Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Soạn bài tràng giang của huy cận văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.18 KB, 3 trang )

Soạn bài Tràng giang của Huy Cận văn 11
Tháng Tám 13, 2015 - Category: Lớp 11 - Author: admin

Đề bài: Soạn bài Tràng giang của Huy Cận văn 11
I.

Tìm hiểu chung

1.

Tác giả

a. Cuộc đời


Huy Cận (1919 -2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận



Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc của phong trào thơ Mới



Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo gốc nông dân



Quê làng Ân Phú huyện Lương Sơn tỉnh Hà Tĩnh




Hồi nhỏ ông học ở quê sau đó rời vào Huế học, sau đó là ra hà Nội học tại trường Cao đẳng

canh nông


Từ năm 1942 ông tham gia cách mạng và tham gia nhiều cuộc hội nghị quan trọng



Không những thế nhà thơ Huy Cận còn làm cộng tác của nhóm Tự lực văn đoàn

b.

Sự nghiệp:

– Trước cách mạng tháng Tám:


Tác phẩm tiêu biểu: lửa thiêng, kinh cầu tự, vũ trụ ca…



Phong cách nghệ thuật của ông thời kì này là: Thơ thời kì này mang một nỗi niềm u uất người ta

gọi là nỗi sầu vạn kỉ


Sau cách mạng tháng Tám:




Tác phẩm tiêu biểu: trời mỗi ngày lại sáng, đất nở hoa, bài thơ cuộc đời, hai bàn tay em, những

năm sáu mươi…


phong cách nghệ thuật thời kì này của Huy Cận mang niềm vui hồ hởi hơn so với kì trước cách

mạng tháng Tám, ông cũng mang một tâm trạng chung với toàn dân tộc đó là niềm vui xây dựng
chế độ mới, và đấu tranh vì hòa bình dân tộc
2.

Tác phẩm

a.

Hoàn cảnh sáng tác: Nhà thơ Huy cận là một người có tâm hồn phong phú, ông dễ nhạy cảm

với những khoảnh khắc của cuộc đời. điều làm nên tứ thơ của Tràng Giang đó chính là mỗi chiều
chủ nhật ông thường đạp xe một mình lên đê ngắm dòng sông Hông lặng lẽ trôi, bốn bên bờ cát
lặng, những hình ảnh thiên nhiên như lạc vào trong mắt ông.
b.

Nhan đề:



Ban đầu nhà thơ đặt tên bài thơ là chiều bên sông, nhưng thấy đặt như thế thì cụ thể quá không

có sức gợi tả



Về sau Huy Cận đặt lại thành Tràng Giang



Tràng Giang có nghĩa là sông dài nhưng nhà thơ lại không đặt là sông dài hay trường giang



Tràng Giang là một từ hán Việt cho nên nó sẽ tạo được trang trọng cổ kính cho dòng sông Hồng




Thêm nữa vần “ang” được điệp lại trong hai từ -> âm hưởng như âm vang gợi cái mênh mông

bao la rộng lớn của dòng sông Hồng
c.

Lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”



Hai chữ bâng khuâng thể hiện được nỗi niềm của nhà thơ: cảm giác bâng khuâng trước tràng

Giang rộng lớn


Trời rộng được nhân hóa nhớ sông dài hay chính là ẩn dụ cho nỗi nhớ của nhà thơ


II.

Tìm hiểu chi tiết

1.

Bốn câu thơ đầu: cảnh nước thuyền và sóng



sóng Tràng Giang không ồn ào ồ ạt vỗ bờ mà thay vào đó gần như nó ở trạng thái tĩnh lặng chỉ

gợn thôi. Cái chữ “gợn” thật mang nhiều tâm trạng


từ láy “điệp điệp” thể hiện nỗi buồn giằng giặc khó mà có thể thoát khỏi nó. phải chăng nỗi buồn

của nhà thơ đang chế ngự chính nhà thơ, khiến nhà thơ không thể nào thoát khỏi nó được


Con thuyền xuôi hai mái nước song song, con thuyền thì lướt trên sóng, rẽ nước mà đi



Biện pháp nghệ thuật đối “về” >< “lại” -> sự chia li mang nỗi sầu trăm ngả



Một cành củi khô lạc mấy dòng -> sự cô đơn, giống như một đời người trôi dạt phải vượt qua


biết bao nhiêu khó khăn của dòng đời
->

Bốn câu thơ gơi lên một nỗi buồn trăm ngả, cảnh tượng sông Hồng hiện lên nên thơ nên họa,

Cảnh có đẹp đấy nhưng mà lại buồn man mác, nỗi buôn ấy không khiến cho người ta đau đáu trong
lòng nhưng nó lại cứ bủa vây giằng giặc không chịu thôi
2.

Bốn câu thơ tiếp:




“lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” -> sự thưa thớt, sự nhỏ bé -> cô đơn vắng lặng



Tiếng chợ chiều vãn nhỏ nhẹ->sự tàn úa giống như phiên chợ tan, đâu đó gần đây tiếng chợ

chiều vang lên, phải chú ý lắm, phải tĩnh lặng lắm thì mới nghe được tiếng chợ chiều đó


Không gian ba chiều được mở ra , nhà thơ không dùng nắng cao chót vót mà dùng từ sâu chót

vót để cho ta thấy được không gian bà chiều nhìn từ dưới lên bầu trời như sâu thẳm

->


Sông càng dài càng rộng thì bến đò người lái càng thấy cô đơn, cô liêu
Những hình ảnh bên bờ cũng trở nên buồn thiu khi mọi vật hiện lên đều thưa thớt và nhỏ bé.

Nó gợi đến cho ta sự cô đơn đến ghê người. Không gian như cao hơn, hun hút hơn khiến cho con
người càng nhỏ bé
3.

Bốn câu tiếp:



Những đám bèo hàng nối hàng cứ trôi lênh đênh gợi cho ta liên tưởng đến kiếp người lênh đênh

trên dòng đời


Mênh mông như thế nhưng không có một chuyến đò ngang



Không có cầu để qua bên kia sông tìm một chút niềm thân mật



Mà chỉ lặng lẽ có một chút bờ cỏ xanh rồi đến bãi cát vàng

->

Không gian mênh mông như choáng ngợp lấy người nghệ sĩ, trên sông không một cây cầu bắc


ngang để cho người qua lại để cho sông không còn vắng lặng như thế này nữa. Sông cũng không
có lấy nổi một chuyến đò chỉ có bãi cát vàng với những bãi cỏ xanh làm bạn với nhau mà thôi.
4.

Bốn câu cuối:



về chiều những lớp mấy đùn lên trắng xóa như những núi bạc



Hình ảnh cổ điển: chim nghiêng cánh nhỏ đón buổi chiều buông xuống



Lòng nhớ quê của tác giả bỗng dợn lên vời con nước -> ý thơ được lấy gần giống với câu thơ

của Thôi Hiệu, những ở đây nhà thơ không cần đến khói sóng tác động vẫn cứ dợn dợn nhớ nhà
->

Khổ cuối như kết lại những gì mà nhà thơ muốn thể hiện, nỗi buồn kia chính là nỗi cô đơn, nỗi

nhớ nhà.
III.


Tổng kết
chàng sinh viên trường Canh Nông đã có những phút giây đắm mình trong không gian rộng lớn


của Tràng Giang nhưng trong anh lúc ấy cũng xuất hiện thường trực, một nỗi lo âu về cuộc đời
mình. đó còn là nỗi nhớ nhà, là nỗi sầu vạn kỉ. Bài thơ này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của
Huy Cận trước cách mạng tháng Tám



×