Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

nghệ thuật xây dựng nhân vật tha hoá trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.83 KB, 63 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Từ sau chiến thắng lịch sử 1975, đặc biệt là từ Đại hội
Đảng lần thứ VI (1986) cùng với đất nớc, nền văn học Việt Nam
bớc vào thời kỳ đổi mới ngày càng sâu sắc, toàn diện. ý
thức cá nhân thức tỉnh sâu sắc ở những ngời cầm bút đã
dẫn đến những tìm tòi mới mẻ về t tởng, bút pháp, phong
cách. Hàng loạt cây bút mới xuất hiện nh Nguyễn Huy Thiệp,
Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị
Vàng Anh Trong những tên tuổi đó, Nguyễn Huy Thiệp đợc
xem là một hiện tợng lạ, thậm chí là một hiện tợng đặc biệt
trên văn đàn Việt nam thời kỳ đổi mới.
Sinh năm 1950, tốt nghiệp khoa Sử trờng Đại học s phạm
Hà Nội, Nguyễn Huy Thiệp đi dạy 10 năm ở miền núi. Năm
1986, ông trở về Hà Nội bắt đầu sự nghiệp văn chơng.
Tháng 1/1987 Nguyễn Huy Thiệp lần đầu tiên ra mắt công
chúng độc giả với Những chuyện kể bất tận của thung lũng
Hua Tát đăng trên báo Văn nghệ. Đó là những truyện cổ
tích ảo khá mới lạ. Song tên tuổi ông vẫn còn mờ nhạt. Phải
đến tháng 06/1987 khi Tớng về hu xuất hiện thì cái tên
Nguyễn Huy Thiệp mới thực sự gây xôn xao d luận mà nh
Phạm Xuân Nguyên trong cuốn Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp
nhận xét: Thật hiếm trong văn chơng Việt Nam xa nay, tôi
dám chắc là cha có một nhà văn nào vừa xuất hiện đã gây
đợc d luận, càng viết d luận càng nhiều, càng mạnh, truyện
cha ra thì ngời ta đã kháo nhau, truyện đăng rồi thì tranh

1




Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
nhau tìm đọc, đọc rồi thì gặp nhau bình phẩm bàn tán
chốn phòng văn, cũng nh chốn vỉa hè đâu đâu cũng kháo
chuyệnVăn đàn thời đổi mới đã khởi sắc, bỗng khởi sắc
hẳn, đã náo động càng thêm náo động...
Là một hiện tợng đặc biệt nh thế, truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp chứa đựng nét độc đáo mới lạ của một
cây bút giàu khả năng sáng tạo. Từ đề tài cho đến chủ đề,
t tởng, kết cấu, cốt truyện cũng nh cách xây dựng nhân vật
đều mang một dấu ấn riêng. Việc tìm hiểu, nghiên cứu một
cách nghiêm túc và khoa học các phơng diện nói trên sẽ giúp
chúng ta nhận diện một cách chính xác, hợp lý hơn về phong
cách nhà văn cũng nh phần nào thấy đợc xu hớng phát triển
của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Về vấn đề nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp đã có không ít bài viết, công trình nghiên cứu đề cập
tới, song những bài viết cụ thể, xây dựng nhân vật trong
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thì không nhiều, chỉ
rải rác đây đó một vài ý kiến, nhận định về một khía
cạnh, một đặc điểm nào đó của nhân vật. Vì vậy, để góp
phần khẳng định tài năng, cá tính sáng tạo của Nguyễn Huy
Thiệp chúng tôi xin đề cập đến một khía cạnh nhỏ liên quan
đến tài năng của nhà văn qua đề tài Nghệ thuật xây
dựng nhân vật tha hoá trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn sẽ mang
đến một đóng góp nhỏ trong việc khẳng định tài năng của

Nguyễn Huy Thiệp, đồng thời cũng góp phần nào làm sáng
2


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
tỏ hơn những kiến thức lý luận nh: lý luận về nhân vật
(đặc điểm, vị trí ý nghĩa, nghệ thuật xây dựng nhân
vật...)
2. Lịch sử Nghiên cứu vấn đề
Xuất hiện vào những thập niên cuối của thế kỷ XIX,
Nguyễn Huy Thiệp đã phá vỡ thế bình ổn trên văn đàn,
chuyển nhịp cho bớc đi vốn bình thờng chậm rãi của lý luận
và phê bình văn học hiện đại. Phạm Xuân Nguyên trong
cuốn Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp đã cho rằng: Nguyễn Huy
Thiệp có lẽ là ngời đầu tiên trong văn học Việt Nam lập kỷ lục
có đợc nhiều bài viết về sáng tác của mình, chỉ trong thời
gian ngắn vẫn không có độ lùi về thời gian. Phê bình tức
thời theo sáng tác, liên tục lâu dài, không chỉ trong nớc mà cả
ngoài nớc, không chỉ ngời Việt mà cả ngoại quốc (1; tr 26).
Có thể nói, hiện tợng nh Nguyễn Huy Thiệp mới thật là
mới, là độc đáo, chỉ mình anh cũng đã tạo nên một đời
sống văn học kéo dài cả mấy năm trời và còn nóng bỏng đến
ngày hôm nay (2, tr 517).
Theo sự thống kê của Nguyễn Hải Hà - Nguyễn Thị
Bình, từ giữa năm 1987 đến năm 1989 đã có trên bảy mơi
bài viết về sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, trong đó đến
quá nửa bài viết này đều tập trung vào truyện ngắn Tớng
về hu và ba bộ truyện ngắn Lịch sử giả, Vàng lửa, Kiếm
sắc, Phẩm tiết.

