1
MỞ ĐẦU
1
Ý NGHĨA CỦA ĐỘNG VẬT THÂN MỀM TRONG ĐỜI SỐNG.
Động vật thân mềm (Mollusca) có khoảng 160.000 loài đứng thứ hai sau ngành
Chân khớp (Arthropoda). Theo ước tính tổng sản lượng khai thác hàng năm trên
thế giới năm 1987 thì Mollusca cũng đứng thứ hai sau cá với sản lượng 7,5 triệu
tấn, trong đó 7,25 triệu tấn thu được từ biển và phần còn lại thu được từ các thủy
vực nội địa. Nhóm hai mảnh vỏ (Bivalvia) chiếm đa số với 65,4% tổng sản lượng
Mollusca thu được bao gồm Trai, sò (2,1 triệu tấn), Hầu (1 triệu tấn), Vẹm (0,9
triệu tấn) (FAO 1989). Cũng theo Fao (1996) tổng sản lượng nuôi thủy sản của thế
giới đạt 25,46 triệu tấn với tổng giá trị là 39,83 tỉ USD, trong đó Mollusca đứng
thứ hai đạt 17,2% tổng sản lượng và 12,2 tổng giá trị. Chính vì Mollusca có số
lượng loài và sản lượng khai thác cao nên Mollusca có ý nghĩa rất lớn trong đời
sống của con người. Sản phẩm từ Mollusca được sử dụng với các mục đích sau:
-
Dùng làm thực phẩm: Nhiều loài thuộc Mollusca có thịt thơm ngon, hàm
lượng dinh dưỡng cao như Bào ngư (Haliotis), Sò (Anadara), Hầu
(Crassostrea), Vẹm (Mytilus)...
-
Dùng trong y học: Một số loài được dùng làm thuốc chữa bệnh như vỏ ốc
Bươu (Pila polita) dùng trị bệnh dạ dày, ngọc trai trị bệnh sốt, lectin chiết từ
Mollusca dùng trong công nghệ y học...
-
Dùng trong mỹ nghệ, trang sức: Nhiều loài Mollusca biển có màu sắc sặc sỡ
được dùng làm hàng mỹ nghệ vật trưng bày, ngọc của một số loài trai
Pinctada maxima, P. martensii, P. magraritifera màu sắc óng ánh được
dùng làm tang sức.
-
Dùng trong công nghiệp: Vỏ của các loài Mollusca được dùng trong công
nghiệp sản xuất vôi, chế biến thức ăn gia súc...
Tuy nhiên, ngoài mặt có lợi một số Mollusca cũng gây tác hại đến đời sống của
con người như:
- Phá hoại mùa màng: Một số loài ốc ăn chồi non thực vật gây tác hại đến mùa
màng như ốc sên (Achatina fulica), ốc Bươu vàng (Pomacea sp).
- Phá hoại công trình: Một số loài sống đục khoét thường gây tác hại cho các
công trình thủy, thuyền bè như: Teredo, Pholas, Bankia...
- Gây bệnh: Một số loài ốc nước ngọt như Lymnaea là ký chủ trung gian của
bệnh giun sán ở người và gia súc.
2
LÃNH VỰC NGHIÊN CỨU
Môn học động vật thân mềm (Malacology) nghiên cứu các đặc điểm hình thái, sinh
lý sinh thái của các đối tượng động vật thân mềm (Mollusca) và ứng dụng các
nghiên cứu trên để nuôi các loãi có giá trị trong đời sống của con người.
2
3
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
Về lĩnh vực phân loại động vật thân mềm từ lâu đã có nhiều tác giả nghiên cứu
như Aristotle (384-322 trước công nguyên) ông đã mô tả và phân loại động vật
thân mềm thành hai loài, loài có vỏ và loài không vỏ. Ông là người đầu tiên xây
dựng môn phân loại Mollusca, phương pháp phân loại này được sử dụng đến thế
kỷ 18. Pliny (23-79) và một số tác giả khác bổ sung thêm một số nội dung nhưng
chỉ giải thích thần bí. Thời kỳ phục hưng các tác giả như Belon, Rondeler, Gesner
có bổ sung thêm một số nội dung nhưng chưa có đóng góp gì đáng kể.
Lister (1665) một thầy thuốc hoàng gia Anh đã xuất bản quyển Historiae
Conchiliorum nói về nhiều loài Động Vật Thân Mềm. Năm 1669-1697 tác giả đã
đăng nhiều công trình nghiên cứu trên tạp chí Động Vật Thân Mềm, có thể xem
ông là người sáng lập ra môn Động Vật Thân Mềm.
Linné (1758) cùng các cộng sự xuất bản quyển Stema Nature, tác giả đã phân
Động Vật Thân Mềm ra làm hai nhóm: có vỏ, không vỏ hoặc có vỏ trong. Tuy
nhiên, hệ thống phân loại này cũng có những sai lầm như xếp Lepas (Arthropoda)
vào ngành Mollusca.
Lamarck (1744-1799) sáng lập ra môn Động Vật Không Xương Sống và sửa
nhưng sai lầm của Linné, sau Lamarck còn có nhiều tác giả khác như Martini,
Chenitz, Reeve, Sowerby, Keiner, Fisher nghiên cứu nhiều về Mollusca và các kết
quả đến nay chúng ta vẫn còn sử dụng.
Hình thái giải phẫu học sẽ giúp cho phân loại chính xác hơn tránh những sai lầm.
Guettard (1756), Adamson (1757), Poli (1795) và Curvier (1799) là những người
đầu tiên nghiên cứu hệ thần kinh và hệ thống sinh dục của Pulmonata, cũng có thể
xem các tác giả trên là những nhà cách mạng trong phân loại Mollusca (phân loại
dựa vào cấu tạo bên trong). Trong tác phẩm Động vật giới (Regne Animal) đã đem
một số loài từ ngành khác xếp vào ngành Mollusca.
Hiện nay với sự phát triển của công nghệ sinh học, một số công nghệ mới được áp
dụng để phân loại như điện di enzyme và điện di ADN.
Các nghiên cứu khác về sinh lý sinh thái mới chỉ phát triển giữa thế kỷ 20. Sự phát
triển của môn học có thể chia làm 3 thời kỳ:
- Cổ đại
- Văn hóa phục hưng
- Cận đại đến nay
Trong thời kỳ cận đại đến nay cũng phát triển theo 3 bước đầu tiên là phân loại mô
tả tiếp đến là phân loại dựa vào hình thái bên ngoài và cả cấu tạo bên trong, sau
cùng là nghiên cứu sinh học cá thể.