Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Đào tạo công nhân kỹ thuật theo yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá luận văn ths kinh tế 5 02 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

--***--

ĐÔNG THỊ HỒNG

ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN KỸ THUẬT
THEO YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI – 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

--***--

ĐÔNG THỊ HỒNG

ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN KỸ THUẬT
THEO YÊU CẦU CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị
Mã số:

5.02.01



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. PHÍ MẠNH HỒNG

HÀ NỘI - 2005


MỤC LỤC
Mở đầu..........................................................................................................

2

Chương 1. Vai trò của đào tạo công nhân kỹ thuật đối với quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá..............................................................

8

1.1. Tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực đối với quá trình
công nghiệp hoá - hiện đại hoá...............................................................

8

1.2. Đào tạo công nhân kỹ thuật và vai trò của nó đối với công nghiệp hoá
- hiện đại hoá..........................................................................................

22

1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển hệ thống đào tạo
công nhân kỹ thuật.................................................................................. 32
Chương 2. Thực trạng hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật trong quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.....................................................


43

2.1. Khái quát về hệ thống công nhân kỹ thuật trước thời kỳ đổi mới.......... 43
2.2. Tình hình đào tạo công nhân kỹ thuật trong những năm đổi mới.......... 49
2.3. Đánh giá chung về hệ thống đào tạo công nhân kỹ thuật ở Việt Nam... 77
Chương 3. Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo
công nhân kỹ thuật trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá...

85

3.1. Bối cảnh mới của nền kinh tế Việt Nam và những yêu cầu đặt ra đối
với

đào

tạo

công

nhân

kỹ 85

thuật................................................................
3.2.

Định

hướng


để

phát

triển

đào

tạo

công

nhân

kỹ 93

thuật............................
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đoà tạo công nhân kỹ thuật. 95
Kết luận............................................................................................................ 104

1


Danh mục tài liệu tham khảo.......................................................................... 106

2


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là giai đoạn phát triển tất yếu mà mọi quốc
gia đều phải đi qua, song mỗi nước đều có những cách thức phát triển riêng tuỳ
thuộc vào hoàn cảnh lịch sử và đặc trưng về chính trị, kinh tế - xã hội, văn hoá
của từng nước. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta được thực
hiện trên cơ sở đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ
xã hội theo hướng phát triển bền vững, trong đó nhân tố con người là trung tâm,
kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp hoá và hiện đại hoá với những bước đi thích
hợp. Trong số các nguồn lực về tài chính, công nghệ, thiết bị, nguồn tài
nguyên… thì ngày nay nguồn lực con người trở thành nguồn lực quan trọng nhất
cho tiến trình phát triển của đất nưóc. Nếu chúng ta quan tâm và đặt đúng vị trí
con người, chúng ta sẽ thành công. Vì thế mà trong "Chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2000" Đảng ta đã khẳng định: "... Mục tiêu và
động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Chiến lược kinh
tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy
tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng đồng dân tộc...".
Nghiên cứu về nguồn nhân lực, tức là nghiên cứu về yếu tố con người,
những khả năng, tiềm năng của con người và cách khơi dậy mọi tiềm năng của
mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cộng đồng dân tộc để tạo nên sức mạnh
tổng thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Để đạt được mục tiêu trên thì giáo dục - đào tạo có vai trò hết sức to lớn.
Giáo dục - đào tạo tham gia trực tiếp và đóng vai trò quyết định trong việc nâng
cao trình độ học vấn, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ tay nghề, xử lý công
nghệ, tổ chức quản lý và năng lực thực tiễn của người lao động - lực lượng chủ

3


yếu đối với sự phát triển bền vững. Vì thế mà Đại hội Đảng IX đã khẳng định:
"Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện phát huy nguồn lực con
người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững" [2, tr.26].
Để cho giáo dục đào tạo thực sự đảm nhận được đúng vai trò của nó thì
phát triển hợp lý quy mô và cơ cấu giáo dục đào tạo là một đòi hỏi bức thiết.
Như Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã chỉ rõ cơ cấu đào
tạo hiện nay của chúng ta còn bất hợp lý. Điều đó thể hiện ở sự bất hợp lý giữa
cơ cấu dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học; cơ cấu ngành
nghề, cơ cấu vùng, cơ cấu bậc học, cơ cấu xã hội. Đặc biệt, trong lĩnh vực đào
tạo nghề, tình trạng thừa thầy thiếu thợ, kỹ sư làm công việc của cán bộ trung
cấp kỹ thuật đang trở nên hết sức bức xúc làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu
quả giải quyết việc làm, đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đội ngũ công nhân
kỹ thuật nước ta hiện nay không đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá. Vì thế cần phải đào tạo được một đội ngũ lao động có trình độ tay
nghề, có chuyên môn nghiệp vụ cao, có trình độ văn hoá, có sức khoẻ, có tác
phong công nghiệp, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới để đáp ứng
được nhu cầu của nền kinh tế thị trường cả về số lượng và chất lượng. Làm thế
nào để tạo ra nhiều công ăn việc làm, nâng cao năng suất lao động, chất lượng
sản phẩm, hiệu quả sản xuất ? đủ sức cạnh tranh với thị trường trong nước và
quốc tế ? tăng thu nhập, ổn định đời sống xã hội? Làm thế nào để chúng ta có
một cơ cấu kinh tế hợp lý?... Tất cả những điều đó đòi hỏi chúng ta phải đẩy
mạnh công tác trong lĩnh vực dạy nghề và giáo dục nghề nghiệp nhằm phát triển
mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng đội ngũ công nhân kỹ thuật để phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam.

