Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Nghệ thuật biểu diễn Hò đưa linh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.34 MB, 23 trang )

MỤC LỤC :
DẪN NHẬP:.........................................................................................................................2
NỘI DUNG:..........................................................................................................................2
Chương 1: Giới thiệu hò đưa linh:....................................................................................2
1.1.Sơ lược về Hò đưa linh:..........................................................................................2
1.2.Nguồn gốc của hò đưa linh:....................................................................................2
1.3.Quá trình phát triển:................................................................................................3
Chương 2: Nghệ thuật biểu diễn hò đưa linh:...................................................................4
2.1. Mục đích:................................................................................................................4
2.2. Nội dung:................................................................................................................4
Chương 3: Hò đưa linh trong văn hóa người Việt:.........................................................18
3.1 Hò đưa linh_Nét đẹp đạo đức của người Việt:.....................................................18
3.2 Hò đưa linh_Giá trị văn hóa nổi bật:....................................................................19
3.3 Hò đưa linh và vấn đề bảo tồn, phát triển:............................................................19
KẾT LUẬN:........................................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO :.................................................................................................22
NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN và PHÂN CÔNG THỰC HIỆN :...................................23


DẪN NHẬP:
Người Việt từ xa xưa đã quan niệm "sống dầu đèn, chết kèn trống" nên cứ hễ đám
tang thì có kèn trống. Hầu hết ở mọi miền đất nước, không chỉ có kèn trống mà người
dân nơi đây còn quen thuộc với điệu hò đưa linh của quê hương mình. Theo những
người dân nơi đây, hò đưa linh trong đám tang là cách hướng về nguồn cội, biết ơn tổ
tiên, ông bà, cha mẹ, những người đã sinh thành và nuôi nấng mình trưởng thành và
cả những người vô danh...Bên cạnh hò đưa linh được sử dụng trong các lễ tang ma thì
còn được sử dụng với muc đích khác, đó là trong các lễ hội cầu ngư của các cư dân
ven biển. Nhìn ở góc độ nghệ thuật, hò đưa linh là loại hình diễn xướng dân gian có
tính tổng hợp, hiện vẫn được lưu truyền.
NỘI DUNG:
Chương 1: Giới thiệu hò đưa linh:


1.1.

Sơ lược về Hò đưa linh:

Hò đưa linh là điệu hò nghi lễ gắn bó với vòng đời của con người. Có nơi gọi là
hò bả trạo, hò khoan, chèo cạn, hò đưa linh hay là đưa linh tập chèo.
Hò đưa linh còn là nét văn hóa đặc trưng trong lễ cầu ngư của cư dân vùng biển và
còn là một trong lễ đàn giải oan bạt độ, theo lễ nhạc phật giáo.
Hò đưa linh có mặt ở hầu khắp các tỉnh, nhiều ở các tỉnh ven biển miền Trung và đặc
biệt ở Huế và Quảng Bình.
Ở Huế hò đưa linh được gọi là chèo cạn, Quảng Bình gọi là hò khoan, Quảng Nam –
Quảng Ngãi – Đà Nẵng gọi là hát bả trạo và hầu như tất cả điều gọi là đưa linh tập
chèo hay hát bả trạo đối với lễ cầu ngư và hò đưa linh đối với tang ma.
1.2.

Nguồn gốc của hò đưa linh:

Theo các nhà nghiên cứu hò đưa linh xuất phát từ múa chèo thuyền cổ xưa của cư
dân gần biển Bình - Trị - Thiên được nghi lễ hóa trở thành hình thức diễn xướng mang
đậm chất kịch.
Trong sách “Ô châu cận lục” Hò đưa linh xuất hiện ở Thừa thiên Huế từ TK XVI.
Từ TKXVI người ta đã bắt gặp những câu ca đưa linh, nhờ đó người ta thấy ý nghĩa
của cuộc sống, buộc người ta yêu mến nó, vì thế mà người ta thấy xót thương vì
những người phải ra đi, rời bỏ cuộc sống này từ đó mới nảy sinh ra loại hình đưa linh.


Sau đó nó phát triển trong không khí cung đình của chúa Nguyễn. Trong cung
đình cuộc sống hiện thế vẫn là cái tốt đẹp, đau khổ và chết chóc là một điều bất hạnh
cho nên đứng trước cái chết người ta bày tỏ nỗi niềm xót thương.
Không gian và thời gian ra đời của hò đưa linh có những yếu tố bản địa, mang

màu sắc miền trung và đặc biệt là màu sắc của cái nôi văn hóa Huế. Và sau đó lan
rộng ra hầu khắp các vùng ở Việt Nam.
1.3.

Quá trình phát triển:

Theo truyện "Họ Hồng Bàng" (Lĩnh Nam chích quái, viết vào thế kỷ 15): "Khi có
người chết thì giã cối để láng giếng kéo nhau đến giúp". Điều này cho thấy tính cộng
đồng của tang lễ với các hội trợ táng, hội âm công - đạo tì (người khiêng quan tài) hay
gọi nôm na là "hồi" như ở miệt Dĩ An - Tân Uyên (Bình Dương). Không biết thời xa
xưa đó tang lễ được diễn xướng như thế nào để tỏ bày tình cảm của cảnh sinh ly tử
biệt. Đến thế kỷ 16, trong sách "Ô Châu cận lục" có chép rằng: "Làm ma thì trong nhà
múa hát trước quan tài, gọi là hò đưa linh" . Hò đưa linh đã lưu truyền khắp Đàng
trong vào đến tận vùng đất mới phương nam và còn tồn tại mãi đến những năm gần
đây.
Hò đưa linh đến cuối thế kỷ 19 là một điệu hò lao động. "Đại Nam quốc âm tự vị
"(1895) đã cắt nghĩa hò đưa linh là "tiếng đạo hò hô rập lúc khiêng quan tài; có ý than
kể, cũng có ý làm cho quên mệt" (đạo hò tức đạo tì, những người khiêng quan tài). Từ
thời điểm này trở về sau, ảnh hưởng của hát bội - một loại hình biểu diễn thời thượng
và chủ đạo, đã bắt đầu du nhập vào hò đưa linh để biến đổi nó thành "hát đưa linh" một hình thức diễn xướng tổng hợp, bao gồm cả diễn tuồng, đấu võ và hò đưa linh (từ
nhà ra đến huyệt).
Hò đưa linh là sản phẩm của những nghệ nhân có học thức. Nhưng trãi qua thời
gian cái học của Hán Nôm giảm dần cùng sự phát triển của những loại hình dân gian,
người ta ứng tác, chế biến những mẫu câu, ý tưởng , ngôn ngữ thuần Việt đáp ứng nhu
cầu vừa sáng tác vừa thưởng ngoạn của người nghe.
Khi xã hội đầy đủ mọi người điều hiểu Hán Nôm thì nghe những câu hò đưa linh bằng
những ngôn từ Hán Nôm thì không vấn đề, nhưng khi xã hội không còn kiến thức về
ngôn từ văn tự hán nôm thì buộc các nghệ nhân phải chế tác và như vậy làn điệu đưa
linh xuất phát từ văn học bác học dần thấm đậm màu sắc của văn học dân gian và đó
chính là lý do nó tồn tại trong cuộc sống ngày hôm nay.



