Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Nghệ thuật kết cấu truyện ngắn nguyễn huy thiệp (ở cấp độ kết cấu hình tượng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.56 KB, 55 trang )

Luận văn tốt nghiệp

Lời cảm ơn
ôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến các
thầy cô giáo trong Khoa Ngữ văn, đặc biệt là thầy
Nguyễn Hữu Vinh - ngời đã trực tiếp hớng dẫn tôi
hoàn thành khoá luận này.
T

Vinh, ngày 24 tháng 05 năm 2003
Tác giả :
Nguyễn Thị Thuỳ

Linh

Mục lục
Trang

A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung

1
9
9

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

1

Chơng I: Kết cấu - một số vấn đề giới thuyết chung



Luận văn tốt nghiệp
1.1. Kết cấu và kết cấu tác phẩm văn học
1.2.Nghệ thuật kết cấu truyện ngắn

9
11
16

2.1. Hệ thống nhân vật
2.2. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp
2.2.1. Hệ thống nhân vật cô đơn lạc lõng trong quan hệ
đối lập tơng phản với hệ thống nhân vật tha hoá
2.2.2 Hệ thống nhân vật kiếm tìm trong quan hệ đối
lập tơng phản với hệ thống nhân vật tha hoá

16
16

Chong III: Nghệ thuật kết cấu hệ thống sự kiện trong
truyện ngắnNguyễn Huy Thiệp

38

3.1. Vai trò của sự kiện trong nghệ thuật kết cấu
3.2. Kết thúc mở
3.3. Kết cấu truyện đa tầng đa nghĩa
3.4. Hệ thống sự kiện có kịch tính cao
3.5. Mô típ về những cái chết

3.6. Thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp

38
39
44
49
51
54
62
65

Chơng II: Nghệ thuật kết cấu hệ thống nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

C. Kết luận

Th mục tham khảo

19
29

A. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài

Trên văn đàn Việt Nam những năm 80 của thế kỷ XX, xuất hiện một
hiện tợng lạ - " hiện tợng Nguyễn Huy Thiệp " . Đây là một thành quả của thời
kỳ đổi mới ở nớc ta trên lĩnh vực văn học. ở thời kỳ đổi mới của đất nớc, con
ngời, xã hội, cuộc sống trở nên phong phú đa dạng hơn và cũng phức tạp hơn.
Văn học để phản ánh đời sống phải tự đổi mới trên nhiều phơng diện.
Cùng với các nhà văn nh: Lê Lựu, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Quang

Sáng, Nguyễn Khắc Trờng, Nguyễn Khải, . . . văn Nguyễn Huy Thiệp tạo cho
mình một dấu ấn đặc biệt - " dấu ấn Nguyễn Huy Thiệp " . Các sáng tác của
anh đợc ghi nhận bằng hàng loạt các bài báo, bài nghiên cứu. Phải công nhận
1.1.

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

2


Luận văn tốt nghiệp
rằng"hiện tợng Nguyễn Huy Thiệp " còn cần rất nhiều bút mực của giới
nghiên cứu cũng nh những ngời yêu văn chơng.
Nguyễn Huy Thiệp là ngời đầu tiên trong văn học Việt Nam lập kỷ lục
có đợc bài viết nhiều nhất về sáng tác của mình trong một thời gian ngắn và
không có độ lùi. Và nh Nguyễn Minh Châu đã nhận xét: văn Nguyễn Huy
Thiệp hớng về cái Tôi, sau một thời gian dài văn học theo cảm hứng sử thi.
Giai đoạn đổi mới, văn học đã "cỏi trói" để một " con chim nh Nguyễn Huy
Thiệp vùng vẫy trên bầu trời tự do"
Bắt đầu xuất hiện bằng "Những chuyện kể bất tận của thung lũng Hua
Tát
"đăng trên báo Văn nghệ nhng tên tuổi Nguyễn Huy Thiệp còn khá
mờ nhạt. Phải đến tháng 6/1987 khi "Tớng về hu" đợc ra mắt bạn đọc thì
Nguyễn Huy Thiệp đã thực sự gây xôn xao d luận. Hầu nh mọi giới, cả độc
giả lẫn nhà phê bình đều bị cái "ma lực" trong truyện Nguyễn Huy Thiệp thu
hút lấy bởi cái lối viết lạ, bí ẩn nhng vô cùng hấp dẫn.
Hàng loạt tác phẩm ra đời tạo ra một "Nguyễn Huy Thiệp " hoàn chỉnh
hơn đa dạng và cũng vô cùng phức tạp. Đọc tác phẩm của ông nhiều ngời
khen, kẻ chê nhng ai đã đọc, đã tâm huyết thì cũng thành tri kỷ.
Tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp giàu chất suy t, triết lý. Có ngời đã nói

"Nếu ví nền Văn chơng nh một cơ thể thì Văn chơng Nguyễn Huy Thiệp
chính là cái nhíu mày đầy suy t ". Nguyễn Huy Thiệp viết văn không chỉ nói
lên sự đời mà anh còn bàn luận về sự đời, về cả văn chong. Những vấn đề anh
đặt ra trong tác phẩm không thể không làm ngời ta day dứt băn khoăn, không
thể dửng dng trớc cuộc đời, với con ngời và với nghề nghiệp.
Nguyễn Huy Thiệp đã đa ta vào thế giới lung linh huyền ảo của "Con
gái thuỷ thần", vào những thiên cổ tích "Những ngọn gió Hua Tát", về "Thơng
nhớ đồng quê" để dạy ta "Những bài học nông thôn", lên thành thị để học về "
Huyền thoại phố phờng". Ông lạnh lùng dội những xô nớc lạnh toát lên đầu
chúng ta, lôi tuột chúng ta từ khoảng không giữa trời và đất, bắt ta phải hiểu
rằng trớc khi muốn nhìn lên bầu trời thì phải nhìn mặt đất đã. Nhng Nguyễn
Huy Thiệp cũng đa ta vào thế giới h cấu nửa thực nửa ảo của những danh
nhân lịch sử trong" Vàng lửa", " Kiếm sắc", "Phẩm tiết", "Chút thoảng Xuân
Hơng" để nhìn nhận lại cuộc đời thực hôm nay. Và không ít ngời cảm thây
"nh đứng trớc rừng chông nhọn" , thấy rùng rợn trớc cuộc sống trong "Tớng về
hu", để cảm thơng cho kiếp ngời "lạc loài" - Tớng Thuấn. Đồng thời cũng xót
xa, đau đớn, sợ hãi trớc nỗi đau nhân tình thế thái và hoang mang bởi câu

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

3


Luận văn tốt nghiệp
chuyện cổ tích giữa đời thờng (Con gái thuỷ thần) và gia phả năm đời tồn tại
của họ Phạm ( Giọt máu). Hơn thế nữa, cảm giác xót xa ghê rợn còn hiển hiện
khi chứng kiến một cuộc sống không tôn ti trật tự, lộn xộn láo nháo của đám
sinh vật biết đi lại nói năng trong "Không có Vua", là nỗi dằn vặt tự nhìn lại
mình ở tình mẫu tử trong "Tâm hồn mẹ".
1.2. Nói chung truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đa dạng, đã "làm dậy

sóng cả mặt hồ văn chơng bấy lâu nay vẫn êm lặng" - (Chu Giang Nguyễn
Văn Lu) thì quả là ngòi bút cũng có một phong cách độc đáo kỳ lạ đáng quan
tâm. Truyện ngắn của ông đã thu hút sự chú ý của mọi ngành, mọi giới, có rất
nhhiều luồng ý kiến khác nhau: khen thì hết mức, "là giọt vàng ròng", chê thì
chê hết lời, "là bắn súng lục vào quá khứ". Vấn đề luôn đợc quan tâm trong
văn ông là "chữ Tâm" và "chữ Tài", có ngời cho rằng Tài nặng hơn Tâm . Dẫu
sao, khen, chê cũng là những ý kiến để nhằm tìm tòi phát hiện những chân lý,
tìm ra nét độc đáo trong phong cách nhà văn, trong thế giới nghệ thuật - một
chân trời hấp dẫn nhng vô cùng bí ẩn, phức tạp.
Và điều phải công nhận là Nguyễn Huy Thiệp là một nhà văn trẻ đầy
tài năng là tinh thần lao động trung thực dũng cảm. Truyện của ông hấp dẫn
lôi cuốn ngời đọc, nh ông đã có lần viết về mình " Đến thế hệ tôi vấn đề cá
nhân đã trỗi dậy, tạo nên một giai đoạn mới. Điều tôi quan tâm là nói về cái
cá nhân với những nhiệm vụ và nỗi khổ của nó, những đam mê hy vọng của
nó. Tôi cũng viết về những tình cảm hung bạo, sự hung bạo này có trong mọi
quan hệ nhân sinh".
1.3. Trong số vài ý kiến khen, chê những sự bình giá khác nhau trên bớc
đờng vào làng văn đầy chông gai của Nguyễn Huy Thiệp , chúng tôi tập trung
nghiên cứu về nghệ thuật kết cấu truyện ngắn của ông. Vì kết cấu tổ chức tác
phẩm tức là sáng tác, là sáng tạo. Điều này giúp chúng ta hiểu sâu hơn những
kiến thức lý luận đã học: hệ thống nhân vật, thể loại tác phẩm văn học
( Truyện ngắn) , sự kiện, chi tiết, cốt truyện . . .
Đồng thời khi tìm hiểu kết cấu cũng là con đờng đi vào thế giới nghệ
thuật của nhà văn, phong cách nhà văn. Qua đó ta làm quen dần với cách vận
dụng những kiến thức lý luận chung mang tính khái quát, chiếu ứng vào một
số tác phẩm cụ thể của một nhà văn mang phong cách độc đáo trên cơ sở một
công trình nghiên cứu tơng đối quy mô, khoa học.
Sự tìm hiểu này cũng góp sức vào hành trình " Đi tìm Nguyễn Huy
Thiệp " của các độc giả quan tâm tới văn của ông.
2. Lịch sử vấn đề


Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

4


Luận văn tốt nghiệp
Với phong cách đặc biệt của mình, Nguyễn Huy Thiệp đã náo loan cả
giới văn học, khuấy động mặt hồ yên tĩnh của đời sống văn học những năm trớc đó bởi tính độc đáo, "hai lần lạ" trong sáng tác.
Hiện tợng "mới thật là mới", là độc đáo, chỉ mình anh đã tạo nên một
đời sống văn học kéo dài cả mấy năm trời và còn nóng bỏng dến ngày hôm
nay (Nguyễn Hải Hà-Nguyễn Thị Bình). Theo sự thống kê của hai tác giả này
từ giữa năm 1987 - 1989 đã có trên 70 bài viết về sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp , trong đó có quá nửa tập trung vào "Tớng về hu" và bộ ba truyện ngắn
"lịch sử giả ": "Vàng lửa", "Kiếm sắc", "Phẩm tiết".
Năm 1989, NXB Trẻ cho ra đời "Nguyễn Huy Thiệp - tác phẩm và d
luận" nhng cha giới thiệu đầy đủ về sáng tác của ông. Và đến năm 2000, tác
giả Phạm Xuân Nguyên đã tuyển chọn su tầm công phu cuốn "Đi tìm Nguyễn
Huy Thiệp " có đợc 54 bài viết khá tiêu biểu, nổi bật cho xu hớng đánh giá về
hiện tợng độc đáo này.
Tuy có nhiều bài phê bình nghiên cứu nhng vấn đề nghệ thuật kết cấu
truyện Nguyễn Huy Thiệp mới chỉ ở mức độ sơ sài, có khi chỉ mới lớt qua.
Nói "Về cái ma lực trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp" nhà phê bình văn
học Đông La đã nhận xét:"Truyện của anh thờng không có cốt truyện, là
chuyện của nhiều vấn đề. Nó chảy nh một dòng chảy tự nhiên. Sự cuốn hút
của chúng không phải là sự bất ngờ, mà ở độ sâu sắc của những ý tởng , ở tầm
triết lý liên quan tới cuộc sống con ngời. Nó không cần sự kín đáo của cách
viết mà cần khả năng trí tuệ của tác giả" và " Cấu trúc truyện của anh dờng
nh còn rất ít bóng dáng các kết cấu chặt chẽ, khuôn mẫu của truyện ngắn cổ
điển. . . Nó có kết cấu nh kết cấu của tiểu thuyết, nó lỏng lẻo nh chính cái

lỏng lẻo của cuộc sống. Chúng phản ánh đợc cái không khí của thời hiện đại
này: sôi động, nhiều thông tin, đồng hiện đan xen nhau".[ 7,137 - 138 ]
- Tác giả Nguyễn Thanh Sơn trong "Đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp" đã
viết "Nguyễn Huy Thiệp căm thù sâu sắc những kết thúc truyền thống (Trơng
Chi) hay chính xác hơn ông căm thù tất cả những bức màn mà thói đạo đức
giả đã căng ra trớc mắt con ngời không cho họ nhìn thẳng vào sự thật".
[ 7,121]
- ở trong "Tớng về hu - một tác phẩm có tính nghệ thuật" ,Trần Đạo
nhận xét:" . . . Cốt truyện không có gì hấp dẫn . . . không có cốt truyện . Hay ở
nội dung. Nhng không phải nội dung cốt truyện, nội dung t tởng . . . Hay ở
nội dung hành văn. Tức là bản thân lối viết trực tiếp xúc động lòng ngời đọc . .

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

5


Luận văn tốt nghiệp
. Nhịp văn "Tớng về hu" là nhip thở dốc. Câu văn ngắn ngủn . . . Thế giới "Tớng về Hu" là một thế giới trong đó con ngời không có hoài bão, xã hội không
có tơng lai. Vì thế nó không cần cốt, không có cốt truyện." [7,42 - 47 ]
Đào Duy Hiệp trong "Đọc Chút thoáng Xuân Hơng" đã nhận xét: "có
kết cấu chặt chẽ viết về một chân dung văn học quá khứ" đó là lối kết cấu "3
trong 1" mà hình tợng Xuân Hơng là xuyên suốt". Tác giả đã khẳng định "cái
đẹp muôn thuở đợc xử lý qua nghệ thuật đảo ngợc hai tuyến nhân vật và đợc
chiêm ngỡng qua cái nhìn độc đáo hiện đại của Nguyễn Huy Thiệp . Nguyễn
Huy Thiệp đã mở ra một hớng mới cho thể loại truyện ngắn - chân dung sắc
sảo sâu xa nhìn từ góc độ hôm nay".[ 7,86 ]
- Lê Thị Hơng đã nhận xét "Nhìn chung mạch truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp không khép. ở phần đầu tác phẩm luôn luôn mở ra những khoảng trống,
ở "Con gái thuỷ thần" kết thúc là những câu hỏi. Vấn đề cứ lơ lửng mang màu

sắ c huyền thoại". [ 3 ]
Cũng ở cách kết thúc truyện, Bùi Việt Thắng khi nói về "Vàng lửa" đã
cho rằng: Nguyễn Huy Thiệp trong "Vàng lửa " đã đa ra 3 cách kết thúc cho
ngời đọc lựa chọn. Kết thúc nào có thể là tối u? Có thể không có. Bằng lối kết
thúc mở này tác giả đã cố gắng phá vỡ thói quen ở ngời đọc nhiều khi giản
đơn và phiến diện trớc các vấn đề của cuộc sống. [11]
- Trong "Có nghệ thuật ba rốc trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp hay không", Thái Hoà đã chỉ ra " có một cảm hứng ba rốc chỉ đạo nghệ
thuật với những nét tiêu biểu: - Quan niệm thế giới là một kịch trờng
- Tấn kịch lớn nhất của con ngời là sự tìm kiếm Chân -Thiện-Mỹ
- Sự năng động chuyển hoá gây cảm giác kinh dị, khác thờng
- Sự rờm rà trên bề mặt và chiều sâu ẩn hiện của tác phẩm
Nội dung đó thấm đợm trong kết cấu, trong từng chi tiết cho đến lời
văn". [ 7,107 ]
Một tác giả nớc ngoài T.N Filimonova trong" Thơ trong văn Nguyễn
Huy Thiệp" đã chỉ ra:"Đặc điểm nổi bật của văn xuôi Nguyễn Huy Thiệp là
việc thờng xuyên sử dụng thơ . . . Thơ đợc mô típ hoá theo cốt truyện một
cách vừa tự nhiên vừa đúng lô gích sự vật . . . Các bài ca đóng vai trò cấu
thành cốt truyện cực kỳ quan trọng". [ 7,154 ]
Với phạm vi của đề tài nghiên cứu về nghệ thuật kết cấu trên cấp độ kết
cấu hình tợng thì những nhận xét về hệ thống nhân vật trong truyện Nguyễn
Huy Thiệp là một điểm đáng lu ý. Ngay ở bài đầu tiên" Tôi không chúc bạn

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

6


Luận văn tốt nghiệp
thuận buồm xuôi gió", Hoàng Ngọc Hiến đã nêu lên cái gọi là" Thiên tính

nữ":"Trong các nhân vật nữ có những ngời u tú, nhiều ngời đáng gọi là liệt nữ.
Nó là hiện thân của nguyên tắc t tởng tạo ra cảm hứng chủ đạo của tác giả".
Hơn nữa, tác giả còn viết: "Đểviết chân thật về cuộc đời thực tại với toàn bộ
những mâu thuẫn phức tạp của nó, Nguyễn Huy Thiệp đi tìm điểm tựa tinh
thần. Thiên tính nữ là một điểm tựa quan trọng của tác giả. Thiếu một diểm
tựa nh vậy văn chơng viết về những sự xấu xa của con ngời sẽ trở thành một
thứ văn chơng vô lại mà mục tiêu cao nhất là lột truồng con ngời ra phơi bày
toàn bộ những sự đớn hèn của nó". [ 7,19 ]
Những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp đợc nghiên cứu trên tất cả các
phơng diện, song rất ít bài tập trung nghiên cứu về một phơng diện cụ thể, đặc
biệt là nghệ thuật kết cấu trên cấp độ kết cấu hình tợng. Vì vậy, việc nghiên
cứu một cách công phu, khoa học là một việc cần thiết. Các ý kiến bàn luận ở
trên đợc xêm nh những gợi ý đáng quý để chúng tôi hoàn thiện công trình này.
3.Nhiệm vụ nghiên cứu

Vấn đề kết cấu tác phẩm là vấn đề rất rộng, thờng đợc nghiên cứu ở hai
khía cạnh: - Kết cấu hình tợng
- Kết cấu văn bản nghệ thụât.
Trong phạm vi một luận văn, chúng tôi không có điều kiện đi sâu tìm
hiểu toàn bộ các khía cạnh. Vì vậy ở đề tài khoá luận này chúng tôi chỉ tập
trung nghiên cứu nghệ thuật kết cấu ở cấp độ kết cấu hình tợng mà cấp độ này
bao gồm hai phơng diện: Thứ nhất là kết cấu hệ thống nhân vật, thứ hai là
kết cấu hệ thống sự kiện.
Nếu có điều kiện chúng tôi xin đợc trở lại đề tài này với những vấn đề
còn lại trong thời gian sau.
4. Phơng pháp nghiên cứu

" Kết cấu" và "Kết cấu hình tợng" là những khái niệm thuộc phạm trù
chuyên ngành Lý luận Văn học. Vì thế, trong quá trình tiến hành luận văn
này. chúng tôi sẽ vận dụng một số kiến thức lý luận cơ bản, khái quát soi

chiếu vào các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp để làm sáng tỏ vấn đề. Kiến
thức lý luận là một trong những cơ sở nền tảng vững chắc để chúng tôi có đợc
những nhận định khoa học hơn.
Cùng với việc vận dụng các kiến thức lý luận đó, chúng tôi áp dụng các
phơng pháp cơ bản sau: Phân tích, khảo sát thống kê, tổng hợp, hệ thống hoá,
so sánh đối chiếu.

