1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, với vị trí địa - chiến lược quan trọng,
Đông Nam Á là khu vực thu hút sự quan tâm của các nước lớn, nhưng các
mối quan hệ quốc tế ở đây đan xen lẫn nhau hết sức phức tạp. Với tư cách là
siêu cường, Mỹ đã dính líu vào Đông Nam Á tới mức hầu như hiện diện trong
mọi mối quan hệ quốc tế của khu vực. Ý đồ chiến lược, chính sách của Mỹ
không chỉ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của các quốc gia trong khu
vực mà còn tác động không nhỏ tới quan hệ đối nội, đối ngoại của từng quốc
gia. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, vai trò của Đông Nam Á trong chính
sách đối ngoại của Mỹ phần nào giảm sút bởi vì mục tiêu ngăn chặn chủ
nghĩa cộng sản trên thế giới và ở châu Á - Thái Bình Dương (CA-TBD) của
Mỹ đã không còn là mục tiêu chiến lược hàng đầu khi chế độ XHCN ở Đông
Âu và Liên Xô sụp đổ, các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) còn lại như Trung
Quốc, Việt Nam... đang tiến hành cải cách theo hướng kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, bước vào thế kỷ XXI, đặc biệt là từ sau sự kiện khủng bố
tại Mỹ ngày 11/9/2001, Mỹ đã điều chỉnh chiến lược toàn cầu và phát động
cuộc chiến chống khủng bố. Chống khủng bố đã trở thành ưu tiên số một,
quan trọng hơn bao giờ hết đối với nước Mỹ trong cả hai nhiệm kỳ của Tổng
thống G. Bush và cũng chính nó đã tạo ra những đổi thay trong chiến lược
toàn cầu của Mỹ nói chung, chính sách đối với CA-TBD và Đông Nam Á nói
riêng. Sự kiện 11/9 đã buộc chính quyền G. Bush phải xem xét lại chính sách
Đông Nam Á của mình. Sự hoạt động của các tổ chức Hồi giáo cực đoan, mối
liên hệ của chúng với tổ chức Al Qaeda là đe dọa lớn nhất đối với an ninh của
Mỹ. Đông Nam Á đã trở thành một trong những mặt trận chính trong cuộc
chiến chống khủng bố của Mỹ. Thông qua hoạt động chống khủng bố, Mỹ
tăng cường sự hiện diện quân sự tại khu vực đồng thời lôi kéo, gây áp lực với
2
các nước nhằm tập hợp lực lượng hình thành "liên minh chống khủng bố" do
Mỹ cầm đầu.
Việc Mỹ can dự trở lại đối với Đông Nam Á đã làm gia tăng sự lo
ngại về khả năng Mỹ can thiệp, kiểm soát và khống chế cả trên đất liền và
trên biển những khu vực trọng yếu ở khu vực. Đây là điểm đáng quan tâm
nhất của tình hình thế giới những năm đầu thế kỷ XXI, tác động trực tiếp đến
các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Hơn nữa, đối
với Việt Nam, xét về chiến lược lâu dài, Mỹ không từ bỏ ý định can thiệp vào
công việc nội bộ của Việt Nam trên các mặt để từ đó hướng Việt Nam đi vào
quỹ đạo của CNTB. Điều này được quy định bởi ý đồ của Mỹ là xoá bỏ
CNXH và mở rộng CNTB, nền kinh tế thị trường TBCN. Cùng với các yếu tố
khác của tình hình thế giới, những tính toán lợi ích trong chính sách của Mỹ đối
với khu vực Đông Nam Á cũng biểu thị tính chất đan xen, phức tạp giữa thời
cơ và nguy cơ đã được các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và X của
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định. Vì thế, trước các tình huống chiến
lược, những tính toán lợi ích của Mỹ liên quan đến an ninh quốc gia ở khu
vực cũng như của nước ta, cần phải được xử lý hết sức thận trọng và khéo léo
trên cơ sở khoa học.
Những trình bày trên cho thấy việc nghiên cứu về "Chính sách của
Mỹ đối với Đông Nam Á những năm đầu thế kỷ XXI" có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn cấp thiết. Nó không chỉ làm rõ thực chất nội dung chính sách của
Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á, vị trí của Việt Nam trong tổng thể chính
sách đó mà còn góp phần luận chứng cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn cho các
đối sách trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với Mỹ cũng như với
những vấn đề liên quan ở khu vực Đông Nam Á hiện nay và những năm tới
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Do tính chất và quy mô tác động nhanh chóng, sâu sắc nên chính sách
đối ngoại của Mỹ đối với thế giới nói chung và khu vực Đông Nam Á nói
3
riêng từ lâu đã trở thành đề tài được giới nghiên cứu trong và ngoài nước
quan tâm nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của hoạt động đối ngoại. Đã có
nhiều công trình khoa học đề cập đến vấn đề này ở những mức độ khác nhau.
Các công trình được xuất bản thành sách có thể kể đến: Mỹ thay đổi lớn chiến
lược toàn cầu của Lý Thực Cốc, Nxb CTQG, Hà Nội, 1998, trong đó nêu lên
các chiến lược lớn của Mỹ đối với các khu vực trên thế giới; sự tranh giành
ảnh hưởng của Mỹ và Liên Xô trước đây và những dự đoán cho tương lai của
Mỹ; Chính sách của Hoa Kỳ đối với ASEAN trong và sau chiến tranh lạnh
của Lê Khương Thùy, Nxb KHXH Hà Nội, 2003; Về chiến lược an ninh của
Mỹ hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004 của Lê Linh Lan (chủ biên); Nhân tố
địa - chính trị trong chiến lược toàn cầu mới của Mỹ đối với khu vực Đông
Nam Á, Nxb CTQG, Hà Nội 2007 của Nguyễn Văn Lan (chủ biên) v.v...
Bên cạnh đó còn có các bài viết của các tác giả trong và ngoài nước
như "Chính sách châu Á của Bill Clinton" của tác giả người Ấn Độ MV.
Rappai, Trung tâm Thông tin khoa học công nghệ môi trường - Bộ Quốc
phòng đã nêu lên chính sách đối ngoại của Tổng thống Mỹ Bill Clinton đối
với các khu vực và quốc gia ở châu Á, khẳng định sự can thiệp ngày càng
tăng của Mỹ vào CA-TBD; "Học thuyết Bush" của Jamie Glozov, Tạp chí
châu Mỹ ngày nay, số 2/2003; "Chính sách ngoại giao của Mỹ trong một thế
kỷ mới" của Ivoh Daaelder & James Lindsay, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số
06/2003; Hai bài viết "Sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu sau chiến tranh
lạnh của Mỹ: từ George Bush (cha) đến Bill Clinton" đăng trên Tạp chí châu
Mỹ ngày nay, số 1/2001 và "Nhìn lại sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của
Mỹ sau Chiến tranh lạnh" đăng trên Tạp chí Nghiên cứu quốc tế số 1(68)
tháng 3/2007 của tác giả Hà Mỹ Hương đã nêu lên những nhân tố chi phối
chiến lược toàn cầu sau chiến tranh lạnh của Mỹ và những nội dung cơ bản
trong chính sách đối ngoại của Mỹ suốt thời kỳ từ sau khi chiến tranh lạnh kết
thúc đến nay; "Chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Tổng thống G.W.
Bush" của Trần Bá Khoa, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 8-10/2001; "Sự điều
4
chỉnh chiến lược của Mỹ và tác động của nó đến khu vực Đông Nam Á" của
Phạm Đức Thành, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, Số
11/2003; "Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Đông Nam Á từ sau sự kiện
11/9" của tác giả Phạm Cao Cường, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 6/2005;
"Mỹ và an ninh Đông Nam Á hiện nay" của tác giả Lê Đình Tĩnh, Tạp chí
Nghiên cứu quốc tế, số 6/2005…Đáng chú ý là Dự án Đông Nam Á trong thế
kỷ 21 do Stanley Foundation thực hiện năm 2003 - 2005, trong đó đề cập đến
nhiều khía cạnh chính sách của Mỹ với Đông Nam Á như chính sách dân chủ
nhân quyền, an ninh - quân sự, hợp tác chống khủng bố...