Năm 1989, Nhà xuất bản trẻ - Tạp chí Sông Hơng, thành
phố Hồ Chí Minh đã cho ra đời cuốn Nguyễn Huy Thiệp, tác
phẩm và d luận. Trong một khuôn khổ có hạn, cuốn sách nói
3


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
trên mới chỉ giới thiệu đợc sáu tác phẩm và mời bài viết về tác
giả Nguyễn Huy Thiệp.
Hơn mời năm sau, trong một công trình tuyển chọn
công phu nghiêm túc và có hệ thống mang tên Đi tìm
Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Xuân Nguyên đã tập hợp đợc năm
mơi t bài viết khá tiêu biểu nổi bật cho những xu hớng đánh
giá về hiện tợng Nguyễn Huy Thiệp.
Những ý kiến đánh giá đó chủ yếu xoay quanh vấn đề
cái tâm và cái tài của ngời viết ( Mai Ngữ ) theo ba hớng
khẳng định và đề cao nghệ thuật viết truyện độc đáo và
cái tâm trung thực đến đáy của tác giả, phủ định phê
phán lối viết sắc lạnh, trần tục đến tàn nhẫn, thái độ bỡn cợt
với lịch sử, với cuộc đời, vừa khẳng định vừa phê phán
Nguyễn Huy Thiệp.
Tuy nhiên, dù nhìn nhận, đánh giá Nguyễn Huy Thiệp
thế nào đi chăng nữa thì ngời ta vẫn không thể không thừa
nhận rằng: Nguyễn Huy Thiệp là một tài năng độc đáo có
nhiều đóng góp cho sự phát triển và khởi sắc của văn nghệ
Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Chẳng hạn nói về cái ma lực trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, nhà phê bình văn học Đông La đã nhận
xét: Truyện của anh thờng không có cốt truyện, là truyện

của nhiều vấn đề. Nó chảy nh một dòng chảy tự nhiên. Sự
cuốn hút của chúng không phải ở sự bất ngờ mà ở độ sâu
sắc của những ý tởng ở tầm triết lý liên quan tới cuộc sống
của con ngời (2, tr 137) và cấu trúc truyện của anh dờng
nh còn rất ít bóng dáng của kết cấu chặt chẽ, khuôn mẫu
4


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
của truyện ngắn cổ điển Nó có kết cấu tiểu thuyết, nó
lỏng lẻo nh chính cái lỏng lẻo của cuộc sống. Chúng phản ánh
đợc cái không khí của thời hiện đại này, sôi động, nhiều
thông tin, đồng hiện, đan xen nhau (2, tr 138).
Một trong những yếu tố làm nên sự hấp dẫn mới mẻ và
đầy d âm trong kết cấu, cốt truyện của Nguyễn Huy Thiệp
là cách kết thúc tác phẩm của ông. Nguyễn Huy Thiệp căm
thù sâu sắc những kết thúc truyền thống Trơng Chi.
Truyện ngắn của ông ít làm ngời đọc hài lòng bởi một kết
thúc có hậu, hay bởi một sự lý giải tờng tận, một sự giải
quyết trọn vẹn một vấn đề nào đó, cách kết thúc để ngỏ
này tạo cơ hội cho ngời đọc suy ngẫm, đồng sáng tạo.
Cũng nói về vấn đề trên, Bùi Việt Thắng khi nói về
Vàng lửa đã cho rằng Nguyễn Huy Thiệp trong Vàng lửa
đã đa ra 3 cách kết thúc cho ngời đọc lựa chọn. Kết thúc
nào có thể là tối u? Có thể không có. Bằng lối kết thúc mở
này tác giả cố gắng phá vỡ thói quen ở ngời đọc còn nhiều
khi giản đơn và phiến diện trớc các vấn đề của cuộc sống
(4, tr 137).
Bên cạnh kết cấu, cốt truyện thì một trong những phơng diện đặc biệt tạo nên cái độc đáo mới lạ trong phong

cách Nguyễn Huy Thiệp chính là ngôn từ nghệ thuật mà nh
nhà thơ Diệp Minh Tuyền đã phân tích. Ngôn ngữ Nguyễn
Huy Thiệp là thứ ngôn ngữ Việt Nam chính xác, trong sáng
tinh tế, giàu hình tợng, đầy cá tính. Nó có nhiều lớp từ khác
nhau. Một lớp từ dân dã, đồng quê mà không quê mùa, một lớp
từ đầy tính thị dân của không khí cổ xa. ở Nguyễn Huy
5


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
Thiệp, tính cách nào thì ngôn ngữ ấy Ngôn ngữ đối thoại
ngắn sắc lạnh, xen kẽ với ngôn ngữ độc thoại sâu sắc rành
mạch chạm đến tận đáy tâm hồn của nhân vật. Ngôn ngữ
kể chuyện cuồn cuộn, cuốn hút kết hợp hài hoà với ngôn ngữ
tả cảnh, tả ngời chấm phá rất cô mà rất hay (2, tr 401- 402).
Cũng theo tác giả này: Văn Nguyễn Huy Thiệp là những câu
ngắn chắc. Những câu dài chẳng qua cũng chỉ là sự kết
hợp của nhiều đoản ngữ cô đặc ngắn gọn, kết hợp một
cách liền mạch với một nhịp điệu dồn dập, nhịp điệu thời
đại (2; tr 402).
Song song với kết cấu, cốt truyện và ngôn từ, lời văn
nghệ thuật thì nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp cũng góp phần không nhỏ tạo nên cái mới lạ độc đáo.
Nhận xét về thế giới nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp -vài cảm nghĩ giáo s Nguyễn Đăng Mạnh
đa ra nhiều nhận định: Nguyễn Huy Thiệp có một thế giới
nhân vật cũng độc đáo. Toàn

những con ngời góc cạnh,


gân guốc. Có loại nh chui lên từ bùn lầy, rác rởi, tâm địa
đen tối, có loại nh những bậc chí thiện, có thể bao dung cả
kẻ xấu ngời ác, thậm chí sẵn sàng chết vì đồng loại (2; tr
459).
Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thờng có hai mặt thiện và ác, đúng ra chứa đựng cả thú tính
lẫn nhân tính, một mặt đầy bản năng thô bỉ, mặt khác từ
một góc độ nào đó của tâm hồn, thỉnh thoảng vẫn loé lên
ánh sáng của lơng tâm, lơng tri (2; tr 459).