4


Tuy nhiên hiện nay đào tạo nghề ở Việt Nam lại chưa đáp ứng được đòi
hỏi của thực tiễn cả về số lượng và chất lượng của đội ngũ công nhân kỹ thuật:
chương trình dạy nghề chưa được cập nhật, bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với kỹ

thuật công nghệ mới; đội ngũ giáo viên dạy nghề còn thiếu cả về số lượng và
chất lượng, phương pháp giảng dạy chậm được đổi mới; quy mô đào tạo còn nhỏ
so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, mạng lưới cơ sở dạy nghề còn chưa
rộng khắp; thiếu đội ngũ công nhân làm việc trong những ngành công nghệ cao;
kinh phí đầu tư cho đào tạo nghề còn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, mất
cân đối giữa các ngành nghề đào tạo... Do đó việc phân tích thực trạng đào tạo
nghề trong đó có đào tạo công nhân kỹ thuật để tìm ra những biện pháp thích
hợp có khả năng thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của hoạt động này là một công
việc rất có ý nghĩa. Với những lý do trên đây tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Đào tạo
công nhân kỹ thuật theo yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá".
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Do có vị trí hết sức quan trọng nên dạy nghề là vấn đề được nhiều nhà
khoa học và những người hoạch định chính sách quan tâm. Tuy nhiên trong sự
phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, sự phát triển năng động của nền
kinh tế thị trường thì số lượng và chất lượng lao động của đội ngũ công nhân
càng được đặc biệt quan tâm và đòi hỏi phải có sự nghiên cứu đầy đủ hơn.
Gần đây, các nhà khoa học Việt Nam đã có nhiều bài viết và công trình
nghiên cứu về giáo dục - đào tạo, về cách mạng khoa học công nghệ, về đào tạo
nguồn nhân lực và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội...
Những bài viết đó tập trung chủ yếu vào từng mảng vấn đề, đề cập đến
những khía cạnh khác nhau như giáo dục - đào tạo với sự phát triển kinh tế xã

5


hội, giáo dục đào tạo với việc tạo nguồn nhân lực, đào tạo nghề đối với xuất
khẩu lao động ... như:
- Giáo sư Vũ Văn Tảo với bài "Đào tạo gắn với việc làm", Tạp chí Xuân
2000 đã khẳng định đào tạo cần phải gắn với việc làm.
- Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã nêu việc triển khai

công tác đào tạo nghề và chương trình mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm
trong bài "Về triển khai công tác đào tạo nghề và chương trình mục tiêu quốc gia
về giải quyết việc làm", Tạp chí Lao động - xã hội 149/1999.
- Vũ Đình Cự đã nêu những bất cập của giáo dục đào tạo trong cuốn "Giáo
dục - đào tạo hướng tới thế kỷ 21", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội
1998.
- Phạm Văn Đức khẳng định vai trò của nguồn lực con người trong công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bài: "Mấy suy nghĩ về vai trò của nguồn lực con
người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá", Tạp chí Triết học, số
6/1998.
- "Đầu tư cho con người với vấn đề giải quyết việc làm" của nhóm tác giả
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hà Nội 1995 đã giới thiệu về đặc điểm
nguồn nhân lực và những người cần đào tạo lại để tạo cơ hội giải quyết việc làm,
đồng thời giới thiệu khái niệm mô hình đào tạo giải quyết việc làm cho người lao
động ở một số nước trên thế giới.
- Đổi mới mạnh mẽ giáo dục nghề nghiệp và phát triển nguồn nhân lực
của GS.VS. Phạm Minh Hạc trong Tạp chí Lao động xã hội, số 218…
Nhìn chung, tuy khai thác ở từng khía cạnh, từng mảng khác nhau nhưng
các tác giả đều coi giáo dục - đào tạo có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế - xã hội nói chung và khẳng

6


định quan điểm của Đảng ta coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, coi
giải quyết việc làm là chính sách xã hội cơ bản nhằm nâng cao đời sống người
lao động, phát triển kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện
nay. Tuy nhiên vẫn còn ít những công trình khoa học nghiên cứu tập trung, có
tính chất hệ thống lĩnh vực đào tạo công nhân kỹ thuật với tư cách là một kênh
phát triển nguồn nhân lực ở nước ta, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế đang

biến đổi rất nhanh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng đào tạo công nhân kỹ thuật trong việc phát
triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay, luận văn cố gắng đề xuất một số định
hướng, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả và chất lượng của hệ thống
đào tạo công nhân kỹ thuật ở nước ta theo yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại
hoá
* Nhiệm vụ
- Làm rõ vai trò của đào tạo công nhân kỹ thuật trong phát triển nguồn
nhân lực ở các nước đang phát triển đặc biệt là trong điều kiện nước ta hiện nay.
- Làm rõ thực trạng của đào tạo công nhân kỹ thuật ở nước ta trong những
năm gần đây.
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và chất
lượng đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật ở nước ta trong thời gian tới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý của Kinh tế chính trị,
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con

