỉ
việc chuyên chở vũ khí và xăng dầu cho chính phủ Trùng Khánh trên tuyến
đường sắt Hải Phòng – Côn Minh, đòi đưa phái đoàn quân sự Nhật vào Việt
Nam để kiểm soát việc đình chỉ đó.
Nhận được tối hậu thư của Nhật, Pháp cầu cứu Mỹ. Thứ trưởng ngoại
giao Mỹ Sumner Welles đã trả lời đại sứ Pháp tại Washington rằng Mỹ chưa
có thể tuyên chiến với Nhật được, nếu Nhật tấn công Đông Dương thì Mỹ
cũng đành để cho Nhật làm. Điều đó có nghóa là Pháp không còn cách nào
hơn là nhận tối hậu thư của Nhật và làm theo yêu cầu của Nhật.
Biết được phản ứng yếu ớt của Mỹ, Nhật càng lấn tới. Ngày 2/8 Nhật
đòi Pháp phải để cho quân Nhật được tự do di chuyển qua Bắc Đông Dương,
được sử dụng các sân bay ở Đông Dương v.v…
Một lần nữa Pháp cầu cứu Mỹ. Mỹ lại tiếp tục không giúp đỡ Pháp.

Pháp một lần nữa phải nhượng bộ Nhật.
Thấy tình thế ngày càng có lợi, Nhật tiếp tục đòi Pháp phải để cho
quân đội Thiên hoàng được chiếm đóng mọi nơi trên lãnh thổ Đông Dương
với quân số không hạn chế, được sử dụng các sân bay và bến cảng quân sự
v.v… với bản chất yếu hèn lại bò Mỹ bỏ rơi, Pháp lần lượt chấp nhận mọi đòi
hỏi của Nhật. Vì thế trên thực tế Đông Dương đã trở thành “một Mãn Châu
Quốc mới”.
Và chỉ chờ có thế trong suốt năm 1941 Mỹ tìm cách nói chuyện với
người chủ mới của Đông Dương. Tổng thống Mỹ Roosevelt đề nghò “trung
lập hóa” Đông Dương với lời hứa cả Mỹ lẫn Nhật đều hưởng “quyền có
mọi nguồn cung cấp và nguyên liệu từ Đông Dương trên cơ sở ngang
bằng”. Thế nhưng Nhật luôn xem Việt Nam là một khâu quan trọng trong
kế hoạch Nam tiến nên không chòu san sẻ Việt nam cho Mỹ. Vì vậy chiến
tranh Mỹ - Nhật bùng nổ ngày 7/12/1941.

2. Mỹ lên án chế độ thực dân của Pháp ở Việt Nam.
Thất bại trong ý đồ phân chia quyền lợi ở Đông Dương với Nhật
nhưng Mỹ không từ bỏ tham vọng thôn tính Đông Dương.
Nếu trước kia Pháp dùng chiêu bài “khai hóa” để che đậy hành động
xâm lược Việt Nam thì trong những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ XX,
Mỹ núp sau lá cờ “chống chủ nghóa thực dân” để giấu mặt thực dân.

Trang 9


Ngày 2/8/1941, trong một bản tuyên bố chính thức, chính phủ
Roosevelt lên án chế độ thực dân Pháp đã giam hãm các dân tộc Đông
Dương trong vòng nghèo đói và dốt nát trong gần một thế kỷ thống trò vùng
này.
Tại hội nghò Téhéran giữa các nhà lãnh đạo ba cường quốc đồng

minh, Roosevelt lớn tiếng phê phán: Pháp làm chủ Đông Dương đã một
trăm năm, thế mà đời sống nhân dân ở đó hiện còn thấp hơn cách đây một
thế kỷ.
Tại hội nghò Yalta từ ngày 4 đến ngày 12/2/1945 Roosevelt vẫn tiếp
tục đả kích sự cai trò của Pháp ở Đông Dương.
Những điệp khúc “chống chủ nghóa thực dân” nói trên nhằm đi tới
một ý đồ: ngăn cản Pháp trở lại Đông Dương sau khi chiến tranh chấm dứt.
Trong bức điện ngày 19/7/1941 gửi cho Pétain, Roosevelt đã nói thẳng tham
vọng của Mỹ: “phải nói không úp mở rằng nếu Nhật Bản thắng, họ sẽ
chiếm Đông Dương, nhưng nếu đồng minh thắng, chúng tôi sẽ chiếm xứ
đó”(1). Tại các hội nghò quốc tế nói trên, nhiều lần Roosevelt kêu gọi các
nước đồng minh không nên giúp Pháp để nắm lại quyền kiểm soát ở Đông
Dương.

3. Mỹ ngăn cản Pháp có tiếng nói tại các diễn đàn quốc tế.
Sự thất bại của nước Pháp trong chiến tranh đã buộc tướng De Gaulle
ra nước ngoài để cầm đầu cuộc kháng chiến chống Đức – Ý. Thế nhưng
“nước Pháp chiến đấu” của ông vẫn không được mời tham dự các hội nghò
quốc tế của đồng minh chống phát xít (ở Mockba 1941 và 1943, Casablanca
1943, Cairo 1943, Teheran 1943…), không có mặt trong số 26 quốc gia ký
bản tuyên ngôn Liên hiệp quốc (Washington, D.C 1942). Ngay cả khi Pháp
được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của Đức, chính phủ De Gaulle trở về
Paris và được Mỹ công nhận, nước Pháp vẫn không được mời tham dự các
hội nghò quốc tế quan trọng ở Yalta (2/1945) và Potsdam (7,8/1945) để bàn
về một trật tự thế giới sau chiến tranh. Điều đó chứng tỏ Mỹ không muốn
xem Pháp như một cường quốc có tiếng nói quyết đònh trong các vấn đề
quốc tế, trong đó có vấn đề Đông Dương.

4. Mỹ ngăn cản Pháp tham chiến ở Đông Dương.
Mặt dù lãnh thổ Pháp đang bò phát xít Đức chiếm đóng và Đông

Dương đã lọt vào tay Nhật nhưng De Gaulle vẫn luyến tiếc Đông Dương và
1()