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

7


Luận văn tốt nghiệp

5. Cấu trúc luận văn

Luận văn ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và th mục tham khảo còn
đợc cấu tạo gồm 3 chơng:
Chơng I: Kết cấu - một số vấn đề giới thuyết chung
Chơng II: Nghệ thuật kết cấu hệ thống nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp
Chơng III: Nghệ thuật kết cấu hệ thống sự kiện trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp

B. Phần nội dung
Chơng I: Kết cấu - một số vấn đề giới thuyết
chung
1.1. Kết cấu và kết cấu tác phẩm văn học

1.1.1. Kết cấu trớc hết là của ngành kiến trúc xây dựng, nó là một phạm


trù phổ quát cả trong đời sống xã hội lẫn trong văn học. Từ những vật liệu

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

8


Luận văn tốt nghiệp
khác nhau, trên một không gian nhất định, ngời ta có thể xây dựng nên những
công trình hợp lý, thoả mãn mọi yêu cầu của con ngời. Bản thân công việc xây
dựng kiến trúc đã là một cộng việc kết cấu, một kết cấu xây dựng muốn đạt đợc tới giá trị hợp mục đích và hợp lý tối đa, ngời ta phải nắm vững quy luật về
mọi mặt liên quan đến công trình nh địa chất, độ chịu lực của vật liệu, sức nén
. . . và xử lý chính xác các liên hệ có tính quy luật tạo ra những kết cấu đạt
giá trị cao nhất mang tính chủ thể. Đó là những chỉnh thể do con ngời tạo ra.
Nếu thế giới tự nhiên là một chỉnh thể tồn tại trong mối liên hệ quy luật
thì bản thân nó cũng có ý nghĩa một kết cấu. Đó là kết cấu tự nhiên không tự
giác, không lệ thuộc vào trí tuệ con ngời nhng chỉ có trí tuệ con ngời mới phát
hiện nó là một kết cấu có ý nghĩa chỉnh thể.
1.1.2. Sáng tác văn học trên một phơng diện nào đó cũng chính là kết
cấu. Một tác phẩm nghệ thuật đích thực là một thế giới tinh thần do con ngời
sáng tạo ra. Nó có thể không hoàn toàn đầy đủ các yếu tố hình thức nghệ thuật
nhng nếu thiếu vắng kết cấu nghệ thuật thì bản thân nó cha thành một chỉnh
thể, cha thành nghệ thuật. Nói một cách khái quát kết cấu tác phẩm văn học
là"toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động gợi cảm của tác phẩm" dới sự chi
phối của một quan niệm nghệ thuật nhất định.
"Kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trng nghệ
thụât và nhiệm vụ cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu tác phẩm
không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và t tởng trong tác phẩm". [ 14,
295 ]

"Kết cấu là phơng tiện cơ bản là tất yếu của khái quát nghệ thuật, đảm
nhiệm các chức năng rất đa dạng, bộc lộ tốt chủ đề và t tởng của tác phẩm,
triển khai, trình bày hấp dẫn cốt truyện, cấu trúc hợp lý hệ thống tính cách,
điểm nhìn trần thuật của tác giả tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm nh là một
hình tợng thẩm mỹ". [ 14, 295 ]
Nh vậy, nghệ thuật kết cấu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, là đứa
con tinh thần của tác giả đợc nhào nặn từ những phơng tiện, chất liệu đặc biệt.
1.1.3. Phân biệt khái niệm kết cấu tác phẩm văn học với một số khái
niệm tơng liên gần gũi.
Với khái niệm "Bố cục": bố cục chỉ là một biểu hiện của kết cấu trên bề
mặt tác phẩm, vì ta nhận ra bố cục của tác phẩm căn cứ vào sự phân chia các
chơng, đoạn, khổ( thơ) . . . đợc nhận biết bằng trực quan nh số La mã, ả rập,
dấu hoa thị, dòng . . .

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

9


Luận văn tốt nghiệp
Bố cục ở cấp độ thấp hơn kết cấu. Kết cấu là chiến lợc, là định hớng còn
bố cục là sắp xếp, phân bố các chơng đoạn, các bộ phận của tác phẩm theo
một trình tự nhất định. Bố cục là một phơng diện của kết cấu.
Cấu trúc và kết cấu là những khái niệm gần nghĩa nhau. Sự phân biệt
chúng là khá tơng đối vì không phải mọi khái niệm đều phải phân biệt rạch ròi
nhng có thể có một khái niệm tơng đối: khái niệm kết cấu rộng hơn cấu trúc.
Cấu trúc chỉ là phần bất biến ổn định, vững bền của mối quan hệ giữa các yếu
tố tham gia vào tổ chức tác phẩm. Vì vậy, không nên đồng nhất hai khái niệm
này.
Tóm lại, kết cấu là một khái niệm thuộc phạm trù hình thức của tác

phẩm văn học. Toàn bộ các yếu tố thuộc về hình thức( tức là các yếu tố biểu
hiện nội dung có thể phân tích đợc) năm trong hai nhóm gọi ớc lệ là hình tợng
và văn bản nh hệ thống nhân vật, sự kiện, không gian, thời gian, câu, đoạn, hệ
thống điểm nhìn, mở đầu kết thúc đều tham gia vào kết cấu.
Vai trò của kết cấu là đảm nhiệm tổ chức các yếu tố trên thành một
chỉnh thể theo phơng thức:dùng một chuỗi phơng tiện ngôn từ kế tiếp nhau
theo thời gian làm sống dậy hình tợng trong mọi chiều kích và thiết lập trật tự
cho nó.
Mục đích của kết cấu là xây dựng nên một thế giới nghệ thuật bộc lộ rõ
cảm quan của nhà văn về đời sống, vạch ra con đờng giúp độc giả có thể theo
đó mà nhận ra ý nghĩa của thế giới nghệ thuật vừa đợc tạo nên và tự xác lập
một cách nhìn đời mới theo gợi ý của tác giả.
Bản chất của kết cấu là hai mặt gắn bó, chuyển hoá lẫn nhau là" các quy
luật, phơng thức , các nguyên tắc tổ chức tác phẩm có tính chất ổn định bền
vững nào đó. Và sự thể hiện đa dạng sinh động cá biệt của cái ổn định đó, tạo
thành sức hấp dẫn không lặp lại của tác phẩm". [14, 299 ]
1.1.4. Các bình diện (cấp độ) của kết cấu
Theo tài liệu Lý luận văn học do GS Trần Đình Sử chủ biên thì khái
niệm kết cấu đợc mở rộng theo chiều ngang tức là ở bình diện tổ chức thể loại:
kết cấu tự sự, kịch, trữ tình . . . khái niệm này còn đợc xem xét ở chiều dọc tức
là nghiên cứu mối quan hệ quy định và tuỳ thuộc của các cấp độ tác phẩm nh
một chỉnh thể.
Kết cấu tồn tại ở hai cấp độ: Cấp độ hình tợng là "toàn bộ tổ chức của
thế giới nghệ thuật gồm : hệ thống các nhân vật, hệ thống các sự kiện, tình
tiết, và trình tự xuất hiện của chúng, tơng quan các chi tiết tạo hình, biểu hiện

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

10



Luận văn tốt nghiệp
tạo nên bức tranh sinh động về cuộc sống, các tơng quan về không gian, thời
gian. Đây là cấp độ bề sâu gắn liền ý đồ nghệ thuật và các tính cách đợc phản
ánh". [ 14, 298 ]
Thứ hai là cấp độ trần thuật gồm sự liên tục của các biện pháp trần
thuật, sự tổ chức các câu, sự vận dụng các phơng thức tu từ.
1.2. Nghệ thuật kết cấu truyện ngắn

Nghiên cứu thể loại là một yêu cầu quan trọng để nghiên cứu nghệ thuật
kết cấu tác phẩm của một tác giả nào đó.
1.2.1. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, NXB GD, 1998 đã định nghĩa
"Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung thể loại của truyện ngắn bao
trùm hầu hết các phơng diện của đời sống: đời t, thế sự hay sử thi. Nhng cái
độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn đợc viết ra để tiếp thu một mạch đọc một
hơi không nghỉ . . . Truyện ngắn không nhằm tới việc khắc hoạ những tính
cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong tơng quan với hoàn cảnh. Nhân vật
của truyện ngắn thờng là hiện thân cho một quan hệ xã hội, ý đồ hoặc một
trạng thái của một con ngời. Cốt truyện diễn ra trong một không gian, thời hạn
hạn chế . . . Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều tuyến mà xây
dựng theo nghệ thuật tơng phản hoặc liên tởng"
Nguyễn Minh Châu trong Trang giấy trớc đèn đã ví "truyện ngắn nh
thân cây cổ thụ: chỉ liếc qua những đờng vân trên khoanh gỗ tròn tròn kia, dù
sau trăm năm vẫn thấy cả cuộc đời của thảo mộc". Ông đòi hỏi viết truyện
ngắn phải có " một thứ kỹ thuật tinh xảo: kỹ thuật viết truyện ngắn. Nó có gì
giống kỹ thuật của ngời làm pháo: dồn nén t tởng vào một cái cốt truyện thật
ngắn gọn, thật tự nhiên ". Ông cũng đã từng so sánh "nếu tiểu thuyết là một
đoạn của dòng đời thì truyện ngắn là mặt cắt của dòng đời" [ 1,251 ] đòi hỏi ở
ngời viết một công việc tổ chức, cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt.
Sêkhôp đã nói:"Nghệ thuật truyện ngắn là nghệ thuật cắt tỉa, tớc bỏ

những gì không cần thiết" [ 8 ] . Và cái hình thức nghệ thuật khó viết bậc nhất
này đã đợc bàn tay, khối óc Nguyễn Huy Thiệp sáng tạo ra một "thứ quả ăn đợc, nhân nhỏ mà vỏ nhiều lớp, phải bóc dần dần và kiên trì" [ 11 ].
Cái "mặt cắt" của dòng đời ấy rất phong phú đa dạng trong sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp .
Để làm rõ khái niệm truyện ngắn chúng tôi phân biệt với một số khái
niệm khác. Trớc tiên là với khái niệm tiểu thuyết, một số nhà nghiên cứu Mĩ
cho rằng:"Tiểu thuyết có tính chất tự sự, truyện ngắn hiện đại nghiêng về tính
trữ tình, tính kịch nhiều hơn là tính tự sự. Trong truyện ngắn ta cảm nhận đợc
Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