6


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
Và trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp Những ngời
xấu xa bỉ ổi nhất thờng là những con ngời xa rời tự nhiên, xa
rời tạo hoá hoặc gây sự với tạo hoá phần nhiều là dân thành
thị, thợ săn hoặc loại trí thức giả cầy giáo điều Ngợc lại,
những ngời tốt hoặc căn bản là tốt hầu hết đều là những
con ngời, vì lý do nào đấy đợc sống nhiều với thiên nhiên và
có điều kiện giữ đợc bản tính tự nhiên, bản chất tạo hoá của
mình (2; tr 461- 462).
Nhà văn Mai Ngữ trong Cái tài và cái tâm ngời viết lại
khẳng định ngòi bút Nguyễn Huy Thiệp đa con ngời về
điểm xuất phát của nó, con ngời hạ đẳng, con ngời nguyên
thuỷ cùng với tiềm thức và bản ngã vốn có trời sinh ra, những
con ngời trần trụi, loã thể trong t duy cũng nh trong hình
hài (2; tr 420 - 421).
PGS Nguyễn Thái Hoà trong bài viết Có nghệ thuật ba rốc trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hay không?

đã nhận xét: Dới ngòi bút của các nhà văn thì chỉ có hai
hạng ngời đẹp đó là những ngời ngây thơ rất gần gũi với
bản sắc tự nhiên, cha hề bị những bụi bặm của cuộc đời
làm cho vẩn đục, còn loại ngời thứ hai đã từng nếm trải
những thất bại đau đớn trong đời ngời, đợc cuộc đời rửa
sạch trở nên trong trẻo thanh cao (2; tr 102 -103).
PGS Đặng Anh Đào trong Biển không có thủy thần
cho rằng Nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp giống nh con khỉ
chúa trong Muối của rừng văng mình rất nhanh đến nỗi
gần nh không có phút nghỉ ngơi ở mỗi chặng dừng. Chúng
giống nh các hình nhân cắt bằng giấy dán trên đèn cũ.
7


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
Không có bề dày của quá khứ, của thời gian (chỉ vẻn vẹn
trong khoảnh khắc của một hiện tại, chiều dài của truyện
ngắn), không đợc bồi tiếp về nội tâm (bởi nội tâm đã trút
cả ra ngoài hành động). Họ đi lại, nhố nhăng, hoạt động
(2; tr 393).
Tóm lại, là một hiện tợng văn học, văn chơng của Nguyễn
Huy Thiệp không những đã thu hút sự chú ý của công chúng
đông đảo bạn đọc chọc thủng bức màn dửng dng của công
chúng (Diệp Minh Tuyền) (2; tr 403) mà còn gây men cho
những cuộc tranh luận đầy hứng thú kéo dài từ bấy đến
nay.
Số lợng bài viết về tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp rất
nhiều. Song phần lớn đều xoay quanh việc xác định t tởng
của ngời cầm bút để bày tỏ nhận định của mình về mức

độ giá trị của tác phẩm, cũng nh cố gắng tìm cách đánh giá
hợp lý hơn về vai trò, vị trí của nhà văn. Chính vì thế đã có
đến quá nửa số bài viết tập trung tìm hiểu khai thác sâu
về một số tác phẩm có vấn đề nh

Tớng về hu, Kiếm

sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết.
Những bài viết cụ thể, công phu về nghệ thuật xây
dựng nhân vật trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp càng
hiếm. Chỉ rải rác đây đó một vài ý kiến nhận định về một
khía cạnh, đặc điểm nào đó của nhân vật. Chẳng hạn
nhân vật ông Thuấn trong Tớng về hu, Phăng trong Vàng
lửa, Ngô Thị Vinh Hoa, Nguyễn ánh, Nguyễn Huệ trong
Phẩm tiết, Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Trãi trong Nguyễn Thị
Lộ.
8


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách công phu,
nghiêm túc, khoa học về nghệ thuật xây dựng nhân vật,
cũng nh về một phơng diện cụ thể nào đó của tác phẩm
Nguyễn Huy Thiệp theo chúng tôi là rất cần thiết. Mặc dù
đây không phải là tác giả đợc giảng dạy trong nhà trờng,
song việc tìm hiểu về tác giả đó có ý nghĩa, không chỉ
đối với sự phát triển của tiến trình văn học nói chung mà còn
đối với cả những vấn đề lý luận, phê bình nảy sinh trong
giai đoạn văn học hiện nay.

3. Đối tợng, nhiệm vụ nghiên cứu
- Đối tợng nghiên cứu
- Những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp viết về
nhân vật tha hoá: Tớng về hu, Không có vua, Những ngời
thợ xẻ, Thơng nhớ đồng quê, Huyền thoại phố phờng.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật tha hoá trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
- Một số truyện ngắn của Nam Cao.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của khoá luận
Chỉ ra nét riêng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật
tha hoá trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ở ba mặt: kết
cấu, các biện pháp thể hiện nghệ thuật, lời văn nghệ thuật.
Đồng thời để chỉ ra sự sáng tạo của Nguyễn Huy Thiệp,
chúng tôi sử dụng một số tác phẩm của nhà văn Nam Cao
cũng viết về nhân vật tha hoá để so sánh ở cả ba mặt của
hình thức nghệ thuật nhằm làm cho nội dung khóa luận
thêm sâu sắc và tăng tính thuyết phục.