Chương 2: Nghệ thuật biểu diễn hò đưa linh:
2.1. Mục đích:
Âm nhạc gắn bó với đời sống người dân Việt từ khi cất tiếng khóc chào đời đến
lúc ra đi. Mở đầu là lời ru con đến lúc khép lại là điệu hò đưa người ta về lòng đất. Hò
đưa linh là sự kết hợp giữa điệu bộ, tiếng khèn, tiếng trống, múa để xoa dịu sự đau
thương của cảnh sinh li tử biệt. Là lời tâm sự sau cùng mang tính nghệ thuật của
người sống tiễn đưa người đã khuất đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Không những dùng để tiễn đưa người mất mà hò đưa linh còn xuất hiện ở lễ hội
cầu ngư của các làng ven biển, nó được xem như một hình thức diễn xướng được thể
hiện ở bãi cát đêm trước ngày bắt đầu lễ hội cầu ngư, hay trước ngày hội đua ghe của
lễ hội. Mục đích của nó là để nhấn mạnh công đức của tổ tiên, những cha ông tổ
nghiệp của nghề đi biển. Ngoài ra nó còn xuất hiện ở lễ giải oan bạt độ trong phật
giáo.
2.2. Nội dung:
2.2.1 Trong tang ma:
Hò đưa linh trong tang ma là cách tổ chức đưa tiễn người đã qua đời ra nơi an
táng bằng hình thức nghi lễ, biểu diễn âm nhạc, ca hát, múa dân gian như một chương
trình biểu diễn ca múa nhạc dân tộc cổ truyền độc đáo. Hò đưa linh cữu người chết
của người Kinh và người các dân tộc thiểu số từ núi rừng Tây Bắc, Việt Bắc chạy dài
theo dãy trường Sơn vào Tây Nguyên, Lâm Đồng, Đồng Nam xuống đến mũi Cà
Mau… Hò đưa linh, cách tổ chức của mỗi dân tộc, mỗi địa phương có những khác
nhau khi làm lễ đưa tiễn người qua đời ra nơi an táng, nhưng đều có ca hát, chèo cạn.
Hò đưa linh có ý thức về tín ngưỡng, tâm linh, cầu mong linh hồn người qua đời,
được an nghỉ nơi đất mẹ, được về với tổ tiên, hình thức đưa tiễn có ca múa nhạc với
đội Chèo Đưa linh rất phổ biến và còn lưu giữ ở các tỉnh miền trung vào tận đến mũi
Cà Mau.

( Hò đưa linh trong tang ma )



Dựa và không gian và chủ thể biểu diễn hò đưa linh trong tang ma được chia làm
hai loại là linh ngồi và linh bộ.
2.2.1.1. Không gian biểu diễn:
Linh ngồi có không gian biểu diễn hẹp hơn, đội hò chỉ trãi chiếu và hò trước bàn
hương linh.

( Linh ngồi )

Còn linh bộ linh hoạt hơn ở không gian biểu diễn, thường sẽ thực hiện biểu diễn
xuyên suốt từ khi làm xong lễ thàn phục cho đến khi hạ huyệt, tức là bắt đầu từ nhà
gia chủ, trên đường và cho đến nơi an táng.Đồng thời cũng thực hiện biểu diễn chính
ở nhà gia chủ, trước điện thờ hương linh người chết. Một bức chiếu trước hương linh
người quá cố, sau đó đội hò sẽ thực hiện nghi thức thờ cũng và biễu diễn hò đưa.

( Linh bộ )

2.2.1.2. Thời gian biểu diễn:
Linh ngồi có thời gian biểu diễn ít hơn, thường là trước lúc đưa tang hay trước lúc
nhập quan.
Còn hò đưa linh linh bộ có thời gian diễn xuyên suốt lễ tang từ khi người chết đã
được khâm liệm, phát tang, cho đến khi chôn cất xong.
Thường được chia ra 3 giai đoạn:


- Hò trong những buổi tối trước ngày đưa tang.

( Trình diện trước bàn thờ để hò trước khi đưa tang )


- Hò trong lúc đám tang đi ( trên đường lúc dừng lại để tế ở một ngã ba đường hay
còn gọi là lễ đảo trưng ).
- Hò lúc hạ huyệt.

( Hò đưa linh lúc hạ huyệt )

Thông thường, hò đưa linh chỉ diễn ra trong những đám tang người già đã qua
tuổi lão (xưa các cụ đến tuổi 50 là cáo lão).
2.2.1.3. Chủ thể biểu diễn:
Người đứng đầu đội hò đưa linh thường là được gọi là Hầu Ông, hay Ông Công,
ông Tổng hoặc Ông Ca Giang tùy vào từng địa phương.
Đội hò đưa linh linh ngồi thường chỉ gồm 2 đến 4 người, Ông Tổng là người hò
chính. Những người còn lại thường là gõ chiêng hoặc trống kèm phụ cho điệu hò của
ông Tổng. Ở linh ngồi người hò chính cũng là người sử dụng điệu bộ, động tác nhuần
nhuyễn phụ họa cho lời hò. Trang phục ở linh ngồi đơn giản, thường mặt áo đỏ, xanh
hay đen với quần trắng, đóng khăn.