Nhìn chung, trong các công trình nghiên cứu và ấn phẩm khoa học kể
trên, chính sách của Mỹ và việc triển khai đối với khu vực Đông Nam Á
những năm đầu thế kỷ 21 đã được phản ánh trên nhiều khía cạnh, nhưng chưa
mang tính hệ thống. Mặt khác, do xuất phát từ những mục đích, yêu cầu cụ
thể, cùng với những phân tích, đánh giá và khuyến nghị của các nhà nghiên
cứu nước ngoài do đứng trên nghiên cứu lập trường, quan điểm khác nhau
nên còn nhiều điểm chưa phù hợp với lập trường, quan điểm của Việt Nam.
Những trình bày ở trên là cơ sở để tác giả lựa chọn vấn đề "Chính
sách của Mỹ đối với Đông Nam Á những năm đầu thế kỷ XXI" làm đề tài
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành quan hệ quốc tế.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
- Làm rõ thực chất chính sách Đông Nam Á của Mỹ dưới thời Tổng
thống G. Bush trong đó có chính sách của Mỹ đối với Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
- Dự báo xu hướng chính sách của Mỹ với Đông Nam Á trong những
năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
5
Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Phân tích chính sách Đông Nam Á của chính quyền Clinton từ đó rút
ra những thành công và hạn chế của chính sách này.
- Phân tích vị trí chiến lược của Đông Nam Á và nội dung cũng như
quá trình triển khai chính sách Đông Nam Á của chính quyền Bush, từ đó tìm ra
những điểm khác biệt so với chính sách Đông Nam Á của chính quyền Clinton.
- Phân tích chính sách của Mỹ đối với Việt Nam trong tổng thế chính
sách của Mỹ đối với Đông Nam Á.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu chính sách của Mỹ đối
với Đông Nam Á và việc triển khai chiến lược này trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, quân sự, đồng thời phân tích chính sách của Mỹ đối với Việt Nam
trong một số lĩnh vực chủ yếu.
- Về thời gian: Trọng tâm nghiên cứu của luận văn là thời gian từ khi
G. Bush lên cầm quyền (2001) đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; những nhận định, đánh giá của Đảng và Nhà
nước ta về quan hệ quốc tế và chiến lược của Mỹ từ sau chiến tranh lạnh đến
nay. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một cách chọn lọc các công trình nghiên
cứu trong và ngoài nước về chính sách của Mỹ và việc triển khai đối với khu
vực Đông Nam Á được công bố từ sau chiến tranh lạnh đến nay có liên quan
đến nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
6
Trong quá trình giải quyết những nhiệm vụ đề ra, Luận văn quán triệt
và tuân thủ hệ quan điểm, nguyên lý phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và những quan điểm lý luận của
Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ quốc tế và đường lối đối ngoại.
Luận văn kết hợp phương pháp lôgic với phương pháp lịch sử;
phương pháp phân tích với phương pháp tổng hợp; đồng thời còn sử dụng các
phương pháp bổ trợ như: hệ thống, thống kê, đối chiếu so sánh v.v...
Mọi nhận định, đánh giá trong luận văn đều được xây dựng trên cơ sở
phân tích, khái quát những dữ kiện thực tế và những công trình khoa học đã
công bố trong và ngoài nước liên quan đến đề tài.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Trên cơ sở phân tích một cách hệ thống nội dung chính sách của Mỹ
đối với Đông Nam Á những năm đầu thế kỷ 21, luận văn làm rõ thực chất
chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á.
- Làm rõ vị trí của Việt Nam trong chính sách Đông Nam Á của Mỹ
hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu và giảng dạy những nội dung về lịch sử thế giới hiện đại và quan hệ chính
trị quốc tế. Ngoài ra, một số nhận định, đánh giá được trình bày trong Luận
văn có thể góp phần cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định chính
sách an ninh quốc phòng và đối ngoại trong bối cảnh và tình hình mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn bao gồm 3 chương với 7 tiết.
7
Chương 1
KHÁI QUÁT CHÍNH SÁCH ĐÔNG NAM Á
CỦA CHÍNH QUYỀN BILL CLINTON (1992 - 2000)
1.1. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA CHÍNH QUYỀN B. CLINTON
Bill Cliton lên làm Tổng thống Mỹ trong bối cảnh thế giới bước vào
thời kỳ hậu chiến tranh lạnh sau sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Đông Âu Liên Xô và sự tan rã của trật tự thế giới đối đầu hai cực. Những thay đổi này
lại được thúc đẩy nhanh thêm bởi sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại. Nguy cơ chiến tranh giữa các nước lớn giảm
đi nhưng các xung đột lãnh thổ, sắc tộc, tôn giáo lại tăng lên cùng với những
mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Những vấn đề kinh tế nổi lên chiếm ưu
thế trong các chương trình nghị sự của tất cả các quốc gia. Do vậy, duy trì hòa
bình, ổn định trong môi trường quốc tế mới và tìm kiếm lợi thế tương đối
trong trật tự quốc tế mới đang hình thành là mục tiêu chiến lược của mỗi
nước.
Sau chiến tranh lạnh, nước Mỹ đứng trước những cơ hội và thách thức
đan xen nhau. Môi trường quốc tế về cơ bản thuận lợi cho việc thực hiện mưu
đồ bá chủ của Mỹ. Nước Nga đang trong thời kỳ chuyển đổi đầy khó khăn.
Các trung tâm kinh tế Nhật Bản, Tây Âu tuy mạnh nhưng chưa đủ tiềm lực
tổng hợp thách thức vị trí của Mỹ. Bên cạnh đó, sự tan rã của Liên Xô và hệ
thống XHCN là cơ hội to lớn để Mỹ truyền bá mô hình kinh tế thị trường và
dân chủ nhân quyền kiểu phương Tây ra toàn thế giới. Tuy nhiên, Mỹ lại phải
đối phó với những khó khăn xuất phát từ ngay trong lòng nước Mỹ. Về kinh
tế, cuộc chạy đua vũ trang tốn kém trong thập kỷ 80 làm cho kinh tế Mỹ suy
giảm nghiêm trọng. Tốc độ tăng trưởng GDP giảm liên tục, sức cạnh tranh
giảm sút, nợ liên bang trầm trọng, thâm hụt cán cân buôn bán và ngân sách
8
lên đến mức báo động, mức sống của người dân ít được cải thiện... Về chính
trị, trong giới lãnh đạo Mỹ cũng như công chúng Mỹ, cuộc đấu tranh giữa hai
trường phái "biệt lập" và "quốc tế" chưa chấm dứt phản ánh sự chưa thống
nhất trong nhận thức về vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ, đây là một khó khăn
đối với việc hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của Mỹ trong thời kỳ
mới. Ngoài ra, Mỹ còn phải đối phó với những thách thức mới trong môi trường
quốc tế, đó là sự vươn lên của các trung tâm quyền lực, xu hướng ly tâm trong
các nước đồng minh của Mỹ, các mối đe dọa an ninh phi truyền thống...
Trước những khó khăn, thách thức như vậy, chính quyền Clinton vẫn
phải tiếp tục theo đuổi mục tiêu chiến lược bao trùm là duy trì sự lãnh đạo của
Mỹ đối với thế giới. Những quyền lợi to lớn và quan tâm chiến lược sâu sắc ở
hầu khắp mọi nơi trên thế giới do các chính quyền Mỹ gây dựng từ sau chiến
tranh thế giới thứ hai không cho phép bất kỳ một tổng thống nào có thể từ bỏ
để tập trung củng cố nội bộ theo "chủ nghĩa biệt lập". Chính vì thế, trong
tuyên bố nhậm chức ngày 20/1/1993, Tổng thống B. Clinton tuyên bố: "Mỹ
vẫn có trách nhiệm trên thế giới... Dân tộc chúng ta (Mỹ) sẵn sàng lãnh đạo
một thế giới đang bị thách thức ở khắp mọi nơi". Để đạt mục tiêu "lãnh đạo
thế giới", các nhà hoạch định chiến lược Mỹ đưa ra chiến lược toàn cầu mới
"Can dự và mở rộng" dựa trên việc mở rộng cộng đồng các nền dân chủ theo
kinh tế thị trường đồng thời răn đe, ngăn chặn các hiểm họa đối với Mỹ và
đồng minh của Mỹ với 3 trụ cột chính là: Bảo vệ vững chắc an ninh của Mỹ
bằng một lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu cao; Hỗ trợ cho sự hồi sinh
kinh tế của Mỹ; Thúc đẩy dân chủ nhân quyền ở nước ngoài [9, tr.11]. Trên
cơ sở đó, khi tập trung vào các mối đe dọa mới và các cơ hội mới, mục tiêu
chính của Mỹ là:"Tăng cường an ninh của Mỹ qua việc duy trì tiềm lực phòng
thủ mạnh và thúc đẩy các biện pháp hợp tác an ninh, khuyến khích sự thịnh
vượng kinh tế của Mỹ qua việc mở rộng của thị trường nước ngoài và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu; thúc đẩy dân chủ ở nước ngoài" [9, tr.12].