Tội ác xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1976, tr.12

Trang 10


luôn nuôi mộng chiếm lại thuộc đòa giàu đẹp này. Muốn đạt được mục đích
đó Pháp phải tham gia đánh Nhật ở Đông Dương để sau này có thể “vấy
máu ăn phần”.
Ngày 22/8/1944 Paris được giải phóng. Sau khi được thành lập (ngày
10/9/1944), chính phủ lâm thời nước cộng hoà Pháp – do De Gaulle làm chủ
tòch – bắt tay ngay vào việc chuẩn bò tái chiếm Đông Dương. Thế nhưng
nước Pháp vừa thoát khỏi ách chiếm đóng của Đức đang suy yếu trầm trọng.
Pháp thiếu thốn về mọi bề: từ súng ống, đạn dược để trang bò cho quân só
đến tàu bè để chở họ sang Đông Dương tham chiến. Lại một lần nữa De
Gaulle phải dẹp mọi tự ái để ngữa tay xin Roosevelt giúp đỡ (11/1944).
Nhưng Roosevelt chỉ thò cho Hội đồng tham mưu trưởng hỗn hợp từ chối,
viện cớ Mỹ phải lo chiến trường Châu Âu.
Nhưng vấn đề quan trọng là Pháp có quyền tham chiến ở Đông
Dương không?
Tại hội nghò Québec (Canada) tháng 8/1943, Mỹ và Anh nhất trí chia
vùng viễn đông thành hai chiến trường chính: chiến trường Đông Nam Á
(bao gồm n Độ, Miến Điện, Mã Lai, Indenesia…) do Anh chỉ huy và chiến
trường Trung Quốc – Đông Dương nằm trong quyền hạn của Tưởng Giới
Thạch (thực chất là do các tướng só của Mỹ ở Trung Quốc chỉ đạo).
Do đó, có được Mỹ – Tưởng cho phép, Pháp mới được tham chiến ở
Đông Dương. Trong thực tế Mỹ – Tưởng không bao giờ muốn điều đó xảy
ra.

Ngày 3/11/1944, Roosevelt đã ra chỉ thò cho tất cả những người đại
diện của Mỹ ở Viễn Đông, bất kể quân sự hay dân sự, đều không được phép
quyết đònh những vấn đề chính trò với phái bộ Pháp hay bất cứ với người nào
khác. Roosevelt cũng yêu cầu họ nói rõ với các nước đồng minh rằng các
nước này phải tham khảo ý kiến của Mỹ trước khi thỏa thuận về tương lai
chính trò của Đông Nam Á.
Côn Minh, Pháp đặt một phái bộ quân sự Pháp (Mission Militaire
Frangaise – thường gọi là Phái bộ 5, Mission 5) để chuẩn bò cho việc Pháp
tái chiếm Đông Dương khi thời cơ đến. Nhưng Mỹ tìm mọi cách hạn chế
hoạt động của M.5. Vì vậy ngoài một vài hoạt động thu lượm tin tức tình
báo Pháp chẳng có dòp nào để lập công chống Nhật.
Sau khi Roosevelt chết (ngày 12/4/1945) De Gaulle hy vọng tổng
thống mới – Truman – có thể thay đổi chính sách đối với Pháp nói chung và

Trang 11


trong vấn đề Đông Dương nói riêng. Tháng 5/1945 De Gaulle cử tướng
Alphonse Juin, tham mưu trưởng bộ quốc phòng Pháp, sang Washington.
Juin đã hội đàm với tướng Marshall, tổng tham mưu trưởng quân đội Mỹ, và
đô đốc William D.Leahi, cố vấn quân sự của tổng thống Truman. Ngày 26/5
Pháp đề nghò với Mỹ cho quân Pháp được tham gia đánh Nhật ở Đông
Dương. Pháp tự nguyện đặt hai sư đoàn của mình dưới sự chỉ huy của Bộ tư
lệnh quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương.
Truman mới lên làm tổng thống nên chưa dám thay đổi các chính sách
của người tiền nhiệm. Vì vậy một lần nữa Mỹ viện cớ đang gặp khó khăn
về tàu bè nên đề nghò Pháp chờ thêm vài tháng nữa.
Nhưng thời gian không chờ đợi một ai. Tình hình chiến trường Châu
Á–Thái Bình Dương trong tháng 8 chuyển biến nhanh chóng ngoài sức
tưởng tượng. Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima (ngày 6

tháng 8) và Nagasaki (ngày 9 tháng 8) trong 11 ngày (từ 9 đến 20 tháng 8)
Hồng quân Liên Xô tiêu diệt và bắt sống hơn 1 triệu quân tinh nhuệ của
Nhật trong đội quan Quan Đông. Ngày 14/8, chính phủ Nhật chính thức đầu
hàng không điều kiện.
Vậy là vónh viễn Pháp không có cơ hội nào để tham gia đánh Nhật ở
Đông Dương.

5. Mỹ không cứu Pháp khi bò Nhật đảo chính.
Ngày 22/8/1944 Paris được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của Đức
quốc xã. Hai tháng sau quân Nỹ chiếm lại Philippines từ tay Nhật (đến
tháng 2 năm 1945, Manila được giải phóng).
Trước tình hình đó Nhật đổ thêm quân vào Đông Dương, đưa quân số
của Nhật ở đây vào tháng 1/1945 lên tới 6 vạn tên. Tuy vậy, Nhật vẫn lo sợ
cuộc đổ bộ của đồng minh lên Đông Dương được quân Pháp ở đây hưởng
ứng. Vì vậy Nhật quyết đònh ra tay trước, tiến hành cuộc đảo chính vào tối
ngày 9/3/1945. Các tướng lãnh của Pháp đều bò bắt cầm tù. Phần lớn lính
Pháp bò Nhật tàn sát, số còn lại chạy trốn lên vùng thượng du Bắc Bộ. Thay
vì giúp đỡ tàn quân của một nước “đồng minh” đang gặp hoạn nạn,
Washington ra lệnh nghiêm cấm việc yểm trợ bằng máy bay cho các toán
quân Pháp đang rút lui về hướng Bắc. De Gaulle quay sang nhờ Anh. Anh
cho máy bay thả dù hàng tiếp tế xuống cho tàn quân Pháp ở Việt Nam
nhưng Mỹ phản đối vì cho rằng Anh xâm phạm ranh giới của chiến trường
Trung Hoa.

Trang 12


Tàn quân Pháp phải chạy trốn quân Nhật trong tuyệt vọng. Khi đến
Vân Nam (Trung Hoa), Pháp đề nghò Mỹ vũ trang cho họ để họ cùng Mỹ
chiến đấu chống kẻ thù chung. Không những Mỹ từ chối giúp đỡ mà còn

tước vũ khí của quân Pháp và giam lỏng họ cho tới ngày chiến tranh kết
thúc.