Đội hò đưa linh trong linh bộ phức tạp hơn đội chèo đưa linh gồm có 14 hoặc 16
trạo phu, tay cầm mái chèo. Có Tổng Mũi hay Tổng Tiền, Tổng Khoang hay còn gọi
Tổng Thương và Tổng Lái.
“Ông Tổng Mũi: mặc áo vàng, có yếm xây màu xanh tua màu vàng, viền xây màu
đỏ, xây hình trái tím, choàng qua 2 vai, đầu nhọn xuống gần rốn, tay áo rộng được
may bó ở cổ tay. Có 2 tấm giáp phủ xuống quá gối, màu vàng như áo, có trang trí 2
đường đỏ từng tấm giáp có đính mỗi đường 4 đồng tiền mùa xanh, giáp có viền mép
và gấu màu đỏ, chân đi bít tất trắng, thắt lưng to bản màu xanh, chính giữa có gương
tròn. Đầu đội mão đỏ, có viền và gương tròn trên mão, đỉnh mão có cắm bông tua màu
vàng xanh, 2 tai mãi tròn, to. Phía sau mãi có tấm vải đỏ phủ sau gáy, như 1 tướng
tuồng, tay cầm 2 chiếc sinh lớn để điều khiển đội chèo.
Ông Tổng Khoang : Mặc áo màu đỏ, 2 ống tay rộng, có xây cổ màu xanh, đính tua

vàng xung quang, quần màu xám tro, bó ống, quấn xà cạp rằn ri, thắt lưng xanh to,
thêu uốn lượn màu đỏ, có đính gương tròn giữa bụng, đầu đội mãu đỏ như Tổng Mũi,
đỉnh mão cắm bông tua màu vàng. Tay cầm cần câu, lưng đeo đụt đựng cá, tay cầm
gàu tát nước.
Ông Tổng Lái : Áo rộng dài xuống đến gối chỉ 1 vạch màu xanh, khuy áo buộc dây từ
cổ xuống nách và hông bên tay phải, 2 ống tay hơi rộng có may nẹp vàng, bốn đường
gấu từ trên và gấu áo màu xanh, cổ có xây nhỏ màu xanh nhạt, viền tua xanh, vàng, đỏ
, chen nhau, đầu quấn khăn xanh đen, thả tua dài xuống bên tay phải, vai vát mái chèo
to, dài chèo sơn màu trắng, càn tròn sơn màu đỏ. Đây là chiếc chèo lái to và dài hơn
cả.
Đội Chèo : mặc đồng phục, áo màu vàng, có viền đỏ theo nẹp và tà áo, gấu áo. Cổ có
xây may hình là đu đủ màu đỏ, đầu chít khăn đỏ thả ra sau gáy, có mặt trời vàng trên
trán, quần trắng bó ống, quần xà cạp rằn ri xanh, đỏ, chân đi bít tất trắng, tay cầm
chèo sơn màu trắng, cán cầm sơn màu đỏ.”_Theo nghiên cứu của nhạc sĩ Trần Hồng
về hò đưa linh sơ khai ở Đội chèo phường Cửa Đại – Hội An.


Tuy nhiên hiện nay trong tang ma, ông Tổng hò đưa linh thường là một người,
mặc trang phục tương tự một diễn viên chèo, và nhận nhiệm vụ diễn xướng chính cho
đội chèo.

( Ông Tổng theo nghiên cứu của nhạc sĩ Trần Hồng )

Dựa vào những nét cơ bản giống với nghiên cứu của nhạc sĩ Trần Hồng, trang
phục hò đưa linh linh bộ thay đổi linh hoạt tùy theo từng địa phương, từng vùng miền,
không bó buộc nghệ nhân hò trong một khuôn khổ trang phục nhất định. Tuy nhiên
linh bộ và linh ngồi có một nội dung nhưng một điều chắc chắn ở trang phục là trang
phục linh bộ phức tạp hơn, trang phục có nét giống với trang phục múa hát cung đình,
trong khi linh ngồi trang phục rất đơn giản.
Khi đội Âm công khiêng quan tài ra đường, Đội Chèo đưa linh đi hai hàng dọc.

Ông Tổng Mũi đi đầu tay gõ nhịp sinh chỉ huy, Ông Tổng Khoang đi giữa, Ông Tổng
lái cầm chèo lái đi sau cùng. Đội Chèo đi trước đầu quan tài, các trạo phu cầm tay
chèo, mái chèo đưa ra hai bên, vừa chèo vừa Hò đưa linh, có âm nhạc đi phía trước
hòa theo rập ràng với nhịp chèo êm nhẹ, như đưa con thuyền linh lướt tới miền cực
lạc một cách linh thiêng.
Trình tự các bài hò đưa linh trong tang ma thường mở đầu bằng điệu “la liệt” tiếp
theo là điệu “ai”, điệu “tạt nước” hay “hò khoang” và kết thúc bằng điệu “lý bồng
em” hay “kéo đuôi thuyền”.
Một số bài hò trong tang ma :


( Một số bài hò trong nghiên cứu “Hò đưa linh” của Trần Hồng )