7


người; các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, các luận điểm khoa học của
các nhà khoa học về những vấn đề có liên quan đến đề tài của luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử luận văn
chú trọng sử dụng các phương pháp cụ thể như phân tích và tổng hợp, đối chiếu
và so sánh, lô-gíc và lịch sử, phương pháp thống kê và hệ thống hoá.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

* Đối tượng nghiên cứu: hoạt động đào tạo công nhân kỹ thuật ở Việt
Nam với tư cách là kênh phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước.
* Phạm vi nghiên cứu: trong khuôn khổ đề tài này, tác giả nghiên cứu
lĩnh vực đào tạo nghề từ khi đổi mới đến nay.
6. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu và giảng dạy kinh tế chính trị Mác-Lênin về vấn đề nguồn lực
con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Kết quả nghiên cứu cũng có thể sử dụng
tham khảo cho việc hoạch định chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta và dành cho những người quan
tâm đến đề tài.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương với 8 tiết:
Chương 1: Vai trò của công nhân kỹ thuật đối với quá trình công nghiệp
hoá - hiện đại hoá.

8


Chương 2: Thực trạng đào tạo hệ thống công nhân kỹ thuật trong quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Chương 3: Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo
công nhân kỹ thuật trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

Chương 1
VAI TRÕ CỦA ĐÀO TẠO CÔNG NHÂN KỸ THUẬT
ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ

1.1. Tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực đối với quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
1.1.1. Nguồn nhân lực trong tăng trưởng và phát triển kinh tế hiện đại
Mỗi một quá trình lao động sản xuất đều là sự kết hợp của 3 yếu tố: tư liệu
lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đối tượng lao động và tư liệu lao
động là những điều kiện vật chất cần thiết của mọi quá trình lao động. Máy móc
thiết bị dù có tinh vi hiện đại đến đâu cũng đều do sức lao động tạo nên và phải
thông qua hoạt động tích cực của con người mới phát huy được đầy đủ hiệu quả.
Dù cơ sở vật chất của sản xuất có hoàn thiện đến đâu, dù doanh nghiệp có các
phương tiện kỹ thuật gì đi nữa thì quá trình sản xuất ở đó cũng chỉ có thể thực
hiện với sự hoạt động có mục đích của con người để làm cho những tư liệu vật
chất kỹ thuật đó vận hành được. Dựa vào những hoạt động lao động có mục đích
của mình con người làm cho các vật thể tự nhiên thích ứng với mình, cải biến tự
nhiên để thoả mãn nhu cầu của mình. Nếu con người không sử dụng sức lao
động của mình để tác động vào tư liệu lao động và đối tượng lao động thì tư liệu

9


lao động và đối tượng lao động chỉ là những vật chết. Chính “lao động đã nắm
lấy những vật đó, cải tử hoàn sinh cho chúng, biến chúng từ những công dụng
mới có về mặt khả năng thành công dụng có hiệu lực hiện thực” [19, tr.274].
Nâng cao trang bị kỹ thuật là một nhân tố cơ bản chủ yếu để tăng năng suất lao
động. Nếu không có máy móc thiết bị vật tư thì không thể có năng suất cao,
không thể có tư liệu sản xuất mở rộng. Nhưng trang bị kỹ thuật không phải là
nhân tố duy nhất hàng đầu để tăng năng suất kể cả khi chúng ta có nhiều những
kỹ thuật tiên tiến hiện đại nhất vì khi đó nếu không có con người với trình độ và
tính tổ chức cao, phù hợp với yêu cầu của công nghệ, kỹ thuật thì quá trình sản
xuát vẫn bị đình trệ. Vì thế: “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại
là công nhân, là người lao động” [17, tr.38].

Như vậy, người lao động là nhân tố vô cùng quan trọng đối với bất kỳ một
đất nước nào muốn phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt là ngày nay, khi mà khoa
học công nghệ phát triển như vũ bão, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới
diễn ra sâu rộng, khi mà chúng ta đang đứng trước thềm của kỷ nguyên phát
triển mới của xã hội loài người - chuyển sang nền kinh tế tri thức thì các nhà
kinh tế đều khẳng định rằng đầu tư cho con người thông qua các hoạt động giáo
dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, các chương trình đảm bảo việc làm và an sinh
xã hội... là đầu tư hiệu quả nhất, quyết định khả năng tăng trưởng kinh tế nhanh
và bền vững của một quốc gia.
Như chúng ta đã biết, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó tri thức
đóng vai trò then chốt đối với sự phát triển kinh tế xã hội loài người. Nền kinh tế
tri thức dựa trên những trụ cột chủ yếu là công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu mới... mà ở đó tri thức chiếm một hàm lượng chủ yếu
trong giá trị mới của sản phẩm, chiếm tỉ trọng ngày càng lớn hơn trong GDP, là
yếu tố quyết định sức mạnh cạnh tranh của mỗi quốc gia. Trong nền kinh tế tri