9
Để thực hiện các mục tiêu này, chính quyền Clinton chủ trương xây dựng một
chính sách đối ngoại gồm ba nội dung chính:
Thứ nhất, khôi phục sức mạnh kinh tế Mỹ thông qua đẩy mạnh kinh tế
đối ngoại, tự do hóa thương mại toàn cầu nhằm đảm bảo an ninh kinh tế, trên
cơ sở đó hỗ trợ cho chiến lược quân sự quốc phòng, bảo vệ vững chắc vị trí bá
quyền của Mỹ. Giành lại vị thế lãnh đạo kinh tế trong nền kinh tế thế giới
được chính quyền Clinton coi là ưu tiên và lợi ích quốc gia sống còn của Mỹ
trong giai đoạn mới. Quyết tâm đó được Tổng thống B. Clinton khẳng định
trong tuyên bố nhậm chức ngày 20/1/1993:"Tôi sẽ tập trung vào kinh tế như một
chùm lase". Theo đó, kinh tế trở thành ưu tiên hàng đầu trong trong tất cả các
lĩnh vực trong đó có quan hệ đối ngoại: "Lợi ích kinh tế phải là trọng tâm chủ
yếu của chính sách đối ngoại Mỹ" [10, tr. 16] và: "Trên mặt trận kinh tế, chắc
chắn với sự kết thúc của chiến tranh lạnh, hoạt động kinh tế do sự phụ thuộc
lẫn nhau nhiều hơn và sự thu hẹp lại của khoảng cách về thông tin liên lạc
ngày càng trở nên quan trọng trong chính sách đối ngoại của chúng ta" [60, tr.
25]. Xuất phát điểm của chính sách phục hồi kinh tế của chính quyền Clinton
là kinh tế đối ngoại gắn liền với kinh tế trong nước và do đó, cùng với các
chính sách kinh tế trong nước, thì chính quyền B. Clinton kiên trì theo đuổi tự
do hóa thương mại, coi đây là biện pháp chiến lược quan trọng nhất và là
động lực chính của chính sách kinh tế đối ngoại Mỹ.Với các nước đang phát
triển, Mỹ khuyến khích xu hướng kinh tế thị trường, thúc đẩy tự do thương
mại và đầu tư, tự do cạnh tranh, mở cửa cho hàng hóa Mỹ thâm nhập …
Thứ hai, xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh làm công cụ khống
chế các nước đồng minh cũng đồng thời là đối thủ, khống chế các khu vực và đủ
khả năng đối phó với các mối đe dọa khác về an ninh trên thế giới. Tổng thống
B. Clinton khẳng định: "Sức mạnh kinh tế và quân sự của chúng ta, cũng như
sức mạnh tư tưởng của chúng ta làm cho các nhà ngoại giao giữ vị trí hàng đầu
giữa những người ngang sức... nhưng dù sao thì lực lượng quân sự vẫn là yếu tố
10
không thể thay thế được của sức mạnh cường quốc chúng ta. Kể cả khi chiến
tranh lạnh đã hết, đất nước ta vẫn buộc phải duy trì các lực lượng quân sự có
hiệu quả để ngăn chặn nguy cơ từ nhiều phía và khi cần thiết, chiến đấu và
chiến thắng địch" [10]. Để xây dựng lực lượng vũ trang mạnh, Mỹ chú trọng
phát triển kỹ thuật quân sự cao của cả vũ khí thông thường và hạt nhân. Bên
cạnh đó, nhằm đảm bảo cho lực lượng quân sự có thể đối phó nhanh nhạy với
những đe dọa tiềm tàng, phù hợp với khả năng thực tế của Mỹ, chính quyền
Clinton chủ trương cơ cấu lại quân đội, thúc ép đồng minh gánh vác thêm chi
phí đóng quân của Mỹ ở nước ngoài trong kế hoạch "chia sẻ trách nhiệm";
giải quyết các cuộc xung đột thông qua cơ chế đa phương có sự chỉ đạo của
Mỹ...
Thứ ba, thúc đẩy dân chủ nhân quyền. Đây là một trong ba trụ cột
trong chính sách đối ngoại của chính quyền Clinton và là một bộ phận cấu
thành trong trật tự thế giới mới với sự lãnh đạo của Mỹ, do Mỹ dàn dựng. Khi
chiêu bài chống chủ nghĩa cộng sản cũng như các biện pháp quân sự trực tiếp
đã giảm hẳn tác dụng thì dân chủ nhân quyền là công cụ thích hợp hơn cả để
Mỹ tập hợp lực lượng. Đồng thời, thông qua quá trình này, Mỹ muốn áp đặt
các giá trị Mỹ đối với các dân tộc khác. Trong thời gian cầm quyền, Clinton
đã tìm nhiều cách để thúc đẩy dân chủ nhân quyền ở các nơi trên thế giới, đặc
biệt là ở các nước đang phát triển, đồng thời tác động vào các nước XHCN
còn lại. Những biện pháp chính quyền Clinton đã áp dụng là Bộ Ngoại giao
Mỹ nghiên cứu và viết báo cáo về tình trạng nhân quyền trên thế giới để gửi
Quốc hội, thông qua các Hội nghị nhân quyền quốc tế, các cơ chế đa phương
để tác động vào những nước mà Mỹ cho là "vi phạm nhân quyền". Ngoài ra,
Mỹ còn sử dụng các biện pháp kinh tế như gắn vấn đề dân chủ nhân quyền
với ưu đãi thương mại, Quy chế Tối huệ quốc, thậm chí cấm vận, cô lập chính
trị... Tuy nhiên, chính quyền Clinton cũng chủ trương không đặt ra yêu cầu
đạt được mục tiêu dân chủ nhân quyền bằng bất cứ giá nào trong quan hệ với
11
các nước, không để vấn đề này ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế và an ninh của
Mỹ.
Tóm lại, nhằm xây dựng sức mạnh một cách toàn diện trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế, quân sự, chính trị tư tưởng, chiến lược đối ngoại của Mỹ sau
chiến tranh lạnh tập trung vào ba nội dung chính: an ninh kinh tế, an ninh
quân sự và thúc đẩy dân chủ nhân quyền. Đảm bảo lợi ích kinh tế được coi là
ưu tiên cao nhất của chính quyền Clinton nhưng sức mạnh quân sự vẫn được
chú trọng và lần đầu tiên, dân chủ nhân quyền được nâng lên thành một trụ
cột bên cạnh hai nội dung truyền thống là kinh tế và quân sự. Có thể nói, cơ
sở tư tưởng của chính sách đối ngoại của Clinton là sự kết hợp giữa chủ nghĩa
tự do và chủ nghĩa hiện thực, hay nói cách khác, đó là "chủ nghĩa hiện thực
dân chủ" theo cách gọi của chính Clinton.