9


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền

4. Phơng pháp nghiên cứu
- Phơng pháp khảo sát thống kê, phân tích, phân loại
Khảo sát thống kê các nhân vật trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, phân tích các nhân vật đó trên tất cả
các mặt từ đó tiến hành phân loại nhân vật theo những
tiêu chí riêng.

- Phơng pháp hệ thống
Lý thuyết hệ thống chỉ ra rằng, trong nghiên cứu khoa
học, ngời nghiên cứu phải biết chia tách đối tợng ra thành
nhiều yếu tố có cùng một trình độ, mỗi yếu tố ấy có một
chức năng, nhiệm vụ khác nhau để tìm hiểu khám phá.
Phơng pháp này cho phép chúng tôi khảo sát xây dựng
nhân vật theo ba yếu tố nhỏ của hình thức: kết cấu, các
biện pháp thể hiện nghệ thuật, lời nói nghệ thuật.
- Phơng pháp phân tích đối tợng theo quan điểm hệ
thống
Đây là phơng

pháp tách đối tợng nghiên cứu thành

những yếu tố nhỏ hơn, khi đã tiến hành chia tách đối tợng
lớn. Điều này thể hiện ở việc tách kết cấu ra làm ba mặt,
tách các biện pháp thể hiện nghệ thuật thành bảy yếu tố và
qua đó cũng nhằm xem xét mối quan hệ tơng tác giữa các
yếu tố nhỏ với nhau.
- Phơng pháp so sánh hệ thống
Phơng pháp này yêu cầu việc so sánh không phải tiến
hành ở các bộ phận mà là so sánh cả hệ thống lớn với nhau
10


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
để tìm ra giá trị độc đáo của hệ thống này so với hệ thống
kia. Trong khoá luận này, đó chính là thao tác so sánh nghệ
thuật xây dựng nhân vật tha hoá trong truyện ngắn

Nguyễn Huy Thiệp với nghệ thuật xây dựng nhân vật tha
hoá trong truyện ngắn của Nam Cao trên cả ba mặt của
hình thức nghệ thuật.

- Phơng pháp so sánh loại hình
Đây là phơng pháp nghiên cứu văn chơng theo loại tác
phẩm (tự sự, trữ tình, kịch). Vận dụng tốt phơng pháp này,
ngời nghiên cứu sẽ tìm ra đợc những nét độc đáo ở mỗi nhà
văn.
5. Đóng góp và cấu trúc của luận văn
- Đóng góp của khoá luận
Khoá luận giúp nắm rõ hơn những vấn đề về nhân
vật đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện
ngắn. Đồng thời, cũng góp phần khẳng định cái riêng, mới lạ
trong lối hành văn của Nguyễn Huy Thiệp.
- Cấu trúc khoá luận
Khoá luận gồm 77 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần
nội dung gồm 3 chơng:
Chơng 1: Quan niệm về nghệ thuật xây dựng nhân
vật văn học
Chơng 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật tha hoá
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp

11


Kho¸ luËn tèt nghiÖp
¢u ThÞ HiÒn
Ch¬ng 3: Sù s¸ng t¹o cña NguyÔn Huy ThiÖp trong
nghÖ thuËt x©y dùng nh©n vËt tha ho¸.


12


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền

Phần Nội dung
Chơng 1
Quan niệm về nghệ thuật xây dựng nhân vật
1.1.

Quan niệm về nhân vật

1.1.1. Khái niệm nhân vật
Trong tiếng Hy Lạp cổ, nhân vật (đọc là persona) lúc
đầu mang ý nghĩa chỉ cái mặt nạ của diễn viên trên sân
khấu. Theo thời gian, chúng ta đã sử dụng thuật ngữ này với
tần số nhiều nhất, thờng xuyên nhất để chỉ đối tợng mà văn
học miêu tả và thể hiện.
Nhìn một cách rộng nhất, nhân vật là khái niệm không
chỉ đợc dùng trong văn chơng mà còn ở nhiều lĩnh vực
khác.Theo bộ Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do
Hoàng Phê chủ biên, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng 2002
thì nhân vật là khái niệm mang hai nghĩa: nghĩa thứ nhất,
đó là đối tợng (thờng là con ngời) đợc miêu tả, thể hiện
trong tác phẩm văn học. Thứ hai, đó là ngời có một vai trò
nhất định trong xã hội. Tức là, thuật ngữ nhân vật đợc dùng
phổ biến ở nhiều mặt cả đời sống nghệ thuật, đời sống xã
hội - chính trị lẫn đời sống sinh hoạt hàng ngàyNhng trong

phạm vi nghiên cứu của khoá luận, chúng tôi chỉ đề cập đến
khái niệm nhân vật theo nghĩa thứ nhất mà bộ Từ điển
tiếng Việt định nghĩa nh vừa trích ở trên tức là nhân vật
trong tác phẩm văn chơng.
Cuốn Lý luận văn học, Nxb GD, H, 2004 do tác giả Phơng Lựu, (chủ biên), có định nghĩa khá kĩ về nhân vật văn