10


thức cơ hội cho lao động thiếu kỹ năng ngày càng bị thu hẹp và đòi hỏi về trình
độ và kỹ năng của một người lao động bình thường ngày càng cao. Để có được
nền kinh tế tri thức cần phải xây dựng được cơ sở hạ tầng vững chắc để phát
triển khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, đồng thời phải đầu tư
cho phát triển giáo dục và đào tạo hay chính xác hơn là phải đầu tư cho phát triển
nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực theo nghĩa rộng được hiểu là tổng thể các tiềm năng (lao
động) của con người, của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương đã
được chuẩn bị ở mức nào đó có khả năng huy động vào quá trình phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước (hoặc một vùng, một địa phương cụ thể). Khi tham gia
vào các quá trình kinh tế xã hội thì con người đóng vai trò chủ động, sáng tạo và

chi phối toàn bộ quá trình đó và hướng nó tới mục tiêu nhất định. Vì vậy mà
nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là số lượng lao động đã có và sẽ có mà nó
còn phải bao gồm một tổng thể các yếu tố như thể lực, trí lực, kỹ năng làm việc,
thái độ, phong cách làm việc.
Nguồn nhân lực theo nghĩa tương đối hẹp được hiểu là nguồn lao động.
Chính vì thấy được vai trò ngày càng tăng của nguồn nhân lực mà trong
quá trình phát triển kinh tế hiện đại, nơi mà tri thức chứ không phải tài nguyên
thiên nhiên, đất đai hay nguồn vốn nổi lên như là yếu tố dẫn dắt, chi phối hàng
đầu đối với quá trình tạo ra của cải mà ở nhiều nước đang định hình một mô hình
sản xuất mới: lấy con người làm trung tâm. Mô hình này là bước chuyển lên
trình độ văn minh cao hơn, ở đó con người là mục đích chứ không phải là
phương tiện của phát triển xã hội. Mô hình sản xuất lấy con người làm trung
tâm, coi trọng và đề cao tri thức trở thành triết lý cơ bản của chiến lược phát
triển của mọi quốc gia. Như vậy, sự tiến bộ của khoa học công nghệ đã không

11


làm giảm đi vai trò của yếu tố con người mà ngược lại, nguồn nhân lực có chất
lượng cao về trí tụê và kỹ năng ngày càng trở thành lợi thế quan trọng cho mỗi
quốc gia.
Xem xét con người với tư cách là nguồn nhân lực cơ bản của sự phát triển
kinh tế xã hội, UNESCO nêu “con người đứng ở trung tâm của sự phát triển là
tác nhân và là mục đích của sự phát triển”. Trong học thuyết về tăng trưởng kinh
tế của mình nhà kinh tế Mỹ Gregory Mankiw đã đề cập một loại tư bản: vốn
nhân lực. Theo ông “Vốn nhân lực là kiến thức, tay nghề mà người lao động tiếp
thu được thông qua quá trình giáo dục đào tạo từ thời niên thiếu cho đến khi
trưởng thành, cũng như trong quá trình lao động. Vốn nhân lực tương tự như tư
bản hiện vật, nó làm tăng lực lượng sản xuất hàng hoá và dịch vụ của chúng ta”.
Cũng theo Mankiw “sự đầu tư cho con người trong việc nâng cao chất lượng

cuộc sống của từng cá nhân làm nâng cao mức sống của toàn xã hội và nhờ đó
tạo khả năng tăng năng suất lao động”. Nhận định này có vai trò rất quan trọng
trong vài thập kỷ gần đây. Một số các nước Châu Á có nền kinh tế tăng trưởng
nhanh đã áp dụng quan điểm này vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
họ và họ đã đầu tư rất lớn cho giáo dục. Các nước Hàn Quốc, Hồng Kông,
Singapo đã có khả năng đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao
để phát triển đất nước và đã làm tăng thu nhập bình quân cao hơn gấp 5 - 6 lần
so với các nước Đông Nam Á.
Nghiên cứu nguyên nhân thành công của các nước này các nhà kinh tế đều
thống nhất nhận định rằng họ đã đầu tư nguồn nhân lực đủ sức thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước họ.
Ở nước ta, nhận thức vai trò động lực của nguồn nhân lực đối với quá
trình phát triển đất nước Đảng đã chỉ đạo “lấy việc phát huy yếu tố con người

12


làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển rất nhanh và bền vững” [2, tr.9] và nguồn lực
con người đựơc coi là nội lực cơ bản nhất cần khai thác và phát huy để tiến hành
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Tóm lại, bất kỳ một quốc gia nào muốn tăng trưởng, phát triển kinh tế
trong thời kỳ hiện nay đều phải quan tâm, đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Chỉ
có đầu tư phát triển hiệu quả nguồn nhân lực, đất nước đó mới nhanh chóng
thành công.
1.1.2. Vai trò của việc phát triển nguồn nhân lực đối với các nước đang
phát triển
* Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đối với các nước đang phát triển
Các nước đang phát triển là những nước có mức thu nhập bình quân đầu
người thấp. Hiện nay dân số các nước đang phát triển chiếm đa số dân số thế giới
nhưng thu nhập chỉ chiếm 2% thu nhập thế giới. Các nhà kinh tế trên thế giới