6. Mỹ ngăn cản Pháp trở lại Việt Nam sau chiến tranh.
Hay tin Nhật đầu hàng (14/8), Pháp liền tìm mọi cách để trở lại Đông
Dương càng sớm càng tốt.
Thế nhưng, dự đònh đó của Pháp đã bò Mỹ ngăn chặn ngay. Mỹ đã gởi
đến Côn Minh (Trung Quốc) một mật lệnh và yêu cầu trong bất cứ trường
hợp nào cũng không được cho người Pháp vào Đông Dương. Thế là Bộ tư
lệnh quân đội Mỹ ở Trung Quốc (dưới quyền tướng Wedemeyer) tìm mọi
cách ngăn cản các tướng Pháp đang có mặt ở Trung Quốc trở lại Việt Nam.
Thiếu tá Jean Sainteny, trưởng phái bộ quân sự Pháp ở Côn Minh, dự
đònh đi Việt Nam trên một máy bay Đakota của Pháp vào sáng 17/8. Nhưng
vài giờ trước khi máy bay cất cánh, tướng Wedemeyer ra lệnh cấm mọi máy
bay thuộc bất kỳ quốc tòch nào rời Côn Minh đi Hà Nội. Sainteny đònh đánh
lừa Wedemeyer, tuyên bố là bay đi Ấn Độ, nhưng giả vờ “bay lạc” sang
Việt Nam, khi tới Hà Nội, Sainteny cùng đồng đội sẽ nhảy dù xuống trong
khi máy bay vẫn tiếp tục bay. Nhưng đoán được mưu mô của Sainteny, Mỹ–
Tưởng cho lính bao vây chiếc Đakota, cấm mọi người lại gần máy bay. Sau
một tuần lễ vận động ráo riết, đến ngày 22/8 Sainteny mới được thiếu tá
Archimedes Patti miễn cưỡng cho đi nhờ trên một máy bay Đakota của Mỹ.
Song khi máy bay sắp hạ cánh xuống Hà Nội Patti còn viện cớ này cớ nọ để
cho máy bay quay trở lại Côn Minh. Sainteny phải năn nỉ lắm Patti mới cho
máy bay đáp xuống sân bay Gia Lâm…Sau đó Sainteny bò giam lỏng trong
dinh toàn quyền cũ, không được phép liên hệ với bọn Pháp kiều ở Hà Nội.
Tướng Alessandri cũng gặp nhiều rắc rối tương tự. Mỹ đã viện cớ
hiệp đònh Potsdam không giao cho Pháp việc giải giáp và hồi hương quân
Nhật ở Việt Nam. Vì vậy, 17 ngày sau khi nước Việt nam dân chủ cộng hòa
ra đời, tướng Alessandri mới trở lại Việt Nam.


7. Mỹ chủ trương đặt Việt Nam dưới sự ủy trò quốc tế.
Mỹ ngăn cản Pháp trở lại Việt Nam sau chiến tranh, nhưng Mỹ cũng
không thể cai trò Việt Nam một cách trực tiếp. Do đó Roosevelt chủ trương
đặt Việt Nam hậu chiến dưới sự ủy trò quốc tế trong thời gian từ 20 đến 30

Trang 13


năm. Mỹ chọn Trung Hoa dân quốc của Tưởng Giới Thạch làm đồng minh
tin cậy nhất để giữ vai trò thứ hai sau Mỹ ở Đông Dương. Vì vậy ủy trò quốc
tế trong thực tế là ủy trò Mỹ – Trung Hoa.
Tại hội nghò Québec (8/1943) Roosevelt đưa Việt Nam vào phạm vi
chiến trường Trung Hoa. Tưởng Giới Thạch lên kế hoạch “Hoa quân nhập
Việt”, lập “Việt Nam chỉ đạo thất” để chỉ đạo việc thành lập ở Việt Nam
một quốc gia “độc lập” nhưng trong thực tế là một nước chư hầu của Trung
Hoa.
Lẽ dó nhiên Pháp phản đối kòch liệt chủ trương nói trên của Mỹ. Anh
cũng phản đối vì sợ chủ trương đó sẽ ảnh hưởng đến chế độ thực dân của
Anh ở các nước thuộc đòa tại Đông Nam Á.
Thêm vào đó, tình hình quốc tế lúc này đã buộc Mỹ phảo điều chỉnh
lại chủ trương ủy trò quốc tế ở Việt Nam.
Sau khi đánh đuổi quân Đức ra khỏi lãnh thổ Liên Xô, Hồng quân tiến
về phía Tây, phối hợp với quân và dân Ba Lan, Rumani, Bungari, Nam Tư,
Tiệp Khắc, Anbani, Hungari giải phóng những nước này khỏi ách thống trò
của Đức và tay sai, sau đó đập tan sào huyệt của Hitler. Đức đầu hàng
không điều kiện.
Khi kẻ thù Đức quốc xã bò đánh q, Mỹ xem Liên Xô là nguy cơ
chính. Vì vậy, ngay từ đầu năm 1945, bộ ngoại giao Mỹ và cơ quan tình báo
OSS đã khuyến cáo Roosevelt nên giúp đỡ các nước tư bản Tây Âu để cùng
Mỹ ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô.

Do đó Roosevelt điều chỉnh chủ trương bằng cách cho Pháp và một số
nước tham gia sự ủy trò quốc tế ở Việt Nam (23/2/1945). Đến 15/3/1945,
Roosevelt đồng ý cho Pháp giữ lại Đông Dương với điều kiện Pháp phải
cam kết tự mình gánh vác mọi nghóa vụ của sự ủy trò. Đến 3/4/1945, ngoại
trưởng Mỹ tuyên bố sự ủy trò quốc tế chỉ thực hiện ở nơi nào tự nguyện đặt
dưới chế độ ấy. Và lẽ dó nhiên Pháp không bao giờ “tự nguyện” làm như
thế. Ngày 12/4/1945, Roosevelt chết vì bò xuất huyết. Điều đó có nghóa là
chủ trương đặt Đông Dương dưới sự ủy trò quốc tế đã bò khai tử 9 ngày trước
khi cha đẻ của nó qua đời. Phó tổng thống Truman lên thay có lập trường
chống Liên Xô càng gay gắt hơn người tiền nhiệm.
Để lôi kéo Pháp vào công cuộc chống cộng sản do Mỹ chủ trương,
chính phủ Truman tuyên bố công nhận “chủ quyền” của Pháp ở Việt Nam,
tán thành việc Pháp quay trở lại Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc.

Trang 14


II. Mỹ giúp Pháp đặt lại ách thống trò ở Việt Nam (giữa
1945 đến cuối 1954).
1. Lý do Mỹ giúp Pháp đặt lại thống trò ở Việt Nam.
Sau chiến tranh tình hình Châu Âu chuyển biến theo chiều hướng có
lợi cho chủ nghóa xã hội. Một loạt nước Trung và Đông Âu trở thành những
nước dân chủ nhân dân, cùng với Liên Xô hình thành hệ thống Xã hội chủ
nghóa thế giới. miền Tây và Đông Âu các chính phủ liên hiệp có sự tham
gia của Đảng Cộng Sản. các nước Châu Âu khác uy tín của Đảng cộng
sản được nâng cao do những cống hiến của những người cộng sản trong cuộc
chiến đấu chống chủ nghóa phát xít.
Do đó giữ phần còn lại của Châu Âu trong quỹ đạo của chủ nghóa tư
bản trở thành mối quan tâm hàng đầu của Mỹ.
Đặt biệt tình hình Pháp khiến cho Mỹ rất lo ngại. Trong cuộc kháng

