Tìm hiểu tác phẩm Tràng Giang của Huy Cận
Đặt vấn đề:
Nhà thơ Huy Cận đã từng viết về mình:
Chàng Huy Cận xưa kia hay sầu lắm
Nỗi nhớ thương chẳng biết đã ta chưa
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu mưa
Cùng đất nước mà nặng buồn sông núi
Nỗi sầu trong bài thơ của Huy Cận là nỗi sầu sông núi, sầu vũ trụ và thi sĩ gọi đó là
nỗi sầu vạn kỉ. Tiêu biểu cho nỗi sầu ấy là bài thơ Tràng Giang rút trong tập thơ
đầu tay – tập thơ “Lửa thiêng” (1940) của Huy Cận
Cảm hứng thơ trong Tràng Giang là cảm hứng không gian, cụ thể là cảnh sông
nước. Điều này thể hiện trong nhan đề :”Tràng Giang” nghĩa là sông dài. Hai từ
hán việt ghép lại gợi những dòng trường giang ở Trung Quốc xa xôi từng là nguồn
cảm hứng cho biết bao văn nhân thi sĩ xứ ngoài. Nhan đề gợi sắc thái cổ kính cho
thi phẩm. Mặt khác lấy âm vang cho thấy dòng sông ấy không chỉ mở về chiều dài
mà còn cả chiều rộng, nó vừa là trường giang vừa lại đại trường giang
Thân Bài
1. Lời đề từ
Lời đề từ được trích từ câu thơ chính của Huy Cận trong một bài thơ khác
Lâng lâng chiều nhẹ ghé muôn tai
Trong bóng chiều như mờ tiếng ai
Thổi lạc hương rừng cơn gió đến
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Lời đề từ đã gói gọn chủ đạo của tâm hồn thi sĩ. Theo lời Huy Cận kể lại, cảm
hứngcâu thơ được gợi ra từ những buổi chiều của nhà thơ đứng ở bờ Nam bến
chèm nhìn cảnh sông Hồng mênh mông sông nước, nghĩ về những kiếp người nổi
trôi nhỏ bé. Từ dòng sông Hồng cụ thể nghĩ về Tràng Giang mênh mông, từ nỗi
buồn riêng mà nghĩ về cả kiếp người. Đó là nguồn cảm hứng chi phối tâm hồn
nghệ sĩ ở trong bài thơ này.
2. khổ 1
Ngay những câu thơ đầu nhiều người đọc bắt gặp những hình ảnh quen thuộc nơi
sông nước
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Có lẽ khi viết những câu thơ này, Huy Cận đã tiếp thu nghệ thuật diễn tả trong câu
ca dao
Sóng bao nhiêu gợn da nhiều sầu bấy nhiêu
Ca dao dùng phép so sánh “bao nhiêu – bấy nhiêu” còn trong thơ của Huy Cận ta
nhận thấy mối liên hệ ngầm của các từ ngữ: có bao nhiêu gợn sóng trên dòng
Tràng Giang là có bấy nhiêu nỗi buồn của nghệ sĩ. Điều đáng nói là sắc thái của
nỗi buồn ấy: buồn điệp điệp. Đó là nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng tha thiết dai dẳng
Trên dòng sông Tràng Giang là hình ảnh quen thuộc: “con thuyền xuôi mái nước
song song” trong văn học truyền thống, con thuyền vốn là hình ảnh để chỉ lênh
đênh trôi dạt
Thân em như chiếc bách giữa dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời (L Bạch)
Con thuyền trên dòng Tràng Giang thụ động, phó mặc trôi theo dòng nước (xuôi
mái) mà vẫn hờ hững với dòng nước ( nước song song). Thuyền – nước là những
sinh vật vốn không thể tách rời thậm chí một nhà thơ đã viết
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ
– Xuân QuỳnhCái tôi thơ mới của Huy Cận đã nhận ra cái vô tình ẩn chứa bên trong các sinh vật
vốn hữu tình
Câu thơ gợi ra những con sóng lan tỏa theo chiều rộng; câu hai gợi những luồn
nước rong ruổi mãi về cuối trời. Hai câu thơ thấp thoáng bóng dáng ý thơ Đỗ Phủ
tả cảnh sông nước.
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lại
(Ngàn cây bát ngát lá rung xào xạc
Dòng sông dằng dặc nước cuồn cuộn trôi)
Cùng dùng phép đối nhưng nếu Đỗ Phủ sử dụng đối thì Huy Cận dùng đối xứng.
