ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===========
NGUYỄN THỊ THÙY DUNG
TINH THẦN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG
THƠ INRASARA
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 32
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Thành Hưng
Hà Nội – 2013
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Phạm
Thành Hưng người đã hướng dẫn tôi thực hiện luận văn này.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo, những
người đã đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong những
năm học vừa qua.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo
sau đại học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà
Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 23 tháng 5 năm 2013
Học viên
Nguyễn Thị Thùy Dung
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là Nguyễn Thị Thùy Dung, học viên cao học K55 Văn học,
chuyên ngành Lý luận văn học, khoá 2010 - 2012. Tôi xin cam đoan luận văn
thạc sĩ «Tinh thần hậu hiện đại trong thơ Inrasara» là công trình nghiên
cứu của riêng tôi, không sao chép dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi xin chịu
hoàn toàn trách nhiệm với luận văn cao học của mình.
Học viên
Nguyễn Thị Thùy Dung
1
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói trong làng văn chương đương đại Việt Nam, sự xuất hiện
của Inrasara đã thực sự tạo thành một hiện tượng. Các sáng tác và phê
bình thơ của ông thu hút được rất nhiều sự quan tâm của độc giả và các
nhà nghiên cứu. Hành trình sáng tác của Inrasara là một quá trình thể
nghiệm những cái mới, cái hay, cái lạ. Ông không phải là người đầu tiên
đưa những lý thuyết mới vào sáng tác văn học Việt Nam, nhưng ông là
người có công rất lớn trong việc cổ súy những cái mới trong nghệ thuật
như: tân hình thức, hậu hiện đại.
Inrasara xuất hiện khá muộn trên thi đàn nhưng hầu hết các tập thơ của
ông đều được nhận giải thưởng văn học. Đặc biệt hơn nữa, Inrasara là nhà thơ
dân tộc thiểu số đầu tiên của Việt Nam nhận được giải thưởng văn học
ASEAN, một giải thưởng danh giá và có uy tín trong khu vực.
Đã có khá nhiều bài viết về Inrasara đăng rải rác trên một số báo và tạp
chí. Đặc biệt cũng đã có những luận văn thạc sĩ, báo cáo khoa học về
Inrasara. Hầu hết các công trình này đều nhắc tới tinh thần hậu hiện đại trong
thơ ông, nhưng thiết nghĩ chưa có công trình nào tập trung đi sâu và toàn diện
về vấn đề này. Hơn thế nữa, chủ nghĩa hậu hiện đại đối với giới sáng tác và
phê bình Việt Nam cũng đang là một vấn đề khá mới mẻ và gây nhiều tranh
cãi. Vì vậy, tìm hiểu về tinh thần hậu hiện đại trong thơ Inrasara không chỉ
giúp chúng ta hiểu sâu hơn về phong cách sáng tạo của một nhà thơ cá tính,
một hiện tượng văn học gây nhiều chú ý trên thi đàn mà còn cho phép chúng
ta có cái nhìn khái quát, toàn diện hơn về một lý thuyết mới trong sáng tác
văn học nghệ thuật.
2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về sáng tác của Inrasara, đã có khá nhiều công trình đi sâu tìm hiểu về
các khía cạnh trong tư tưởng, thế giới nghệ thuật, cũng như những cách tân
của ông. Đáng kể nhất là các luận văn thạc sĩ và công trình nghiên cứu khoa
học về thơ ông:
- Tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Inrasara, Lê Thị Tuyết Lan & Nguyễn
Thị Thu Hương (Đề tài Nghiên cứu Khoa học cấp trường), Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh, 2008.
Công trình nghiên cứu này đã khái quát được thơ Inrasara trên bình diện
nội dung và nghệ thuật. Từ đó đưa ra tiến trình thay đổi về phong cách qua
5 tập thơ của Inrasara: Tháp nắng (1996), Sinh nhật cây xương rồng
(1997), Hành hương em (1999), Lễ tẩy trần tháng tư (2002), Chuyện 40
năm mới kể và 18 bài thơ Tân hình thức (2006). Ngoài ra, để có cái nhìn
đầy đủ hơn về sáng tác của Inrasara, chúng tôi có sự đối chiếu với một số
nhà thơ dân tộc thiểu số cùng thời với Inrasara.
Tìm hiểu về thơ Inrasara, nhất là thế giới nghệ thuật trong thơ ông,
hai tác giả muốn đưa đến một cái nhìn khái quát về văn học nước nhà trên
tiến trình phát triển và kiếm tìm cái mới. Trong đó sự cách tân về nghệ
thuật, đặc biệt là sự thể nghiệm mới mẻ về hình thức thơ, nội dung trong
thơ là đề tài chủ yếu trong thơ ca hiện đại. Trên hành trình này, các tác giả
đã đưa ra ý kiến của mình về văn học trẻ hiện nay. Một nền văn học đang
có sự tìm tòi và bứt phá, một nền văn học đang có xu hướng đi gần lại với
cuộc sống đời thường, kiếm tìm vẻ đẹp trong cuộc sống đời thường. Qua
đó cũng là sự kiếm tìm cái tôi, kiếm tìm về bản thể của chính mình trong
những con người trẻ. Sự phá vỡ những quy ước về hình thức thể hiện
3
thơcũng được đề cập. Mặt khác, công trình có sự đối chiếu về thế giới
nghệ thuật thơ Inrasara với các nhà thơ dân tộc thiểu số cùng thời.
- Thơ Inrasara, Trần Xuân Quỳnh (Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Ngành văn
học Việt Nam), Trường Đại học Đà Lạt, 2008.
- Thế giới nghệ thuật thơ Inrasara, Võ Thị Hạnh Thủy, (Luận văn Thạc sĩ
Ngữ văn, Ngành văn học Việt Nam hiện đại), Viện Văn học, 2008.
- Hành trình cách tân thơ của Inrasara, Lê Thị Việt Hà, (Luận văn Thạc sĩ
Ngữ văn, Ngành Lí luận văn học), Trường Đại học Vinh, 2009.
Luận văn đã nêu bật được hành trình cách tân thơ của Inrasara từ hậu lãng
mạn sang hậu hiện đại. Đó thực sự là một nỗ lực vượt lên chính mình.
Luận văn cũng khẳng định Inrasara là nhà thơ có giọng điệu cách tân nhất
hiện nay nhưng đường hướng cách tân của Inrasara lựa chọn là cách tân
trên cơ sở truyền thống. Cách tân trong quan niệm của ông không những
không được rời xa truyền thống mà ngược lại, phải làm giàu thêm, phong
phú thêm cho truyền thống. Thơ ông trở đi trở lại với những tình tự dân
tộc mình, vì vậy, dù luôn nỗ lực làm mới thơ, dù sáng tác theo khuynh
hướng hậu hiện đại nhưng thơ Inrasara vẫn không bị “Kinh hoá”, không
“lai căng”. Thơ ông đi giữa truyền thống và hiện đại với cội nguồn cổ kính
mà âm điệu tân kì.