chiến giải phóng đất nước khỏi ách chiếm đóng của Đức quốc xã, Đảng
cộng sản Pháp đã đóng vai trò tiên phong và tích cực nhất. Vì vậy sau chiến
thắng uy tín của Đảng trong quần chúng mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Để nước
Pháp không bò “nhuộm đỏ” và hơn thế nữa, biến nước Pháp thành một đồng
minh quan trọng trong liên minh Tây Âu do Mỹ chỉ huy để thực hiện chính
sách “ngăn chặn cộng sản” và tiến hành cuộc chiến tranh lạnh chống phe
Xã hội chủ nghóa, một mặt Mỹ giúp các thế lực tư sản phản động tổ chức lại
lực lượng như: “phong trào cộng hòa bình dân”, “tập hợp nhân dân Pháp”
để đối chọi với các tổ chứa dân chủ, thay cho các đảng tư sản đã phá sản,
mặt khác Mỹ gây sức ép với các chính khách tư sản và xã hội phái hữu gạt
những người cộng sản ra khỏi chính phủ với lời đe dọa cắt viện trợ…
Bù lại, những người cầm đầu Bộ ngoại giao Mỹ quyết đònh quên đi
những quy tắc của chủ nghóa Roosevelt và chòu theo chính sách tái chiếm
Đông Dương của Pháp để không đánh mất sự tín nhiệm của một đồng minh
có ích ở Châu Âu.
Sau vấn đề Châu Âu (vấn đề chiếm ưu tiên số một trong chính sách
đối ngoại của Mỹ) thì trong một số năm đầu sau chiến tranh, cuộc nội chiến
ở Trung Quốc đã làm cho Washington quan tâm nhiều hơn bất kỳ một vấn
đề nào khác ở Châu Á. Ngoài Trung Quốc ra, nhiều vấn đề khác ở Châu Á
đã được xếp lên trên vấn đề Đông Dương như vấn đề Nhật Bản, vấn đề
Triều Tiên…

Trang 15


Vì vậy để cho Anh, Mỹ rảnh tay một phần nào hòng ngăn ngừa sức
bành trướng của Liên Xô, Mỹ quyết đònh giao Đông Dương trở lại cho Pháp,
biến Pháp thành một tên “sen đầm khu vực” để canh giữ những quyền lợi
của chủ nghóa đế quốc ở Đông Dương. Ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Đông Dương, cách mạng tháng tám thành công. Chính phủ

Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập do chủ tòch Hồ Chí Minh đứng
đầu. Bộ ngoại giao Mỹ cho rằng “một chính phủ ở Đông Dương bò Việt
Minh thống trò có thể có hại cho quyền lợi của Mỹ” ở đó, nên Mỹ chủ
trương “loại trừ càng xa càng tốt ảnh hưởng của Cộng sản ở Đông Dương”.
Trước những diễn biến của tình hình nói trên, Truman quyết đònh
chấm dứt chủ trương “đặt Đông Dương dưới chế độ ủy trò” của người tiền
nhiệm của ông, gây sức ép để Tưởng rút quân ra khỏi Bắc Đông Dương cho
Pháp vào thay.

2. Mỹ giúp Pháp tái chiếm Việt Nam.
Một tuần sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, 22/8/1945 De
Gaulle (lúc đó là chủ tòch chính phủ lâm thời nước Cộng hòa Pháp) cùng với
ngoại trưởng của mình Georges Bidault bay sang Washington để gặp
Truman và ngoại trưởng Mỹ James F.Byrnes, đề nghò Mỹ ủng hộ việc Pháp
trở lại Đông Dương.
Vì những nguyên nhân đã nêu ở phần trước, Mỹ quyết đònh thay đổi
chính sách đối với Pháp: từ ngăn cản Pháp tái chiếm Đông Dương chuyển
sang công nhận chủ quyền của Pháp ở thuộc đòa cũ này của họ.
Nhưng nghò quyết của Hội nghò Potsdam không dành cho Pháp công
việc giải giáp quân Nhật ở Đông Dương. De Gaulle năn nỉ Mỹ điều chỉnh
lại nghò quyết nói trên. Truman đã trả lời rằng: không thể được vì đây là
quyết đònh của một hội nghò quốc tế, vả lại đã công bố cho cả thế giới đều
biết. Chỉ còn cách là Pháp thương lượng riêng với Anh và Tưởng để họ
nhường cho quyền vào Đông Dương giải giáp quân Nhật.
Được Truman thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, De
Gaulle tổ chức ngay một cuộc họp báo ngày 25/8/1945 tại thủ đô nước Mỹ
để tuyên bố cho cả thế giới biết rằng nước Pháp có ý đònh thu hồi chủ quyền
của mình trên Đông Dương.
Được Mỹ ủng hộ, De Gaulle xúc tiến ngay việc thương lượng với Anh
và Tưởng.


Trang 16


Việc thương lượng với Anh không khó, vì lâu nay Anh vẫn tích cực
ủng hộ việc Pháp tái chiếm Đông Dương, bởi vì Anh đang muốn dập tắt
phong trào đòi độc lập ở Đông Dương, sợ rằng phong trào ấy làm gương cho
các thuộc đòa của Anh ở Đông Nam – Châu Á.
Ngày 9/10/1945, Anh và Pháp tiến hành thỏa thuận bí mật với nhau.
Theo thỏa thuận, Pháp được chiếm đóng lại Đông Dương với điều kiện Pháp
phải từ bỏ mọi mưu toan trở lại Syrie và Liban.
Việc thương lượng với Tưởng không được suôn sẻ như thế, vì ngoài
việc thực hiện âm mưu của Mỹ, Tưởng còn có tham vọng riêng đối với
Đông Dương.
Nhưng trước những diễn biến của tình hình trên thế giới cũng như ở
Việt Nam và Trung Quốc, Mỹ đã gây sức ép buộc Tưởng phải rút hết quân
ở Bắc Đông Dương về nước để quân Pháp vào thay thế.
Trước đó, ngày 25/10/1945, Truman chỉ thò cho John Carter Vincent,
vụ trưởng vụ Trung Quốc thuộc Bộ ngoại giao Mỹ chính thức công bố lập
trường của Mỹ đối với vấn đề Đông Dương, rằng Mỹ tôn trọng chủ quyền
của Pháp ở Đông Dương. Và theo đó, “các quan chức Mỹ ở Đông Dương
nhận được chỉ thò không được chống đối việc người Pháp trở lại khu vực
này”(1).
Mỹ không chỉ nói suông mà còn hành động cụ thể để giúp Pháp tái
chiếm Đông Dương.
Tháng 12/1945, Mỹ cung cấp cho Pháp 8 tàu chiến để chở sư đoàn Bộ
binh thuộc đòa số 9 và một tiểu đoàn dù của Pháp gồm 5.000 tên cập bến
Sài Gòn.
Đầu năm 1946, Mỹ cung cấp cho đạo quân viễn chinh Pháp ở Đông
Dương nhiều xe và thiết bò khác. Truman cũng chuẩn y việc Anh giao lại

cho Pháp 800 xe Jean và xe vận tải mà Mỹ đã cung cấp cho Anh trong thời
chiến theo đạo luật “mượn – cho thuê”.
Cũng thông qua hợp đồng mượn – cho thuê này, Pháp nhận được của
Mỹ nhiều tàu đổ bộ và tàu chiến mà họ đã triển khai sang Đông Dương để
chiếm xứ này. Quân Pháp ở Đông Dương được Mỹ cung cấp nhiều máy bay
Douglas Dauntless, loại máy bay ném bom nổi tiếng của hải quân Mỹ.