1.2. NỘI DUNG VÀ QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH ĐÔNG
NAM Á CỦA CHÍNH QUYỀN B. CLINTON
Dưới chính quyền B. Clinton, CA-TBD ngày càng chiếm vai trò quan
trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Trong Chiến lược "Cam kết và mở
rộng", Đông Á được coi là khu vực có tầm quan trọng ngày càng lớn đối với
các mục tiêu của Mỹ. Báo cáo Chiến lược an ninh quốc gia năm 1995 cũng
khẳng định, "khu vực này có ý nghĩa ngày càng tăng đối với nền an ninh và
sự tồn tại của Mỹ. Không ở đâu ba yếu tố trong chiến lược của chúng ta (Mỹ)
lại liên hệ chặt chẽ với nhau như vậy và cũng không ở đâu sự cần thiết phải
tiếp tục có sự dính líu của Mỹ lại hiển nhiên như vậy" và "khi nghĩ về khu
vực CA-TBD thì vấn đề an ninh nổi lên trước và sự hiện diện về quân sự
được cam kết của Mỹ sẽ tiếp tục có tác dụng như một nền tảng cho vai trò an
ninh của Mỹ ở khu vực năng động này của thế giới" [11, tr. 28]. Với tư cách
là một cường quốc CA-TBD, Mỹ coi sự có mặt thường xuyên của mình ở
CA-TBD là "đặc biệt quan trọng". Đối với khu vực này, Mỹ phải giữ được
"vai trò lãnh đạo chủ chốt" để không cho bất cứ một cường quốc nào nổi lên
12
chống lại Mỹ, đồng thời phải thúc đẩy kinh tế thị trường và tự do dân chủ có
lợi cho Mỹ. Mục tiêu cụ thể của Mỹ ở CA-TBD là:
1. Duy trì sự cân bằng tương đối ổn định giữa các cường quốc trong
khu vực, ngăn ngừa xung đột quân sự và bất cứ cường quốc hay liên minh nào
nổi lên thống trị khu vực, thách thức lợi ích của Mỹ; đảm bảo lợi ích an ninh
kinh tế, đề cao giá trị Mỹ.
2. Không cho một quốc gia nào giành được thế mạnh quân sự và tạo ra
mối đe dọa trực tiếp đối với các nước láng giềng.
3. Bảo đảm sự lưu thông hàng hóa và tài nguyên trong khu vực và
giữa khu vực này với Mỹ.
4. Khuyến khích các nhà nước và các chế độ cam kết sự cởi mở về
chính trị và tăng khả năng kinh tế cho các công dân của họ;
5. Tăng cường sáng kiến của các quốc gia khu vực nhằm hợp tác một
cách chặt chẽ với Mỹ trong các mục tiêu về an ninh, kinh tế và chính trị [1, tr.
10].
Trên cơ sở những mục tiêu đó, chính quyền Clinton đã xây dựng chiến
lược châu Á - TBD bao gồm các nội dung: Thứ nhất, duy trì và tiếp thêm sinh
lực cho các liên minh trụ cột giữa Mỹ với Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia,
Thái Lan và Philippines. Thứ hai, dính líu với các quốc gia hàng đầu khác
trong khu vực, trong đó có "các kẻ thù cũ" trong cuộc chiến tranh lạnh trước
đây. Thứ ba, xây dựng một cấu trúc khu vực để duy trì sự phát triển kinh tế,
thúc đẩy sự hợp nhất và bảo đảm sự ổn định lâu dài. Thứ tư, ủng hộ dân chủ
và nhân quyền phục vụ cho các lý tưởng cũng như các lợi ích của Mỹ [ 59, tr.
10].
Để thực hiện các mục tiêu trên, Mỹ tiếp tục nhấn mạnh đến việc củng
cố các liên minh song phương vốn là trọng tâm chiến lược của Mỹ trong suốt
hơn 40 năm qua, đồng thời tuyên bố rằng, Mỹ cam kết đóng góp tích cực vào
13
an ninh khu vực thông qua sự tham gia tích cực vào các diễn đàn đa phương
mới hình thành như Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF). Theo quan điểm chiến
lược của Mỹ thì những cơ cấu đa phương đó "sẽ bổ sung chứ không phải thay
thế các quan hệ tay đôi của Mỹ trong khu vực" [58, tr. 8-9]. Đây là nét mới
trong chiến lược Đông Á, lần đầu tiên chính quyền Mỹ chú trọng hơn tới các
kênh hợp tác khác ngoài các liên minh song phương và ủng hộ những nỗ lực
tiến tới xây dựng cơ chế hợp tác an ninh đa phương ở khu vực. Những biện
pháp này của chính quyền Clinton là nhằm bảo đảm an ninh cho khu vực CATBD, từ đó tiếp tục mở rộng thương mại và tạo ra môi trường dân chủ có lợi
cho CNTB trên phạm vi toàn cầu. Chiến lược An ninh của Mỹ đối với khu
vực Đông Á - Thái Bình Dương (EASR) năm 1998 tiếp tục nhấn mạnh "sự
hiện diện (của Mỹ) ở tiền duyên, củng cố các liên minh song phương, và tham
gia tích cực trong các diễn đàn an ninh đa phương, đặc biệt là Diễn đàn Khu
vực ASEAN (ARF)" và "mở rộng chính sách can dự để bao gồm cả những
quốc gia bên ngoài giới bạn bè và đồng minh" của Mỹ [63, tr. 1].
Đối với Đông Nam Á, Chiến lược an ninh quốc gia cho thế kỷ mới
của Mỹ năm 1998 khẳng định: "Lợi ích chiến lược của chúng ta ở Đông Nam
Á là tập trung vào việc phát triển các quan hệ kinh tế, an ninh song phương và
khu vực, hỗ trợ ngăn chặn và giải quyết xung đột, tăng cường sự tham gia vào
tiến trình phát triển kinh tế của khu vực". Các mục tiêu an ninh của Mỹ trong
khu vực là: Duy trì liên minh an ninh của Mỹ với Thái Lan và Philippines;
Duy trì những dàn xếp an ninh với Singapore và các nước ASEAN khác;
Khuyến khích sự nổi lên của một ASEAN liên kết hùng mạnh có khả năng
tăng cường an ninh và thịnh vượng khu vực. Trên cơ sở đó, chính sách của
Mỹ đối với Đông Nam Á được kết hợp theo hai hướng chính: Thứ nhất, duy
trì quan hệ ngày càng có hiệu quả với ASEAN và tăng cường đối thoại an
ninh trong khuôn khổ Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF). Thứ hai, theo đuổi
các sáng kiến tay đôi với từng nước Đông Nam Á nhằm thúc đẩy dân chủ
nhân quyền và ổn định chính trị; hỗ trợ cải cách kinh tế theo hướng thị
14
trường; giảm tác động của tội phạm có tổ chức, đặc biệt là luồng di chuyển
heroin từ Myanmar vào các nước trong khu vực [39, tr. 63]. Chiến lược an
ninh quốc gia cho thế kỷ mới cũng nêu rõ mục tiêu của Mỹ trong việc thúc
đẩy dân chủ, nhân quyền ở khu vực bao gồm các nỗ lực: tạo ra đối thoại chính
trị có ý nghĩa giữa nhà cầm quyền Myanmar và phe đối lập dân chủ; Hợp tác
với chính phủ mới của Indonesia để thúc đẩy cải thiện sự tôn trọng nhân
quyền, tăng cường các tiến trình dân chủ và giải pháp chấp nhận được về mặt
quốc tế cho vấn đề Đông Timor; Hợp tác với ASEAN khôi phục nền dân chủ
Campuchia và khuyến khích sự tôn trọng hơn đối với nhân quyền; Đạt kết quả
tìm kiếm đầy đủ nhất có thể các quân nhân mất tích, thúc đẩy tôn trọng nhân
quyền ở Việt Nam và hối thúc Việt Nam thực thi đầy đủ chương trình tái định
cư cho người Việt Nam hồi hương...