Hành trình cách tân thơ của Inrasara là đề tài nghiên cứu không chỉ
có ý nghĩa đối với việc tìm hiểu một phong cách thơ cụ thể mà còn cần
thiết đối với việc khám phá những quy luật chi phối sự phát triển của nền
thơ Việt đương đại. Tuy nhiên đề tài của tác giả mới chỉ dừng ở việc tìm
hiểu hành trình thơ Inrasara từ hậu lãng mạn đến hậu hiện đại, là một
mảng nhỏ trong sự nghiệp sáng tác phong phú của ông. Vì vậy đề tài này
cần được tiếp tục nghiên cứu theo chiều rộng lẫn chiều sâu.
4
- Và 09 khóa luận sinh viên tốt nghiệp khác.
Hầu hết các công trình này đều nhắc tới tinh thần hậu hiện đại như là một đặc
trưng nổi bật trong sáng tác của Inrasara.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi mong muốn có thể đưa ra một cái
nhìn sâu hơn về đóng góp của Inrasara trong việc đưa lý thuyết hậu hiện
đại vào sáng tác văn học. Đó cũng là căn cứ để chúng tôi giới hạn phạm
vi nghiên cứu trong khóa luận của mình: Phân tích, đánh giá thơ Inrasara
theo chiều sâu, tập trung chủ yếu vào những đặc điểm thơ mang tinh thần
hậu hiện đại trên cả hai phương diện nội dung và hình thức, chủ yếu khảo
sát qua hai tập thơ Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài tân hình thức thơ và
Ở nơi ấy [thơ thời cuộc].
3.1. Mục đích
Trong đề tài này chúng tôi đưa ra những mục đích cần phải đạt:
- Tìm hiểu những nét khái quát về chủ nghĩa hậu hiện đại trong nền văn học
Việt Nam đương đại.
- Đánh giá tiến trình sáng tác của Inrasara qua các tập thơ.
- Làm nổi bật tinh thần hậu hiện đại trong sáng tác thơ Inrasara.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi tập trung làm nổi bật tinh thần hậu
hiện đại thể hiện trong các tập thơ của Inrasara.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tôi mong muốn có thể đưa ra một cái
nhìn sâu hơn về đóng góp của Inrasara trong việc đưa lý thuyết hậu hiện
đại vào sáng tác văn học. Đó cũng là căn cứ để chúng tôi giới hạn phạm vi
nghiên cứu trong luận văn của mình: Phân tích, đánh giá thơ Inrasara theo
5
chiều sâu, tập trung chủ yếu vào những đặc điểm thơ mang tinh thần hậu
hiện đại trên cả hai phương diện nội dung và hình thức, chủ yếu khảo sát
qua hai tập thơ Chuyện 40 năm mới kể & 18 bài tân hình thức thơ và Ở
nơi ấy [thơ thời cuộc].
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích: Phân tích về nội dung và nghệ thuật thơ Inrasara
với các mảng đề tài, cảm xúc thơ, nghệ thuật sử dụng ngôn từ và hình thức
thể hiện. Đặc biệt đi sâu vào phân tích phương pháp sáng tác mang tinh
thần hậu hiện đại của thơ ông.
- Phương pháp tổng hợp: Từ các phân tích trên, đưa ra cái nhìn khái quát về
tiến trình phát triển trong thơ Inrasara.
- Phương pháp so sánh – đối chiếu: Sự so sánh về nội dung và hình thức thể
hiện trong thơ Inrasara với các nhà thơ có chung ý thức thể nghiệm về
phương pháp sáng tác hậu hiện đại đương thời.
- Phương pháp thi pháp học: Tập trung khảo sát hai tập thơ gần đây nhất
của Inrasara là: Chuyện bốn mươi năm mới kể & 18 bài tân hình thức thơ
và Ở nơi ấy [thơ thời cuộc] (chưa in nhưng đã công bố hơn 20 bài trên
website ).
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục thì luận
văn gồm bốn chương:
Chương 1: Thơ Inrasara trong tiến trình đổi mới thơ Việt Nam đương đại
Chương 2:Cái tôi trữ tình trong thơ Inrasara
Chương 3: Thủ pháp nghệ thuật hậu hiện đại trong thơ Inrasara.
6
B. Nội dung
Chƣơng 1. Thơ Inrasara trong tiến trình đổi mới thơ
Việt Nam đƣơng đại
1.1. Khái quát về chủ nghĩa hậu hiện đại
Chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism) là một thuật ngữ được dùng
trong nhiều lĩnh vực tư tưởng, từ triết học, mĩ học đến các ngành nghiên cứu,
phê bình nghệ thuật và các ngành khoa học cơ bản…Thuật ngữ Chủ nghĩa
hậu hiện đại lần đầu tiên được dùng vào thập niên 1870 bởi họa sĩ người Anh
John Watkins Chapman và sau đó xuất hiện trong một cuốn sách xuất bản
năm 1917 của nhà triết học người Đức Rudolf Pannwitz. Nhiều nhà nghiên
cứu sau Rudolf Pannwitz đã phát triển ý nghĩa của thuật ngữ này, có thể kể
đến một số tên tuổi như Roland Barthes, Irving Howe, Ihab Hassan, Jane
Jacobs, Michel Foucault,…Cho đến nay, theo số liệu thống kê, trên thế giới
có gần chục ngàn công trình mà tên của nó có nhắc tới postmodernism. Mặc
dù xuất hiện từ năm 1870, nhưng chủ nghĩa hậu hiện đại mới bắt đầu được
hình thành như một trào lưu tư tưởng và phát triển từ những năm 50, 60 của
thế kỷ XX. Khái niệm này khởi đầu từ nghệ thuật kiến trúc, sau đó lan sang
hội họa và các nghệ thuật khác, đặc biệt là trong lĩnh vực văn học.
Hiểu đơn giản, Chủ nghĩa hậu hiện đại là một giai đoạn lịch sử xã
hội quy định hình thái văn hóa, tổng thể những phong trào lý luận và sáng tác
thể hiện tâm thức bao trùm của thời đại, cảm quan về thế giới và con người,
sự đánh giá khả năng nhận thức, vai trò và vị trí của con người trong thực tại,
là hệ quả tất yếu của thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão. Theo
những người chủ trương phát triển chủ nghĩa hậu hiện đại thì đó là một bước
tiến so với chủ nghĩa hiện đại. Chủ nghĩa hậu hiện đại trên căn bản vừa là sự
kế tục vừa là sự siêu việt hóa của chủ nghĩa hiện đại. Những tác phẩm xuất
7
sắc nhất của nó có đặc điểm là mang tính lưỡng mã (double-coded) và tính
châm biếm (irony), tạo thành một đặc điểm của sự lựa chọn rộng rãi, xung
đột và bất liên tục của truyền thống.