Cùng dùng những từ láy nguyên để gợi tả, trong khi tác giả “Đăng Cao” đặt ở giữa
câu thì tác giả “Tràng Giang” lại đẩy xuống cuối câu. Vì thế mà thơ Huy Cận tạo
âm hưởng không dứt. Đến câu thơ ba
Củi một cành khô lạc mấy dòng
“củi” là mẩu rơi vãi, khô gãy của thân cây. Từ một cành cây xanh tươi nơi núi rừng
đầu nguồn đến cành củi khô lạc loài, thân phận của cỏ cây đã làm mấy lần tang
thương mây nắng đã mấy lần trôi dạt đổi thay. Kiếp củi hay chính là kiếp người
trong xã hội đầy bế tắc. Nhà thơ đặc tả cảnh cành củi với những từ ngữ gây ấn
tượng.
Một (đơn độc), cành (nhỏ nhoi), khô (khô héo), lạc (trôi dạt vô hướng). Cảm nhận
cành củi, hỹ ngước lên dòng Tràng Giang ở câu một. Ta bỗng nhận ra tương phản
gay gắt giữa cái mênh mông của đời và sự nhỏ ngoi của kiếp người. Sự tương phản
còn xoáy vào trong câu thơ thứ tư: “giữa mấy dòng”cành củi càng thêm nhỏ bé.
Nhỏ bé tội nghiệp nổi lênh đênh mà đầy kiêu hãnh – “ cái tôi lạc loài bơ vơ của thơ
mới đã tìm thấy sự đồng điệu vớ hình ảnh caanfh củi khô lạc loài trong câu thơ của
Huy Cận” ( Xuân Diệu)
3. Khổ 2
Từ mặt nước Tràng Giang nhà thơ hướng về bến bờ trái đất và lắng mình trong
tiếng thơ chiều như có như không:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
“ cồn” vốn đã vắng, “ cồn nhỏ” càng vắng hơn. Hai tính từ (lơ thơ, đìu hiu) bao
bọc ở hai câu đầu khiến câu thơ không chỉ gời không gian thưa thớt mà còn vắng
vẻ, mà còn lạnh lẽo đến dợn người. Huy Cận từng tâm sự, ông học được từ “đìu
hiu” trong chính phụ ngâm
Non kì quạnh quẽ trăng treo
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phụ trăng dõi dõi theo
Xuân Diệu cũng từng có một từ “đùi hiu”thật đắt
Rặng liễu đùi hiu đứng chịu tang
Từ “đâu” trong câu thơ thứ hai của Huy Cận đã dẫn tới những cách hiểu khác nhau
có lẽ hợp lý hơn : âm thanh thưa thớt, yếu ớt của chợ chiều đã vãn từ chợ xa vọng
lại càng tăng thêm cảm giác của Tràng Giang là nơi chốn bị bỏ quên. Trái đất này
này thủ pháp lấy động tả tĩnh của văn học thời đại đã phát huy hiệu quả của nó
trong câu thơ. Nhiều người đã khen hai câu thơ sau là tuyệt bút:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bên bến cô liêu
Không gian trời đất đầy những “ xuống”, “lên”, “dài”, “rộng”. Đó là thứ không
gian ba chiều , khác hẳn với không gian hai chiều trong thơ cổ. Cụm từ “nắng
xuống trời lên” gợi cảm giác đàn hồi: nắng xuống đến đâu trời lên đến đó và nó
hoàn tất bởi “sâu chót vót”. “chót vót” vỗn là một tính từ tả độ cao (núi cao chót
vót chon von – Xuân Diệu). Vào thơ Huy Cận từ này thêm khả năng diễn tả chiều
sâu. “Sâu chót vót” – độ sâu theo cái nhìn ngước lên. Câu thơ gợi ra trước mắt
người đọc hình ảnh : nắng lên đỉnh trời độ xoáy xuống tạo thành một cái vực vũ
trụ. Theo chiều không gian, nỗi buồn không chỉ tỏa rộng mà còn khoét sâu đến rợn
người có lần chính Huy Cận đã phải thốt lên.
Không gian ơi! Xin hẹp bớt mênh mông
Khổ thơ khép lại bằng những hình ảnh đưuọc liệt kê: sông dài, trời rộng, bến cô
liêu.