11


Luận văn tốt nghiệp
tâm thức hoặc nhân cách nhân vật đợc bộc lộ nhiều hơn là cảm nhận đợc ý
nghĩa câu chuyện đợc tờng thuật". [ 17 ]. Phân biệt với khái niệm thơ trữ tình:
Thơ trữ tình chủ yếu là độc thoại còn đối thoại xuất hiện trong những trờng
hợp hiếm hoi, hữu hạn. Quá trình diễn biến một bài thơ cũng chính là quá
trình tâm trạng cảm xúc của tác giả. Kết cấu là thể hiện dòng tâm trạng đó qua
cách tổ chức các yếu tố kia. Kết cấu thơ trữ tình là sự tổ chức quá trình vận
động bên trong của các trạng thái cảm xúc, là sự phân bố các đoạn thơ, khổ
thơ, cách sử dụng các hình ảnh hình tợng thơ trên cơ sở một thứ thơ nhất định,
qua đó nêu bật chủ đề t tởng của tác phẩm.
Soi chiếu vấn đề lý luân vào sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, ta thấy
truyện ngắn của ông là biểu hiện đầy đủ độc đáo, sáng tạo của truyện ngắn
hiện đại, nó có đầy đủ phẩm chất của các thể loại.
Sự phân biệt trên nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề về thể loại. Nhng
thực tế sáng tạo văn học phong phú hơn rất nhiều những kiểu, những thể loại
cụ thể. Tác phẩm nghệ thuật đợc kết cấu theo phơng thức nào thì điều đó phụ
thuộc vào đối tợng phản ánh và tài năng, phong cách nghệ sĩ. Đa ra các khái

niệm lý luận truyện ngắn, phân biệt với thơ trữ tình, với tiểu thuyết để làm rõ
hơn sự sáng tạo trong nghệ thuật kết cấu truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. ở
đó không chỉ có kết cấu ổn định bất biến của sự sáng tạo trong thể loại truyện
ngắn mà đan xen có cả chất thơ trữ tình, tính đa tầng đa nghĩa mang dấu ấn
của tiểu thuyết trong hàng loạt truyện. Đây chính là đối tợng nghiên cứu của
các chơng còn lại.
1.2.2. Kết cấu là một nhiệm vụ nghệ thuật khó khăn mà nhà văn cần đạt
tới, để làm cho sáng tác trở thành chỉnh thể thống nhất và sinh động. Tuy kết
cấu là một khái niệm thuộc phạm trù hình thức của tác phẩm văn học nhng
không bao giờ nó tách rời nội dung t tởng, nó luôn là phơng tiện biểu hiện của
nội dung. Nh L.Vgôtxki đã nói:" Nghệ thuật bắt đầu từ nơi mà hình thức bắt
đầu nhng hình thức không phải giản đơn là tấm gơng chiếu, không phải thủ
pháp riêng lẻ, không phải "dây dẫn" hay "tăng âm" để truyền tình cảm từ tác
giả đến ngời tiếp nhận. Hình thức là một sáng tạo nghệ thuật để thức dậy kinh
nghiệm sống, tình cảm, suy nghĩ nơi ngời thởng thức. Và khoa học phải khám
phá hình thức đó". [ 15,24 ]
Sự thống nhất nội dung và hình thức đợc hiểu là nội dung hoá thân vào
hình thức, hình thức biểu đạt nội dung và mang tính nội dung. Hình thức là
phơng thức tồn tại và biểu hiện của nội dung. Vì vậy kết cấu truyện ngắn

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

12


Luận văn tốt nghiệp
không chỉ là sự tổ chức tác phẩm mà còn là phơng tiện để nhà văn biểu hiện t
tởng tình cảm của mình. Với sáng tác truyện ngắn thì nghệ thuật kết cấu càng
trở nên quan trọng, khó khăn hơn. Nhà văn Nguyễn Kiên cho rằng:" Truyện
ngắn thờng chỉ phản ánh một khoảnh khắc, một mẩu nhỏ nào đó của cuộc

sống. Nhng cuộc sống không phải diễn ra trên một mặt phẳng nên các mẩu
nhỏ đó vẫn là một khối - hơn nữa một khối chuyển động". [ 11,100 ]
Nhà văn Ma Văn Kháng cũng ý thức đợc vai trò của kết cấu:"vấn đề là
anh tổ chức sao cho truyện của anh thành một lát cắt gọn ghẽ. Nh ngời ta vẫn
nói, toàn truyện là một vòng khép kín, không dài quá, không ngắn quá, không
xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào". [ 11,101 ]
Kết cấu là sự phác hoạ, phác thảo, là phơng châm hành động để nhà văn
hình dung đợc, đoán đợc đờng đi nớc bớc của công việc mình phải làm và sẽ
làm. Nhà văn A.Tônxtôi nhấn mạnh:"Kết cấu theo nghĩa đúng của nó là để
thấy đợc những cái mốc để theo đấy các nhân vật chuyển động". (Theo Bùi
Việt Thắng)
Nhiệm vụ kết cấu là tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề tập trung, t tởng
thống nhất và thấm sâu vào toàn bộ các bộ phận của tác phẩm, kể cả những
chi tiết nhỏ nhất. Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao là một ví dụ điển hình
về sự thống nhất giữa kết cấu và chủ đề - t tởng. Truyện kết cấu theo lối vào
ngay cao trào, mở đầu truyện:"Hắn vừa đi vừa chửi". Một nhân vật say điên
khùng xuất hiện từ đầu cho đến khi xuất hiện nhân vật thứ hai - Thị Nở. Dây
thòng lọng mà tác giả tung ra thít chặt Chí Phèo, đến đây đợc nới lỏng. Thị Nở
và bát cháo hành tình nghĩa có khả năng hoàn lơng Chí Phèo. Nhng cái vòng
tròn bội bạc đã lôi tuột Chí Phèo vào vòng xoáy - càng về cuối độ tăng của cốt
truyện càng gia tăng. Chí Phèo chết nhng câu chuyện về món nợ truyền kiếp
cha hết. Chủ đề về sự tha hoá của con ngời đợc biểu hiện sâu sắc qua thân
phận của Chí Phèo nhờ vào sự phát hiện tâm lý nhân vật và do đó đặc trng kết
cấu của các tác phẩm của Nam Cao nói chung là kết cấu tâm lý.
Trong văn học hiện đại, kết cấu phải biến đổi cho phù hợp với sự tiến
hoá thì quan niệm về kết cấu cũng thay đổi theo hớng thực tiễn linh hoạt hơn.
Cũng là ý kiến của tác giả Bùi Việt Thắng thì "đọc truyện Nguyễn Huy
Thiệp, ngời ta nhận thấy anh tổ chức tác phẩm theo lối chơi đôminô và thuyết
đôminô (quân chỉ bày ra một nửa, triệt để sử dụng thuyết nhân quả). Truyện
của anh vì thế nhiều tầng ý nghĩa, phải bóc tách cẩn thận và có phơng pháp.


Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

13


Luận văn tốt nghiệp
Đọc truyện của nhà văn này nếu đọc một lần sẽ không ngẫm ra hết ý tứ của nó
. . ." [ 11,108 ]
Sáng tác truyện ngắn là một quá trình tìm tòi kết cấu ở cấp chiến lợc,
quyết định sự thành công tác phẩm ở tầm vĩ mô, có tính chất vạch lối sáng tạo.
Và Nguyễn Huy Thiệp cùng với dòng thác văn chơng mạnh mẽ cuốn
hút ở cả nội dung và hình thức đã làm nên nghệ thuật kết cấu đặc biệt cho
truyện ngắn cuả mình, tạo nên phong cách Nguyễn Huy Thiệp.

chơng II: nghệ thuật kết cấu hệ thông nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
2.1. Hệ thống nhân vật

Nh ta đã biết"nhân vật là một trong những yếu tố cơ bản câu thành nên
tác phẩm văn học, không thể thiéu đối với sản phẩm lao động sáng tạo của nhà
văn . . . Nó là phơng tiện để nhà văn khái quát những quy luật của cuộc sống
con ngời, thể hiện những hiểu biết, những ớc ao và kỳ vọng về con ngời".
[ 14,279 ]
Và khi nhân vật đã trở thành một hệ thống điển hình, thì nó là một nhân
tố, một phần tất yếu góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm. ở đây hệ
thống nhân vật là sự tổ chức các quan hệ nhân vật cụ thể của tác phẩm. Dới
ngòi bút các nhà văn, nhân vật đợc đặt ở một vị trí nào đó, mang một cái tên
nào đó, nhà văn thổi linh hồn cho nhân vật nói năng, đi lại, hành động . . .
Muốn thành công thì nhà văn phải tạo dựng đợc các mối quan hệ giữa các

nhân vật trong tác phẩm với nhân sinh quan và phong cách sáng tạo của riêng
mình. Các mối quan hệ thờng thấy là tơng phản, đối lập, đối chiếu, bổ sung.
Hơn nữa, "hệ thống hình tợng là toàn bộ mối quan hệ qua lại của các yếu tố cụ
thể cảm tính tạo nên hình tợng nghệ thuật mà trung tâm là mối quan hệ của

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

14


Luận văn tốt nghiệp
các nhân vật trên phơng diện kết cấu. Hệ thống hình tợng bao gồm một phạm
vi rộng hơn, gắn với tất cả chiều sâu, chiều rộng của nội dung tác phẩm".
[ 14,299 ]
Vì vậy, trên phơng diện kết cấu, việc tìm hiểu mối quan hệ giữa các hệ
thống nhân vật là một điều quan trọng để tìm ra nét đặc sắc trong phong cách
nhà văn.
2.2 Vậy hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp đợc xây dựng nh thế nào?