Ở phương Tây, các triết gia cụ thể hóa cách hiểu về hậu hiện đại,
xuất phát từ những góc chiếu khác nhau: F. Jameson coi đó là ý thức văn hóa
của “chủ nghĩa tư bản muộn”, J. Baudrillard coi đó là hệ quả của sự bùng nổ
thông tin đại chúng; W. Fokkema – “kết thúc đại tự sự”; Derrida – “giải trung
tâm”; Foucault – “khảo cổ học tri thức”…Cũng theo họ, hậu hiện đại hình
thành như hệ quả tất yếu của cuộc đại khủng hoảng về nhận thức luận xuất
hiện từ nửa cuối thế kỷ XIX cùng với sự phá sản của chủ nghĩa kinh nghiệm
thực chứng. Khi thế kỷ XIX chưa kết thúc, F.Nietzsche đã tuyên bố khai tử
Thượng đế và tiên báo chủ nghĩa hư vô (nihilism) sẽ thao túng thế kỷ XX.
Cuộc khủng hoảng này càng trở nên sâu sắc khi những phát kiến khoa học vĩ
đại của thế kỷ XX như Thuyết tương đối của Einstein, Nguyên lý bất định
của Heisenberg, Lý thuyết đa giới của Embfred, Lý thuyết hỗn loạn của I.
Prigorin…và sự bùng nổ thông tin đã làm đảo lộn bức tranh thế giới. Sự quá
tải của nhận thức con người trước lượng tri thức của nhân loại được tích lũy
trong hàng ngàn năm và phát triển theo cấp số nhân vào thời hiện tại dẫn tới
sự phá sản nhận thức, con người rơi vào tình trạng “chấn thương hậu hiện
đại” và “biến mất”.
Sau “cái chết của Thượng đế”, khoa học nhảy lên vị trí độc tôn, con
người hiện đại đặt niềm tin vào lý tính và sự thật. Rồi từ những năm bốn
mươi của thế kỷ XX, M.Heidegger nối gót F.Nietzsche, ra sức lột trần toàn
bộ lịch sử siêu hình học từ Platon tới Hegel như sự lừa dối vĩ đại. Rồi đến
năm 1979, Jean Francois Lyotard mở cuộc tấn công đại tự sự, “đánh phá nốt
chốn trú ẩn của niềm tin [ngây thơ] nhỏ nhoi còn sót lại trong tâm hồn con
người” [6, 189]. Lý tính – thứ quyền uy duy nhất để phán xét những gì nó coi
8
là sự thật và cũng là nền tảng cho hệ thống tri thức của chủ nghĩa hiện đại đã
phá sản. Hai cuộc chiến tranh thế giới, chiến tranh lạnh và sự sụp đổ của hệ
thống chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu làm cho “con người bất tín vào đấng tối
cao [đủ loại đấng tối cao], bất tín hệ thống [triết học hay ý thức hệ chính trị],
bất tín ngay cả nhận thức của chính mình”[6, 189]. Và như Ch.Brooke Rose
đã nói thì mọi ý niệm của chúng ta về thực tại chỉ là phái sinh từ vô số hệ
thống đại diện cho chính chúng ta. Triết học hiện sinh lật mở đến tấm voan
cuối cùng sự tha hóa của con người hiện đại. Các nghệ sĩ hiện sinh dấn thân
đến tuyệt vọng tìm cách đưa con người trở lại với chính mình nhưng bất lực.
“Hậu hiện đại tháo gỡ vấn đề tha hóa bằng cách tháo gỡ luôn hiện thực”
(Mikhail Epstein), để cái lâu nay chúng ta tưởng là hiện thực lộ nguyên hình
là hiện thực giả. Xã hội hậu hiện đại theo các nhà triết học là một xã hội
không có bản gốc, chỉ toàn bản sao. Tri thức chỉ còn là một trò chơi ngôn
ngữ, không hơn không kém. Trong khi “bản chất của ngôn ngữ là dối trá”.
Ngôn ngữ sa đọa kéo con người rơi vào vùng xoáy dối trá vô tận của nó.
Cùng với sự ngập lụt thông tin, thế giới hậu hiện đại trở thành một thế giới
phi trung tâm, hỗn độn và bất khả nhận thức. Con người trong tương quan với
thế giới luôn thể nghiệm “sự hoài nghi quyết liệt mang tính nhận thức luận và
bản thể luận” (Hans Bertens). Khi mọi trung tâm không chắc chắn, không còn
con đường nào khác, con người buộc phải học cách chấp nhận bản chất thế
giới như là một sự hỗn mang.
Khuynh hướng nghệ thuật hậu hiện đại thể hiện quan điểm mỹ học hậu
hiện đại với những đặc điểm như: xóa nhòa ranh giới giữa nghệ thuật với đời
sống thường ngày, phá bỏ giai tầng giữa văn hóa quý tộc và văn hóa đại
chúng, phủ nhận tính nguyên bản (nguyên gốc) của một tác phẩm nghệ
thuật, Thái độ của chủ nghĩa hậu hiện đại trong mỹ học là phi cấu trúc, từ
chối vai trò chủ thể con người, một sự tiếp nhận hay mô tả hiện tượng mà
9
không cần suy diễn, không chú ý đến chiều sâu, không diễn dịch bản chất sự
vật theo chủ quan tác giả, giá trị nghệ thuật tùy thuộc vào kinh nghiệm cá
nhân của người tiếp nhận, tùy thuộc vào nền văn hóa mà họ sở thuộc,… Đặc
biệt, trong khi chủ nghĩa hiện đại tham vọng tạo lập một thế giới hoàn thiện,
bất biến, đối lập với thực tại hỗn loạn, phi lý và kỳ vọng vào sự tồn tại của
một hiện thực nào đó nằm đằng sau các ký hiệu, thì chủ nghĩa hậu hiện đại lại
giễu cợt vào những ảo tưởng ngây thơ, song vĩ đại của các bậc tiền bối và đưa
ra quan niệm: sau những ký hiệu là hỗn loạn và cách khắc phục tốt nhất là
“làm hòa” với nó. Đối thoại với hỗn loạn chính là chiến lược nghệ thuật của
hậu hiện đại.
Chủ nghĩa hậu hiện đại được xem là một trào lưu văn hóa và là một
thời kỳ lịch sử. Có rất nhiều cách nhìn nhận khác nhau về chủ nghĩa này.
Trong một số lĩnh vực, chủ nghĩa hậu hiện đại được xem là tiến bộ, nhưng
trong một số lĩnh vực khác, nó bị kết án là phản động và hoài cổ. Nó được
ủng hộ vì tính chất hiện thực trong kỹ thuật và xã hội, nhưng nó lại bị kết tội
là có tính chất thoát ly. Thậm chí, thỉnh thoảng chủ nghĩa hậu hiện đại bị lên
án vì tính chất hoang tưởng của nó nhưng những người bảo vệ nó lại xem sự
thất bại ấy là một ưu điểm.