Đó là bố cục các bài hò nguyên thủy song ngày nay tùy theo gia cảnh, thân thế,
cuộc đời của người chết mà có các bài hò khác nhau. Thông thường nội dung của
những câu hò đượm buồn, khéo léo hơn trong mỗi chặng hò, người hát có cách chọn
lựa ngữ cảnh rất chu chỉnh để xướng hò cho phù hợp, ngân giọng hò ai oán, bi
thương, tiếc nuối khi người lìa cõi đời. Khi hát hò đưa linh trong đám tang hai người
hát “Hò cái” gõ phách và những người còn lại hát “Hò con” vừa hò vừa diễn xướng và
phụ họa, cùng một người đánh trống đại.
Yếu tố quyết định xem điệu hò đưa linh có hay không thường do người hò cái là
phần nhiều. Vai trò của người hò cái trong hò đưa linh rất quan trọng. Vì trong một
không gian đượm tính chất buồn đau ấy thì người hò cái phải thuộc bài diễn, phải thể
hiện được cho sự đau thương, luyến tiếc của người đang sống với người đã mất.
Không thể lấy những bài hò có nội dung vui vẻ, khỏe khoắn hay lả lướt như hò ở lễ
cầu ngư hay hò khi đánh cá… mà phải xây dựng những bài hò có tính chất đau buồn,
bi thương để biểu diễn. Hơn nữa người hò cái còn phải biết lựa chọn các mái hò sao
cho âm hưởng, ngữ điệu của nó phù hợp với khung cảnh.



Những câu hò trong đưa linh thường có nội dung kể lại cuộc đời của người đã
mất, nói lên công cha, nghĩa mẹ sinh thành, thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với
ông bà, cha mẹ, kể nỗi lòng đau thương, luyến tiếc của con cháu khi phải chia tay cha
mẹ, ông bà. Ví dụ như hò trong đám tang của người cha thọ tám mươi tuổi các câu hò
được xướng lên rằng :
“ Chia tay kẻ ở người đi
Lòng nào mà chẳng sầu bi não nề
Nay sinh từ giã thân kỳ
Đưa linh một khúc mà về Tây Phương
…………………………………
Tám mươi năm gắn bó cuộc đời
Bao nhiêu vất vả nuôi con trưởng thành
Năm trai ba gái ngời ngời
Nay về chín suối thương hoài cháu con…”
Những câu hò được xướng lên kèm với tiếng trống, tiếng kè và những động tác múa
nhẹ nhàng, uyển chuyển, làm nao lòng người đưa tiễn với mong cầu tiển đưa linh hồn
người chết siêu thoát về nơi cực lạc.

Tùy vào đặc điểm của từng người lúc sinh thời mà điệu hò đưa linh dành cho họ
hoàn toàn không giống nhau. Nhưng câu hát nào cũng đượm buồn, pha chút đau
thương, tiếc nuối, để khi cùng nhau đi đến đoạn đường chia xa cuối cùng ở khu mai
táng, cả người đi và người ở đều cảm thấy an lòng vì đã làm tròn trách nhiệm và bổn
phận của mình, và dù người đã đi xa, nhưng vẫn còn sống mãi trong trái tim, trong ký
ức của người ở lại.
Trong điệu hò đưa linh thì người hò cái vẫn là người quan trọng nhất. Bà Hoàng
Thị Tuân (người hò cái trong đội) cho biết: "Vai trò của người hò cái trong hò đưa


linh là rất quan trọng. Vì trong một không gian lễ nghi đượm chất buồn đau ấy thì
người hò cái phải thuộc bài diễn. Không thể lấy những bài hò có nội dung vui vẻ, lả

lướt như khi hò ở các lễ hội khác được mà phải chọn những bài hò có tính chất buồn
để biểu diễn. Ngoài ra, người hò cái còn phải biết lựa chọn các mái hò sao cho âm
hưởng của nó phù hợp với khung cảnh".
Những câu hò trong hò đưa linh có nội dung kể lại công cha nghĩa mẹ sinh thành,
thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với ông bà, cha mẹ, kể nỗi lòng sầu bi của con
cháu khi phải chia tay cha mẹ, ông bà. Những câu hò nhằm tiễn đưa người đã mất về
nơi an nghỉ cuối cùng một cách suôn sẻ. Trong bài hò có một đoạn nói về nỗi lòng của
con cháu với người đã khuất:
"Chia tay kẻ ở người đi
Lòng nào mà chẳng sầu bi não nề
Nay sinh từ giã thân kỳ
Đưa linh một khúc mà về
tây phương...
Ở những gia đình khá giả, gia chủ nhờ soạn những bài văn ai thể lục bát, có nội
dung nói về công sinh thành, cưu mang, dưỡng dục của người đã khuất để răn dạy con
cháu. Đôi khi người ta lấy các tích chuyện trong những tác phẩm văn học, hoặc lấy
những đoạn trong văn tế để diễn xướng trong đám tang.
2.2.2 Trong lễ cầu ngư:
Hò đưa linh trong lễ cầu ngư miêu tả cuộc sống chài lưới, sông nước của người
dân vùng biển. Hò đưa linh trong lễ cầu ngư hay còn được gọi là hò bả trạo ( hát bả
trạo ) hay đưa linh tập chèo ).
Hát bả trạo đi kèm các động tác múa, “bả” có nghĩa là nắm chắc, “trạo” có nghĩa
là mái chèo. Hát bả trạo trong Lễ hội Cầu ngư là cách để ngư dân – những người có
cuộc sống, sinh mạng gắn liền với mênh mang sóng nước – cầu nguyện cho trời yên,
biển lặng, cá đầy khoang, thuyền bè đi khơi về lộng an toàn. Với ý nghĩa này, hát bả
trạo hay hò đưa linh không chỉ là hình thức giải trí dân gian đơn thuần, mà còn là sinh
hoạt văn hóa tín ngưỡng của ngư dân.
Hò đưa linh trong lễ cầu ngư là để rước Cá Ông lụy về dinh thờ để an táng hài cốt,
cũng trang nghiêm như hò đưa linh của con người. Hằng năm ở các Làng, Vạn vùng
biển, ngư dân từ Miền Trung trờ vào điều tổ chức lễ hội cầu ngư để ra khơi bắt cá

thuận lợi. Trong Lễ hội cầu ngư có lễ tế Ông ( cá voi ) đều có Đội Chèo Hát bả trạo,
Hò đưa linh ca múa trước án thờ Ông cầu xin Ông phù hộ, được gió mưa thuận hòa,