4. Khổ 3
Nếu khổ moojt gây ấn tượng về sự vô định của kiếp người sự vô hạn của vũ trụ thì
khổ ba là sự đứt nối của giao cảm, dồn người và sự cô đơn bế tắc
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Nhà thơ mượn lại hình ảnh bèo truyền thống nhưng cách diễn đạt gợi tầng lớp, dợn
ngợp hơn. Có cái gì đó thật ngơ ngác trong hai câu “về đâu”
Mênh mông một không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh bãi vàng
Sự “mênh mông”phủ lên khắp không gian. Trong cái mênh mông ấy là sự thiếu
vắng những phương tiện để người đến với người, người đến với đời. Những điều
khao khát của nhà thơ thật nhỏ nhoi, thậm chí là tối thiểu “đò ngang”, “cầu gợi
chút niềm thân mật”. Câu cuối gợi ra hình ảnh hai bờ sông song song chạy dài tít
tận chân trời. Tràng Giang hiện ra như một thế giới hoang đến giờ vẫn thế. Đó
không phải là cái thanh vắng mà ta thường thấy trong văn học hiện đại:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
(bà Huyện thanh Quan)
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
(Nguyễn Khuyến)
5. khổ 4
Mây trắng hết lớp này đến lớp khác đùn lên như những trái núi khô, ánh trời chiều
như rắc bạc trên đỉnh núi. Chữ “đùn” gợi nhắc câu thơ Đỗ Phủ
Lưng trời sóng dựng lòng sâu thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa
Trong buổi chiều ấy, thiên nhiên càng phô vẻ kì vĩ của mình
Chim ngheeng cách nhỏ bóng chiều sa
Hình ảnh những con chim chiều vốn quen thuộc trong thơ ca
Chim bay về nui tối rồi
(ca dao)
Ngàn mai gió cuốn chim bay mới
(bà huyện Thanh Quan)
Những cánh chim ấy mang thông điệp thời gian. Cánh chim trong câu thơ của Huy
Cận là biểu tượng của sự sống, hiện thân của cái tôi thơ mới. Cánh chim nghiêng
nghiêng bay về tổ ấm bị bủa vây bốn bề bởi “mây cao đùn núi bạc”. Bóng chiều
bỗng chở lên có hình có khổi, được cảm nhận ra đôi cánh nhỏ bé. Có cảm giác
cánh chim không thể nào thoát khỏi bóng chiều đang bao phủ từ tứ phía. Mặt khác:
“chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Ta bỗng nhận ra sự sống thì thật nhỏ nhoi
nhưng nỗi cô đơn của sự sống thì thật khổng lồ
Lòng quê dượn dợn vời con nước
Xét về mặt từ ngữ, “dợn dợn” là gợi “ vời vợi” là xa “ con nước” là con sóng. Cho
nên câu thơ “ Lòng quê…..”mang dáng dấp câu thơ mở đầu
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Nhưng ở đây, nhịp sóng đã khác xa. Nó khởi phát từ nỗi lòng của kẻ nhơ quê.
Lòng quê gợi lên từ mây trắng, từ cánh chim chiều nhưng mãnh liệt hơn cả là khí
phóng tầm mắt nhìn ra con nước. Chữ “vời”gợi nhắc đến câu Kiều :
Bốn phương mây trắng một màu
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà
Bài thơ kết thúc bằng câu
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Câu thơ in đậm bóng dáng của ý thơ Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc Lâu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yêu ba giang thượng sử nhân sầu
( Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
Xưa, Thôi Hiệu nhìn khói sóng trên sông mờ mịt mà nhớ nhà cách xa. Nay Huy
Cận đứng giữa khung cảnh vô tình lòng thèm khát quê hương như nỗi niềm ấm áp.
Xưa, Thôi Hiệu tìm giấc mơ tiên nhưng người tiên đã cưỡi hạc vàng bay về trời,
lòng thi sĩ khát khao về hiện tại, nay Huy cận giữa tràng giang mênh mông, giữa
một xã hội thị dân với những mối quan hệ truyền thống bắt đầu rạn nứt, thi sĩ
hướng về quê nhà như cõi niềm ấm áp. Nếu tác giả “Hoàng hạc lâu”khao khát thực
tại thì tác giả “Tràng Giang” khao khát tình người.
· Giá trị
- Tràng giang như hầu hết các sáng tác của Huy Cận trước cách mạng mang cảm
hứng không gian khá rõ nét
- Ẩn chứa bên rong bức tranh thiên nhiên đẹp là nỗi u hoài của một cái tôi thơ mới
bơ vơ thèm khát tình người.
- “Tràng Giang là lời ca non sông đất nước, dọn đường cho tình yêu tổ quốc sau
này” (Xuân Diệu)