Tuy có một số đặc điểm để nhận diện chủ nghĩa hậu hiện đại như
vậy, nhưng vẫn tồn tại một thực tế khá rõ ràng là: quan niệm về chủ nghĩa
hậu hiện đại của các học giả không hoàn toàn thống nhất với nhau, nó lại
càng khác biệt trong cách hiểu hậu hiện đại ở từng lĩnh vực riêng biệt. Như
vậy, đến nay vẫn chưa thể đưa ra câu trả lời chắc chắn cho một số câu hỏi
về chủ nghĩa hậu hiện đại như: chủ nghĩa hậu hiện đại là gì? Nó được sinh
ra từ hay sau chủ nghĩa hiện đại? Nó là sự phát triển hay sự phủ định chủ
nghĩa hiện đại?
10
Để hiểu rõ hơn về những luận điểm mang tính lý thuyết của chủ
nghĩa hậu hiện đại, chúng ta sẽ đưa ra một vài so sánh cơ bản giữa chủ nghĩa
hiện đại và hậu hiện đại. Ở cấp độ bản thể luận, chủ nghĩa hiện đại đi sâu
nghiên cứu một hiện tượng xã hội, phản ánh xã hội, quan điểm duy lý trong
nghiên cứu, đại luận thuyết…Nói cách khác, chủ nghĩa hiện đại là bản thể
luận thực chứng, coi thực tại là khách quan. Trong khi đó, chủ nghĩa hậu hiện
đại là bản thể luận phản thực chứng, “coi thực tại là quá trình tạo nghĩa,
không mang tính toàn thể, không ổn định và chủ quan, không duy lý” [1].
Chủ nghĩa hậu hiện đại đưa ra những luận điểm như: bất tín nhận thức, phủ
nhận tri thức khách quan, phủ nhận một trật tự xã hội, ủng hộ cho cái hỗn
loạn vốn có, tiểu luận thuyết…Chủ nghĩa hiện đại phân biệt giữa chủ thể và
khách thể, cái phản ánh và cái được phản ánh luôn có mối quan hệ với nhau.
Trong khi đó, chủ nghĩa hậu hiện đại không phân tách giữa chủ thể và khách
thể, coi cái phản ánh và cái được phản ánh không có mối quan hệ. Nó đưa ra
các thuật ngữ như: diễn ngôn, trò chơi ngôn ngữ…Ở cấp độ lý thuyết –
phương pháp luận, chủ nghĩa hiện đại chú trọng “cái trật tự, kết quả hoặc
trạng thái tĩnh của đối tượng, giữ khoảng cách với đối tượng, văn bản mang
tính độc lập, ngôn ngữ bác học, chính thống, chú trọng thể loại” [1]…Còn
chủ nghĩa hậu hiện đại diễn tả sự hỗn loạn, không giữ khoảng cách và tham
dự vào mọi quá trình của đối tượng, đưa ra thuật ngữ về liên văn bản, giải cấu
trúc, ngôn ngữ bình dân, bản địa, lai tạp các thể loại…
Để hiểu rõ hơn về chủ nghĩa hậu hiện đại cũng như để thuận tiện hơn
trong việc theo dõi luận văn này, chúng ta sẽ làm sáng tỏ một số khái niệm và
thuật ngữ cơ bản của postmodernism:
Cảm quan hậu hiện đại (postmodern sensibility) là kiểu cảm nhận thế
giới đặc biệt, là sự phản ánh tâm thế thời hậu hiện đại. Cảm quan hậu hiện đại
chỉ hai loại hiện tượng. Thứ nhất là “thể hiện cảm giác về thế giới như một sự
11
hỗn độn (chaos), nơi không có bất kỳ tiêu chuẩn giá trị và định hướng ý nghĩa
nào… Thế giới này ghi đậm dấu ấn của cơn khủng hoảng niềm tin và tất cả
những giá trị đã tồn tại trước đó”. [20, 8]. Thứ hai, thuật ngữ này biểu lộ “lối
viết tiểu luận nhiều ẩn dụ” [20, 9] tức là bằng những liên tưởng, ta có thể
khôi phục lại ý nghĩa đích thực của ngôn từ khởi thủy.
Bất tín nhận thức (Epistemological Uncertainty) là một phạm trù thế giới
quan tiêu biểu nhất cho ý thức hậu hiện đại. Trong những công trình của các
nhà lý luận chủ nghĩa hậu hiện đại, sự nảy sinh phạm trù này gắn với quá
trình khủng hoảng niềm tin vào tất cả những giá trị tồn tại trước đó (cái gọi là
“sự khủng hoảng các uy tín”) [20,11]. Các nhà hậu hiện đại quan niệm về thế
giới như một sự hỗn độn, vô nghĩa và bất khả nhận thức, thế giới phi trung
tâm mà con người trong mối quan hệ với nó luôn thể nghiệm “sự hoài nghi
quyết liệt mang tính nhận thức luận và bản thể luận” (N.Bertens). Con người
không còn tin vào các thế lực siêu nhiên nữa, giống như Friedrich Nietzsche
nói: “Thượng đế đã chết và mọi chân lý đều mang tính hình ảnh, biểu tượng,
là những ẩn dụ, hoán dụ, những ảo tưởng bị lãng quên”.
Giải nhân cách hóa (Depersonalization) là “sự xác định chung về những hiện
tượng khủng hoảng nguyên tắc cá nhân trong triết học, mỹ học và phê bình
văn học” [20,15]. Hiện tượng này còn được gọi bằng những cái tên khác như:
chủ nghĩa phản nhân đạo về lý thuyết, cái chết của chủ thể, cái chết của tác
giả, sự hòa tan tính cách trong tiểu thuyết, khủng hoảng của cá tính,…Trong
tác phẩm hậu hiện đại, vai trò của tác giả rất mờ nhạt. Thay vào đó, ngôn ngữ
đóng vai trò chủ đạo và độc giả sẽ nghe được giọng nói không phải của người
sáng tác mà là của văn bản.
Liên văn bản (Intertextuality) là sự tồn tại và đối thoại của nhiều văn
bản trong một văn bản. Thuật ngữ này không chỉ được dùng để miêu tả đặc
12
trưng sự tồn tại của văn học mà còn để xác định cảm quan về thế giới và bản
thân con người đương đại, đó là cảm quan hậu hiện đại.
Ngoài ra chúng ta còn bắt gặp nhiều thuật ngữ khác khi nghiên cứu về chủ
nghĩa hậu hiện đại như: siêu truyện, mặt nạ tác giả, ngoại biên, mã kép, tính
nhục thể, thân rễ,…Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ giải thích một số thuật ngữ cơ
bản xuất hiện nhiều trong Luận văn này.
Như vậy, cho dù còn có nhiều ý kiến tranh luận, song có thể nhận
định, văn học hậu hiện đại là một bước phát triển mới của văn học nhân loại.
Bản chất, mục đích không thay đổi, nhưng phương thức thể hiện có nhiều sự
biến đổi cho phù hợp với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và thị hiếu thưởng
thức nghệ thuật giàu tính trí tuệ và ẩn ý của bạn đọc đương đại.