thường lấy mức thu nhập bình quân đầu người 2.000 USD làm mốc, nếu đạt
được mức này sẽ phản ánh được sự biến đổi về chất trong hoạt động kinh tế và
đời sống xã hội, phản ánh khả năng giải quyết được những nhu cầu cơ bản của
con người. Hiện nay còn trên 100 nước đang phát triển có mức thu nhập dưới
2.000 USD; trong đó gần một nửa có mức thu nhập bình quân dưới 600 USD.
Điều này nói lên khả năng hạn chế của các nước đang phát triển trong việc giải
quyết những nhu cầu cơ bản của con người về vật chất, văn hoá, giáo dục, y tế.
Các nước đang phát triển còn là những nước có tỷ lệ tích luỹ thấp. Muốn
có nguồn vốn tích luỹ cần phải hy sinh tiêu dùng. Nhưng khó khăn là ở chỗ, đối
với các nước đang phát triển, nhất là những nước có thu nhập thấp, dân chúng đã
gần như chỉ có mức sống tối thiểu, vì vậy việc giảm tiêu dùng là rất khó khăn.
Những nước có nền kinh tế tiên tiến thường để dành từ 20-30% thu nhập để tích

13


luỹ. Trong khi đó ở các nước nông nghiệp chỉ có khả năng tiết kiệm trên, dưới
10% thu nhập. Nhưng phần lớn số tiết kiệm này phải dùng để cung cấp nhà ở,
trang thiết bị cần thiết khác cho số dân đang tăng lên. Do vậy càng hạn chế quy
mô tiết kiệm cho tích luỹ phát triển kinh tế.
Các nước đang phát triển cũng là những nước có hoạt động kinh tế chủ
yếu dựa trên cơ sở sản xuất nhỏ, nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn, kỹ thuật sản
xuất thủ công, lạc hậu, xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm thô (nông sản và khoáng
sản), năng suất lao đông thấp do thiếu vốn và yếu tố công nghệ kỹ thuật hiện đại.
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới cho thấy rằng, nền kinh tế không thể chuyển
động đi lên nếu không có công nghiệp phát triển. Các nền kinh tế đạt được mức
độ tăng trưởng kinh tế cao đều có nguồn gốc từ mức độ tăng của ngành công
nghiệp. Trải qua giai đoạn phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu, các nước
đang phát triển tuy đã có được những ngành công nghiệp mới, nhưng phần lớn
vẫn là những ngành sản xuất với kỹ thuật cổ truyền, trình độ kỹ thuật thấp. Trong

khi các nước có nền kinh tế phát triển đã đạt tới trình độ công nghệ tiên tiến với
kỹ thuật sản xuất hiện đại, trình độ quản lý thành thạo, vượt xa trình độ công
nghệ của các nước đang phát triển từ 3-6 thập kỷ. Khoảng cách công nghệ quá
lớn cũng làm cho các nước đang phát triển khó tận dụng được lợi thế của các
nước đi sau do quá trình phân công lao động mới đưa lại.
Các nước đang phát triển còn phải đối đầu với một thách thức nữa trong
quá trình phát triển. Đó là áp lực về dân số và việc làm. Dân số những nước đang
phát triển vốn đã đông, sự bùng nổ về dân số ở những quốc gia này tạo ra một
hạn chế lớn cho phát triển kinh tế. Tỷ lệ gia tăng dân số thường ở mức cao hơn
tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đã làm cho mức sống của nhân dân ngày càng giảm.
Thu nhập giảm tất yếu dẫn đến giảm sức mua và tỷ lệ tiết kiệm, sự mất cân đối

14


giữa tích luỹ và đầu tư đã kìm hãm sản xuất và dẫn đến thất nghiệp trầm trọng,
gây mất ổn định xã hội, nợ nước ngoài gia tăng.
Như vậy, hầu hết đang phát triển đang đều ở trong tình trạng: cơ sở vật
chất kỹ thuật nghèo nàn, khoa học kỹ thuật lạc hậu, phân công lao động chưa
phát triển, khoa học kỹ thuật đang được xây dựng... Ở nhiều quốc gia, sản xuất
nông nghiệp vẫn đang còn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP. Đó cũng là nguyên
nhân cơ bản làm cho các quốc gia này đang rất khó khăn trong việc giải quyết
hàng loạt những vấn đề kinh tế xã hội như: thất nghiệp, nghèo đói, bệnh dịch, sự
lạc hậu về y tế và giáo dục...
Để thoát khỏi tình trạng đó thì các nước đang phát triển không còn con
đường nào khác là lựa chọn con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Công
nghiệp hoá - hiện đại hoá là giải pháp quan trọng (nếu không muốn nói là quan
trọng nhất) nhằm xây dựng một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn. Chỉ
có công nghiệp hoá - hiện đại hoá mới làm cho các nước đang phát triển thay thế
được lao động thủ công lạc hậu bằng lao động sử dụng máy móc, cơ khí hoá nền

kinh tế quốc dân; thay thế máy móc, thiết bị và công nghệ bằng máy móc thiết bị
và công nghệ ngày càng hiện đại hơn. Đó là bước chuyển đổi căn bản từ nền
kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đòi hỏi phải xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại mà hiện nay,
xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý, tiến bộ là tỉ trọng khu
vực công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là tỉ trọng khu vực dịch vụ ngày càng
tăng; tỉ trọng khu vực nông, lâm, ngư nghiệp và khai khoáng ngày càng giảm
trong tổng giá trị sản phẩm xã hội. Vì thế chỉ có cách tiến hành công nghiệp hoá
- hiện đại hoá mới làm được điều đó. Ngày nay lực lượng sản xuất phát triển như
vũ bão, khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp do đó mà các
nước đang phát triển phải tiến hành công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá để