Với một số lợng tác phẩm không nhiều nhng cũng đủ gây cú sốc trong
lòng ngời đọc. Bằng vốn sống phong phú, khả năng quan sát, suy ngẫm và
cảm thụ tinh tế, Nguyễn Huy Thiệp đã xây dựng một thế giới nhân vật độc đấo
và đầy ấn tợng. Thế giới nhân vật đó mang đặc điểm khá tiêu biểu, nổi trội của
con ngời và thời đại dới góc nhìn của cá nhân nhà văn. Trong tác phẩm của
ông, ta bắt gặp những con ngời trần tục, tha hoá biến chất, những kẻ cô đơn,
những kẻ khao khát kiếm tìm. Những nhân vật đó dẫn dắt độc giả vào một thế
giới đời sống khá đặc biệt, một hiện thực đầy cạnh tranh, thực dụng xô bồ,
ngổn ngang.
Với nhà văn, sáng tác đồng thời cũng là trải nghiệm mình. Nguyễn Huy

Thiệp cũng vậy. Ai đã từng đọc văn ông đều không thể không day dứt về một
câu hỏi trong cuộc đời:Đâu là Thiện, đâu là ác, đâu là Tâm, đâu là Tài???
Với một vốn sống dày dạn từng làm nhiều nghề để kiếm sống, Nguyễn Huy
Thiệp có điều kiện thâm nhập vào đời sống "sục sâu xuống bùn" để có đợc
sự hiểu biết lớn hơn bất kỳ trờng học nào - đó là trờng đời. Ông đợc tiếp xúc
với đủ mọi hạng ngời, đủ mọi tính cách, thấu hiểu hiểu nhiều số phận cay
đắng. Và với sự nhạy cảm của trái tim nghệ sỹ, sự sáng tạo độc đáo, ông đã
cho ra đời những sản phẩm độc đáo mang hơi hớng Nguyễn Huy Thiệp, phong
cách Nguyễn Huy Thiệp: không gọt giũa cầu kỳ, không trau chuốt nhẹ nhàng
mà đi thẳng vào lòng ngời đọc bằng những từ ngữ rất Đời và một thế giới nhân
vật vừa sống động, chân thực nhng rất phong phú. Đọc truyện Nguyễn Huy
Thiệp, ta bắt gặp đủ mọi loại ngời: có trí thức, có bình dân, có những bậc liệt
nữ, có những kẻ tiểu tốt hạ lu hạ đẳng, có ngời khốn nạn, có kẻ tốt bụng, ngời dở hơi, kẻ dị dạng . . . Họ làm đủ thứ nghề: giáo viên, bác sỹ, thợ xẻ, đánh
cá, ăn trộm, nhà thơ . . . Không những là nhân vật của hiện tại mà còn có
nhân vật lịch sử, huyền thoại của quá khứ xa xa. Nói chung là một thế giới đa
dạng, phức tạp.

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

15


Luận văn tốt nghiệp
Chúng tôi xem xét hệ thống nhân vật của truyện Nguyễn Huy Thiệp
trong toàn bộ hệ thống sáng tác, quy những đặc điểm nổi trội, tiêu biểu có tính
chất phổ biến, quy luật mang khuynh hớng xã hội, chịu ảnh hởng của lịch sử
thời đại thành những tính cách và đánh giá nó. Những đặc điểm tính cách này
thờng trở đi trở lại, thành ám ảnh nghệ thuật đối với nhà văn, chúng tôi quy
nhân vật thành 3 hệ thống:- Hệ thống nhân vật tha hoá: tha hoá tức là không
còn giữ đợc bản chất lơng thiện, lơng tâm, con ngời của mình. Đây là hệ thống

nhân vật đem lại cho ngời đọc nhiều cảm giác mâu thuẫn đến lạ kỳ và cũng
thể hiện sự sắc sảo - có khi đến mức tàn nhẫn trong ngòi bút của tác giả. Đó
chính là sự đốn mạt, sự thấp kém ti tiện của các nhân vật. Những con ngời của
thế giới trần tục, không phải "thiên thần", không phải "thánh nhân" . . . mà là
con ngời đang trên đà tha hoá biến chất, đang bị quá trình suy vi đạo đức làm
cho đến mức tàn nhẫn, khốn nạn, đểu cáng. ở thế giới ấy dồng tiền làm chủ,
tâm lý vụ lợi chiến thắng tất cả, nền tảng đạo đức truyền thống bị bật gốc đén
thảm hại. Nguyễn Huy Thiệp đã không đánh bóng cuộc sống mà lôi tuột cái
sự thực trần trụi đen tối nhất vào trong văn cuả mình. Với cách nhìn thẳng, đối
diện trực tiếp vào cái xấu, cái ác để lên án nó, ông đã góp phần thực hiện
chức năng cao cả của nhà văn vì "viết về cái ác cũng là một cách thức tỉnh
nhân tính" ( Lê Minh Khuê ) và " khi cái ác đợc viết ra tức là có điều kiện để
đẩy lùi nó. Mỗi lần nghệ thuật chiến thắng là một lần cái thiện chiến thắng"
(Vơng Trí Nhàn)
- Hệ thống nhân vật cơ đơn lạc lõng: đó là những con ngời nhỏ bé, đơn
lẻ, sống cô đơn lạc lõng trong chính môi trờng sống của mình. Họ là những
ngời lạc môi trờng bởi chính vì họ còn giữ đợc lơng tâm phẩm chất của mình.
- Hệ thống nhân vật kiếm tìm: với hệ thống nhân vật nàt không đem lại
cho ngời đọc cảm giác bi nản, tuyệt vọng nh với hai hệ thống nhân vật trên.
Đó là những con ngời ra đi , đi tim một điều gì đó trong cuộc sống, có thể là
Thực, có thể là ảo, và cái đích của sự ra đi là không giới hạn.
Trên cơ sở những hệ thống nhân vật này sẽ tìm ra mối quan hệ phổ biến
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Cái tài của nhà văn là đặt các nhân vật
trong cùng một môi trờng sống, cùng thể hiện tính cách . . . Có thể nói mối
quan hệ phổ biến trong hệ thống hình tợng nhân vật truỵện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp là tơng phản, đối lập. Tuy nhiên không phải chỉ có mối quan hệ đó mà
là sự cộng hởng các hình thức khác nh bổ sung đối chiếu. Điều này tạo nên
một đặc điểm nữa rất độc đáo trong phong cách nhà văn, khẳng định tài năng

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn


16


Luận văn tốt nghiệp
nhà văn. Thủ pháp tơng phản là đặt cạnh nhau những sự vật trái ngợc nhau về
bản chất để tự chúng làm nổi rõ nhau lên hơn là biểu hiện chúng một mình,
một chiều trong nghệ thuật. Hình thức tơng phản giúp ngới đọc khám phá ra
bản chất của cuộc sống, của hình tợng nhân vật. Có ý kiến cho rằng " Nguyễn
Huy Thiệp thuộc thế hệ không mảy may vớng mắc cách nhìn sử thi" (chia
nhân vật thành hai tuyến rõ rệt) . Điều này khẳng định tài năng của tác giả ở
chỗ đã xây dựng hệ thống nhân vật trong mối quan hệ đa chiều, đa dạng tự
chúng làm nổi rõ chúng.
2.2.1 Hệ thống nhân vật cơ đơn lạc lõng trong quan hệ đối lập tơng
phản với hệ thống nhân vật tha hoá
Có thể nói, để trở thành một ám ảnh nghệ thuật thì sức hút của hệ thống
nhân vật trong truyện Nguyễn Huy Thiệp là rất lớn. Dòng nam châm ngôn từ
ấy nh hút ngời đọc vào một thế giới của những kiếp ngời bé nhỏ, lạc lõng, co
mình lại trong sự cô đơn khôn tả. Và sức ám ảnh ấy đôi lúc làm ngời đọc có
cảm giác nhân vật thờng sống trong niềm cô đơn thân phận.
Với Tớng về hu, cuộc đời ông Thuấn gắn với binh nghiệp, là cuộc đời
của sự cống hiến: tuổi trẻ, sức sống, niềm tin, tình yêu thơng . . .Hơn 70 tuổi
ông hoàn thành nhiệm vụ của cuộc đời. Giữa cuộc sống thờng nhật bon chen
ấy ông thấy " sao tôi cứ nh ngời lạc loài" với đám con cháu, với ngời thân, với
xã hội. Ông đem lẽ sống quân bình để mà đói xử với tất cả mọi ngời, đem
nhân sinh quan cộng sản giản đơn để va chạm với cái thực tế cay nghiệt gay
gắt của cuộc sống hàng ngày vốn không giản đơn. Ông không thể bắt mạch đợc kịp với cuộc sống mới. Ông rơi vào tình thế cô đơn lạc lõng, một ngời thùa
trong ngôi nhà của chính ông. "Tớng về hu" - vốn quen với quyền uy và sự
trọng vọng nay là một ngời mất cả tự chủ, làm việc gì cũng phải ý kiến của
ngời khác. Trong môi trờng quân đội ông không cô đơn nhng trong gia đình

ông lại là ngời cô đơn hết mực.
Nhng chính sự cô đơn lạc lõng của tớng Thuấn lại là điểm sáng cho
nhân cách đạo đức phẩm chất của ông. Ông sống chan hoà yêu thơng tất cả
mọi ngời, nguyên lý đạo đức của ông đã phải lên tiếng khi chứng kiến cảnh tợng hãi hùng:" . . . nồi cám, trong đó thấy có các mẩu thai nhi bé xíu, thấy có
cả những ngón tay hồng hồng . . ." "Khốn nạn! Tao không cần sự giàu có này".
Nỗi đau xót, giọt nớc mắt của ông là giọt nớc mắt của ngời bất lực trớc thực
tại. Giá trị của nhân cách đạo đức con ngời bị lu mờ trớc đồng tiền, sắc đẹp và
danh vọng. Đó là điều mà ông đã cay đắng nhận ra xuất phát từ cuộc sống gia