Có thể khẳng định rằng, chính sách của chính quyền B. Clinton đối
với Đông Nam Á là nhằm duy trì sự ổn định trong khu vực và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Đây là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình triển khai chính
sách của Mỹ với khu vực và được thể hiện trong các lĩnh vực chủ yếu sau:
1.2.1. Trong lĩnh vực chính trị
Để duy trì sự lãnh đạo của mình ở Đông Nam Á, Mỹ chủ trương tăng
cường quan hệ với các nước ASEAN thông qua các Hội nghị Bộ trưởng
ASEAN (AMM), Hội nghị sau Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (PMC), Đối thoại
Mỹ - ASEAN và Diễn đàn khu vực ARF. Các nhà lãnh đạo Mỹ đã nhiều lần
khẳng định sự cam kết đối với các nước đồng minh và bạn bè của Mỹ thông
qua các bản báo cáo chiến lược, các bài phát biểu và các cuộc viếng thăm cấp
cao của Tổng thống B.Clinton và nhiều quan chức Mỹ đến các quốc gia Đông
Nam Á như Thái Lan, Philippines, Indonesia...
Tuy đã rút khỏi Đông Nam Á, nhưng Mỹ cũng không muốn các nước
lớn khác mở rộng ảnh hưởng nhằm lấp khoảng trống chiến lược mà Liên Xô
và Mỹ để lại. Do đó, trong ý đồ của Mỹ, ASEAN có vai trò đối trọng ngăn
15
cản sự lớn mạnh gia tăng của các nước lớn khác trong khu vực. Về vấn đề
này, Báo cáo chiến lược an ninh của Mỹ đối với CA-TBD chỉ rõ: "Sự xuất
hiện của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) như một đấu thủ khu
vực ngày càng có ảnh hưởng là một diễn biến quan trọng".[58, tr.9] Nhưng
mục tiêu này của Mỹ không hẳn trùng hợp với lợi ích an ninh của các nước
Đông Nam Á bởi hơn ai hết, các nước Đông Nam Á đã quá hiểu những tổn
thất thiệt thòi do sự chi phối, can thiệp của các cường quốc bên ngoài trong
thời kỳ chiến tranh lạnh. Giờ đây, cái họ cần là một môi trường hòa bình ổn
định để phát triển. Khi chiến tranh lạnh kết thúc, trong vấn đề xây dựng trật tự
thế giới mới ở khu vực CA-TBD, các nước lớn đều muốn khẳng định vai trò
ảnh hưởng của mình đối với khu vực. Tình hình đó giúp cho Đông Nam Á có
khả năng trở thành một nhân tố quan trọng cân bằng giữa các nước lớn. Đứng
trước cơ hội mới này, một số nước Đông Nam Á đã điều chỉnh chiến lược chỉ
dựa vào Mỹ và phương Tây trong thời kỳ chiến tranh lạnh sang thực hiện
chiến lược ngoại giao đa phương hóa, đa dạng hóa. Ngoại trưởng Indonesia
Ali Alatas đã nói: "Chúng tôi không thể ngăn không cho bốn cường quốc
(Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Nga) vào khu vực này, nhưng phải cân bằng giữa họ
với nhau và giữa họ với ASEAN" [35, tr. 206]. Đây cũng là lý do khiến cho
ASEAN, một mặt vừa tiếp tục duy trì quan hệ song phương tốt đẹp với Mỹ,
Nhật, Trung Quốc, Nga, mặt khác cũng tỏ thái độ của mình trong việc quyết
định các công việc của Hiệp hội và khu vực chứ không hoàn toàn tuân theo "ý
kiến chỉ đạo" của các nước lớn. Điều này chứng tỏ ASEAN đã trở thành một
tổ chức khu vực ngày càng có uy tín và tự chủ hơn, họ có thể quyết định các
vấn đề của mình không cần sự can thiệp của các nước lớn.
Như trên đã đề cập, dân chủ nhân quyền là một trong 3 trụ cột chính
trong chính sách đối ngoại của Mỹ sau chiến tranh lạnh. Ở châu Á, vấn đề này
được thể hiện rõ hơn bất cứ khu vực nào, đã có lúc nó được coi như ưu tiên
cao nhất và trở thành vấn đề nguyên tắc trong quan hệ giữa Mỹ với các nước
Đông Nam Á, cũng như với Nhật Bản và Trung Quốc, hai đối tượng chủ chốt
16
của Mỹ. Đây là một trong những vấn đề gay cấn biểu hiện rõ rệt nhất sự bất
đồng giữa Mỹ và các nước Đông Nam Á, cũng như tính tự chủ của ASEAN
trong quan hệ với Mỹ. Giới chức Mỹ dưới chính quyền Clinton thường chỉ trích
mạnh những thành tích về nhân quyền tại các quốc gia ASEAN. Theo các nhà
nghiên cứu, sau chiến tranh lạnh, không một vấn đề nào trở thành trung tâm
trong quan hệ giữa Mỹ với Đông Nam Á hơn là vấn đề dân chủ và nhân
quyền [80, tr. 45]. Đây không chỉ là vấn đề trong quan hệ của Mỹ với các
nước có chế độ chính trị khác Mỹ như Myanmar, Việt Nam mà còn đối với cả
các nước vốn có chế độ chính trị gần với Mỹ như Malaysia, Singapore và
Indonesia. Để thúc đẩy nhân quyền, chính sách của Mỹ có lúc đã đi tới chỗ
chỉ tập trung vào các biện pháp trừng phạt, gây sức ép để đạt được những thay
đổi trong quan hệ với các nước châu Á. Chẳng hạn, đối với Indonesia, Mỹ đe
dọa dùng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) nếu nước này không sửa đổi các bộ
luật trong nước quy định mức lương tối thiểu và quyền của các hiệp hội. Năm
1993, do có những mối quan tâm ngày càng tăng về việc kiểm soát của
Indonesia ở Đông Timor, bao gồm cả việc Indonesia dùng súng bắn vào đoàn
biểu tình hồi tháng 10/1991, Quốc hội Mỹ đã không cho Indonesia tham dự
vào chương trình đào tạo và huấn luyện quân sự quốc tế. Ở Malaysia, Mỹ
than phiền về việc kiểm soát hoạt động của các tổ chức xã hội trong ngành
công nghiệp điện tử và một số vấn đề tranh cãi thương mại [35, tr. 209].
Rõ ràng, bằng chính sách nhân quyền, Mỹ đã can thiệp sâu vào công
việc nội bộ của các nước Đông Nam Á, gây nên những phản ứng gay gắt của
các nước trong khu vực. Tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ
26 ở Singapore, các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN đã phê phán chính sách
của Mỹ muốn gắn chính sách viện trợ với nhân quyền. Và cũng với lý do
tương tự, họ phê phán hành động của Mỹ đe dọa cắt Quy chế Tối huệ quốc
dành cho Trung Quốc để nước này có sự thay đổi về nhân quyền. Trước sự
phản ứng gay gắt đó, từ năm 1994, chính quyền Clinton phải điều chỉnh lại
17
chính sách đối ngoại dựa vào giá trị của Mỹ bằng cách quyết định không gắn
vấn đề nhân quyền với vấn đề kinh tế, quân sự…
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Mỹ đã từ bỏ chính sách nhân
quyền của mình mà ở đây chỉ đơn thuần là sự sắp xếp lại thứ tự các mục tiêu
mà thôi [72, tr. 96]. Nhân quyền vẫn tiếp tục là vấn đề tồn tại trong quan hệ
giữa Mỹ và ASEAN. Mỹ vẫn luôn nêu vấn đề nhân quyền của Indonesia và
Myanmar trong các Hội nghị PMC. Đặc biệt, việc các nước ASEAN tiếp nhận
Myanmar làm thành viên ASEAN bất chấp sự phản đối của Mỹ và các nước
phương Tây đã phản ánh sự mâu thuẫn trong cách nhìn nhận về vấn đề nhân
quyền của Mỹ và ASEAN. Đối với các nước ASEAN, việc kết nạp Myanmar
không chỉ nhằm thiết lập một tổ chức khu vực thống nhất, mà còn nằm trong
lợi ích của Đông Nam Á tránh việc Myanmar rơi vào quỹ đạo của một cường
quốc khu vực. Qua đó có thể thấy rõ tính độc lập tự chủ của ASEAN tăng lên
rõ rệt khi họ giành lấy quyền tự quyết của mình, như khẳng định của Bộ
trưởng Ngoại giao Indonesia, Chủ tịch ủy ban thường trực ASEAN Ali
Alatas: "Việc kết nạp ai là thành viên, dành cho nước nào quy chế quan sát
viên đó là quyền của ASEAN" cũng như việc các Bộ trưởng Ngoại giao
ASEAN khẳng định kiên quyết chống lại mưu đồ của bất cứ nước nào đưa
những vấn đề không liên quan đến thương mại như gắn tiêu chuẩn lao động
với vấn đề thương mại vào chương trình nghị sự cuộc họp cấp Bộ trưởng đầu
tiên của WTO tháng 12/1996 [7, tr. 2]. Có thể thấy, những thay đổi của thời
kỳ sau Chiến tranh lạnh đã tạo cho ASEAN một cơ hội đặc biệt để có thể phát
triển thành một lực lượng quan trọng ở CA-TBD mà Mỹ cũng phải tính tới
trong các vấn đề song phương và quốc tế.