15


xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống con người từ đó xây dựng cơ cấu kinh tế
nhiều ngành với công nghệ hiện đại, để chế tạo ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu
dùng có khả năng đảm bảo cho nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao và đảm bảo
đạt tới tiến bộ kinh tế, tiến bộ xã hội; công nghiệp hoá - hiên đại hoá còn để xây
dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại. Như thế có nghĩa là,
công nghiệp hoá không chỉ là sự phát triển công nghiệp mà còn là xây dựng quan
hệ phù hợp giữa công nghiệp và các ngành kinh tế khác, tạo điều kiện cho các
ngành và toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, hưóng tới mục tiêu tiến
bộ xã hội, là con đường tất yếu đối với các nước đang phát triển.
* Phát triển nguồn nhân lực - yếu tố quan trọng đảm bảo thành công của
quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
“Công nghiệp hoá - hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng
lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng

với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát
triển của công nghệ và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã
hội cao".
Như vậy, có thể nói, về thực chất công nghiệp hoá - hiện đại hoá là quá
trình cải biến lao động thủ công thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến trong
toàn bộ nền kinh tế quốc dân để đạt được năng suất lao động xã hội cao. Đó
không chỉ là quá trình tăng thêm một cách giản đơn tốc độ và tỉ trọng của sản
xuất công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân mà còn là quá trình chuyển dịch cơ
cấu, gắn liền với việc đổi mới công nghệ một cách thường xuyên, tạo nền tảng
cho sự tăng trưởng bền vững và có hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc

16


dân. Công nghiệp hoá không thể không gắn liền với hiện đại hoá, kết hợp với
những bước tiến tuần tự về công nghệ, tận dụng phát triển theo chiều rộng, tạo ra
ngày càng nhiều công ăn việc làm cho người lao động với tranh thủ những cơ hội
đi tắt, đón đầu, phát triển theo chiều sâu, tạo nên những mũi nhọn theo trình độ
phát triển của khoa học và công nghệ thế giới.
Cũng có thể nói, công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một quá trình xây dựng
xã hội văn minh, cải biến căn bản các ngành kinh tế, các hoạt động xã hội theo
phong cách của nền công nghiệp hiện đại, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế - xã hội
bền vững, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao
động. Nó không chỉ thể hiện ra ở các chỉ số khoa học - kỹ thuật - công nghệ hay
kinh tế - kỹ thuật mà quan trọng hơn là đảm bảo cho xã hội phát triển như một
chỉnh thể toàn vẹn (kinh tế - xã hội, vật chất - tinh thần), trên cơ sở giữ gìn và
phát huy bản sắc dân tộc, vì tiến bộ xã hội và phát triển con người toàn diện.
Nói một cách khái quát, công nghiệp hoá- hiện đại hoá trong thời đại ngày
nay là quá trình cải biến một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại, có trình
độ văn minh cao hơn, thể hiện không chỉ ở trình độ khoa học và công nghệ hiện

đại, tiên tiến, ở nền kinh tế phát triển cao, xã hội được tổ chức khoa học và hợp
lý mà còn ở đời sống chính trị, văn hoá, tinh thần của xã hội, ở sự phát triển con
người, ở sự giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
Sự thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài
môi trường chính trị ổn định, phải có các nguồn lực cần thiết, như: nguồn lực
con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật, vị trí địa lý và
nguồn lực nước ngoài. Các nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng
tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác động và

17


vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá không
giống nhau, trong đó nguồn lực con người là yếu tố quyết định.
Để xem xét vai trò của nguồn lực con người đối với công nghiệp hoá hiện đại hóa cần đặt nó trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác và ở mức
độ chi phối của nó đến sự thành, bại của công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đồng
thời phải đặt công nghiệp hoá trong tình hình này, khi cuộc cách mạng khoa học,
kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng
gia tăng và trở thành xu thế phổ biến của nhân loại, khi công nghiệp hoá gắn với
hiện đại hoá mà thực chất là hiện đại hoá lực luợng sản xuất.
Trước hết, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa
lý,... tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý
nghĩa tích cực xã hội khi được kết hợp với nguồn lực con người, thông qua hoạt
động có ý thức của con người. Bởi lẽ, con người là nguồn lực duy nhất biết tư
duy, có trí tuệ và ý chí, biết “lợi dụng” các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với
nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp, cùng tác động vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai
thác của con người và hết thảy chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích con
người, nếu con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế, trong các yếu tố cấu
thành lực luợng sản xuất, người lao động là một yếu tố quan trọng nhất, là lực

lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại.
Như đã biết, muốn công nghiệp hoá phải có vốn và nó chỉ trở thành nguồn
lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển khi nó nằm trong tay nhưng con
người biết sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao. Sự giàu có về tài nguyên
thiên nhiên và nhưng ưu thế về vị trí địa lý cũng sẽ mất ý nghĩa, nếu chủ nhân
của nó không có năng lực khai thác. Ngày nay, trước xu thế quốc tế hoá đời sống