giúp đỡ cư dân bình an, khỏe mạnh, đánh bắt được nhiều cá, cuộc sống ấm no hạnh
phúc với lòng tin từ rất lâu đời rất thành kính, lễ hội cầu ngư, hát bả trạo, chèo cạn, hò
đưa linh được tổ chức rất thành kính, nghiêm trang.
2.2.2.1 Không gian biểu diễn:
Hò đưa linh trong lễ cầu ngư được biểu diễn ở lễ cầu ngư của người dân vùng
biển. Tùy theo không gian của buổi lễ cầu ngư của nhân dân từng địa phương mà hò
đưa linh trong lễ cầu ngư cũng có không gian biểu diễn tương tự, nó là một phần
không gian được chuẩn bị trong buổi lễ và diễn ra ở khoảng đất trống hay khoảng sân
trước bàn tế lễ.

2.2.2.2 Thời gian biểu diễn:
Đây là một loại múa hát dân gian được tổ chức theo tục lệ hàng năm hoặc hai ba
năm một lần nhân dịp lễ tế cá ông (Hoặc lễ nghinh ông) còn được trình diễn nhân dịp
đưa tang cá ông (cá voi) và trong các lễ hội cầu mùa của ngư dân.
Thường tổ chức vào tháng giêng, đặc biệt là dịp tết. Hò đưa linh được biểu diễn
trước khi vào phần lễ chính của lễ cầu ngư để tăng phần rộn ràng của buổi lễ
2.2.2.3 Chủ thể biểu diễn:
Đội hò thường gồm có : Tổng Mũi (tổng Thuyền), tổng Khoang (tổng Trung) và
tổng Lái (tổng Hậu) và khoảng từ 10 đến 16 thành viên gọi là con trạo (tay chèo), số
lượng con trạo bao giờ cũng là số chẵn. Đội có trang phục riêng, tổng mũi, tổng
khoang, tổng lái mặc lễ phục cổ truyền : áo dài đen, quần trắng (có nơi mặc trang
phục rực rỡ như hát tuồng). Con trạo mặc áo trắng, quần trắng có quần xà cạp, đầu
chít khăn, lưng bụng thắt vải đỏ, đi chân đất, tay cầm mái chèo dài 1,2m sơn đen,
trắng. Cũng tương tự như hò đưa linh trong tang ma, trang phục của đội hò linh hoạt
và thay đổi theo từng vùng miền, dựa trên những điểm cơ bản, nhưng không có sự bó
buộc hay máy móc trong trang phục biểu diễn.



( Đội hò ở lễ cầu ngư ở quận Cẩm Lệ thành phố Đà Nẵng )

( Đội hò trong “lễ khâu lề thế lính Hoàng Sa” ở Lý Sơn – Quảng Ngãi )

Có thể khác nhau ở trang phục biểu diễn tùy theo từng vùng miền, nhưng đặc
trưng cơ bản ở chủ thể biểu diễn của hò đưa linh chính là sự hiện diện của người lái –
Tổng Mãi, người mũi – Tổng Mũi, cũng như bố cục của các người chèo thuyền - con
trạo hay tay chèo, cũng như các nhạc cụ như đàn cò, trống, kèn , sênh và đặc biệt
không thế thiếu tay chèo.

( Tay chèo )


( Trống lớn trong lễ )

( Sênh )

Một số nơi rút gọn số người trong đội chèo, ví dụ như không có tổng khoang hay
cắt giảm số lượng tay chèo, do mục đích biểu diễn hay không gian biểu diễn không
lớn.
Một số nơi biến tấu hình thức chèo bằng cách sử dụng các con thuyền mô hình có
kích thước lớn để đội hò thực hiện hình thức chèo đò giả làm cho hò đưa linh thêm
sinh động hơn.

Nghệ thuật trình diễn của hát bả trạo là sự phối hợp nhịp nhàng giữa âm nhạc, lời
ca và động tác trình diễn của các tổng mũi, tổng khoang, tổng lái cùng con trạo dưới
sự điều khiển thống nhất của tổng mũi. Đội múa nghiên mình giống tư thế người đang
chèo thuyền, vừa hát vừa múa mái chèo. Động tác cách diệu đôi chân di chuyển trên

mặt đất như thuyền đang lướt sóng, theo hiệu lệnh họ nghiên về phía trước, phía sau
nhịp nhàng, đội di chuyển thành vòng tròn, hàng dọc, hàng ngang … Hò đưa linh có
“xướng” và “xô”, 3 tổng thì xướng theo điệu hò, nói lối, hát nam, hát khách, tấu mã
… còn các tay chèo thỉnh thỏang “xô” theo hiệu lặp lại một đoạn của vai Tổng.


( Tổng Mũi đứng đầu gõ sênh )

( Tổng Khoang cầm gàu tát nước tràn vào khoang tàu )

( Tổng lái giữ mái chèo dài ở đuôi thuyền để điều khiển hướng chạy )

( Các tay chèo đang cầm cán chèo )

Trong đội hò Tổng Mũi là Tổng Lái là hai người chủ đạo, tương đương với người
ở mũi và người cầm lái hay người đầu và người đuôi. Mũi và Lái hò đối đáp nhau.
Những người chèo trong thuyền phụ họa, thường cầm bơi chèo dưới sự chỉ huy của
người cầm đầu là Tổng Lái hay một số vùng còn gọi là Ông Ca Giang ( Theo người
Huế ) .
Toàn bộ tiết mục Hò đưa linh diễn ra như một hoạt cảnh gồm 8 đoạn : Tụ quân Đưa linh - Ra khơi - Đánh bắt cá - Nghỉ ngơi - Bão tố - Chống bão tố và an bình. Nội
dung ý nghĩa trong các lời hát của vai Tổng là nhắc đến công đức của cá Ông, tỏ lòng
tôn kính công lao tiền hiền, ca ngợi cuộc sống lao động bình dị chân chất của ngư dân,