13


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
học: Nói đến nhân vật văn học là nói đến con ngời đợc
miêu tả, thể hiện trong tác phẩm, bằng phơng tiện văn học.
Đó là những nhân vật có tên nh Tấm, Lý Thông Đó là những
nhân vật không tên nh thằng bán tơ..trong Truyện Kiều
Đó là những con vật trong truyện cổ tích, đồng thoại, thần
thoại, bao gồm cả quái vật lẫn thần linh, ma quỉ, những con
vật mang nội dung và ý nghĩa con ngời Khái niệm nhân
vật có khi chỉ đợc sử dụng một cách ẩn dụ, không chỉ một
con ngời cụ thể nào mà chỉ một hiện tợng nổi bật trong tác
phẩm Nhng chủ yếu là hình tợng con ngời trong tác
phẩm Nhân vật văn học là một hiện tợng nghệ thuật ớc lệ,
có những dấu hiệu để nhận ra (5; tr 277 - 278).
Trong cuốn Lí luận văn học. Nxb GD, H, 1993 do giáo s
Hà Minh Đức chủ biên, các tác giả cuốn này đã cho rằng:
Nhân vật văn học là một hiện tợng nghệ thuật mang tính ớc
lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu
hiện của con ngời mà chỉ là sự thể hiện con ngời qua những
đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách...
Và cần chú ý thêm một điều: thực ra khái niệm nhân vật thờng đợc quan niệm với một phạm vi rộng hơn nhiều, đó

không chỉ là con ngời, những con ngời có tên hoặc không
tên, đợc khắc hoạ sâu đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua
trong tác phẩm, mà còn có thể là sự vật, loài vật khác ít
nhiều mang bóng dáng, tính cách con ngời Cũng có khi đó
không phải là những con ngời, sự vật cụ thể, mà chỉ là một
hiện tợng về con ngời hoặc có liên quan tới con ngời, đợc thể
hiện nổi bật trong tác phẩm (8; tr102). ở cuốn Từ điển
14


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
thuật ngữ văn học Nxb QG, H, 2000, nhóm tác giả Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi định nghĩa: Nhân vật văn
học là con ngời cụ thể đợc miêu tả trong tác phẩm văn học.
Nhân vật văn học có thể có tên riêng (Tấm, Cám, chị Dậu),
cũng có thể không có tên riêng Khái niệm nhân vật văn học
có khi đợc sử dụng nh một ẩn dụ, không chỉ một con ngời cụ
thể nào cả, mà chỉ một hiện tợng nổi bật nào đó trong tác
phẩm Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy
tính ớc lệ, không thể đồng nhất nó với con ngời có thật trong
đời sống.
Nh vậy, nhà nghiên cứu lý luận văn học, bằng cách này
hay cách khác khi định nghĩa nhân vật văn học vẫn cơ bản
gặp nhau ở những nội hàm không thể thiếu của khái niệm
này: Thứ nhất, đó phải là đối tợng mà văn học miêu tả, thể
hiện bằng những phơng tiện văn học. Thứ hai, đó là những
con ngời, hoặc những con vật, đồ vật, sự vật hiện tợng
mang linh hồn con ngời là hình ảnh ẩn dụ của con ngời. Thứ
ba, đó là đối tợng mang tính ớc lệ và có cách điệu so với đời

sống hiện thực bởi nó đã đợc khúc xạ qua lăng kính chủ quan
của nhà văn.
Đối với nhân vật văn học thì tính cách đợc coi là đặc
điểm quan trọng nhất, là nội dung của mọi nhân vật văn
học (5; tr 280). Đôtxtôievxki cũng khẳng định: Đối với nhà
văn, toàn bộ vấn đề là ở tính cách (15; tr 280). Tính cách,
với ý nghĩa rất lớn nh vậy nên trớc kia một số giáo trình Nga
đã gọi nhân vật là tính cách. ở đây cần hiểu tính cách là
phẩm chất xã hội lịch sử của con ngời thể hiện qua các đặc
15


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
điểm cá nhân, gắn liền với phẩm chất tâm sinh lý của họ,
tính cách cũng là nhân vật đợc thể hiện với một chất lợng t
tởng và nghệ thuật cao hơn, tuy cha đạt đến mức độ là
những điển hình (15; tr 105). Và tính cách tự nó cũng bao
hàm những thuộc tính nh có nét cụ thể, độc đáo của một
con ngời cá biệt nhng lại mang cả những nét chung, tiêu biểu
cho nhiều ngời khác ở một mức độ nhất định, đồng thời có
một quá trình phát triển hợp với lôgic khách quan của đời
sống.
Nh vậy, nhân vật có hạt nhân là tính cách. Trong tác
phẩm văn chơng có nhân vật đợc khắc hoạ tính cách nhiều
hay ít nhng cũng có nhân vật không đợc khắc hoạ tính
cách.
1.1.2. Vai trò của nhân vật
Là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành nên tác
phẩm văn học, nhân vật có một vai trò, vị trí hết sức quan

trọng.
Trớc tiên, nhân vật văn học là đơn vị cơ bản, là phơng
tiện tất yếu và quan trọng nhất giúp nhà văn phản ánh một
cách chân thực cuộc sống bằng sự suy ngẫm, chiêm nghiệm,
bằng những tìm tòi khám phá, nhà văn xây dựng nên nhân
vật và hệ thống nhân vật để từ đó khái quát các tính cách
xã hội và mảng đời sống gắn liền với nó.
Tính cách là sự thể hiện các phẩm chất xã hội, lịch sử
của con ngời qua các đặc điểm cá nhân, gắn liền với phẩm
chất tâm sinh lý của họ. ở mỗi thời đại, do yêu cầu lịch sử,
con ngời lại xuất hiện những tính cách tiêu biểu, điển hình
16