1()

Nước Mỹ và Đông Dương từ Roosevelt đến Nixon, NXB Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986.

Trang 17


Ba tuần sau khi chiến tranh Việt – Pháp bùng nổ, Bộ ngoại giao Mỹ
thông báo cho chính phủ Pháp biết Mỹ sẵn sàng bán cho Pháp bất cứ vũ khí
nào họ muốn, trừ những trường hợp có liên quan đến Đông Dương.
Năm 1947, Truman cho Pháp vay 160 triệu đô la mua xe cộ và phụ
tùng liên quan để dùng ở Đông Dương. Cũng trong năm ấy, trong khuôn khổ
kế hoạch Marshall, Mỹ viện trợ cho Pháp hàng trăm triệu đô la. Tính chung
từ tháng 7/1945 đến tháng 7/1949, Mỹ viện trợ cho Pháp 1,2 tỷ đô la. Như
vậy có thể nói rằng, mặc dù không viện trợ vũ khí cho Pháp trong những
năm này, song Mỹ đã gián tiếp giúp đỡ tài chính cho cố gắng chiến tranh
của Pháp ở Đông Dương.

3. Mỹ khuyên Pháp dùng giải pháp “Bảo Đại”
Tuy chống Việt Minh nhưng Mỹ phải thứa nhận rằng “Cộng sản đang
nắm lấy quyền lãnh đạo cuộc kháng chiến giành độc lập” ở Việt Nam và
rằng “hiện nay, hàng triệu người Việt Nam đang theo Hồ Chí Minh vì ông là
biểu tượng của cuộc kháng chiến chống Pháp”. Mặt khác, Mỹ cho rằng

“Trong 100 người Việt Nam chưa có tới một người theo Cộng sản” do đó
phải tìm cách “lôi kéo những phần tử quốc gia đang chiếm hai phần ba lực
lượng của Hồ Chí Minh” để họ không tham gia khách chiến chống Pháp
nữa.
Bullitt khuyên Pháp hãy noi gương Mỹ, tức là cho phép những người
Việt Nam quốc gia không cộng sản tổ chức chuẩn bò những tổ chức chính trò,
kinh tế và quân sự hoàn chỉnh để kiểm soát đất nước, giao cho những người
Việt Nam quốc gia nhiệm vụ lôi kéo những phần tử quốc gia (chiếm 2/3 lực
lượng của Hồ Chí Minh), và cộng tác với những lực lượng quốc gia để
nghiền nát những người cộng sản không thể hòa giải được.
Bullitt hy vọng rằng nếu Pháp làm theo lời khuyên đó họ vẫn có thể
duy trì tất cả những quyền lợi đích thực của họ ở Việt Nam và các lãnh tụ
quốc gia Việt Nam có thể sẽ cấp cho Pháp một căn cứ quân sự và hải quân,
có thể là ở vònh Cam Ranh.
Mỹ chọn ai để làm lãnh tụ những người Việt Nam quốc gia không
cộng sản đó?- Washington nghó tới Bảo Đại đang sống lưu vong ở Trung
Quốc. Mỹ chọn Bảo Đại vì Bảo Đại hội đủ những điều kiện mà Mỹ mong
chờ ở một tay sai bù nhìn. Theo nhận xét của Mỹ, Bảo Đại là người có lập
trường chống cộng dứt khoát, nhưng đồng thời cũng là một người nhu nhược,
không có ý chí, mềm mỏng và dễ sai khiến.

Trang 18


Tháng 8/1947, Bullitt xuất hiện ở Hồng Kông để bàn bạc với Bảo Đại.
Bullitt đảm bảo với Bảo Đại là chính phủ Truman sẵn sàng ủng hộ Bảo Đại
về nước để lãng đạo phe Quốc Gia chống Cộng. Bullitt cũng khuyên Bảo
Đại đòi Pháp phải để cho Bảo Đại thành lập một chính phủ quốc gia và một
quân đội quốc gia. Ý đồ của Mỹ trong việc thành lập một chính phủ gọi là
quốc gia cũng như việc thành lập một quân đội Quốc gia tách khỏi quân đội

viễn chinh Pháp là nhằm tạo điều kiện cho Mỹ trực tiếp nắm lấy các chính
phủ và quân đội Quốc gia, hất cẳng Pháp triệt để thực hiện các chính sách
của chúng dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương “tăng cường và
mở rộng chiến tranh”.
Ngày 2/9 Bullitt đến Sài Gòn hội đàm với Cao ủy Pháp Emile Pollaert
rồi bay sang Paris gặp những người đại diện cao cấp của chính phủ Pháp để
hối thúc Pháp thực hiện “giải pháp Bảo Đại”.
Trong thâm tâm, Pháp cũng muốn có một giải pháp chính trò để giải
quyết cuộc chiến mà vẫn duy trì những quyền lợi thực dân ở Đông Dương.
Ngân sách thường và bất thường của nước Pháp năm 1947 thụt mất 285
nghìn triệu quan. Chi phí chiến tranh ở Đông Dương leo thang liên tục: từ 3
tỷ phrang (1945) tăng vọt lên 7 tỷ phrăng (1946) rồi 53 tỷ (1947), trở thành
gánh nặng quá sức chòu đựng đối với nền kinh tế – tài chính kiệt quệ của
nước Pháp sau chiến tranh Thế Giới thứ hai. Phong trào phản chiến của
nhân dân Pháp - mà nòng cốt là những người cộng sản Pháp – phát triển
mạnh mẽ (chẳng hạn ngày 23/3 hàng triệu người Pháp đã xuống đường đòi
chấm dứt chiến tranh Đông Dương, giảm ngân sách quân sự để cải thiện đời
sống nhân dân). Hòa cùng tiếng súng kháng chiến của nhân dân Việt Nam,
nhân các thuộc đòa ở Châu Phi cùng vùng lên đòi giải phóng: Madagasear
(39/3/1947), Maroc (7/4/1947), Angierie (8/4/1947), Tây Phi thuộc Pháp
AOP (19/4/1947)…
Pháp cũng muốn sử dụng “con bài Bảo Đại”, nhưng chỉ nhằm phục vụ
âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến
tranh” chứ không muốn rơi vào cạm bẫy của Mỹ để bò Mỹ gạt dần ra khỏi
Việt Nam. Vì vậy, những cuộc hội đàm giữa Bảo Đại với Cao ủy E.Bollaert
tại Vònh Hạ Long ( trong hai ngày 6 và 7/12/1947) và tại Giơnève ( 5 lần
trong khoảng thời gian từ 7 đến 13/1/1948), cũng như giữa Bảo Đại với các
viên chức đại diện chính phủ Pháp tại Paris (2/1948) đều không mang lại
kết quả cụ thể nào.