ca ngợi cuộc sống tươi đẹp của đất nước và cầu mong cho vụ mùa bội thu, tránh được
bão tố đem lại cuộc sống no đủ hạnh phúc.
Theo nhà nghiên cứu văn nghệ dân gian Việt Nam, nhạc sĩ Trần Hồng thì thông
qua nội dung và ngôn ngữ của bài hát, người nghe sẽ cảm nhận được tinh thần lạc
quan, yêu nghề, yêu cuộc sống và nguyện vọng của người dân vùng sông nước trước
cảnh đẹp của thiên nhiên, sự trù phú của biển cả. Bài hát bả trạo của từng vùng được

xây dựng đúng làn điệu cho từng tình tiết, phổ lời vần với ca dao, thơ lục bát, luôn
thấm đẫm chất thơ dân gian.
Lời ca của hò đưa linh trong lễ cầu ngư là bức tranh trác tuyệt, hoàn hảo bởi nó
kết tinh sự lãng mạn, thăng hoa của những nghệ sĩ ngư dân trước cái đẹp nhưng không
kém phần huyền bí, sâu thẳm, mênh mông của biển khơi. “Hàm lượng văn hóa trong
các câu hát bả trạo luôn thăm thẳm và là kho báu vô giá cho thế hệ mai sau”, ông Trần
Hồng khẳng định.
Đối với chèo đưa linh, lời hát thường là những câu cầu siêu, mang tính huyền ảo
như "Hò hò đưa linh":
Đưa linh phản hồi
Ai đem chiếc thuyền loan qua bể Bắc
Không cho chim nhạn đậu chốn non đoài...
Hoặc như:
... Mau chỉnh tu bát nhã từ thuyền
Đưa âm linh chớ có nại phiền
Qua khổ ải đặng thoát vòng nghịch kiếp
Thông thường, nội dung các bài hát ở phần đưa linh mang nhiều tính nhân đạo,
thể hiện sự cảm thông, thương xót đối với những người vì tai họa bất ngờ phải bỏ
mình giữa biển.
Ở phần khởi ca, vì mang tính chất là một hoạt cảnh, nên buổi múa hát bả trạo diễn
ra đầy đủ một quá trình đi biển từ lúc dong thuyền ra khơi cho đến lúc trở về. Trong
suốt quá trình đó, đoàn chèo có lúc phải đối chọi với bão tố, hoặc lúc biển lặng thì
buông câu, kéo lưới... Những động tác này gợi cho người xem cảm giác thân thuộc và
lòng yêu thương gắn bó với biển giã, với nghề nghiệp. Người xem hồi hộp theo nhịp
điệu lao động căng thẳng:
Ủa lạ, trời giông nên mới chớp lòa
nhìn biển lặng phút đâu đà nổi sóng
bớ đà trưởng, giông! Giông! Bớ đà trưởng.



Từ cách nói lối phù hợp với nhịp điệu khẩn trương chuyển sang sự bình tĩnh khi
đã làm chủ tay chèo lúc trời yên biển lặn với điệu vè:
Linh đinh sóng gió dập dồi
rày sông mai biển mấy hồi gian nan
gian nan nhiều đàn lao lực
thẳng tợ đờn chín khúc quặn đau...
Hò đưa linh đòi hỏi người theo đuổi phải dạn dĩ, tâm huyết, khổ công để thuộc
lòng nhuần nhuyễn ca từ, điệu múa và giai điệu của cả bài hát (thường kéo dài đến 3
giờ đồng hồ). Bởi, đây là loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian, mang tính nghi lễ,
linh thiêng, không chấp nhận sai sót. Tốn nhiều công sức và thời gian luyện tập, hát
bả trạo lại không thể làm giàu cho người theo đuổi, thậm chí còn khiến gánh lo cơm
áo thêm nặng nề.
Hò đưa linh xuất phát từ đời sống của ngư dân, mô phỏng cuộc sống qua lời ca,
tiếng nhạc. Do đó người nghệ sĩ của biển – người hát bả trạo - phải đồng thời là ngư
dân dãi dầu mưa nắng, bám biển, hiểu từng con gió, thấu từng ngọn sóng. Điều này
mới giúp niềm vui, nhiệt huyết của người con miền biển được gửi gắm linh thiêng và
thể hiện trọn vẹn qua lời hát bả trạo.
Có lẽ, chỉ khi sống nhờ vào biển, gắn bó với biển, đối mặt với tiếng gầm của sóng,
tiếng gió rít trong đêm lạnh, giữa không gian bao la của biển thì mới cảm nhận hết và
trân trọng ý nghĩa của sự khoáng đạt mà gần gũi, linh thiêng mà sôi nổi của văn hóa
dân gian hát bả trạo.
2.3. Mối quan hệ giữa lời hò với làn điệu và động tác:
Cũng tương tự như các loại hình diễn xướng dân gian khác, trong họ đưa linh, lời
hò với làn điệu và động tác gắn bó chắc chẽ với nhau, nó tương tác nhau làm cho hò
đưa linh mang nhiều cảm xúc hơn.
Chẳng hạn như trong hò đưa linh ở tang ma,lời hò mang tính chất kể lể, lâm ly, ai
oán,thì làn điệu nhẹ nhàng tha thiết vừa làm con người ta đau xót tột cùng lại vừa da
diết tiễn đưa, động tác cũng vì thế mà chậm rãi, kéo dài hơn. Trong khi đó hò đưa linh
trong lễ cầu ngư, mang tính chất của lễ hội nhiều hơn, thay vì tiễn đưa, nó chủ yếu đề
cập đến việc ca ngợi công ơn và cầu mong những điều tốt đẹp cho cư dân vùng biển

nên lời hò cũng vì thế mà lạc quan hơn, làn điệu vui tươi hơn, đồng thời kết hợp với
những động tác mạnh mẽ, dõng dạc, nhưng tiến hô hay tiếng gõ sênh dứt khoát hơn.
Cũng như các nhà nghiên cứu đánh giá : “Từ động tác bơi chải trong ngày hội đua
thuyền đến động tác chèo đưa linh trong hát múa bả trạo, tuy vẫn còn giữ đạo cụ là