18


kinh tế, sự hợp tác và thu hút đầu tư nước ngoài cũng là nguồn lực phát triển
quan trọng của nhiều nước. Nó tạo ra “cái hích” kinh tế, nhất là với các nước có
điểm xuất phát thấp. Nhưng sức mạnh của "cái hích” đó đến đâu, tác động tích
cực của nó như thế nào còn tuỳ thuộc vào yếu tố con người khi tiếp nhận nguồn
lực đó. Xét đến cùng, thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì
mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa thậm chí khái niệm "nguồn lực” cũng không
còn lý do để tồn tại.
Hơn nữa, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể khai thác cạn kiệt, trong
khi đó nguồn lực con người mà cái cốt lõi là trí tuệ, lại là nguồn lực vô tận. Tính
vô tận của trí tụê con người biểu hiện ở chỗ, nó có khả năng không chỉ tái sinh
và tự sản sinh về mặt sinh học, mà con tự đổi mới không ngừng, phát triển về
chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Đó
là cơ sở làm cho năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phát
triển như một quá trình vô tận, xét trên bình diện cộng đồng, nhân loại. Nhờ vậy,
con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, ngày càng khám phá ra những tài
nguyên thiên nhiên mới hoặc sáng tạo ra những nguồn tài nguyên vốn không có
sẵn trong tự nhiên.Với bản chất hoạt động có mục đích và sáng tạo, con người
bằng trí tuệ và lao động của mình đã liên tiếp chế tạo ra các thế hệ công cụ sản
xuất mới nhằm tác động vào tự nhiên có hiệu quả hơn. Chính sự phát triển không
ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ khí và ngày nay là tự động hoá,

đưa xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp lên cao, tự nó đã nói
lên tính vô tận của trí tuệ con người. Đúng là, "Tri thức có tính chất lấy không
bao giờ hết” [24, tr.41].
Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó đã được vật thể
hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo vĩ đại này của C.Mác đã và
đang trở thành hiện thực. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa

19


học-kỹ thuật và công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công
nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế của trí tuệ. Ở những nước này, lao
động trí tuệ ngày càng chiếm tỉ lệ cao, nguồn lợi mà họ thu được từ lao động
chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá tri sản lượng quốc gia, vi như ở Nhật Bản, riêng
nguồn lợi do tin học mang lại đã chiếm tới 40%. Giờ đây, sức mạnh của trí tuệ
đạt đến mức, nhờ nó con người có thể sáng tạo ra những máy móc “bắt chước”
hay “phỏng” theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng là, bằng
những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay, khối óc con người làm ra
mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ trong lịch sử
phát triển của mình. Với ý nghĩa đó, Alvin Toffler đã xếp quyền lực trí tuệ ở vị
trí hàng đầu trong tất cả các loại quyền lực đã từng có trong lịch sử.
Chính kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho
thấy, sự thành công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào
việc hoạch định đường lối, chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ
thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ không đạt được kết quả tốt nếu không lựa chọn
được mô hình đúng, các bước đi thích hợp và các giải pháp hữu hiệu, phù hợp
với điều kiện cụ thể của mỗi nước và bối cảnh quốc tế, dù có đủ các nguồn lực
khác. Không hiếm các nước giàu có về tài nguyên thiên nhiên và được tài trợ lớn
từ bên ngoài nhưng vẫn không thành công trong việc công nghiệp hoá. Điều này

một lần nữa nói lên vai trò quyết định của nguồn lực con người - chủ thể trực
tiếp, hiện thực của toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nói tóm lại, tiềm năng sức lao động - con người với trí tuệ và lao động
được định hướng bởi trí tuệ đó đã và đang là tài sản quý giá nhất, là nguồn lực
quan trọng nhất quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Vai trò này ngày càng
tăng lên khi trí tuệ hoá lao động đang trở thành xu thế phổ biến. Vì vậy, trong

20


chiến lược phát triển của mình nhiều nước đã đặt con người vào vị trí trung tâm,
quan tâm đặc biệt đến yếu tố con người và chuyển đối tượng khai thác vào chính
bản thân con người. Hiện tượng các nước công nghiệp mới Đông Á là những cứ
liệu xác thực cho nhận thức về vai trò quyết định của nguồn lực con người trong
quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá. Sự thành công của những nước này do
nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có một nguyên nhân mang tính đặc trưng đó
là họ đã sớm nhận thức đúng vai trò quyết định của nguồn lực con người và đầu
tư thoả đáng cho chiến lược con người, đặt lên hàng đầu chất lượng nguồn lao
động, đặc biệt là các yếu tố văn hoá, kỹ thuật và kỷ luật, đi trước một bước về
giáo dục và đào tạo, coi đó là chìa khoá của sự tăng trưởng, là điều kiện đảm bảo
cho sự thắng lợi của công nghiệp hoá. Chẳng hạn để chuẩn bị cho công nghiệp
hoá Hàn Quốc đã có kế hoạch “trí tuệ hoá” toàn dân. Nhờ vậy ngay từ năm 1960
họ đã đạt được 100% lao động có trình độ văn hoá cấp I, đến năm 1990 thì 94%
người lao động đã tốt nghiệp cấp II và năm 1980 họ đã tới mặt bằng học vấn là
8,0 lớp. Chi phí cho giáo dục của họ chiếm tới 20% tổng chi phí ngân sách nhà
nước [4. tr.58] hay ở Đài Loan, trong 30 năm từ 1952 đến 1981 tổng giá trị sản
phẩm quốc dân tăng 26,43 lần nhưng kinh phí cho giáo dục tăng hơn 90 lần. Có
thể nói rằng, nền kinh tế của các nước này có sự phát triển nhanh phần lớn nhờ
vào sự phát triển nhanh của giáo dục và khoa học kỹ thuật. Kinh nghiệm về xây
dựng và sử dụng nguồn lực con người của các nước công nghiệp mới Đông Á là