Trang 19


Mỹ bắt đầu sốt ruột. Tháng 12/1947, Bullitt lên tiếng đòi Pháp cần
phải công nhận Bảo Đại, giúp Bảo Đại tổ chức một đội quân và doạ nếu
nước Pháp không chấp nhận giải pháp ấy thì Mỹ phải nắm lấy việc ấy trong
tay.
Trước sức ép của Mỹ, Pháp phải lập chính phủ Trung ương lâm thời
do Nguyễn Văn Xuân đứng đầu và sắp xếp để Bollaert ký với Xuân một
hiệp ước ở Vònh Hạ Long ngày 5/6/1948 (trước mặt Bảo Đại) công nhận nền
độc lập của Việt Nam. Nhưng trong thực tế, các chính phủ trung ương lâm
thời của Xuân không thể cai trò vì không có nguồn tài chính riêng, không có
quân đội, không có cảnh sát, trong khi đó, các công chức Pháp vẫn ở nguyên
vò trí. Một nền độc lập bánh vẽ không hơn không kém.
Cuối tháng 9/1948, Truman lại cử Bullitt sang gặp Bảo Đại (lúc đó
đang ở Thụy Só), khẳng đònh một lần nữa sự ủng hộ của Mỹ đối với Bảo Đại
và xúi Bảo Đại đòi hỏi Pháp phải nhả thêm nhiều quyền hạn hơn nữa. Được
Mỹ ủng hộ, Bảo Đại sang Pháp và tuyên bố sẽ ở lại bên đó cho đến khi các
yêu sách của mình được Pháp đáp ứng thì mới chòu về nước.
Cũng trong thời gian đó, Truman chỉ thò cho Jefferson Caffery, đại sứ
Mỹ tại Paris, thông báo với chính phủ Pháp rằng Mỹ mong muốn thấy Pháp
áp dụng ở Việt Nam một chính sách rộng rãi hơn.
Như vậy, có thể nói rằng việc Mỹ khuyên Pháp dùng giải pháp Bảo
Đại chỉ nhằm mục đích từng bước gạt Pháp để độc chiếm Đông Dương. Để
đạt được mục tiêu này, Mỹ không ngừng gây sức ép buộc Pháp phải đẩy
mạnh việc thành lập ngụy quân và ngụy quyền. Để đổi lấy viện trợ, Pháp
phải lần lượt ký các hiệc ước 8ˆ/3/1949 với Bảo Đại, 19/7/1949 với vương
quốc Lào, 8/11/1949 với vương quốc Campuchia, công nhận “nền độc lập”
đó của ba nước Đông Dương. Nhưng trong thâm tâm, Pháp sợ ngụy quyền
ba nước này vuột khỏi tầm tay của Pháp để bắt tay với Mỹ, nên Pháp tìm

mọi cách hạn chế “nền độc lập” đó. Ở Việt Nam, “Hiệp ước Elyse (tức
hiệp ước ký giữa Bảo Đại và tổng thống Pháp Vincent Auriol ngày
8/3/1949) nếu được đem ra thi hành thì cũng chỉ ban cho một sự tự trò có giới
hạn, chứ không phải một nền độc lập thực sự. Tuy vậy, chính phủ Truman
thấy đó là cơ sở pháp lý để Mỹ đặt quan hệ trực tiếp với Bảo Đại không
phải thông qua nhà cầm quyền , nhờ đó nắm lấy ngụy quân ngụy quyền để
thực hiện ý đồ thôn tính Việt Nam.
Tháng 7/1949, chính phủ Bảo Đại ra đời với Bảo Đại làm quốc trưởng
kiêm thủ tướng, tướng Nguyễn Văn Xuân (thân Pháp) làm phó thủ tướng
Trang 20


kiêm bộ trưởng quốc phòng, Nguyễn Phan Long (thân Mỹ) làm bộ trưởng
ngoại giao. Thế là sau hai năm (nếu kể từ chuyến sang Hồng Kông gặp Bảo
Đại của William C. Bullitt vào tháng 8/1947) liên tục vận động và gây sức
ép, Mỹ đã thành công trong việc buộc Pháp phải chấp nhận một ngụy quyền
“Độc lập” với Bảo Đại ở cương vò đứng đầu. Chính phủ Truman hân hoan
chào mừng sự ra đời của “Quốc gia Việt Nam”.
Tuy nhiên, đến lúc này, Quốc hội Pháp vẫn chưa chòu chuẩn y hiệp
ước Elysee. Mỹ bắt đầu sốt ruột. Tháng 9/1949, Truman cử ngoại trưởng
Dean Acheson sang Paris. “Cuộc trao đổi đầu tiên của ông ta với bộ trưởng
ngoại giao Pháp R.Su-man là vấn đề Đông Dương” (1). Dean Acheson yêu
cầu chính phủ Paris tìm mọi cách thúc đẩy Quốc hội Pháp nhanh chóng phê
chuẩn hiệp ước Elysele để “quốc gia Việt Nam” có được cơ sở pháp lý. Suman rất thận trọng trong khi bàn luận tình hình Đông Nam Á và không tỏ
thái độ hoan nghênh đối với sự quan tâm của Mỹ.
Như đã trình bày ở trước, Hiệp ước Elyse1e chỉ ban cho ngụy quyền
Bảo Đại một “nền độc lập bánh vẽ”. “Theo hiệp ước đó, Pháp vẫn giữ
quyền kiểm soát thật sự đối với các quan hệ đối ngoại và các lực lượng vũ
trang” của ngụy quyền. “Hơn nữa, họ không có quyền điều khiển ngân quỹ,
kế hoạch kinh tế, ngoại thương, thuế quan và giao thông của chính họ”.