mái chèo, nhưng đã được cách điệu và thay đổi cho phù hợp với nội dung điệu múa.
Nếu trong bơi đua, động tác phải khỏe, nhanh nhẹn, thì trong đưa linh, nó cần chậm
rãi, kính cẩn và nhẹ nhàng”
Nội dung của hát múa bả trạo không chỉ thuần túy cầu siêu, đưa linh mà còn là
một bài ca nghề nghiệp. Đặc điểm này không chỉ được thể hiện ở cách trang phục và
múa hát theo kiểu hát tuồng của các vai tổng mũi, tổng lái và các tay chèo trong hát
múa bả trạo. Mà còn là mối liên hệ, tương tác giữa lời hò, điệu bộ và động tác của các
thành viên trong đội hò.
Bạn chèo làm động tác chèo thuyền theo lời hát, điệu múa của tổng mũi, tất cả
nhịp nhàng và đồng bộ như thể đang cùng con thuyền lướt sóng trên biển khơi. Để
chuẩn bị cho một lần hát bả trạo đậm chất truyền thống.
Như vậy, lời hò, làn điệu và động tác có mối liên hệ tương tác không thể tác rời
nhau, lời hò quan trọng nhất bởi nó lột tả được cái ẩn sâu trong hò đưa linh, nhưng
nếu thiếu sự bổ sung hợp tác của làn điệu và động tác thì chẳng lột tả được cái bản
chất mà hò đưa linh muốn nói tới. Nhờ sự kết hợp giữa lời hò với làn điệu và động tác
mà người ta cảm nhận được đủ cả buồn – vui – khóc – thương – kể lể - lâm li - ai oán
– hài hước – ca ngợi – tôn sùng,… Và chính vì thế mà hò đưa linh là một loại hình
diễn xướng tổng hợp được lưu truyền mạnh mẽ đến vậy.
Chương 3: Hò đưa linh trong văn hóa người Việt:
3.1 Hò đưa linh_Nét đẹp đạo đức của người Việt:
Dùng âm nhạc, lời ca để tiễn đưa người mất đó là sự thăng hoa trong đạo đức của
người dân Việt Nam.
Ngày nay khi xem lại múa chèo thuyền đưa linh vẫn lấp lánh một tâm hồn, một lối
sống đầy yêu thương, nhân ái_đó là nét đẹp của hò đưa linh. Và như thế thể loại này

đã tồn tại lâu dài cùng thời gian.
Con người ta quý trọng sự sống con người, xót xa, đau đớn trước cái chết của
những người bên cạnh, và điều đó cho ta thấy tuy nó ra đời bằng ý thức tôn giáo, tín
ngưỡng nhưng lại đậm chất nhân văn rất lớn.
Chúng ta ai không luyến tiếc cuôc sống hôm nay, và hi vọng kéo dài cuộc sống
chứ đừng mau chóng về cuộc sống bên kia, và ai không hi vọng rằng những người ta
yêu thương được mãi mãi bên cạnh mình, đó là lý do mà khi những người thân thuộc
mất đi luôn luôn để lại cho chúng ta một nỗi đau quá lớn. Hò đưa linh là cái cách mà
con người Việt Nam thể hiện đớn đau, chua xót, tình yêu thương cũng như một cách
để tiễn đưa người mất được thanh thản về thế giới bên kia. Chắc hẳn lối hò đưa linh


chỉ duy nhất con người Việt Nam sử dụng và đó là một nét đẹp đạo đức mà ít dân tộc
hay đất nước nào có được, đó là cách mà con người Việt Nam đối xử với nhau, là
cách để họ cho thấy rằng, đạo đức người Việt đẹp đến mức lưu giữ được cả những bản
sắc lâu đời,và lan truyền cả sự xót thương vào thâm tâm của cả những người lắng
nghe hò đưa linh.
3.2 Hò đưa linh_Giá trị văn hóa nổi bật:
Việt Nam là đất nước của tâm linh, con người nơi đây rất coi trọng cái chết vì vậy
những nghi lễ trong tang ma thường được tổ chức rất trang trọng. Con người từ khi
sinh ra được nghe lời ru ngọt ngào của mẹ đến khi chết đi vẫn được nghe những lời ru
ngọt ngào để tâm linh đi vào cõi vình hằng. Ca hát đối với cuộc sống của người Việt
Nam là một hình thức sinh hoạt không thể thiếu. Lúc vui vẻ con người ta hát, khi mệt
nhọc cũng hát và ngay cả khi nhắm mắt xuôi tay vẫn muốn được nghe câu hát bên tai.
Đó chính là một trong những giá trị văn hóa nỗi bật của Hò đưa linh.
Hò đưa linh nguồn gốc sáng tác là từ văn học bác học sau này được lưu truyền
rộng rãi trong nhân dân và trở thành văn học dân gian.
Tùy từng vùng miền, từng địa phương mà câu hát hò đưa linh có sự khác nhau
chính vì vậy thời gian và không gian ra đời của hò đưa linh mang yếu tố bản địa sâu
sắc. Chính nhờ đặc điểm này giúp những sáng tác của hòa đưa linh được đa dạng và

phong phú, không khô khan rập khuôn.
Hò đưa linh là một loại hình biểu diễn đặc biệt không chỉ biểu diễn trong tang ma
mà còn xuất hiện trong lễ cầu ngư với hình thức rước cá Ông về Dinh. Trái với các
loại hình biểu diễn khác, không gian biểu diễn của hò đưa linh hết sức đặc biệt, nó
xuất hiện trong đám ma khi có người qua đời.
Những câu hát của hò đưa linh cất lên không mang tính giải trí mà thấm đượm
tình thần nhân văn cao cả. Hò để tiễn đưa tâm linh người chết về thế giới bên kia, hò
để thể hiện niềm xót thương của gia quyến đối với người đã khuất, hò để cầu mong
sóng yên biển lặng, tôm cá đầy thuyền.
Hò đưa linh đã được Bộ VHTTDL công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp
quốc gia vào ngày 9 tháng 9 năm 2013.
3.3 Hò đưa linh và vấn đề bảo tồn, phát triển:
Hò đưa linh là một lối hò rất độc đáo thể hiện tầm cao sinh hoạt văn hóa dân gian.
Tính độc đáo ấy toát ra từ sự tinh tế trong vận dụng một loại hình sinh hoạt văn hóa có
tính lễ hội vào trong đám tang. Không phải ở đâu và ai cũng làm được.