những bài học bổ ích, rất đáng để cho các nước chuẩn bị bước vào công nghiệp
hoá, hiện đại hoá tham khảo.
Vai trò quyết định của nguồn lực con người chỉ trở thành hiện thực khi
người lao động có những năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng được những
yêu cầu mà quá trính công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi.

21


Yếu tố hàng đầu của nguồn lực con người trước hết là trí tuệ, bởi vì “tất cả
cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc của họ”
tức là phải thông qua trí tuệ. Trình độ trí tuệ phản ánh qua trình độ học vấn và tài
năng sáng tạo. Nó biểu hiện ở tài năng áp dụng những thành tựu khoa học để
sáng chế ra những kỹ thuật công nghiệp tiên tiến, ở sự nhạy bén thích ứng nhanh
và làm chủ được những kỹ thuật, công nghệ hiện đại có kỹ năng lao động nghề
nghiệp có năng lực hoạch định chính sách, lựa chọn giải pháp và tổ chức thực
hiện biết quản lý sản xuất, kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá, cơ
chế thị trường và phân công lao động quốc tế. Để có được những năng lực này,
ngoài tư chất ban đầu, vai trò chủ yếu thuộc về giáo dục và đào tạo, vì đó là
phương tiện hữu hiệu để phát triển trí tuệ và trang bị chuyên môn, nghề nghiệp,
là giá đỡ cho tiềm năng sáng tạo của con ngưòi.
Sau trí tuệ là yếu tố sức khoẻ - yêu cầu không thể thiếu được đối với người
lao động. Sức khoẻ là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là
phương tiện tất yếu để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, để biến tri
thức thành sức mạnh vật chất. Nó bao gồm không chỉ sức khoẻ cơ thể mà còn cả
sức khoẻ tinh thần, đó là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, là sức mạnh của
niềm tin và ý chí, là khả năng vận động trí lực... điều này càng có ý nghĩa quan
trọng khi lao động trí tuệ ngày một chiếm ưu thế.
Sản xuất công nghiệp còn đòi hỏi ở người lao động hàng loạt các phẩm
chất như: kỷ luật tự giác, tiết kiệm nguyên vật liệu và thời gian, tích cực bảo

dưỡng thiết bị máy móc, có tinh thần hợp tác và tác và phong lao động công
nghiệp, có lương tâm nghề nghiệp và trách nhiệm cao đối với sản phẩm... Nghĩa
là người lao động phải có văn hoá lao động công nghiệp.

22


Mặt khác, quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá còn đụng chạm đến
các vấn đề phức tạp trong quan hệ giữa con người với thiên nhiên mà chỉ có thể
giải quyết được nhờ trình độ cao của văn hoá sinh thái. Đây là vấn đề cấp bách,
sống còn không chỉ đối với mỗi quốc gia mà còn đối với nền văn minh công
nghiệp. Con người vốn có cội nguồn từ thiên nhiên và không thể tách rời thiên
nhiên trong sự tồn tại và phát triển của mình. Vì vậy, sự hiểu biết và trách nhiệm
cao trước vấn đề môi trường sinh thái là vấn đề cấp bách, sống còn không chỉ với
mỗi quốc gia mà còn đối với nền văn minh nhân loại. Con người vốn có cội
nguồn từ thiên nhiên và không thể tách rời thiên nhiên trong sự tồn tại và phát
triển của mình. Vì vậy, sự hiểu biết và trách nhiệm cao trước vấn đề môi trường
sinh thái cũng là một năng lực phẩm chất quan trọng của người lao động trong
quá trình tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nó biểu hiện ở chỗ người ta
cần đánh giá đúng những hậu quả do sản xuất công nghiệp gây ra mà các nước đi
trước đã trải qua như huỷ hoại nguồn nước, ô nhiễm môi trường, khai thác cạn
kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên... dẫn đến mất cân bằng sinh thái, làm nguy hại
đến cuộc sống con người và sự phát triển lâu bền của đất nước. Ngoài ra cũng
cần thấy rằng sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá khó có thể đạt được kết
quả tốt nếu không có những công dân yêu nước, ham học hỏi, cần cù lao động và
sáng tạo, có tinh thần hợp tác, ý chí tự chủ vươn lên và lòng tự trọng dân tộc cao,
không cam chịu nghèo nàn, lạc hậu, biết kết hợp hài hoà yếu tố truyền thống và
hiện đại, sống khoan dung và tôn trọng sự đa dạng, khác biệt.
1.2. Đào tạo công nhân kỹ thuật và vai trò của nó đối với công nghiệp
hoá - hiện đại hoá

1.2.1. Vị trí của đội ngũ công nhân kỹ thuật trong việc phát triển nguồn
nhân lực thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá

23


×