Ngày 9/11, tại Hội nghò ngoại trưởng ba nước Mỹ–Pháp–Anh họp tại
Paris, Dean Acheson lên tiếng đòi Pháp phải trao thêm nhiều quyền hạn
nữa cho ngụy quyền Bảo Đại, xem đó là một trong những điều kiện tiên
quyết để đổi lấy sự ủng hộ của Mỹ đối với những chính sách của Pháp ở
Đông Dương.
Trước sức ép của Mỹ cũng như trước diễn tiến của tình hình (đặc biệt
là thắng lợi của cách mạng Trung Quốc), đến cuối năm 1949, Pháp đã đồng
ý cho chính phủ Việt Nam ở Sài Gòn có quyền tự trò trên một số vấn đề thứ
yếu. Một tháng sau, 28/1/1950, Quốc hội Pháp phê chuẩn hiệp ước Elyse1e.
Chính phủ Truman chỉ chờ có thế. Nước Mỹ là một trong những nước
đầu tiên trên thế giới công nhận về mặt ngoại giao chính phủ “Quốc gia
Việt Nam” của Bảo Đại cũng như chính phủ của hai vương quốc Lào và
Campuchia (7/2/1950).
Để có thể nắm lấy vấn đề Việt Nam trong tay, Bộ ngoại giao Mỹ đã
nghiên cứu cách gởi thẳng vũ khí cho bù nhìn Bảo Đại, không cần qua tay
Nước Mỹ và Đông Dương từ Roosevelt đến Nixon, NXB Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986,
tr.29
1()

Trang 21


Pháp. Đại sứ lưu động Philip C.Jessup tuyên bố không úp mở rằng Việt Nam
có thể ký thẳng hiệp ước với Mỹ được. Giới cầm quyền dân sự và quân sự ở
Paris cũng như sài Gòn đã phản ứng một cách mạnh mẽ. Họ nhấn mạnh
rằng viện trợ quân sự của Mỹ chỉ được trao cho Pháp.
Tháng 5/1950, Truman cử ngoại trưởng Dean Acheson sang Paris gặp
ngoại trưởng Pháp Schuman. Trước phản ứng của Pháp cũng như trước diễn
biến tình hình ở Đông Dương và trên thế giới, Acheson chấp nhận một lập
trường dung hòa. Ông ta tuyên bố rằng: Mỹ thừa nhận rằng việc giải quyết

vấn đề Đông Dương tùy thuộc cả ở sự lập lại an ninh lẫn ở sự phát triển của
chủ nghóa quốc gia chân chính, và rằng sự giúp đỡ của Mỹ có thể và phải
đóng góp cho những mục tiêu lớn đó. Ông hứa sẽ cung cấp viện trợ kinh tế
và trang bò quân sự cho cả Pháp lẫn các chính phủ ba quốc gia liên kết Đông
Dương nhằm giúp họ phục hồi sự ổn đònh và cho phép những quốc gia này
theo đuổi sự phát triển của họ một cách hòa bình và dân chủ.

4. Mỹ giúp Pháp đẩy mạnh chiến tranh chống Việt Nam.
a. Sau chiến thắng của cách mạng Trung Quốc.
Thắng lợi của cách mạng Trung Quốc (1-10-1949) của Đảng Cộng
Sản Trung Quốc là một đòn nặng nề giáng xuống chính sách ngăn chặn
Cộng sản của Mỹ. Nhiều chính khách Mỹ- nhất là những người thuộc Đảng
Cộng Hoà đối lập- chỉ trích chủ trương “Châu Âu trước hết”, phê phán chính
phủ Truman không quan tâm đúng mức đến việc chống Cộng ở Châu Á.
Chính phủ Mỹ phải xem xét lại toàn bộ chính sách đối với Châu Á, trong đó
có chính sách đối với Đông Dương. Lần đầu tiên Washington nhấn mạnh
tầm quan trọng chiến lược của Đông Dương và đưa ra nhận đònh: sự sụp đổ
của Đông Dương sẽ dẫn đến những hậu quả dây chuyền tai hại đối với các
nước khác ở Đông nam Á.
Trong nửa đầu năm 1950, Truman liên tiếp cử bốn phái đoàn (do
Philip C.Jessup, R Allen Griffin, Kenneth P.Landon và Robert Blum cầm
đầu) sang việt Nam để nắm tình hình tại chỗ. Trước mắt, Washington phải
viện trợ cho Pháp để chi cho chiến tranh Đông Dương. Trước kia, Mỹ giúp
Pháp cũng như giúp các nước tư bản Châu Âu khác- theo kế hoạch của
Marshall (1947-1951) và sau đó theo đạo luật về an ninh chung(1952-1953)
nhằm thực hiện chính sách “ngăn chặn cộng sản” ở Châu Âu. Nhưng Pháp
đã linh động chuyển một phần số tiền nhận được để chi phí cho việc theo
đuổi chiến tranh ở Đông Dương. Tại hội nghò ngoại trưởng ba nước Mỹ –
Pháp – Anh ở Paris 9/11/1949, lần đầu tiên “Mỹ đã cho Pháp được phép
Trang 22



dùng một phần vũ khí Mỹ giúp Pháp theo “kế hoạch giúp đỡ binh bò” để
đánh Việt Nam.
Hãng thông tấn Reuter ngày 8/2/1950 cho biết Truman quyết đònh
dành cho ngụy quyền ba nước Đông Dương một phần trong số 75 triệu đô-la
mà trước đây Mỹ đònh viện trợ cho chế độ Tưởng Giới Thạch chống lại cách
mạng Trung Quốc.
Một tuần lễ sau, 14/2, hãng thông tấn AFP loan tin Mỹ sẽ giúp quân
viễn chinh Pháp ở Đông Dương một số chiến xạ, trọng pháo, quân nhu quân
dụng và những trang bò đặc biệt để chiến đấu trong rừng.
Tháng 5/1950, trong báo cáo gửi chính phủ, R. Allan Griffin đề nghò
cấp ngay cho Đông Dương 38 triệu đô-la, gồm 23 triệu đô-la viện trợ kinh tế
và 15 triệu đô-la viện trợ quân sự.
Ngày 8/5/1950 tại Washington, Truman thông qua chương trình viện
trợ quân sự và kinh tế cho Pháp ở Đông Dương, bắt đầu bằng khoản tiền 10
triệu đô-la.

b. Sau chiến tranh Triều Tiên bùng nổ.
Ngày 25/6/1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ.
Đối với Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, Triều Tiên và Đông Dương
được nhanh chóng xem như các trận đánh sinh đôi trong cùng một chiến dòch
của cộng sản quốc tế nhằm chiếm Châu Á. Do đó, một mặt Truman núp
dưới lá cờ Liên Hiệp Quốc, đưa quân đội tiến vào Triều Tiên, mặt khác ra
lệnh cho hạm đội thứ 7 kéo đến eo bể Đài Loan, tăng cường các lực lượng
quân sự của Mỹ ở Philippines và gia tăng viện trợ cho Pháp ở Đông Dương.
Đặc biệt, từ nay Mỹ quyết đònh không chở các dụng cụ chiến tranh
qua Pháp rồi từ Pháp chuyển sang Đông Dương như trước nữa, mà chở trực
tiếp sang Đông Dương , như thế vừa tránh đi lòng vòng mất thì giờ và tốn
tiền bạc, vừa tránh được những cuộc bãi công của công nhân các bến cảng

Pháp từ chối bốc vát và chuyển vũ khí sang Đông Dương. Ngày 30/6,
chuyến tàu đầu tiên từ Mỹ sang thẳng Đông Dương cập bến Sài Gòn.
Nửa tháng sau, 15/7, 35 chuyên gia quân sự trong phái đoàn cố vấn
viện trợ quân sự (MAAG) đặt chân lên Việt Nam. Số chuyên gia quân sự
này ngoài việc giúp Pháp – ngụy trong việc sử dụng, bảo trì, sửa chữa các
chiến cụ mà Mỹ đã và sẽ viện trợ, còn tham gia kiểm soát việc tiến hành
chiến tranh ở Đông Dương. Đây là lần đầu tiên Mỹ đưa sang Việt Nam một