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
khác nhau. Có thể nói, tính cách, hiện tợng xã hội xuất hiện
trong thực tế khách quan. Vì tính cách là kết tinh của môi
trờng cho nên nhân vật văn học không chỉ xây dựng nên
những tính cách mà còn dẫn dắt ngời đọc vào thế giới đời
sống. Nhân vật đợc xem nh là một công cụ để nhà văn khám
phá và biểu hiện đời sống.
Mỗi tính cách nhân vật thờng gắn liền với những khía
cạnh vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm.
Sự thấu hiểu thực sự chức năng phản ánh khái quát nhân vật
không chỉ dừng lại ở việc phát hiện ra các đặc điểm, các
nét tính cách của nhân vật mà còn phải thấy đợc những vấn
đề xã hội đằng sau những tính cách đó.
Bên cạnh việc phản ánh, khái quát hiện thực cuộc sống
với những mảng đời sống xã hội gắn liền với nó, nhân vật

còn có chức năng thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tởng
thẩm mỹ của nhà văn về con ngời, về cuộc đời. Văn học
phản ánh thế giới bằng hình tợng. Song điều đó không có
nghĩa là nhà văn sao chụp lại, bê nguyên xi hiện thực cuộc
sống vào trong tác phẩm. Nhà văn phải là ngời sáng tạo ra trên
cơ sở sự trải nghiệm, suy ngẫm theo cách cảm thụ của bản
thân mình.
Tóm lại, nhân vật có một vai trò hết sức quan trọng
trong tác phẩm của mỗi nhà văn. Nó là hình thức, là phơng
tiện để nhà văn khái quát hiện thực cuộc sống, thể hiện
quan niệm, t tởng của bản thân: nhân vật văn học đợc sáng
tạo ra, h cấu để khái quát và biểu hiện t tởng, thái độ đối với
cuộc sống. Ca ngợi nhân vật là ca ngợi đời, lên án nhân vật là
17


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
lên án đời, xót xa cho nhân vật là xót xa cho đời. Do vậy,
tìm hiểu nhân vật là tìm hiểu cách hiểu về cuộc đời của
tác giả đối với con ngời.
Đi sâu vào thế giới nhân vật Nguyễn Huy Thiệp chúng
ta sẽ thấy rõ điều đó.
1.1.3. Các loại nhân vật văn học cơ bản
Nhân vật văn học là một hiện tợng đa dạng về mặt
kiểu loại. Xét nhân vật văn học qua từng thời kỳ phát triển
của nền văn học, ngời ta có thể phân chia nhân vật văn học
thành nhiều kiểu loại khác nhau: nhân vật trong văn học dân
gian khác nhân vật trong văn học viết. Nhân vật thần thoại
khác nhân vật truyền thuyết và cổ tích. Xét về cấu trúc,

nhân vật chính khác nhân vật phụ, nhân vật trung tâm.
Xét về ý thức hệ nhân vật chính diện khác nhân vật phản
diện. Xét về cấu trúc hình tợng nhân vật chức năng, nhân
vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật t tởng đều có
những đặc trng khác nhau. Dới đây là một số khía cạnh kết
cấu, ý thức hệ và cấu trúc.
Xét về cấu trúc: dựa vào vị trí đối với nội dung cụ thể,
với cốt truyện của tác phẩm, nhân vật văn học đợc chia thành
nhân vật chính, nhân vật phụ và nhân vật trung tâm.
Nhân vật chính là nhân vật đóng vai trò chủ yếu giữ
vị trí then chốt trong việc triển khai diễn biến của sự việc.
Nhân vật chính thờng tham gia xuyên suốt, xuất hiện nhiều
lần trong tác phẩm. Đó cũng là nhân vật đợc tác giả dày
công miêu tả, khắc hoạ, đợc thể hiện rõ nét hơn, gây ấn tợng sâu đậm hơn đối với ngời đọc. Nhng chủ yếu nhất,
18


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
nhân vật chính vẫn là nhân vật có vai trò quan trọng trong
việc thể hiện tập trung đề tài, chủ đề, t tởng tác phẩm.
Nhân vật tôi, tớng Thuấn, Thuỷ trong Tớng về hu , Trơng Chi trong Trơng Chi đều là những nhân vật chính
trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Trong số những nhân
vật chính của tác phẩm lại có thể có nhân vật đợc thể hiện
đặc biệt nổi bật, có ý nghĩa t tởng, thẩm mỹ sâu sắc nhất
đó là nhân vật trung tâm. Nhân vật trung tâm là nhân
vật xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, có mối liên hệ với
tất cả những nhân vật khác trong tác phẩm. Chính vì thế
mà nó là nhân vật quy tụ các đầu mối mâu thuẫn của tác
phẩm, là nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm.

Nhân vật tớng Thuấn (Tớng về hu), Quang Trung (Phẩm
tiết) là những nhân vật nh thế.
Bên cạnh các nhân vật chính là các nhân vật phụ. Đó là
những nhân vật ít xuất hiện trong tác phẩm, đóng vai trò
thứ yếu trong việc triển khai đề tài và biểu hiện t tởng tác
phẩm. Nhân vật phụ là nhân vật ít đợc mô tả, không đợc
chú trọng mô tả nhng lại không thể thiếu đợc vì nó có vai trò
giăng mối các đầu mối quan hệ, bổ sung và hỗ trợ về
nhiều mặt kể cả hình thức và nội dung tác phẩm. Nhân vật
phụ có thể góp phần thể hiện chủ đề, t tởng cũng nh làm
nổi bật tính cách nhân vật chính trong tác phẩm.
Sự hiện diện của nhân vật phụ trong tác phẩm có hai
mức độ: ít đợc mô tả và hầu nh không đợc mô tả. Ví dụ nh
trong truyện Tớng về hu bên cạnh ông Thuấn, Thuỷ và nhân
vật tôi còn có các nhân vật ông Cơ, cô Lài trong Thơng
19