Hiện nay, lối hò này đã có dấu hiệu của việc mai một và gần như thất truyền.
Những nghệ nhân biết hò thể loại này chỉ còn vài người và đã ngoài tám mươi.
Mặt khác, trong bối cảnh xã hội hiện đại, nhiều giá trị truyền thống đang dần mất
đi, nếu như chúng ta không có cách thức bảo tồn phù hợp đối với các loại hình văn
hóa văn nghệ dân gian, trong đó có các loại hò biển cổ, thì chắc chắn con cháu đời sau
sẽ khó để tự hào về kho tàng vốn quý dân gian mà cha ông để lại. Và thay vì chỉ sưu
tầm, nghiên cứu qua sách vở, nhiều cách thức điền dã hiệu quả khác, như: băng đĩa, số
hóa..., sẽ phù hợp hơn chăng trước khi các nghệ nhân đã quá già?
Để tránh việc ngày càng mai một của loại hình diễn xướng này ngày nay những
cơ quan nhà nước cũng như cơ quan văn hóa đang tìm mọi cách bảo tồn và phát huy
nét văn hóa truyền thống đáng quý đó. Một số nơi biến hò đưa linh từ một loại hình
diễn xướng trong tang ma hay trong lễ cầu ngư thành một loại hình du lịch, đưa nó
đến sân khấu lớn hơn, trình diễn cho nhiều người xem hơn, thậm chí còn biến hò đưa

linh thành một trãi nghiệm tuyệt vời, như ở Hội An đã mở ra loại hình trãi nghiệm hát
bả trạo để khách tham quan được biến mình trực tiếp thành những con chèo, để từ đó
Hò đưa linh không chỉ bó buộc trong một phạm vi mà mở rộng vùng ảnh hưởng lớn
hơn và nhiều người biết đến hơn. Hay thậm chí nhiều trường học đã biến hò đưa linh
thành một loại hình nghệ thuật thường góp mặt trong các buổi lễ ở các trường học,
điều đó giúp ích cho việc phát triển hò đưa linh từ cái giới trẻ ngày nay.

( Trãi nghiệm hò đưa linh ở Hội An )

(Đội hát bả trạo của trường THCS ở Q.Nam)


KẾT LUẬN:
Hò đưa linh là một lối hò độc đáo thể hiện được tầm cao sinh hoạt văn hóa dân
gian .Tính độc đáo ấy toát lên được sự tinh tế trong cách vận dụng loại hình sinh hoạt
văn hóa có cả tính lễ và tính hội.Những điệu hò đó phổ biến ở các vùng ven biển, nó
được xướng lên trong các đám tang, đồng vọng với tiếng trống, tiếng kèn làm nao
long người đưa tiễn khi đưa linh hồn người chết về với miền cực lạc. Bên cạnh đó còn
là một nghi lễ quan trọng không thể thiếu trong lễ cầu ngư của cư dân miền biển.Trải
qua bao thời gian điệu hò đưa linh vẫn được nhân dân yêu mến, gắn bó bền chặt trong
đời sống tinh thần. Điệu hò đấy được cất giữ trong tâm hồn mỗi người dân làm nên
khúc biến tấu độc đáo, là lớp văn hóa đặc sắc của con người Việt Nam.


TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1. Các clip hò đưa linh của các đài truyền hình Huế, Quảng Bình, Quảng Nam,...
2. Báo Quảng Nam bài viết “Sống lại Bả Trạo”
3. Báo Quảng Ngãi bài viết “Lễ Khâu lề thế lính Hoàng Sa ở Lý Sơn – Quảng
Ngãi”
4. Cuốn sách “Hò đưa linh” của nhạc sĩ Trần Hồng

5. Lời giảng của nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh


NHỮNG NGƯỜI THỰC HIỆN và PHÂN CÔNG THỰC HIỆN :
1. Mai Thị Phương Mai ( Nhóm trưởng )
Word + PowerPoint
Chương 2 : Nghệ thuật biểu diễn hò đưa linh
(2.1) Mục đích
(2.2) Nội dung
(2.3) Mối quan hệ giữa lời hò với làn điệu và động tác
Chương 3 : Hò đưa linh trong văn hóa người Việt
(3.1) Hò đưa linh_nét đẹp đạo đức của người Việt
2. Đặng Thị Diễn
Dẫn nhập và kết luận
Chương 1: Giới thiệu hò đưa linh
(1.1) Sơ lược về hò đưa linh
(1.2) Nguồn gốc của hò đưa linh
(1.3) Quá trình phát triển
Chương 3 : Hò đưa linh trong văn hóa người Việt
(3.1) Hò đưa linh_Giá trị văn hóa nổi bật
3. Phan Thị Thủy Tuyên
Chương 2 : Nghệ thuật biểu diễn hò đưa linh
(2.1) Mục đích
(2.2) Nội dung
Chương 3 : Hò đưa linh trong văn hóa người Việt
(3.2) Hò đưa linh_Giá trị văn hóa nổi bật
(3.3) Hò đưa linh và vấn đề bảo tồn, phát triển
4. Lê Thị Thu Thủy
Chương 2 : Nghệ thuật biểu diễn hò đưa linh
(2.1) Mục đích

(2.2) Nội dung
Chương 3 : Hò đưa linh trong văn hóa người Việt
(3.2) Hò đưa linh_Giá trị văn hóa nổi bật
(3.3) Hò đưa linh và vấn đề bảo tồn – phát triển



×