Trang 23


số quân nhân khá đông. Có thể nói việc cử phái đoàn cố vấn này sang Việt
Nam là bước ngoặc đầu tiên trong quá trình dính líu của Mỹ vào Việt Nam.
Tháng 9/1950, thiếu tướng Brink được cử sang cầm đầu phái đoàn
MAAG.
Ngày 6/12, tướng De Lattre de Tassigny được cử sang làm cao ủy
kiêm tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương, tập trung trong tay
mọi quyền hành cả về chính trò lẫn quân sự, có toàn quyền quyết đònh mọi
việc ở Đông Dương.
Sau khi qua Đông Dương, De Lattre đưa ra một kế hoạch mới nhằm
tiến hành một cuộc chiến tranh tổng lực hòng bình đònh vùng tạm chiếm và
đánh phá vùng tự do, giành lại quyền chủ động trên chiến trường. Những cố
gắng của De Lattre được Mỹ nhanh chóng ủng hộ. Ngày 23/12, Mỹ ký với
Pháp và ba quốc gia kiên kết ở Đông Dương “hiệp ước giúp đỡ phòng thủ
chung” theo đó Mỹ sẽ gia tăng viện trợ quân sự cho Pháp và ngụy quyền ba
nước Đông Dương trong “cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung”. Tính đến
tháng 12/1950, Mỹ đã viện trợ cho Pháp -Bảo Đại 173 triệu đô-la, gồm 150
triệu đo-la về quân sự và 23 triệu đô-la về kinh tế. Về thiết bò quân sự, Mỹ
đã cung cấp 778 máy bay các loại, 42 tàu chiến, 200 xe tăng và xe bọc sắt,
54 xe vận tải, 67 ngàn tấn đạn dược.

Và Mỹ cũng đã hứa sẽ làm hết sức mình để giúp Pháp trong việc đẩy
mạnh chiến tranh Đông Dương.
Thực hiện lời hứa đó, Mỹ gửi sang Đông Dương 150 máy bay khu
trục, ném bom và vận tải, một lượng quân trang và quân dụng đủ để trang bò
cho 30 tiểu đoàn.

5. Mỹ buộc Pháp kéo dài chiến tranh chống Việt Nam.
a. Mỹ ngăn chặn xu hướng giải quyết chiến tranh Đông Dương
bằng con đường thương lượng.
Trong ba năm đầu của nhiệm kỳ thứ nhì, chính phủ Truman đã chi
viện cho các nỗ lực chiến tranh của Pháp ở Đông Dương 593 tỷ phrăng hay
1 tỷ 694 triệu 284 ngàn đô-la. Nhưng viện trợ Mỹ vẫn không ngăn được
những thất bại quân sự liên tiếp của Pháp trên chiến trường Đông Dương.
Với tình hình ngày càng xấu đi ở Đông Dương, cộng với những khó
khăn kinh tế và khủng hoảng chính trò ở ngay chính quốc, những người cầm
đầu nước Pháp thực sự mệt mỏi và bi quan, có nhiều quan chức Pháp không

Trang 24


còn tin tưởng ở khả năng giành được thắng lợi, và họ đã nghó đến cách giải
quyết chiến tranh Đông Dương bằng con đường thương lượng.
Điều mà những người cầm đầu chính phủ Mỹ lo sợ, điều mà William
C.Bullitt gọi là thảm họa tệ hại nhất có thể xảy ra cho người Pháp , người
Việt Nam và thế giới văn minh, đó là người Pháp, trong khi mệt mỏi đầu
hàng chủ tòch Hồ Chí Minh và các đồng chí Cộng sản của người. Vì vậy, Mỹ
đã bắt đầu nhấn mạnh mục tiêu trước mắt là thuyết phục Pháp không được
giảm bớt cố gắng chiến tranh của họ. Trong văn kiện “Những mục tiêu của
Mỹ và những cách hành động đối với Đông Nam Châu Á” soạn vào đầu
năm 1952, hội đồng an ninh quốc gia Mỹ (NSC) nhấn mạnh việc Mỹ sẽ

chống lại việc Pháp rút quân khỏi Đông Dương, đồng thời tham khảo ý kiến
với Pháp và Anh về những biện pháp phải làm để bảo vệ khu vực này khỏi
sự thống trò của những người Cộng sản trong trường hợp cần thiết. Hội đồng
an ninh quốc gia Mỹ khuyến cáo chính phủ có những biện pháp mang tính
chất mơn trớn và hứa hẹn đối với Pháp như tiếp tục đảm bảo với Pháp rằng
Mỹ xem cố gắng của Pháp ở Đông Dương có một tầm quan trọng chiến khu
lược lớn lao cho lợi ích chung của quốc tế hơn là cho lợi ích của Pháp, và cố
gắng đó là thiết yếu đối với nền an ninh của thế giới tự do, không chỉ cho
vùng Viễn Đông mà cả cho vùng Trung Đông và Châu Âu nữa , tiếp tục
đảm bảo với Pháp rằng Mỹ hiểu rõ những hy sinh mà Pháp gánh chòu khi
tiến hành nỗ lực ở Đông Dương và trong khi không phải không thấy Pháp có
trách nhiệm chủ yếu ở Đông Dương , Mỹ sẽ khuyến cáo quốc hội cấp cho
Pháp cũng như cho các quốc gia liên kết những viện trợ thích đáng về quân
sự, kinh tế và tài chính.
Từ1/06/1952, một cuộc hội đàm diễn ra ở Washington giữa những
người lãnh đạo chính phủ Mỹ và Jean Letourneau, người được cử làm cao
ủy Pháp tại Đông Dương một tuần lễ trước đó (3.6.1952). Vào cuối cuộc hội
đàm (16.06.1952),Mỹ đã ra thông cáo nhận đònh chiến tranh ở Đông Dương
là một cuộc chiến đấu trên phạm vi toàn thế giới để chống lại những cố
gắng chinh phục và lật đổ của Cộng sản. Mỹ thừa nhận rằng Pháp đang
đóng vai trò hàng đầu ở Đông Dương, tương tự như vai trò của Mỹ ở Triều
Tiên. Chính phủ Mỹ đã hứa gia tăng viện trợ cho liên hiệp Pháp. Ngoài
khoản viện trợ của Mỹ ở Đông Dương, chiếm một phần ba toàn bộ chi phí
chiến tranh ở Đông Dương, khoản viện trợ gia tăng sẽ được đặc biệt dành
riêng để giúp Pháp trong việc xây dựng các đội quân quốc gia của các nước
liên kết.

Trang 25



×