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
nhớ đồng quê các nhân vật chị Ngữ, Phung, thím Nhung,
giáo Quỳ, dì Lu, Mi, Quyên, s Thiều đều là những nhân vật
phụ trong tác phẩm.
Về mặt ý thức hệ: dựa vào đặc điểm của tính cách,
mối quan hệ với t tởng tác giả và lý tởng của thời đại, các
nhân vật lại có thể chia ra nhân vật chính diện, nhân vật
phản diện. Nhân vật chính diện là nhân vật mang t tởng,
quan điểm và đạo đức tốt đẹp của tác giả, của thời đại và
đợc tác giả đề cao, khẳng định, trái lại, nhân vật phản
diện lại mang những phẩm chất xấu xa, trái với đạo đức và lý

tởng, đáng lên án và phủ định.
Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thờng hớng tới khám phá
con ngời ở nhiều mặt, có tốt, có xấu, có cao cả, có thấp hèn,
có hài hớc buồn cời, có chua chát, sâu cay Con ngời trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ít khi toàn thiện, toàn mỹ
và thật khó có thể chứng minh rằng một ai đó trong tác
phẩm lại là ngời đại diện cho t tởng, thẩm mỹ, lý tởng thời
đại của nhà văn.
Dựa vào cấu trúc hình tợng, ngời ta có thể chia nhân
vật thành nhân vật chức năng, nhân vật loại hình, nhân vật
tính cách và nhân vật t tởng.
Nhân vật chức năng là loại nhân vật xuất hiện để thực
hiện một số chức năng nào đó. Loại nhân vật này thờng có
đặc điểm, tính cách ổn định với những phẩm chất cố
định, không thay đổi từ đầu đến cuối. Nhân vật chức
năng thông thờng chỉ thấy trong văn học dân gian, văn học

20


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
cổ Trung Đại nh: Tiên, Bụt, Thần xuất hiện để giúp đỡ ngời
tốt, thử thách con ngời, ban phát hạnh phúc
Nhân vật loại hình là loại nhân vật thể hiện tập trung
các phẩm chất xã hội, đạo đức, của một loại ngời nhất định
của một thời. Đó là nhân vật nhằm khái quát cái chung về loại
của các tính cách và nhờ vậy đợc gọi là điển hình. Loại
nhân vật này bao giờ cũng có một số phẩm chất loại biệt về
mặt xã hội đợc nêu bật hơn hẳn các tính chất khác. Dĩ

nhiên, nhân vật loại hình, nh mọi nhân vật văn học khác,
đòi hỏi một cá tính nhất định, đợc thể hiện một cách sinh
động qua các chi tiết cụ thể, chân thực. Nhân vật loại hình
thờng xuất hiện nhiều trong các trào lu văn học cổ điển.
Acpagông, Tac-tuýp, Giuốc đanh là những nhân vật nh
thế.
Nhân vật tính cách: nhân vật tính cách thờng xuất
hiện trong văn học hiện đại là loại nhân vật có tính cách nổi
bật, đợc xây dựng cụ thể sinh động nh con ngời thực ngoài
cuộc đời. Khái niệm tính cách ở đây đợc dùng để chỉ cho
loại đợc miêu tả. Mô tả nh một nhân cách một cá nhân có cá
tính nổi bật.
Nhân vật t tởng: là nhân vật có t tởng, nhân cách nhng
cơ bản của nó là hiện thân của một ý thức: Giăng văn Giăng,
Gia-ve của V.Huy Gô...
Trên đây là những loại nhân vật thờng gặp. Sự phân
biệt này chỉ mang tính chất tơng đối nó chỉ nhằm nhấn
mạnh nét trội, nét đặc trng cơ bản của một nhân vật nào
đó. Ranh giới phân chia nhân vật không phải lúc nào cũng
21


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
rạch ròi. Đặc biệt càng về sau này, văn học của chúng ta hớng
tới việc thể hiện con ngời chân thực sinh động, đa chiều
hơn. Văn chơng của Nguyễn Huy Thiệp thể hiện khá rõ điều
đó. Trong tác phẩm của ông, ngời đọc rất khó có thể xác
định một cách rành mạch, chính xác về nhân vật và kiểu
loại của nó.

1.2. Quan niệm về nghệ thuật xây dựng nhân vật
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về nghệ thuật xây
dựng nhân vật nhng ở khóa luận này, chúng tôi đi vào tìm
hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật thông qua ba yếu tố
thuộc cấu trúc hình thức tác phẩm: kết cấu, các biện pháp
nghệ thuật thể hiện nhân vật, lời văn nghệ thuật.
1.2.1. Kết cấu
Kết cấu, theo quan niệm của nhóm tác giả của cuốn Lý
luận văn học, Nxb Giáo dục, 2004 là toàn bộ tổ chức tác
phẩm phục tùng đặc trmg nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ
thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu tác
phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và t tởng tác
phẩm.
Trong bài Tính nghệ thuật, một đối tợng nghiên cứu và
một cách tiếp cận riêng, DĐVNVN số tháng 3, 4 năm 2000, tác
giả Nắng Mai đã có một quan niệm cụ thể hơn về kết cấu.
Kết cấu là việc sắp xếp lắp ráp chẳng những kiến thức
trong chiều sâu, mà còn bố cục, bài trí ở bên ngoài, nhằm
tổng hợp những tơng quan giữa các yếu tố của tác phẩm
gắn kết lại mọi mảnh vụn rời rạc trong số đó sao cho thành
sinh thể câu chữ, mà nó là chất kết dính liên kết toàn bộ
22