1.2.2. Trong lĩnh vực quân sự - an ninh
Mặc dù coi kinh tế và dân chủ nhân quyền là những mục tiêu hàng đầu
trong chính sách đối ngoại của mình ở châu Á, nhưng Mỹ vẫn chú trọng đến
chính sách an ninh như một trụ cột quan trọng nhất của "Cộng đồng CA-
18
TBD" (quan điểm do Tổng thống Cliton đưa ra năm 1993) nhằm duy trì lợi
ích của Mỹ trong khu vực. Chính phủ Mỹ cho rằng, sự đe dọa của Liên Xô
mất đi nhưng vẫn còn tồn tại nhiều nhân tố "không ổn định" hoặc "không xác
định". Những nhân tố này tuy không tạo ra sự đe dọa an ninh trực tiếp đối với
Mỹ nhưng lại đe dọa an ninh và ổn định của khu vực CA-TBD, uy hiếp những
lợi ích của Mỹ ở nước ngoài. Do vậy, chính phủ Clinton đã có sự điều chỉnh
chính sách an ninh của Mỹ ở khu vực này, cụ thể là: duy trì sự hiện diện quân
sự của Mỹ ở CA - TBD, lấy các điều ước đồng minh song phương làm cơ sở,
lấy đối thoại an ninh song phương để bổ sung, dùng lực lượng quân sự to lớn
mạnh mẽ làm hậu thuẫn, bảo đảm chắc chắn ổn định của khu vực CA - TBD,
giữ gìn bảo vệ lợi ích của Mỹ ở khu vực này [22. tr. 13-20]. Ở CA - TBD, Mỹ
thường xuyên duy trì khoảng 100.000 quân nhằm tăng cường khả năng can
thiệp vào công việc của khu vực trong trường hợp khẩn cấp. Mỹ tiếp tục củng
cố các liên minh quân sự song phương và đa phương với Nhật Bản, Hàn
Quốc, Philippines, Thái Lan và Australia, coi đó là chìa khóa đảm bảo các lợi
ích của Mỹ tại CA-TBD. Đối với Mỹ, sáu cam kết an ninh chủ chốt của Mỹ
tại CA-TBD là các Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật (8/9/1951), Mỹ - Nam Triều
Tiên (1/10/1953), Mỹ - Australia (1/9/1951), Mỹ - Philippines (30/8/1951),
Mỹ - Thái Lan (8/9/1954) và Hiệp định Hiệp hội tự do với nước Cộng hòa
quần đảo Marshall, Nhà nước Liên bang Micronesia và nước Cộng hòa Palau
(4/11/1986) vẫn là bất khả xâm phạm trong những năm 90.
Ở Đông Nam Á, Mỹ chia sẻ lợi ích với các nước ASEAN trong việc
ngăn ngừa Đông Nam Á trở thành khu vực cạnh tranh chiến lược giữa các
cường quốc khu vực. Mục tiêu của Mỹ là, mở rộng hệ thống tiếp cận và bố trí
tiền tiêu của Mỹ ở Đông Nam Á để tạo điều kiện thuận lợi cho việc huấn
luyện tập trận song phương và khả năng phối hợp hành động với nhau nhằm
tăng cường khả năng phối hợp hành động của Mỹ với các đồng minh và bạn
bè trong các cuộc khủng hoảng [35, tr. 216]. Để thực hiện các mục tiêu đó,
Mỹ tái khẳng định cam kết của mình với hai nước thành viên ASEAN là
19
Philippines và Thái Lan. Đồng thời, lợi dụng mối lo ngại của các nước Đông
Nam Á, Mỹ thúc ép họ mở rộng thêm khả năng tiếp cận của Mỹ đối với khu
vực. Bởi vì, tuy Mỹ đã tái khẳng định cam kết của mình với các nước đồng
minh và bạn bè và tiếp tục có mặt trong khu vực CA-TBD, song sự điều chỉnh
chính sách của Mỹ và việc Mỹ rút quân khỏi Philippines vẫn gây cho các
nước này mối lo ngại về những nguy cơ tiềm tàng như việc Trung Quốc tăng
cường hiện đại hóa quân đội, sự thiếu tin cậy giữa các nước trong khu vực,
vấn đề Campuchia và nhất là vấn đề tranh chấp ở biển Đông. Ngoài ra, cùng
với việc giảm bớt sự có mặt ở CA-TBD, Mỹ đòi Nhật Bản phải gánh vác một
phần nghĩa vụ an ninh khu vực. Điều đó khiến cho các nước Đông Nam Á hết
sức lo ngại. Mặc dù Nhật Bản luôn tuyên bố không có ý định trở thành cường
quốc quân sự nhưng phần lớn các nước Đông Nam Á dù có cách nhìn khác
nhau về vai trò an ninh của Nhật đều không chấp nhận sự có mặt của quân đội
Nhật ở Đông Nam Á. Chẳng hạn, năm 1997, khi Mỹ và Nhật sửa đổi Hiệp
ước an ninh chung và coi vùng biển Đông Nam Á thuộc phạm vi phòng thủ
chung của mình thì các nước ASEAN đã phản đối quyết liệt. Cuối cùng, Mỹ,
Nhật đã phải đặt vùng biển Đông Nam Á ngoài phạm vi phòng thủ [33, tr. 5].
Sự phản ứng này cho thấy tính chủ động tăng lên của ASEAN trong cả các
vấn đề an ninh khu vực. Song chính vì những nguyên nhân nói trên, các nước
ASEAN vẫn muốn tiếp tục duy trì sự hợp tác an ninh với Mỹ. Quan hệ quân
sự giữa Mỹ và một số nước thành viên ASEAN như Philippines, Thái Lan
vẫn được tiến hành thông qua các cuộc tập trận song phương hay đa phương
hàng năm, thậm chí các nước ASEAN khác như Singapore, Indonesia cũng đã
tiến hành các cuộc tập trận với các lực lượng vũ trang của Mỹ. Năm 1995, Mỹ
và Thái Lan đã tiến hành 35 cuộc tập trận và năm 1996 có cuộc tập trận lớn
mang tên "Hổ mang vàng". Để chia sẻ trách nhiệm, Mỹ khuyến khích
Australia tiến hành các cuộc tập trận chung với các nước ASEAN. Ngoài ra,
các nước ASEAN còn tăng cường khả năng phòng thủ thông qua các quan hệ
hợp tác quân sự giữa các nước thành viên.
20
Mỹ vẫn tìm cách duy trì sự có mặt quân sự ở khu vực bằng cách thay
thế các căn cứ quân sự ở Philippines bằng các hình thức mới với các nước
Đông Nam Á khác. Cuối năm 1992, sau 18 tháng thương lượng tay đôi, chính
phủ Philippines đã từ chối gia hạn Hiệp định về các căn cứ quân sự đã ký với
Mỹ trước đây, buộc Mỹ phải rút toàn bộ quân và phương tiện ra khỏi hai căn
cứ Clark và Subic, kết thúc sự có mặt gần một thế kỷ của Mỹ ở Philippines.
Tuy vậy, Mỹ vẫn tiếp tục duy trì hiệp định hỗ trợ phòng thủ với Philippines.