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

17


Luận văn tốt nghiệp
đình mình. Nhng ông vẫn tin vì " cả tin chính là sức mạnh để sống và khi sự
cả tin đó bị lấn át bởi quá nhiều thế lực xấu xa thì cũng là lúc tớng Thuấn
không thể tồn tại trên cõi đời này. Ông phải ra đi.
Tớng Thuấn là hiện thân đầy đủ nhất của con ngời cô đơn lạc loài. Bổ
sung cho hình tợng nhân vật này là nhân vật Tôi - anh con trai. Có thể nói
nghệ thuật kết câu hình tợng với kiểu bổ sung rất đắc dụng. Nếu điểm nhấn
trong tác phẩm là tớng Thuấn gây cho ngời đọc bao day dứt, đớn đau thì nhân
vật tôi lại làm ngời đọc có lúc lại tự hỏi lại chính mình: Đâu là chân lý?
Nhân vật Tôi cũng có lúc không khỏi giật mình thảng thốt nhận ra
"khoảng vô biên" trong tâm hồn. Anh không chạy theo tiền tài danh vọng,
không suy đồi thực dụng nhng cũng không phản ứng quyết liệt với nó. Anh là
ngời bàng quan lạnh lùng thản nhiên trớc tất cả để mặc cuộc sống gia đình
biến chuyển theo sức hút của lối sống vì tiền. Có lúc anh chợt nhận ra sự vô
nghĩa của cuộc đời, sự cô đơn của kiếp ngời "Tôi thấy cô dơn quá. Các con tôi
cũng cô đơn. Cả đám đánh bạc, cả cha tôi nữa".

Đối lập với sự lạc lõng của hai cha con tớng Thuấn là nhân vật Thuỷ cô con dâu. Nguyễn Huy Thiệp đã rất thành công khi xây dựng nhân vật này
với vốn ngôn ngữ tung ra rất ít nhng rất ấn tợng, rất "Nguyễn Huy Thiệp ".
Tính cách của Thuỷ đối lập với sự nhu nhợc của "Tôi" và sự đau đớn chua xót
của ông Thuấn. Trong phạm vi hẹp - gia đình thì sự tơng phản đối lập ấy là
hình mẫu thu nhỏ của cả xã hội trong thời kinh tế thị trờng.
Thuỷ là hiện thân của mẫu phụ nữ với lối sống mới, lạnh lùng thực
dụng, sắc sảo, ham tiền. Điều đáng trách ở Thuỷ là cô ham tiền bất chấp cả
luân thờng đạo lý, làm giàu bằng mọi thủ đoạn. Thuỷ hoà vào cuộc đời ô trọc
bẩn thiủ nh một nhân vật "năng động nhất", "sắc sảo nhất". Cô kiếm tiền bằng
cách xay thai nhi để nuôi chó, lạnh lùng nh băng trớc giọt nớc mắt của tình
mẫu tử:"Đừng đổ sâm". "Đừng khóc", xong đám ma rồi lại tính toán:"Anh
phục em tính sát không?". Thuỷ vẫn là ngời cô đơn trong gia đình vì cô tỉnh
táo quá, lạnh lùng quá và tàn nhẫn rạch ròi quá. " Cái Tâm của Thuỷ bị đồng
tiền bào mòn. Khi bố chồng nói:"Đàn ông thằng nào có Tâm thì nhục, Tâm
càng lớn càng nhục". Tâm - có lòng thơng, tình bác ái, có lý tởng, có lòng tự
trọng, đối lập với sự lạnh lùng tỉnh táo của những kẻ không Tâm. Nỗi đau đớn
dằn vặt của ngời có "Tâm" khác với sự tồn tại nh một thực thể vô cảm của
"không Tâm". Thuỷ đồng nhất "Tâm" với giá trị vật chất tầm thờng: "Nhà

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

18


Luận văn tốt nghiệp
mình nói năng nh điên khùng cả. Thôi đi ăn. Hôm nay có cô Kim Chi tôi đãi
mỗi ngời một con gà hầm tâm sen. Tâm đấy. Ăn là trên hết"
Trong hệ thống nhân vật đối lập tơng phản rõ nét với tớng Thuấn còn bổ
sung hình ảnh ông Bổng. Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Huy Thiệp đã đem lại
cho ngời đọc một ông Bổng với lẽ sống đồng tiền là tất cả. Có thể nói ông

Bổng bổ sung đầy đủ cho một loại ngời vì tiền có thể làm tất cả, bên cạnh một
cô Thuỷ sắc nét. Thuỷ có cách ham tiền của kẻ có học, làm giàu của trí thức,
tuy ông Bổng không "đồng sàng" nhng lại "đồng mộng", "đồng lòng". Đó là
cái mộng có Tiền. Trớc cái chết của chị dâu, ông Bổng chỉ loay hoay bận tâm
với những mong muốn dị thờng:"Ván mấy phân? . . . " Mất mẹ bộ xa lông. Ai
lại đi đóng quan tài bằng gỗ dổi bao giờ. Bao giờ bốc mộ cho chú bộ ván" . . .
Trớc quan tài ngời chết, ông thản nhiên đánh bài ăn tiền, thản nhiên cời, thản
nhiên nói. Với Thuỷ, với ông Bổng, đồng tiền đã ngự trị và một câu nói của
một đứa trẻ nh mang triết lý:"Đấy có phải là ngậm miệng ăn tiền không bố?"
Và câu trả lời:" Con hiểu đấy.Đời ngời cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết
cũng cần".
ở Con gái thuỷ thần nhân vật Chơng cũng là nhân vật cô đơn bởi sự lạc
lõng, lạc điệu của mình trong cuộc sống. Trong khi mọi ngời nhìn nhận
chuyện con gái thuỷ thần là bịa đặt, thêu dệt thì anh lại tin đó là sự thật trên
đời. Trong khi mọi ngời sống thực tế đến trần trụi, hởng thụ một cách ráo riết
thì anh ta lại từ bỏ tất cả để đi tìm ảo ảnh hoang đờng và kỳ diệu trong đời:"
Tôi không có tiền bạc, công danh, không có gia đình để yêu thơng lo nghĩ,
không có bạn bè . . .Tôi vui một mình, buồn bã một mình, mơ mộng một mình
". Chơng đã ba lần gào lên bởi sự trống vắng trong cõi lòng và sự cô độc trong
cuộc đời:"Đói. Rét. Nỗi cô đơn nh gió quất vào lòng, một "sự cô đơn hoang
vắng ở trong lòng tôi", "Chơng ơi! Nỗi cô đơn và bất lực của mi nào ai thấy đợc ngoài mi".
Tự cảm thấy mình cô đơn cũng là lúc nhân vật " ngộ" ra nhiều điều
trong cuộc đời. Một mình đối diện với nỗi cô đơn của chính mình và một
mình đối lập với mọi ngời, đó là nỗi cô đơn đau đớn nhất, khắc khoải nhất.
Trong Chảy đi sông ơi lại sáng lên vẻ đẹp nhân văn của hình tợng chị
Thắm. Tin chân thành yêu thơng nhân ái, dịu dàng, sống giữa nhếch nhác ô
trọc của cuộc đời, giữa những "con ngời tăm tối", chị vẫn luôn vị tha:"Đừng
trách họ thế. Họ đói mà ngu muội lắm". Và cũng có lúc chị thốt lên lời
than:"Con ngời vô tâm nhiều nh bụi bặm trên đờng". Phải chăng chính vì


Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

19


Luận văn tốt nghiệp
những con ngời vô tâm, tăm tối ấy mới làm nên bi kịch của đời " nhà Thắm" ?
Khác với những ng dân khác " có lệ không cứu những ai chết đuối", chị Thắm
đã cứu đợc không biết bao ngời ở khúc sông này. Và rồi chị " chết đuối mà
không ai cứu". " Bao nhiêu năm nay chẳng hề có ai hỏi thăm nhà Thắm". Chị
sống không nhà cửa gia đình, không tuổi tác địa vị, sống cô đơn một mình và
chết cũng một mình cô đơn.
Tơng phản với nhân cách đẹp đẽ của chị là những đội Tảo, trùm Thịnh
mà cách sống tàn nhẫn có đôi chút rùng rợn là chân lý. Trùm Thịnh có " nghề
đánh cá" nhng " trong các thứ nghề thì nghề ăn trộm là nhàn nhã nhất". . . đủ
cho thấy bản chất của lão. Còn gã Tảo " có đôi mắt lờ đờ nh mắt cá, một vết
sẹo bỏng ở má bên trái to bằng bàn tay làm mặt của gã biến dạng hẳn đi". Chỉ
vì món lợi vật chất trớc mắt mà gã "nhe hàm răng nhọn hoắt quát lên hung
dữ", bắt ngời khác phải nhảy xuống dòng nớc xiết giữa đêm tối. Sự tàn nhẫn
đối lập với tình yêu thơng bao dung và lòng vị tha. Nó là sự hiện diện cái ác
trong cuộc đời này. Sự bổ sung các nhân vật cùng tuyến làm ý đồ của tác giả
thể hiện rõ nét. Nhân vật Tôi đã phải "cắn chặt răng cho khỏi oà khóc. Trái tim
nhỏ bé của tôi thắt lại". Đau đớn bất lực trớc cái ác, nhng cái Thiện ở chị
Thắm vẫn toả ánh sáng dịu dàng và đẹp đẽ.
Nhân vật "Tôi" trong Những ngời thợ xẻ lại là ngời quá nhạy cảm trớc
cuộc đời. Anh mang trong mình nỗi đau đớn giằng xé dai dẳng bởi một cuộc
tình đã vỡ, một quá khứ trong đó có ngời con gái anh đã từng yêu: "Đấy là vì
tình đấy, em ạ. Tình bao giờ cũng lung tung. Ngời ta chỉ xót nó khi nó buột
khỏi tay thôi". Nỗi căm giận bỗng dng vụt đến trong anh "tôi rít khe khẽ, chỉ
có một anh thôi, còn lại là chúng nó". Nỗi cô đơn của anh đã phải bật thành