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
các chi tiết rời rạc thành dòng thống nhất trong tác phẩm kết
cấu có vai trò của ngời đạo diễn thay mặt tác giả tạo nên hệ
thống các hình tợng nh là kết quả của sự thăng hoa hoàn
thiện nội dung của kết cấu tác phẩm trên những phơng diện

sau:
Kết cấu trớc hết thể hiện ở việc ngời nghệ sĩ trong tác
phẩm của mình gắn nhân vật này với nhân vật kia, tạo ra
quan hệ qua lại giữa chúng. Từ đó các nhân vật sẽ tự bộc lộ
bản chất xã hội - thẩm mỹ của mình.
Kết cấu còn là việc nhà văn gắn liền nhân vật vào
hoàn cảnh môi trờng cụ thể, đặc biệt là những tình huống
kịch tính, có vấn đề cho nhân vật hoạt động. Qua đó,
nhân vật sẽ thể hiện phẩm chất, nhân cách, cá tính riêng
cũng nh chiều hớng con đờng đời của nó.
Kết cấu đồng thời còn là việc ngời nghệ sỹ gắn kết
thành dòng thống nhất những điều xảy ra trớc với những
điều xảy ra sau trong cuộc đời mỗi nhân vật. Điều này có
tác dụng làm nổi bật vấn đề trung tâm nội dung t tởng chủ
yếu của tác phẩm, cùng chiều hớng con đờng đời của tác giả
của các loại nhân vật.
1.2.2. Các biện pháp nghệ thuật thể hiện nhân vật
Để xây dựng đợc các nhân vật trong tác phẩm văn chơng một cách sinh động, hấp dẫn, nhà văn phải mợn đến các
thủ pháp nghệ thuật nh: kể; tả; đối thoại; độc thoại; tâm
tình; bàn luận; triết lý; và đặt nhân vật vào những hoàn
cảnh xung đột kịch tính. Việc sử dụng những biện pháp thể

23


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
hiện nghệ thuật này gắn liền với việc xây dựng hình tợng
nhân vật toàn vẹn và sinh động.
1.2.2.1. Biện pháp kể

Kể là một hoạt động sáng tạo của nhà văn cụ thể đó là
hình thức trần thuật lại các sự kiện, biến cố xảy ra trong quá
trình phát triển của đối tợng làm cho tác phẩm trở thành một
dòng chảy các sự kiện, biến cố, chi tiết, hoạt động và làm
cho đối tợng miêu tả có một quá trình phát triển riêng, sinh
động, không lặp lại. Qua biện pháp kể, quan hệ giữa các
nhân vật với môi trờng hay các hành động, cử chỉ, ý nghĩa
của nhân vật đợc thể hiện khá rõ. Trong tác phẩm có nhiều
cách kể, có thể theo trình tự thời gian hoặc xáo trộn trình
tự thời gian. Có thể nhà văn trực tiếp đóng vai trò làm ngời
kể chuyện, nhng cũng có thể để nhân vật kể chuyện. Do
vậy, kể không chỉ là một biện pháp thể hiện nghệ thuật
đơn thuần mà còn đợc nâng cao thành một phơng thức tạo
ra tác phẩm nh một câu chuyện. Lúc đó, các biện pháp thể
hiện nghệ thuật khác chỉ đóng vai trò bổ trợ cho kể.
Có thể nói, kể là biện pháp thể hiện nghệ thuật chủ đạo
của loại tác phẩm tự sự.
1.2.2.2. Biện pháp tả
Tả là biện pháp đòi hỏi nhà văn phải khéo kết hợp các
danh từ với các tính từ, động từ, khéo kết nối các kiểu câu
sao cho hiệu quả cuối cùng là đối tợng đợc miêu tả hiện lên trớc hình dung của bạn đọc càng bằng nhiều giác quan càng
tốt. Biện pháp này rất hữu dụng trong việc cụ thể hoá đối tợng. Nó không chỉ cho ngời đọc hình dung về hình thức, vẻ
24


Khoá luận tốt nghiệp
Âu Thị Hiền
bên ngoài của đối tợng mà cùng với dụng ý của nhà văn còn hé
mở cả những điều thầm kín sâu xa bản chất bên trong của
đối tợng.

1.2.2.3. Biện pháp đối thoại
Đối thoại trong văn chơng là hình thức nhà văn để các
nhân vật trò chuyện trao đổi, thậm chí tranh luận gay gắt
với nhau về một vấn đề nào đó. Các mối quan hệ giữa các
nhân vật càng đa dạng, các nhân vật đối thoại càng nhiều
thì càng bộc lộ các đặc điểm thuộc về tính cách, cá tính,
nghề nghiệp, giai cấp, lứa tuổi, của mình... Hơn nữa, sự
bộc lộ đó còn thể hiện qua nội dung lời nói, qua cả cách
nhân vật đối thoại. Biện pháp này giúp bạn đọc nh nghe
thấy nhân vật nói năng với lối t duy và ứng xử riêng trong
những tình huống cụ thể đôi khi lời đối thoại còn đợc tác
giả giới thiệu kèm theo giọng nói, cách nói (Nắng Mai, 2000)
Tính nghệ thuật, một đối tợng nghiên cứu và một cách tiếp
cận riêng, D ĐVNVN số tháng 3 + 4, 2000.)
Với mỗi loại văn, biện pháp này đợc sử dụng đậm hay
nhạt khác nhau. Thơ trữ tình hầu nh không sử dụng đối
thoại, kịch thì sử dụng đậm đặc đối thoại, còn các tác
phẩm tự sự thì việc sử dụng biện pháp đối thoại rất đa
dạng, linh hoạt.
1.2.2.4. Biện pháp độc thoại nội tâm
Biện pháp độc thoại nội tâm là tiếng nói thầm của
nhân vật. Độc thoại nội tâm cũng là lúc nhân vật bộc lộ
mình một cách thật nhất. Trong tác phẩm, biện pháp này th25


×