1.1.1. Chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học
Chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học hay văn học hậu hiện đại là một
trào lưu xuất phát từ phương Tây từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và đạt
đến đỉnh cao vào những năm 70, 80 của thế kỉ XX. Khi nhắc đến văn học hậu
hiện đại, người ta thường nhắc đến những nhà văn: William Burroughs (1914
– 1997), Alexander Trocchi (1925 – 1984), Kurt Vonnegut (1992 – 2007),
Donald Barthelme (1931 – 1989), Robert Coover (1932),…
Theo bước chân hậu hiện đại, chúng ta sẽ điểm qua vài mốc lịch
sử quan trọng đánh dấu cho sự phát triển và lan rộng trên toàn cầu của
một cảm thức mỹ học mới. Tại Hoa Kỳ, năm 1994, học giả Paul Hoover
đã mạnh dạn tuyên bố: “Thơ hậu hiện đại là thơ tiên phong của thời đại
chúng ta” và chính nó trao cơ hội cho Mỹ có được “ nền thơ dũng cảm
nhất của mình”. Ở Nga và Trung Quốc, chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn
học cũng nhanh chóng lan truyền và tạo thành cơn sốt. Năm 1994, “Hội
thảo khoa học quốc tế văn học đương đại Trung Quốc và văn hóa hậu hiện
đại” lần đầu tiên khai mạc tại Bắc Kinh càng làm cho chủ nghĩa hậu hiện
13
đại trở thành điểm nóng trên văn đàn. Trên thế giới, tên tuổi các nhà văn
sáng tác theo tinh thần hậu hiện đại lẫy lừng phải kể đến Gabriel Garcia
Marquez với tác phẩm đoạt giải Nobel văn học Trăm năm cô đơn, ngoài
ra còn có các tác giả: Italo Calvino, Umberto Eco,…
Các nhà văn hậu hiện đại chủ trương sử dụng các phương thức thể
hiện khác biệt với quy chuẩn của văn học hiện đại. Nếu trong văn học hiện
đại, mọi yếu tố nghệ thuật hầu hết đều được thể hiện một cách tập trung, liền
mạch khiến người đọc dễ dàng theo dõi, thì trong văn học hậu hiện đại, các
yếu tố đó được thể hiện một cách rải rác, phân tán như những mảnh vỡ. Nhà
nghiên cứu Ihab Hassan đã chỉ ra một số điểm khác biệt cơ bản giữa tác phẩm
văn học hiện đại và hậu hiện đại. Về hình thức, văn học hiện đại có hình thức
đóng thì văn học hậu hiện đại theo hình thức mở (còn gọi là phi hình thức).
Các chi tiết, biến cố… trong tác phẩm văn học hiện đại được sắp xếp và thiết
kế một cách kỹ lưỡng bởi sự hư cấu khéo léo và chặt chẽ (chẳng hạn nhiều tác
phẩm của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn thường được sắp đặt
theo trật tự chặt chẽ của một vở kịch: thắt nút, phát triển, đỉnh điểm, mở nút)
thì ở văn học hậu hiện đại, chúng được sắp xếp một cách ngẫu nhiên, gần như
không theo một trật tự nào.
Do cấu trúc như thế mà một tác phẩm văn học hiện đại như là một cuộc
hành trình về đích, còn văn học hậu hiện đại là một hành trình vẫn còn
dang dở. Bởi thế, khi thưởng thức một tác phẩm văn học hiện đại, người
đọc có thể dễ dàng nhận ra dấu ấn sắp đặt của nhà văn. Còn với văn học
hậu hiện đại, đọc giả lại có cảm giác được tiếp xúc với một thế giới bề
bộn, ngổn ngang. Nhà văn hậu hiện đại hạn chế một cách tối đa sự bộc lộ
chủ quan của mình.
Đối với yếu tố nhân vật, nếu như ở văn học hiện đại, nhân vật
thường là con người với khuôn mặt rõ nét, tính cách cụ thể, các hành động
14
tiếp diễn và một “bản lý lịch cá nhân” với các mức độ rõ nét khác nhau tùy
thuộc vị trí nhân vật chính hay phụ, thì ở văn học hậu hiện đại, đặc điểm ấy
hầu như bị lu mờ. Tác phẩm không cho biết nhân vật có nhân thân thế nào,
khuôn mặt, tính cách,…ra sao. Điểm nhìn miêu tả nhân vật thường xuyên di
chuyển. Vì thế, chân dung, tâm trạng các nhân vật bị tán thành những mảnh
vỡ. Muốn nắm được nhân vật, người đọc phải tự lắp ráp rất nhiều mảnh ghép
nằm rải rác ngẫu nhiên đâu đó trong cả tác phẩm. Hầu như người đọc khó có
thể bắt gặp những đoạn văn phân tích tâm lý, tâm trạng của nhân vật một cách
liền mạch, tập trung. Nhân vật “thản nhiên” trước những biến cố của cuộc
sống, khác hẳn với sự bộc lộ thái độ của các nhân vật văn học hiện đại. Thậm
chí, có nhiều nhân vật hoàn toàn tồn tại qua cái nhìn, ấn tượng của một nhân
vật khác…Có lẽ vì thế mà nhân vật hầu như chẳng có tính cách, khiến người
đọc nhầm lẫn nhân vật này với nhân vật khác.
Tuy không thể hiện hay bộc lộ rõ nét nội tâm nhân vật, thậm chí là
“tẩy trắng” nhân vật nhưng văn học hậu hiện đại không hề xa rời mục đích
truyền thống văn học là nhân học. Chỉ có điều văn học hậu hiện đại muốn thể
hiện chiều sâu giá trị con người bằng một hình thức khác, hình thức tranh lập
thể. Vì vậy, muốn khám phá những giá trị nhân văn trong tác phẩm, người
đọc phải ghép nối các mảnh vụn rải rác, khác nhau. Chính vì vậy, biên độ
tưởng tượng của đọc giả về nhân vật càng được mở rộng. Nói cách khác, văn
học hậu hiện đại kích thích nhiều hơn tính “đồng sáng tạo” của người đọc.
Vì nhân vật chỉ còn là những mảnh vỡ, không được tái hiện thành một
quá trình như trong các tác phẩm văn học hiện đại nên yếu tố cốt truyện trong
văn học hậu hiện đại cũng có sự thay đổi. Cốt truyện bị giảm nhẹ vai trò dẫn
dắt hành động truyện. Cốt truyện bị mất đi tính liền mạch trong cốt truyện
truyền thống. Câu chuyện được kết thúc ở tình trạng có nhiều khả năng tiến
triển tiếp theo.