câu hỏi tha thiết: "Ngời dng ơi ngời dng, một triệu ngời tôi gặp trong đời có ai
là máu của máu tôi? Là thịt của thịt tôi?Có ai sẽ sống vì tôi và chết vì tôi? Có
ai không? Có ai là hoàng đế của tôi? Cũng là thần tử của tôi? Ai là tâm phúc
với tôi? Là hi vọng của tôi? Cũng là địa ngục của tôi?" Hoài nghi, niềm tin vỡ
vụn, trong "Tôi " chỉ còn lại là những mảnh vụn của hàng loạt những câu hỏi.
Tơng phản với "Tôi" là Bờng - một tay anh chị lọc lõi, từng trải, dám
làm tất cả vì món lợi và vì dục vọng thấp hèn. "Tôi" nghe một tiếng hoẵng kêu
trong đêm thì không sao ngủ đợc. "Tôi" bảo:"Con hoẵng nó kêu thơng quá.
Nó lạc mẹ hay sao hả anh? thì Bờng bảo:"Mày không nên đa cảm nh thế . . .
Những lối nhạy cảm vô lối sẽ làm tan nát cuộc đời mày mất thôi. Làm gì có
chuyện hoẵng đi tìm mẹ? Con ơi, đấy là một con hoẵng cái truỵ lạc, nó đi tìm

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

20


Luận văn tốt nghiệp
hoẵng đực . . .". Trớc hành động đồi bại của Bờng, trong anh trào lên "một nỗi
căm giận khiến Tôi đau đén thót tim". Anh đã cứu thoát Quy bằng tất cả sức
mạnh của cơ bắp,"với tất cả sự căm giận, xót xa từ đáy lòng Tôi", và với sự
ghê tởm trớc dục vọng tầm thờng. Phải chứng kiến bao nhiêu sự " khốn nạn,
đểu cáng, độc ác" của ngời đời anh cảm thấy mình chỉ là "hạt cát bé nhỏ và
bất lực". Bổ sung cho tuyến nhân vật này là vợ chồng cô giáo Thục. Chị đã
nhiệt tình giúp đỡ đoàn thợ xẻ mà không yêu cầu bất cứ quyền lợi gì cho
mình, chị đau đớn xót xa cho ngời khác nh chính nỗi đau thân thể mình. Một
câu triết lý nh lời của tác giả gửi đến chúng ta qua nhân vật này:"Nghĩa tình
lại chuộc nghĩa tình. Vô sự với tạo hoá, trung thực đến đáy, dù có sống
giữa bùn chẳng sợ không xứng là Ngời"
Qua những hình tợng nhân vật, ta có thể khẳng định văn Nguyễn Huy

Thiệp là văn chơng của một ngời dám sống thực "dám lặn sâu xuống đáy cuộc
đời, để ngập trong bùn, sục tung lên thoát thành bớm và hoa" ( Giọt máu ). Từ
"bùn" thoát thành "bớm và hoa" đã khó, nhng cái bản lĩnh dám lặn xuống đáy
cuộc đời để hoá thành biểu tợng cho cái Đẹp lại càng bội phần khó khăn.
Theo Nguyễn Huy Thiệp "trung thực là đức tính đáng quý và khó kiếm
nhất"(Tiệc xoè vui nhất) nhng ông vẫn "sống trung thực dù biết trung thực bao
giờ cũng chịu đau khổ và thiệt thòi". Đây là phong cách văn chơng Nguyễn
Huy Thiệp vì thế cũng gây nhiều tranh cãi cho d luận.
Điều đáng quý là tác giả đã "dám" lay động tâm thức độc giả, làm ngời
đọc không khỏi bàng hoàng, thảng thốt trớc những vấn đề nhức nhối của xã
hội hiện nay.
ở Không có vua ta thấy sự tơng phản đối lập càng gay gắt. Có ý kiến
cho rằng khi đọc truyện này có cảm giác nh đứng trớc một rừng chông nhọn
khiến ngời ta ớn lạnh. Sinh làm dâu trong một gia đình gồm năm ngời đàn ông
mà ngời nào cũng có vẻ kì dị, ăn nói bỗ bã, thô lỗ, hung bạo. Phải nói rằng
Sinh cô đơn lạc lõng giữa cái gia đình có đủ cả chồng, bố chồng và các em
chồng ấy. Cô phải chịu bao cảnh "Khổ", "Nhục . . .Đau đớn. Chua xót", một
loạt các tính từ cũng cha đủ sức lột tả đợc. Cô càng lẻ loi hơn khi phẩm giá
nhân cách đối lập với những "sinh vật" biết nói năng này. Một mình Sinh đối
chọi lại sự bủa vây, quấy nhiễu rất đời của gia đình: Một gã chồng thô lỗ cục
cằn, một ông bố chồng goá vợ đã lâu nhng tu không hết đờng tu, chẳng dứt
nổi ham muốn đã "bắc ghế đẩu rình trộm con dâu tắm", một cậu em chồng
làm ở Bộ Giáo Dục suốt ngày đòi ve vãn, chim chuột với chị dâu:"Ngời chị tôi

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

21


Luận văn tốt nghiệp

mềm nh bún" có lúc lại đe doạ "tôi nói trớc thế nào tôi cũng ngủ đợc với Sinh
một lần" . . .
Cả gia đình ấy không có trật tự, ngôi thứ, mọi gốc rễ nền tảng đạo lý
truyền thống bị rạn vỡ, những mối quan hệ tốt đẹp ngàn đời bị xổ tung: cha
không ra cha, anh không ra anh, em chẳng ra em . . . Tất cả nháo nhào, xô bồ,
hỗn loạn quay cuồng trong thế " Không có Vua " và đồng tiền ngự trị:" Tiền là
gì? Là Vua". Một gia đình mạnh ai nấy sống, kẻ nào cũng khích bác xem nhau
nh kẻ thù. Ngời con thì " tôi nghĩ bố già rồi, mổ cũng thế, cứ để chết là hơn"
hay " mất thì giờ bỏ mẹ. Ai đồng ý bố chết giơ tay, tôi biểu quyết nhé", bố cha
chết đã đòi chia gia tài, bố chết rồi thì thản nhiên: "Thật may quá. Bây giờ tôi
đi mua quan tài."
Xung quanh Sinh là những kẻ tha hoá suy đồi về phẩm chất, nhân cách,
vẩn đục tâm hồn và tăm tối trong nhận thức. Cô là nạn nhân và cũng là một
con bài trong vòng quay nghiệt ngã ấy. Phải chứng kiến đoạn đối thoại sau ta
mới kinh sợ trớc cảnh anh em cợc nhau:"Khảm bảo:"Đợc thôi. Nếu anh tán đợc thởng em cái gì?" Đoài bảo:"Thởng cái đồng hồ". Khảm bảo:"Đợc rồi. Anh
ghi cho em mấy chữ làm bằng". Đoài hỏi:"Không tin tao à?". Khảm
bảo:"Không". Đoài ghi vào giấy:"Ngủ đợc với Mỹ Trinh, thởng một cấi đồng
hồ trị giá ba nghìn đồng. Lấy Mỹ Trinh, thởng 5% của hồi môn . . ."
Xã hội 'Tiền là Vua" đã khiến mọi giá trị đạo đức truyền thống bị băng
hoại đến thảm hại. Đồng tiền có sức công phá lớn lao: bào mòn nhân cách,
phá vỡ quan hệ máu mủ ruột già, biến con ngời thành cỗ máy xơ cứng không
tim, tâm lý vụ lợi dẫn đến quan hệ " tiền trao cháo múc" .
Thế tơng phản trong nghệ thuật kết cấu đã làm nổi bật phẩm chất của
Sinh, đối chọi lại với gia đình năm ngời nh những Lý Quỳ lỗ mãng ấy. Sinh
nh dòng suối mát làm trung hoà dần các mâu thuẫn. Một ngời con ngoan, vợ
hiền, một ngời chị thơng các em, nhận biết đợc nỗi đớn tủi cực của mình nhng
Sinh vẫn sáng ngời phẩm chất tốt đẹp:" Khổ chứ. Nhục lắm.Vừa đau đớn vừa
chua xót. Nhng thơng lắm". Cái "thơng lắm" của Sinh là hạt nhân của trái tim
nhân đạo của tác giả. Sinh nh đợc Nguyễn Huy Thiệp tạc thành một đức mẹ
giáng trần, một điểm sáng duy nhất, đủ đối lập với cái bẩn thỉu nhếch nhác tối

tăm xung quanh mình.
Cái tài của tác giả là không cố tình đối lập giữa các tuyến nhân vật, để
nhân vật tự bộc lộ phẩm chất bằng ngôn ngữ rất đời thờng,cho họ cọ xát trong
chính môi trờng sống quen thuộc của họ.