Để đảm bảo các lực lượng triển khai phía trước của Mỹ có khả năng tiếp cận
đến khu vực được thuận tiện và dễ dàng, Chính quyền Mỹ đã thương lượng
với các nhà lãnh đạo ASEAN cho phép Mỹ đặt các cơ sở hậu cần và sửa chữa
ở các nước này. Ngày 4-1-1992, trong chuyến thăm Singapore của Tổng
thống G.Bush (cha), Mỹ đã đạt được thỏa thuận chuyển căn cứ hậu cần của
Mỹ từ Subic (Philippines) sang Singapore. Hàng năm, có 80-90 lượt tàu hải
quân Mỹ đến thăm Singapore và nước này theo định kỳ còn tiếp nhận các đơn
vị không quân - một bộ phận chủ chốt của lực lượng Thái Bình Dương của
Mỹ, hoạt động giữa Đông Bắc Á và Trung Đông. Tương tự, từ năm 1992, tại
Indonesia, những tàu hải quân lớn của Mỹ cũng ghé vào để được sửa chữa
định kỳ. Malaysia cũng cho phép Mỹ sử dụng các phương tiện sửa chữa tàu
và máy bay của mình. Brunei và Mỹ thực hiện phối hợp luyện tập định kỳ
theo bản ghi nhớ hợp tác đã ký kết trước đây [93, tr. 3]. Cuối năm 1994, Mỹ
đề nghị Thái Lan cho phép Mỹ lập kho vũ khí nổi dưới dạng hàng không mẫu
hạm trên vùng vịnh Thái Lan để "đảm bảo an ninh cho khu vực". Tuy nhiên,
Thái Lan thấy rằng mối đe dọa an ninh đối với Thái Lan không lớn để phải có
kho vũ khí thường xuyên trên đất Thái; ngoài ra, là thành viên của ASEAN,
Thái Lan phải tuân thủ tuyên bố của ASEAN về khu vực hòa bình, tự do và
trung lập (ZOPFAN); hơn nữa, Thái Lan cần thúc đẩy quan hệ mọi mặt với
các nước láng giềng để thực hiện chính sách ngoại giao đa phương của mình,
do đó chính phủ Thái Lan đã quyết định từ chối lời đề nghị của Mỹ về kho vũ
khí nổi. Như vậy, mặc dù rút hết lực lượng quân sự ở Philippines nhưng thực
21
chất Mỹ vẫn mong muốn duy trì sự có mặt ở Đông Nam Á dưới hình thức
khác, không thường trực. Tuy nhiên, với lực lượng phản ứng linh hoạt và
trang thiết bị hiện đại, Mỹ có khả năng khi cần điều quân từ vùng biển nọ
đến vùng biển kia dễ dàng và như vậy sẽ đỡ tốn kém hơn nhiều so với việc
chi phí để lập một căn cứ quân sự mới trong khi các nước trong khu vực
không muốn điều đó [23, tr. 23-27]. Do vậy, Mỹ cũng không quá sốt sắng
trong việc ép buộc các nước ASEAN chấp thuận sự trở lại của quân đội Mỹ.
Về phần mình, các nước ASEAN cũng không muốn Mỹ đặt căn cứ
quân sự trong khu vực. Ngày 2/11/1994, khi đề cập về vấn đề này, Bộ trưởng
Ngoại giao Indonesia đã nêu rõ: "Cần có Mỹ ở châu Á như một nhân tố cân
bằng nhưng sự hiện diện của họ không phải dưới hình thức căn cứ quân
sự"[28,tr.193] Chính vì vậy, Thái Lan đã từ chối đề nghị của Mỹ đặt các căn
cứ quân sự trên lãnh thổ của mình. Ngày 30/10/1994, Bộ trưởng Nội vụ Thái
Lan Chao Valit cảnh cáo việc Mỹ đưa vũ khí đến vịnh Thái Lan có thể gây ra
lo ngại cho các nước láng giềng. Để đảm bảo an ninh và tăng cường tính tự
chủ, giữa các nước ASEAN đã tăng cường hợp tác quân sự với nhau. Ngày
22/7/1992, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 25 ở Manila,
Tổng thống Philippines Fidel Ramos kêu gọi hợp tác phòng thủ chung giữa
các nước ASEAN. Ngày 2/8/1994, Malaysia và Philippines ký Hiệp ước
phòng thủ chung. Đặc biệt, các nước ASEAN đã đưa ra sáng kiến biến Đông
Nam Á thành khu vực phi vũ khí hạt nhân. Từ ngày 14 đến 15/12/1995, Hội
nghị cấp cao ASEAN lần thứ năm họp tại Bangkok đã ký kết Hiệp ước khu
vực Đông Nam Á phi vũ khí hạt nhân (SEANWFZ). Tuy nhiên, Mỹ không có
thái độ tích cực đối với Hiệp ước này. Mỹ cho rằng, những điều khoản ghi
trong Hiệp ước Đông Nam Á phi vũ khí hạt nhân là không rõ ràng, vi phạm
quyền tự do đi lại trên biển mà LHQ đã quy định. Tháng 2/1996, Mỹ quyết
định không ủng hộ Hiệp ước về khu vực phi vũ khí hạt nhân ở Đông Nam Á
22
chủ yếu do Mỹ lo ngại rằng, đưa vùng đặc quyền kinh tế và vùng thềm lục địa
vào vùng phi vũ khí hạt nhân sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của Mỹ.
Cùng với việc củng cố quan hệ quân sự - an ninh song phương, chính
quyền Clinton chủ trương chú trọng hơn đến việc phát huy vai trò của liên
minh quốc tế, thực hiện an ninh tập thể. Đây là điểm mới so với thời kỳ chiến
tranh lạnh khi vai trò của Mỹ trong việc đảm bảo an ninh ở khu vực châu Á TBD được thông qua các hiệp ước phòng thủ song phương với Nhật Bản, Hàn
Quốc, Australia, Philippines và Thái Lan. Nhân tố mới đó trong chính sách an
ninh châu Á của chính quyền Mỹ thể hiện qua sự tham gia có tính chất xây dựng
và ủng hộ các cuộc đối thoại an ninh khu vực. Tổng thống B.Clinton đã giải
trình cụ thể về an ninh đa phương là việc: "Xây dựng những dàn xếp đa phương
nhằm đáp ứng được với những thời cơ mới. Những dàn xếp đó có thể đóng vai
trò như những tấm lá chắn xếp chờm lên nhau, riêng rẽ thì đóng vai trò bảo
vệ, chung lại thì che đỡ toàn bộ những quan tâm riêng của chúng ta" [9, tr.
24]. Thông qua việc thực hiện cam kết an ninh đa phương đồng thời với các
quan hệ an ninh song phương duy trì thế cân bằng chiến lược trong khu vực,
Mỹ có thể đạt được cả mục tiêu chính sách đối ngoại của mình là duy trì sự
lãnh đạo của Mỹ về quân sự ở khu vực lẫn việc giảm bớt chi phí trong điều
kiện thực lực của Mỹ suy yếu tương đối thông qua chia sẻ trách nhiệm. Tuy
nhiên, chú trọng đến an ninh đa phương không có nghĩa là Mỹ sẽ loại bỏ các
quan hệ song phương truyền thống mà Mỹ "chỉ coi đây là sự bổ sung cho các
quan hệ đồng minh song phương mà Mỹ đã ký kết chứ không phải thay thế
các mối quan hệ này", thậm chí Mỹ còn khẳng định "chiến lược của Mỹ
không dựa trên chủ nghĩa đa phương mà dựa trên sự tái khẳng định các liên
minh song phương hiện có. Chúng ta đang xây dựng các thể chế đa phương
xung quanh các mối quan hệ song phương nòng cốt" [79, tr. 4].
Với chiến lược này, Mỹ chủ trương không chỉ coi Diễn đàn hợp tác
kinh tế CA-TBD (APEC) là diễn đàn kinh tế mà còn muốn biến nó thành diễn
đàn cho các vấn đề an ninh, một liên minh đảm bảo an ninh. Nhưng ý đồ này
23
đã bị nhiều nước thành viên phản đối vì họ không muốn APEC nằm dưới sự
kiểm soát của Mỹ. Do vậy, chính quyền Mỹ buộc phải từ bỏ dự định. Trong
phiên điều trần ngày 7/5/1998 trước Tiểu ban những vấn đề Đông Á và TBD
của ủy ban Đối ngoại thuộc Hạ viện về chính sách an ninh, Trợ lý Bộ trưởng
Ngoại giao Stanley O. Roth đã giải thích ý nghĩa an ninh đó là: "Việc thảo
luận về kinh tế, xây dựng niềm tin và làm giảm bớt căng thẳng và bằng cách
đó, APEC góp phần vào an ninh khu vực". Ở Đông Nam Á, Mỹ cũng dành
cho hội nghị PMC sự chú ý lớn hơn: "PMC đang dần phát triển thành một
diễn đàn ngày càng quan trọng cho các cuộc hiệp thương an ninh khu vực.