15
Văn học hậu hiện đại không còn tin vào đại tự sự tức là xem trọng yếu
tố cá nhân. Đây là đặc điểm nhân văn của hậu hiện đại. Ngoài ra, văn học hậu
hiện đại còn đưa ra khái niệm phi trung tâm hóa, tôn trọng sự đa dạng, các giá
trị trái nhau, những phi chuẩn, ngoại vi, dân tộc thiểu số, nữ quyền, phi
phương Tây, ngôn ngữ nhược tiểu,…Vì vậy, hậu hiện đại được xem là “chủ
nghĩa đa nguyên văn hóa”. Hậu hiện đại chấp nhận truyền thống nhưng không
biến truyền thống thành gánh nặng.
Nếu như trong văn học hiện đại thời gian không ít thì nhiều đều được
sắp xếp theo một trật tự nhất định để người đọc tiện theo dõi thì thời gian
trong văn học hậu hiện đại cũng giống như yếu tố nhân vật, đã bị phá vỡ.
Nhà văn có thể đảo chiều thời gian một cách tùy thích. Có khi sự kiện lịch
sử được tái hiện “méo mó”. Cũng có khi nhà văn tự tạo nên các sự kiện
lịch sử giả tưởng. Chính vì cảm thức hậu hiện đại là lối cảm nhận về thế
giới như là một sự hỗn độn, vô nghĩa, bất khả nhận thức, nơi mọi bảng giá
trị đều đổ vỡ, mọi định hướng đều vô ích, cho nên con người không còn
niềm tin vào những gì lâu nay họ vẫn tin: thượng đế hay nhà nước, tổ
quốc hay con người, chân lý hay lịch sử…Nhận thức thế giới của con
người luôn là nhận thức đầy khuyết thiếu.
Cuối cùng về mặt thủ pháp nghệ thuật, nếu chủ nghĩa hiện đại thường
vận dụng lối viết tượng trưng hoặc dòng ý thức thì chủ nghĩa hậu hiện đại
thích nhất là sử dụng lối “u mua màu đen” (black humor) kết hợp giữa cái
hoang đường, khủng khiếp với hoạt kê, thông qua cái hài để biểu đạt cái bi đát
nhất. Các nhà hậu hiện đại thường có những tưởng tượng phong phú, quái dị
nhằm vạch ra cái tính chất buồn cười ở những sự việc thường thấy trong cuộc
sống hàng ngày. Cách xây dựng tác phẩm với những nhân vật tầm thường,
tình tiết lộn xộn, kết cấu lỏng lẻo, tất cả đều tạo ra một cảm xúc dự báo cho
ngày tận thế. Vì vậy, nếu trong văn học hiện đại, ta thường thấy các khuynh
hướng nhỏ như: văn học lãng mạn, văn học hiện sinh,…thì trong văn học hậu
16
hiện đại cũng có những khuynh hướng: văn học hiện thực huyền ảo, tiểu
thuyết mới, tiểu thuyết phi lý, thậm chí là tiểu thuyết rời trang, độc giả muốn
xáo trộn thế nào cũng được…
Tóm lại, khi nhắc đến chủ nghĩa hậu hiện đại, chúng ta chỉ cần nhớ tới
bốn đặc điểm cơ bản quan trọng. Đó là: cảm thức chủ yếu của hậu hiện đại là
lối cảm nhận về thế giới như là một hỗn độn, con người bất tín nhận thức từ
đó dẫn đến sự khủng hoảng niềm tin vào đại tự sự; hành động cốt tủy của hậu
hiện đại là giải trung tâm; lối viết đặc trưng là giễu nhại; và cuối cùng tinh
thần văn phong của nó là phi nghiêm cẩn.
1.1.2. Chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam hiện nay
Hậu hiện đại là một khuynh hướng lớn trong văn học thế giới, nên
việc xuất hiện những yếu tố hậu hiện đại trong văn học Việt Nam là điều dễ
hiểu. Văn học Việt Nam từ 1986 bước vào thời kỳ đổi mới với sự xuất hiện
của các tên tuổi: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Hoàng
Hưng, Lê Đạt, Trần Dần,… tạo nên một ngoặt trong sự phát triển của văn học
dân tộc. Chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện ở Việt Nam khá muộn. Phải đến
những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, khi những tác phẩm của Nguyễn
Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài ra đời, màu sắc hậu hiện đại mới thể hiện trong
văn xuôi nước ta. Nhưng thực tế, văn chương hậu hiện đại đã manh nha ở
Việt Nam từ đầu thập niên 70 của thế kỷ trước với gương mặt tiên phong là
Bùi Giáng. Vào cái thời điểm mà “cuộc chiến nhân danh ý thức hệ lan tràn
tiêu tốn hàng triệu sinh linh mà chưa thấy dấu hiệu kết thúc và nếu có kết thúc
đi nữa thì nó hứa hẹn sẽ rất bi đát” (Inrasara), Bùi Giáng gần như mất niềm
tin vào vai trò “đả thông người với người” của ngôn ngữ và nhận ra rằng mọi
nỗ lực của mình đều vô ích. Ông bắt đầu bỡn cợt và tự đẩy mình vào mê cung
bất tận của những trò đùa:
Anh xin em giỡn một ngày
17
Rồi xin giỡn mãi suốt ngày hôm sau…
Như vậy, từ Bùi Giáng, văn học hậu hiện đại Việt Nam bắt đầu có
những bước đi đầu tiên. Khi nhận xét về chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học
nước ta, tác giả Nguyễn Quốc Hưng (nguồn talawas.com) khẳng định:
“Chúng ta có thể xem chủ nghĩa hậu hiện đại tại Việt Nam là một thứ chủ
nghĩa hậu hiện đại nguyên hợp” tức là các nhà văn Việt Nam chịu ảnh hưởng
từ nhiều nguồn khác nhau để tạo nên màu sắc hậu hiện đại.
Ở Việt Nam, chủ nghĩa hiện đại tuy xuất hiện đã lâu nhưng dường
như sự phát triển vẫn còn dang dở. Rồi sự manh nha của hậu hiện đại, trộn lẫn
với tính hiện đại khiến cho chủ nghĩa hậu hiện đại ở nước ta là sự kết hợp
cùng lúc giữa hai chủ nghĩa này, trong đó yếu tố mang tính hậu hiện đại mang
tính chủ đạo. Không thể nói rằng trong văn học Việt Nam đã xuất hiện các
trường phái, khuynh hướng hay trào lưu hậu hiện đại với ý nghĩa đầy đủ của
khái niệm ấy. Nhưng chúng ta vẫn tìm thấy những dấu hiệu và yếu tố hậu hiện
đại trong sáng tác của một số cây bút tiêu biểu. Chủ nghĩa hậu hiện đại biểu
hiện trước hết là về đề tài, chủ đề. Nếu như trước đây, văn học là vũ khí chiến
đấu, là bạn đường của chiến tranh thì nay với sự xâm nhập của chủ nghĩa hậu
hiện đại, văn học lại chú ý tới mặt tối trong đời sống của cá nhân hoặc trạng
thái phong hóa xã hội. Nhân vật văn học cũng không phân chia rõ nét thành
các tuyến nhân vật chính diện, phản diện nữa mà có sự hòa trộn của nhiều tính
cách. Nhân vật tồn tại như một thực thể tự nhiên, sống theo bản năng trong
một cuộc sống đời thường. Đặc biệt, các nhà văn hậu hiện đại luôn có ý thức
tập trung những hiệu ứng nghệ thuật đặc trưng như: hiệu ứng trần thuật hỗn
độn, thủ pháp phân mảnh và phi trung tâm hóa nhân vật…Chẳng hạn, trong
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, người đọc khó tìm thấy
một nhận vật chính diện, thêm vào đó ta còn bắt gặp một giọng điệu kể
chuyện lạnh lùng, khinh bạc, thậm chí tàn nhẫn. Cảm quan hậu hiện đại trong
18
sáng tác của hai nhà văn này còn được thể hiện trong cách xây dựng câu
chuyện về một thế giới “vô nghĩa, vô hồn”, phân mảnh, đứt gãy, không có trật
tự, “không có vua”, một thế giới mà sự hồ nghi tồn tại như một loại hình tâm
trạng làm nên cảm quan của thời đại mới. Trong những năm gần đây, sự xuất
hiện của các tác phẩm văn xuôi mang cảm thức hậu hiện đại đã phần nào gây
được sự chú ý cho người đọc. Ở hải ngoại có các tiểu thuyết, truyện ngắn, ký
sự của Trần Vũ, Lê Thị Thấm Vân, Đỗ Kh.,…Còn trong nước, các tác phẩm
đáng chú ý có thể kể đến: Người ăn gió và quả chuông bay đi và Mưa mặt nạ
của Nhật Chiêu, Hậu sản của Lynh Bacardi, Em có gì bí mật, hãy mail cho
anh và Cơn bấn loạn bằng phẳng của Nguyễn Viện, Manet của Đặng Thân,
Chuyện tình mùa tạp kỹ của Lê Anh Hoài,…và tập văn xuôi mang hơi
hướng hậu hiện đại độc đáo: Luận ngữ tân thư của Phạm Lưu Vũ. Đặc biệt,
trong thời gian qua, những tác phẩm mang dấu ấn của chủ nghĩa hậu hiện
đại đã gây được nhiều ấn tượng nhất cho độc giả phải kể đến: Thiên sứ,
Mari Sến của Phạm Thị Hoài; Vào cõi, Bả giời, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kỳ
thủy của Nguyễn Bình Phương; Cõi người rung chuông tận thế, Trong
sương hồng hiện ra của Hồ Anh Thái; Thiên thần sám hối, Giã biệt bóng
tối của Tạ Duy Anh; Thời của những tiên tri giả của Nguyễn Viện; Phòng
X khu nội trú của Bùi Hoằng Vị,…
Thơ Việt Nam trong khoảng mười năm gần đây cũng có những
bước tiến mới, dần tiến sang ranh giới của chủ nghĩa hậu hiên đại. Khi
Internet và các loại hình thông tin bùng nổ, người sáng tác trẻ có cơ hội tiếp
cận mọi trào lưu văn học trên thế giới. Đồng thời họ cũng không còn bị bưng
bít thông tin. “Họ mở mắt, mở trí và mở hồn. Để cuối cùng, soi nhìn lại mình,
họ nhận thức ra rằng bao giá trị hôm qua ông cha họ và cả chính bản thân họ
ra sức bảo vệ bỗng chốc đổ rụm, không thể cứu vãn được nữa. Khủng hoảng
niềm tin đồng lúc với sự hình thành một cảm thức khác đi” [8]. Đặc biệt là
năm 2002, năm bản lề với sự ra đời của hàng loạt website văn học tiếng Việt,
19
đã được xem là thời điểm định hình cho thời kỳ văn học hậu hiện đại Việt
Nam. Chính vì vậy, thơ hậu hiện đại Việt Nam là “thơ phản tỉnh mang tính
phê phán hiện thực, thực tế đất nước và thực trạng văn chương”[8]. Theo ý
kiến của Inrasara nhà thơ hậu hiện đại chối bỏ mọi dạng đại tự sự bằng cách
hiệu quả nhất là giải thiêng sự thể. Giải thiêng để có cơ hội nhìn nhận thực tại
bằng một cảm thức khác. Mang tư tưởng tự do, nhà thơ hậu hiện đại luôn có
tiếng nói phản biện xã hội đương thời, bóc trần sự mê hoặc mà thông tin đại
chúng muốn tác động vào xã hội. Đồng thời, thơ hậu hiện đại tự thân mang ý
hướng phi tâm hóa, xóa bỏ mọi sự phân biệt trong đội ngũ sáng tác.
Về phương diện phê bình, dịch thuật, đứng trước trào lưu như là một xu
thế chung mang tính toàn cầu, dù chậm nhưng ngay từ đầu thế kỷ XXI, các
nhà phê bình, dịch thuật của ta cũng đã kịp thời giới thiệu lý thuyết hậu hiện
đại đến người đọc. Những người đi đầu trong vấn đề này có thể kể đến:
Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Văn Dân, Nguyễn Minh
Quân, Phương Lựu, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Phan Tấn Hải, Ngân Xuyên,
Nguyễn Ước…Về lực lượng sáng tác, những người có ít nhiều cảm thức hậu
hiện đại trong cảm thức, thủ pháp hiện nay có thể kể đến: nhóm Mở Miệng,
Inrasara, Bùi Chát, Lý Đợi, Phan Bá Thọ, Trần Tiến Dũng, Như Huy, Nguyễn
Thế Hoàng Linh, Nhật Chiêu, Lê Vĩnh Tài, Đặng Thân, Đỗ Kh., Khế
Iêm,…Hậu hiện đại xuất hiện ở hải ngoại trước rồi mới tạo phản ứng dây
chuyền, tác động đến giới cầm bút trong nước, nhất là ở miền Nam. Vào
những năm đầu thiên niên kỷ, khi phong trào in photocopy nở rộ, rồi sự xuất
hiện của các tập thơ như: Của căn cước ẩn dụ của Nguyễn Quốc Chánh hay
Bầu trời lông gà lông vịt của Trần Tiến Dũng thì sáng tác hậu hiện đại mới
bắt đầu có tiếng nói trên văn đàn. Mặc dù hậu hiện đại đã xuất hiện ở Việt
Nam chục năm nay nhưng lực lượng sáng tác chưa nhiều, các nhà thơ hầu hết
đều sáng tác đơn độc. Hơn nữa, mặc dù báo chí chính thống không còn có thể
20
làm ngơ trước hiện tượng này, nhưng nó vẫn chỉ tồn tại ngoại biên và luôn
nhận sự kì thị từ nhiều phía, cho nên hậu hiện đại chưa thể hình thành một
trào lưu rộng lớn, tác động nhiều chiều đến văn học và xã hội nói chung.
Trong một bài phỏng vấn Inrasara đăng trên Inrasara.com, nhà thơ đã
thống kê ở Việt Nam hiện nay có khoảng hơn 40 nhà văn, nhà thơ sáng tác có
ít nhiều yếu tố hậu hiện đại trong cảm thức, thủ pháp. Với những hình thức và
phương tiện khác nhau, họ sáng tạo nên các phong cách, các bộ mặt, các
giọng điệu khác nhau. Ta có thể dẫn chứng sự phong phú này qua nhận xét
của Inrasara: “Nếu Bùi Chát mạnh ở giễu nhại thì Lý Đợi rất giỏi về chế biến
tin trên báo chí; bên cạnh Phan Bá Thọ sử dụng tài hoa thủ pháp siêu hư cấu
sử kí là Nguyễn Thế Hoàng Linh hoạt với lục bát hậu hiện đại”[9]. Rồi
Nguyễn Hoàng Nam với thơ graphic và thơ phân thân chưa từng có tiền lệ;
Đinh Linh, Đỗ Kh. với thơ photo và thơ video,…Hàng loạt những cách tân
khiến cho bộ mặt thơ hậu hiện đại nói riêng và nền thơ ca đương đại Việt
Nam nói chung càng thêm phong phú.
Sáng tác hậu hiện đại là những sáng tác xuất phát từ hiện thực và bám
sát hiện thực cuộc sống. Như Inrasara nhận xét thì những nhà thơ đi theo cảm
thức hậu hiện đại “làm thơ và nhập cuộc vào dòng chảy thời cuộc của thời đại
nơi họ đang sống…trước sự kiện trọng đại của đất nước…và bao nhiêu thời
sự nóng khác, hầu hết nhà thơ hậu hiện đại đều có mặt và phản ứng nhanh
nhạy”. Châm ngôn “suy tư toàn cục, hành động địa phương” là tính thực tiễn
của hậu hiện đại. Nhà thơ hậu hiện đại Việt đã đáp ứng trọn vẹn tinh thần
nhập cuộc chịu chơi đó. Người viết hậu hiện đại có thể theo dõi các trào lưu
triết học mới nhất trên thế giới đồng lúc vẫn cặm cụi đi vào cuộc sống nông
thôn lượm nhặt những dòng ca dao, từng câu tục ngữ hoặc sẵn sàng mở cuộc
điều tra nạn trộm cắp gà tại làng mình sống. Không vấn đề gì cả. Nhưng cũng
chính vì tính chất “pốp” (bình dân) mà có nhiều nhà phê bình và độc giả
21
không mấy thiện cảm với lối viết quá “trần tục” thậm chí là “trần trụi” của
một số nhà hậu hiện đại. Họ lên án, thậm chí tẩy chay tinh thần hậu hiện đại
trong văn học. Tuy nhiên, xét một cách khách quan dù sáng tạo theo hướng
nào đi chăng nữa thì cuối cùng chúng ta nên suy nghĩ như Thạch Lam: “Văn
chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để tố cáo và
thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm
trong sạch và phong phú hơn” (trích lời tựa tập Gió đầu mùa). Phải chăng
không cần phân biệt chủ trương với trường phái, hiện đại hay cổ điển mà nên
chú tâm cái trong sạch và phong phú hơn của tâm hồn người?
Tiểu kết
Tóm lại, chủ nghĩa hậu hiện đại tuy đã xuất hiện trên thế giới từ lâu
nhưng cho đến nay vẫn còn gây nhiều tranh cãi và chưa thực sự có được sự
thống nhất. Ở Việt Nam, giới sáng tác và phê bình văn học vẫn không tránh
khỏi sự giật thột mỗi khi nhắc đến trào lưu hậu hiện đại. Từ đó sáng tác hậu
hiện đại Việt “không thể mon men chứ chưa nói nhập dòng chính lưu” [8].
Tuy chưa thực sự được chấp nhận nhưng văn chương hậu hiện đại đang tạo
nên một hướng đi mới cho một bộ phận tác giả trẻ của nước ta hiện nay.
1.2. Khái quát hành trình cách tân thơ của Inrasara
1.2.1. Tiểu sử nhà thơ Inrasara
Inrasara tên thật là Phú Trạm, sinh ngày 20 tháng 9 năm 1957 tại
làng Chakleng – Mỹ Nghiệp, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh
Ninh Thuận. Ông là một nhà thơ gốc Chăm. Hiện nay, ông sống tại thành
phố Hồ Chí Minh và đang tham gia vào rất nhiều hoạt động sáng tác: làm
thơ, viết văn, dịch và viết tiểu luận – phê bình văn học. Ông là hội viên hội
Nhà văn Việt Nam, hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, hội Văn học – nghệ
thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Người ta gọi Inrasara là một gã thi sĩ,
một nhà nghiên cứu văn hóa Chăm, một người biết làm giàu,…Tất cả
22
những điều này góp phần tạo nên một Inrasara đầy “dân tộc tính” trong thơ
lẫn ngoài đời. Ông là một con người cá tính, luôn sống hết mình như những
gì Inrasara đề trên danh thiếp:
Tôi còn buồn là tôi còn sống
Tôi còn viết là tôi còn yêu
Tôi hết yêu là tôi đã chết
Inrasara xuất hiện khá muộn trong làng văn chương Việt Nam, mãi
đến gần 40 tuổi ông mới gửi thơ đăng báo và in tập thơ đầu tay, nhưng cho
đến nay, Inrasara đã có một khối lượng tác phẩm xuất bản khá lớn ở các
lĩnh vực sáng tác, lý luận – phê bình, nghiên cứu, sưu tầm và dịch thuật.
Về lĩnh vực nghiên cứu – sưu tầm – dịch thuật, Inrasara đã xuất bản
mười ba tác phẩm từ năm 1994 đến 2008. Trong đó đáng chú ý nhất các tập
tiểu luận Các vấn đề văn hóa – xã hội Chăm (1999); Chưa đủ cô đơn cho
sáng tạo (2006) và Song thoại với cái mới (2008). Ngoài ra, Inrasara còn
viết chung nhiều cuốn từ điển Việt – Chăm và sưu tầm ca dao, tục ngữ,
thành ngữ Chăm.
Về lĩnh vực sáng tác, Inrasara đã xuất bản bảy tập thơ và đáng chú
ý nhất là các tập: Tháp nắng (1996), Sinh nhật cây xương rồng (1997),
Hành hương em (1999), Lễ tẩy trần tháng Tư (2002) và Chuyện 40 năm
mới kể & 18 bài tân hình thức thơ (2006). Bên cạnh đó, ông còn có tiểu
thuyết Chân dung cát (2006).
Ngoài ra, Inrasara còn có tập thơ Ở nơi ấy [thơ thời cuộc] chưa in
nhưng ông đã cho đăng hơn hai chục bài trên tienve.org. Ngoài sáng tác,
nghiên cứu, sưu tầm, dịch thuật, Inrasara còn là chủ biên của tuyển tập
Tagalau (Bằng lăng) với mục đích giới thiệu văn học Chăm và nâng đỡ,
khuyến khích các cây bút Chăm trẻ.