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

22


Luận văn tốt nghiệp
2.2.1.1. Nguyễn Huy Thiệp không chỉ viết về sự lạc lõng cô đơn của con

ngời trong hiện tại, ông còn ngợc dòng lịch sử tìm về với những nỗi niềm cô
đơn bất tận của những cõi đời ở quá khứ. ở đó, một Hồ Xuân Hơng, một
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Đề Thám . . . cũng đang rên rỉ đau đớn cho sự cô
đơn của kiếp ngời.
Trong Nguyễn Thị Lộ là một Nguyễn Trãi lòng dạ sáng nh sao Khuê,
suốt đời nặng lòng vì dân, vì nớc, sống dới triều đại của một vị "vua trẻ, ít
kinh nghiệm sống, thích chiều chuộng hơn là nói thẳng . . ." . Đối lập lại với
ông là" cung đình giống nh nơi tụ họp các anh hùng lục lâm, chỗ nhóm lửa,
chỗ thổi cơm, chỗ múa giáo. . .". Triều đình ấy kẻ nịnh thần chiếm đa số hơn
trung thần, nơi cái Xấu đang át cái Tốt. Và "Nguyễn Trãi sống âm thầm . .
.Những mũi tên đố kị hằn thù rình ông từ bốn phía". "Ông gần nh không có
bạn, không có tri âm, tri kỷ. Dới một bề ngoài bình thản rụt rè, Nguyễn Trãi
dấu mình trong vỏ ốc ". Bởi " từ nhỏ, Nguyễn đã sớm nhận ra sự lạc loài của
ông giữa đám đông. Ông nh khoai giữa ngô, nh lạc giữa vừng. Ông là một thứ
chất liệu khác. Ông cô đơn với chính đồng loại của mình". Quả thật " chất liệu
khác" ấy làm nên một ông quan tốt lấy việc hành đạo xử đời làm lẽ sống. Nhng trớc cả một triều đại nhốn nháo, vì sao Khuê của ông không thể sáng đợc
mà bị các thế lực bạo tàn dập tắt. Và " Nguyễn hiểu những khó khăn của việc

thi hành đạo", cuối cùng ông tự rút ra bài học"ngời làm quan là để thi hành
điều nghĩa chứ đạo thì chẳng thi hành đợc". Nguyễn Trãi thấy " cô đơn giữa
đời nh một hành tinh hoặc một ngọn gió". Đó chính là sự cô đơn của chính
nghĩa trong cuộc đời bụi bặm.
ở Chút thoáng Xuân Hơng tuy Hồ Xuân Hơng chỉ xuất hiện mờ nhạt
qua sự cảm nhận của các nhân vật khác nhng nghệ thuật kết cấu đặc sắc đã
làm nổi rõ bản lĩnh Xuân Hơng với những ngời đàn ông xung quanh bà. Mang
bản lĩnh cứng cỏi hiếm thấy trong cuộc đời " bà luôn thất bại . . . mà vẫn
thăng bằng, mà vẫn không có cảm giác thua cuộc". Dới con mắt Tổng Cóc thì"
ông ngờ ngợ bà to lớn hơn ông, bà mạnh mẽ hơn, sống có dũng hơn".
Cái thanh bạch và siêu thoát trong vẻ đẹp tâm hồn bà đối lập với con
ngời trần tục thô lỗ. Bà càng cẩn thận chu đáo tinh khiết bao nhiêu thì Tổng
Cóc càng dung tục bấy nhiêu. Điều này đợc thể hiện qua cảm nhận của ông "
ngơ ngác nhìn xung quanh ngôi từ đền tĩnh lặng tìm bóng Xuân Hơng".Chính
Xuân Hơng sống cao hơn một bậc so với những ngời xung quanh bà, nhng bà
cũng cần một chỗ dựa tinh thần. Tri phủ Vĩnh Tờng "cũng là bé nhỏ với bà nh-

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

23


Luận văn tốt nghiệp
ng dù bé nhỏ cũng vẫn lấp đợc nỗi cô đơn ít nhiều". Ông mất đi để"từ đây
Xuân Hơng sẽ lại bắt đầu chặng đờng cay đắng, bao nhiêu là ngọ n gió hàn sẽ
thốc thổi vào lòng bà". Chỉ còn một mình "Hồ Xuân Hơng mặc áo xô gai đang
nức nở khóc . . . cho nỗi cô đơn mênh mông của cõi đời".
Điều đáng nói ở hình tợng Xuân Hơng là sự tơng phản đối lập không
gay gắt nh những hình tợng khác, nhng ta cảm thấy thấm thía nỗi buồn, nỗi cô
đơn của những ngời "chữ Tài liền với chữ Tai một vần".

Trong hàng loạt những hình tợng nhân vật cô đơn, Nguyễn Trãi - vị anh
hùng dân tộc lừng danh phải tìm một chỗ dựa tinh thần ở một ngời đàn bà còn
một ngời đàn bà cứng cỏi lại phải "bắt đầu" , phải "nức nở khóc", phải chứng
kiến "cay đắng, ngọn gió hàn" lạnh lẽo của cuộc đời khi mất đi chỗ dựa bé
nhỏ trên đời. Vậy ai cô đơn với chính đồng loại mình, ai lạc lõng trong chính
môi trờng ấy và ai đủ tỉnh táo, đủ đau đớn chua xót để nhận ra?.
Trong mảng truyện huyền thoại, tác giả cũng xây dựng hình tợng Trơng
Chi với nỗi cô đơn khôn xiết. Chàng một mình giữa không gian sông nớc mịt
mù hoang lạnh, có lúc chàng " rùng mình vì sự vắng lạnh xung quanh. Sự
vắng lặng kinh hoàng . . .Chàng khóc, không có nớc mắt". Đó là thứ nớc mắt
chảy ngợc vào tim vì chàng cô đơn giữa những khuôn mặt ghê rợn:"Bọn hoạn
quan, những gã đồng cô, những tên hề lùn, bọn bói toán, tớng số, lang
băm . . .".
Đây là thế tơng phản giữa số ít với số nhiều, giữa tiếng hát trong trẻo
ca ngợi tình yêu và điều thiện với "bị bắt hát" ca ngợi " công danh, tiền bạc, sự
nhẫn nhục". Ngay cả Mị Nơng cũng là cùng loại với bọn ngời ấy, khiến Trơng
Chi "thấy khổ quá. Giữa sông nớc có ai chỉ bảo chàng đâu?Chàng chỉ có một
mình. Ngày cũng một mình, đêm cũng một mình . . .".
Không chỉ con ngời hiện tại, không chỉ con ngời qúa khứ, dù ngời thực
hay nhân vật huyền thoại thì ngòi bút Nguyễn Huy Thiệp đều hớng về vấn đề
của con ngời, của xã hội hôm nay.
Nghệ thuật của Nguyễn Huy Thiệp đã lên đến tột đỉnh: ông dùng chính
môi trờng sống quen thuộc, những con ngời quen thân, ngôn ngữ đời thờng để
tơng phản giữa nhân cách đạo đức của các nhân vật. Con ngời cô đơn tơng
phản với cuộc sống xô bồ, với những ngời xung quanh, với những kẻ tha hoá
biến chất. Họ là đại diện của Chân, Thiện, Mỹ, của cái đẹp và lòng tin ở cuộc
đời. Giữa nhốn nháo của xã hội đồng tiền, họ làm ngời ta tin rằng vẫn còn có
những ngời giữ đợc lơng tâm, thiên lơng. Họ cô đơn vì "thiện căn" quá lớn còn

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn


24


Luận văn tốt nghiệp
trong mình. Những ngời cô đơn không bắt kịp mạch chảy của cuộc sống,
không thể hoà mình vào nó để đánh mất đi nhân phẩm vì thế họ cô đơn trong
chính môi trờng sống của mình.
Cách nhìn cuộc sống hôm nay qua cái nhìn của tác giả đó là một cuộc
sống đang bị bóp nghẹt bởi các ác, cái Xấu, cái Đẹp hiếm hoi đang mất dần
mảnh đất dung thân. Niềm tin mãnh liệt vào ngày mai, cái thiện tuy có lúc
phải bất lực, phải co mình lại hoặc trốn tránh nhng nó vẫn tồn tại, nó là điểm
sáng nhân văn trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Đồng thời, ta thấy cũng
toát lên giá trị phê phán tố cáo qua những trang văn ấy.
2.2.2 Hệ thống nhân vật kiếm tìm trong quan hệ đối lập tơng phản với
hệ thống nhân vật tha hoá
Bên cạnh con ngời cô đơn thì hình tợng nhân vật kiếm tìm chiếm số lợng không ít. Những nhân vật ra đi kiếm tìm là những ngời mang nặng trong
lòng mình một niềm tin, một niềm khao khát sống. Họ luôn tin vào những
điều tốt đẹp trong cuộc đời dù chỉ là huyễn hoặc, hoang đờng, vô lý và luôn
khao khát tìm hiểu, chiếm lĩnh nó. Trên hành trình ra đi ấy họ gặp sự thực
ngang trái, đớn đau, từ đó họ nhận dần ra chân lý.
Điều đáng nói là nghệ thuật kết cấu đã làm cho sự kiếm tìm ấy nổi rõ
phẩm chất các nhân vật và ý đồ tác giả.
Chơng trong Con gái thuỷ thần luôn đi tìm một Mẹ Cả - câu chuyện
huyền thoại đợc ngời đời kể lại:"Dới gốc cây muỗm, có một đứa bé mới sinh
đang nằm. Đứa bé ấy là con thuỷ thần để lại". Câu chuyện về Mẹ Cả " ám ảnh
tôi suốt thời niên thiếu" vì " nghe nói Mẹ Cả làm nhiều việc tốt để cứu ngời".
Giữa h h, thực thực ấy, Chơng đã đi tìm, tìm huyền thoại giữa đời Thực.
Sự tơng phản trong nghệ thuật kết cấu là cái Thực trong cuộc kiếm tìm
vô ích của Chơng với cái ảo ảnh - đích đến của cuộc kiếm tìm. Trên hành

trình tởng không bao giờ có điểm dừng ấy, đã 3 lần Chơng tiếp xúc với ngời
anh coi là Mẹ Cả. Lần thứ nhất là đứa bé ăn trộm mía vào một đêm trăng sáng,
đó là một cô gái mang tên thánh Gianna Đoàn Thị Phợng. Anh đi tìm cô gái
thì đợc biết một sự thật tầm thờng: cô Phợng chỉ là con riêng của ông Đoàn
Hữu Ngọc buôn nớc mắm ở Hà Nội, rằng chuyện MẹCả chỉ là chuyện bịa đặt
hoang đờng. Anh bị chê cời bởi một lão già nh quái nhân. Chính lão đã bịa ra
chuyện Mẹ Cả và sự thật trong ngôi mộ huyền thoại chỉ là " một khúc gỗ mục
chẳng hình thù gì".

Nguyễn Thị Thuỳ Linh - 40A1 Văn

25


×