Chúng ta (Mỹ) hoan nghênh các cuộc hiệp thương an ninh tăng lên trong
khuôn khổ của hội nghị PMC. Quá trình này có thể khuyến khích các quốc
gia chia sẻ thông tin, truyền đạt các ý định, làm giảm căng thẳng, giải quyết
các tranh chấp và thúc đẩy sư tin cậy một cách bổ ích. Mỹ sẽ tham dự đầy đủ"
[94, tr. 5]. Các nước tham gia hội nghị này gồm các thành viên ASEAN và
Mỹ, Nhật Bản, Australia, New Zealand, Hàn Quốc, Canada, EU. Còn Nga và
Trung Quốc là khách mời. Theo quan điểm của Mỹ, trong một tương lai
không xa, chính tổ chức này sẽ trở thành diễn đàn thảo luận những vấn đề cốt
tử nhất và sẽ là mầm mống của hệ thống điều chỉnh an ninh khu vực [31, tr.
15].
Năm 1993, sự ra đời của Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) đã nhanh
chóng thu hút sự chú ý của Mỹ, Lúc đầu, Mỹ lo ngại một diễn đàn an ninh ở
khu vực sẽ làm lu mờ vai trò của các hiệp ước an ninh tay đôi giữa Mỹ với
một số đồng minh Đông Á. Nhưng dần dần thái độ của Mỹ thay đổi. Thông
qua diễn đàn ARF, Mỹ muốn khẳng định chính sách CA-TBD của mình, kiềm
chế các đối thủ tiềm tàng và trấn an các nước ASEAN. Trong bản điều trần
ngày 27/6/1995, Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Winston Lord đã nói: "ARF
có khả năng tiến triển thành một bộ phận của cấu trúc an ninh khu vực, ARF
có thể góp phần xây dựng lòng tin và đóng một vai trò hữu ích trong việc
24
ngăn chặn những cuộc xung đột tương lai tại khu vực CA-TBD, tiến dần từng
bước đến việc xây dựng sự đồng thuận giữa các nước tham gia. Diễn đàn này
sẽ là chiếc chìa khóa của chiến lược dài hạn của Mỹ nhằm phát triển ARF và
các cuộc đối thoại an ninh tương tự khác". Với những lý do đó, Mỹ đã ủng hộ
và tham gia tích cực vào ARF nhằm tìm kiếm một vai trò chủ chốt trong tổ
chức này. Thực chất, sự thay đổi này trong chiến lược an ninh của Mỹ chỉ là
một sách lược mới, mượn lực lượng của các nước khác để duy trì vị trí lãnh
đạo thế giới trong tình hình thực lực kinh tế của Mỹ suy giảm và khả năng
khống chế các nước khác đã giảm sút.
Để đảm bảo lợi ích của mình ở khu vực, một điểm nóng khu vực mà
Mỹ không thể không chú ý dù ở mức độ nhiều hay ít, đó là vấn đề tranh chấp
biển Đông. Những tranh chấp gay gắt của nhiều quốc gia về chủ quyền đối với
quần đảo Trường Sa có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống kinh tế quốc tế.
Hàng năm, một lượng tàu lớn nhỏ chở hàng hóa thường xuyên đi qua khu vực
này. Buôn bán qua đây đáng giá khoảng 568 tỷ USD, chiếm 15% thương mại
của thế giới. Theo dự tính, sự tăng trưởng kinh tế có thể sẽ làm tăng thêm gấp 4
lần khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường biển ở khu vực này [68, tr.
7-11] Như vậy, nếu ở đây xảy ra xung đột sẽ có thể làm gián đoạn việc vận
chuyển này và có ảnh hưởng có hại đến các nền kinh tế ở khu vực lẫn nền
kinh tế của Mỹ, nhất là khi có khoảng 87% lượng dầu nhập khẩu từ Trung
Đông được vận chuyển qua các con đường biển Đông Nam Á. Có thể thấy,
biển Đông có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt chiến lược, quân sự lẫn
kinh tế không chỉ với các nước trong khu vực mà cả đối với Mỹ.
Trong một thời gian dài trước đây, Mỹ luôn giữ lập trường "không can
thiệp" vào tranh chấp ở biển Đông, ngay cả trong vụ xung đột giữa Trung
Quốc với Việt Nam tại Trường Sa năm 1988, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình
Dương của Mỹ tuy nhận định đây là vụ việc "hết sức nghiêm trọng", nhưng
Mỹ vẫn "không can thiệp". Sau chiến tranh lạnh, khi tranh chấp chủ quyền ở
biển Đông ngày càng phức tạp, Mỹ bắt đầu thay đổi chính sách. Ngày
25
25/2/1992, khi Trung Quốc công bố "Luật lãnh hải", xác định chủ quyền về
mặt pháp lý đối với biển Đông, Mỹ tỏ ra lo ngại. Mỹ tuyên bố nếu có quốc gia
nào sử dụng vũ lực để giành chủ quyền ở Trường Sa, họ sẽ có thể can thiệp.
Tuy nhiên, ở thời kỳ này, khi Mỹ chưa điều chỉnh chiến lược an ninh CATBD, mặc dù quan tâm đến tranh chấp ở quần đảo Trường Sa cũng như các
vấn đề thuộc biển Đông và lo ngại về xung đột vũ trang tiềm tàng nảy sinh từ
những tranh chấp này, nhưng lập trường không can thiệp của Mỹ vẫn giữ
nguyên. Sự quan tâm của Mỹ đối với vấn đề này thực sự rõ rệt và mang tính
thực chất là từ năm 1995, khi Philippines phát hiện thấy Trung Quốc xây
dựng các kết cấu tại đảo Vành Khăn cách đảo Palawan của Philippines 135
dặm về phía Tây. Các hành động phản ứng gay gắt của các bên tranh chấp có
nguy cơ làm bùng lên thành xung đột ảnh hưởng đến an ninh khu vực. Đây là
một trong những nguyên nhân khiến cho Mỹ tỏ rõ lập trường đối với vấn đề
này. Mỹ bắt đầu chuyển quan điểm từ trung lập bị động sang trung lập tích
cực (active neutrality). Trong Bản báo cáo về Chiến lược an ninh quốc gia của
Mỹ đối với Đông Á - TBD đã nêu rõ sự quan tâm của Mỹ đối với tranh chấp
Trường Sa và các vấn đề biển Đông: "Mỹ coi những vùng biển sâu ở biển
Nam Trung Hoa là vùng biển chung của quốc tế. Lợi ích chiến lược của Mỹ
trong việc duy trì các tuyến giao thông nối liền Đông Nam Á, Đông Bắc Á và
Đại Tây Dương làm Mỹ nhận thấy sự cần thiết phải chống lại bất cứ tuyên bố
hải phận nào vượt quá quy định của Công ước quốc tế về Luật biển" [58, tr.
9]. Ngày 31/5/1995, Mỹ công khai tuyên bố "ủng hộ Manila ngăn chặn hành
động xâm lược của Trung Quốc". Tháng 6/1995, Hạ viện Mỹ thông qua "Dự
án Luật lợi ích hải ngoại của Mỹ", chỉ rõ tự do hàng hải ở biển Đông là "cực kỳ
quan trọng" đối với an ninh quốc gia Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ, là "lợi
ích cơ bản của Mỹ". Đặc biệt, Tuyên bố ngày 10/5/1995 của Bộ Ngoại giao Mỹ
đã nêu rõ lập trường của Mỹ đối với vấn đề biển Đông, trong đó nhấn mạnh: