Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

TIỂU LUẬN CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Đề tài CÔNG NGHỆ DỆT MAY VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.79 KB, 51 trang )

CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
BỘ MÔN CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ

TIỂU LUẬN CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
Đề tài :
CÔNG NGHỆ DỆT MAY VIỆT N AM
Giáo viên hướng dẫn : Đinh Hoàng Minh
Nhóm đề tài : Nhóm ANH_ NHẬT
Nguyễn Thanh Võn-Anh3CĐ2
L ư ơng Thuỷ Võn-Anh2C Đ2
Mai Hồng Hà- Nhật CĐ2
Mai Thị Duyên-Nhật CĐ2
Lê Ngọc Tú-Nhật CĐ2
Đào Bình Minh-Nhật CĐ2
Chu Thị Thanh Hoa-Nhật CĐ2
Nguyễn Huyền Trang-Nhật CĐ2
Vũ Thị Thuý Hồng-Nhật CĐ2
Hà Nội, 02/2008
1
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
LỜI MỞ ĐẦU
Ngành công nghiệp Dệt May là một ngành có truyền thống lâu đời ở Việt
Nam và là một ngành công nghiệp mòi nhọn đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế.
Thực tế các năm qua đã chứng minh điều này. Sản xuất của Ngành tăng
trưởng nhanh ; kim ngạch xuất khẩu không ngừng gia tăng với nhịp độ
cao, thị trường luôn được mở rộng, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển
góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu theo hướng có tích luỹ ; thu
hót ngày càng nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm, góp phần quan
trọng vào việc ổn định chính trị xã hội đất nước và đóng góp ngày càng


nhiều cho ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập với thế giới và khu vực, để phát triển
ngành Dệt May Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức lớn. Theo
Hiệp định ATC/WTO, từ 1/1/2005 các nước phát triển sẽ bãi bỏ hạn
ngạch nhập khẩu cho các nước xuất khẩu hàng Dệt May là thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), khi đó các cường quốc
xuất khẩu hàng Dệt May như Ên Độ, Indonesia, HongKong, Đài
Loan, Hàn Quốc và đặc biệt là Trung Quốc sẽ có lợi thế xuất khẩu
thế giới. Theo Hiệp định AFTA, từ 1/1/2006, thuế xuất nhập khẩu
hàng Dệt May từ các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ giảm xuống từ
40 – 50% như hiện nay xuống còn tối đa là 5%, khi đó thị trường nội
địa hàng Dệt May Việt Nam không còn được bảo hộ trước hàng nhập
từ các nước trong khu vực. Nh vậy, hàng Dệt May Việt Nam sẽ phải
cạnh tranh rất khốc liệt so với các nước xuất khẩu hàng Dệt May.
2
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
Có thể thấy rằng ngành Dệt May Việt Nam đang thiếu chiều sâu cho
sự phát triển của Ngành. Trong khi ở các nước phát triển lợi thế cạnh
tranh trong ngành Dệt May mà họ có được thông qua vốn và công
nghệ thì ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam vẫn chỉ là ngành sử
dụng lao động rẻ. Từ đó, chúng tôi đã quyết định chọn Công Nghệ
Dệt May Việt Nam làm đề tài cho tiểu luận của nhóm. Qua đây, chúng
tôi muốn nhìn nhận lại tình hình công nghiệp dệt may Việt Nam và
xin đưa ra những giải pháp chủ yếu phát triển ngành đáp ứng yêu cầu
hội nhập WTO.
 Bố cục tiểu luận được chia làm 2 phần :
Phần I : Công nghệ dêt may Việt Nam
A. Đánh giá tổng quan về ngành công nghiệp dệt may Việt Nam.
B. Thiết bị, công nghệ ngành dệt may Viêt Nam.
Phần II : Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công

nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010 để đáp ứng yêu
cầu hội nhập WTO
A. Quan điểm và mục tiêu tổng quát phát triển ngành công nghiệp
Dệt May Việt Nam đến năm 2010.
B. Một số vấn đề đặt ra cho ngành công nghiệp Dệt May Việt
Nam trong quá trình hội nhập vào WTO.
C. Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành công nghiệp Dệt
May Việt Nam đến năm 2010.
D. Một số cơ chế, chính sách hỗ trợ để phát triển ngành công
nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010.
3
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
Do thời gian nghiên cứu ngắn, cộng với sự phức tạp của đề tài
nên nhóm không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự
đóng góp của thầy giáo cùng toàn các bạn.
Phần I
Công nghệ dêt may Việt Nam
A. Đánh giá tổng quan về ngành công nghiệp dệt may
việt nam
I.
Những kết quả đã đạt được của Ngành.
Ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đã có những bước tiến quan
trọng, góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã
hội bức xúc của đất nước và tạo nền tảng quan trọng cho sự phát triển
mạnh mẽ và có hiệu quả hơn trong những năm tới. Trong những năm
qua, tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp Dệt May trong tổng giá trị
sản xuất công nghiệp không ngừng tăng lên. Nếu trong năm 1985 giá
trị sản xuất toàn ngành chỉ chiếm 5,4% tổng giá trị sản xuất công
nghiệp thì năm 2000 đã chiếm tới 7,86% (tính theo giá cố định 1994).
Bảng 1 : Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp Dệt May trong công

nghiệp Việt Nam (theo giá cố định 1994).
1995 1996 1997 1998 1999 2000
Toàn bộ công nghiệp 100 100 100 100 100 100
Công nghiệp dệt 5,97 5,40 5,40 5,53 5,56 4,81
Công nghiệp may 2,85 2,88 3,22 3,09 3,01 3,05
4
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
Nguồn: Niên giám thống kê 2000
Ngành công nghiệp Dệt May là một trong những ngành góp phần
quan trọng vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Bảng 2 : Tỷ trọng KNXK ngành Dệt May trong tổng KNXK của
ngành công nghiệp (1996 – 2000).
1996 1997 1998 1999 2000
Công nghiệp Dệt May (%) 15,92 15,04 14,5 15,17 13,1
Nguồn : Tổng cục hải quan
Mặc dù tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu không tăng qua các năm nhưng
giá trị kim ngạch xuất khẩu của Ngành liên tục tăng. Nếu trong năm
1985, tổng kim ngạch xuất khẩu của công nghiệp Dệt May là 850 triệu
USD, đến năm 2000 đã lên tới 1.892 triệu USD, chiếm hơn 13% tổng
kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May đứng thứ
hai sau xuất khẩu dầu thô.
Bảng 3 : Kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt May (1996 – 2000).
1996 1997 1998 1999 2000
Giá trị KNXK của Ngành
(Triệu USD)
1150 1350 1352 1747 1892
Nguồn: Tổng cục hải quan
Sự phát triển của ngành công nghiệp Dệt May còn có tác động tích
cực trong việc giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao động,
qua đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và ổn định xã hội.

Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện tính ưu việt của
ngành này khi kinh tế đang còn kém phát triển, khả năng đầu tư giải
quyết việc làm còn hạn chế. Sự phát triển của ngành công nghiệp Dệt
5
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
May còn có tác động tích cực đến sự phát triển của một số ngành
khác, chẳng hạn như việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở một số vùng,
nâng cao mức sống và thu nhập cho người dân, góp phần tích cực vào
việc giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc trong quá trình
chuyển đổi cơ chế kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại
hoá.
II.
Những hạn chế và nguyên nhân của Ngành.
1. Những hạn chế chủ yếu của Ngành:

Thứ nhất, tuy có yêu cầu phát triển mạnh, nhưng đến nay
ngành Dệt May Việt Nam vẫn còn nhỏ bé so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới. Bảng dưới đây chứng minh cho điều này.
Bảng 4 : Ngành Dệt May Việt Nam so với các nước trong khu vực.
Số lượng sợi
(nghìn Tấn)
Số lượng
vải
(Triệu m2)
Sản phẩm may
(Triệu SP)
KNXK
(Tr.USD)
Trung Quốc 5.300 21.000 10.000 50.000
Ên Độ 2.100 23.000 12500

Thái Lan 1.000 4.200 2.500 6.500
Inđônêxia 1.800 4.400 3.000 8.000
Việt Nam
85 304 400 2.000
Nguồn: Tổng Công ty Dệt May Việt Nam 2000
Những số liệu trên cho thấy trong lĩnh vực Dệt May, Việt Nam chưa
phải là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với các nước khác, cả trên thị
trường thế giới và trong thị trường nội địa.

Ở thị trường trong nước: Năm 1999 ngành Dệt cả nước
chưa huy động được hết 40% năng lực sản xuất, do đó dệt được
6
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
gần 317 triệu mét vải các loại phục vụ cho tiêu dùng trong nước là
chủ yếu. Ngành May phải nhập hơn 200 triệu mét vải và gần 10
triệu sản phẩm quần áo may sẵn từ nước ngoài để tiêu thụ tại thị
trường trong nước. Vải sản xuất trong nước tiêu thụ chậm, sức
cạnh tranh kém cả về chất lượng, mẫu mã và giá cả so với vải nhập
ngoại, nhất là vải nhập từ Trung Quốc. Hàng Dệt của ta sản xuất
không chỉ khó tiêu thụ được ở các thành phố lớn mà ngay cả tại
vùng nông thôn cũng tiêu thụ chậm vì chất lượng thua kém và giá
bán cao hơn hàng Trung Quốc.

Ở thị trường xuất khẩu: Kim ngạch buôn bán hàng Dệt
May trên thị trường thế giới hàng năm lên tới 300 - 350 tỷ USD
(chiếm hơn 6% tổng kim ngạch mậu dịch toàn thế giới) và có mức
tăng trưởng khá cao (trên 6%/năm). Thị trường buôn bán sản phẩm
Dệt May trên thế giới tập trung ở 3 trung tâm lớn là : Châu Á, Tây
Âu, Bắc Mỹ. Nh vậy tiềm năng của thị trường xuất khẩu hàng Dệt
May Việt Nam hiện nay rất lớn. Ở thị trường có hạn ngạch nh

khối EU, trong thời gian qua Việt Nam được ưu đãi khá nhiều
trong việc cấp hạn ngạch cho hàng Dệt May. Tuy nhiên, so với
các nước ASEAN và Trung Quốc, khả năng cạnh tranh của hàng
Dệt May Việt Nam ở các thị trường lớn vẫn thua kém. Số lượng
hạn ngạch EU ưu đãi cho Việt Nam chỉ bằng 20% của các nước
ASEAN, 5% của Trung Quốc. Số mặt hàng Dệt May bị hạn chế
xuất vào thị trường EU của Thái Lan là 20 nhóm, Singapore là 8
nhóm và Việt Nam là 28 nhóm. Sản phẩm Dệt May của ta xuất
khẩu vào EU tập trung ở một số sản phẩm truyền thống dễ làm nh
áo sơ mi, quần âu, áo jắckét…những sản phẩm yêu cầu kỹ thuật
7
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
cao đang còn bị bỏ trống hạn ngạch được cấp. Ở khu vực thị
trường tiêu thụ hàng Dệt May Châu Á tập trung ở Nhật Bản, Hàn
Quốc, hàng Dệt May Việt Nam đang có uy tín cao nhưng cũng
đang bị cạnh tranh gay gắt và mất dần lợi thế bởi hàng Dệt May
của các nước ASEAN đang phục hồi sau khủng hoảng tiền tệ Châu
Á . Ở thị trường Mỹ và Bắc Mỹ, hàng Dệt May xuất khẩu của Việt
Nam đang còn rất nhỏ bé và gặp nhiều khó khăn trong quá trình
thâm nhập vì trước đây chúng ta chưa được hưởng quy chế tối hiệp
quốc do Chính phủ quy định. Những điểm hạn chế cơ bản của
hàng Dệt May Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu là : khâu nắm
bắt thông tin về thị trường thế giới còn quá Ýt, sơ sài, lạc hậu,
công tác nghiên cứu mẫu mốt thời trang hàng dệt, may, thị hiếu
của khách hàng các nước chưa được quan tâm thích đáng. Sản
phẩm vải dệt của Việt Nam chưa đủ tiêu chuẩn về chất lượng làm
nguyên liệu cho ngành may xuất khẩu theo yêu cầu của khách hàng
nước ngoài. Ngành may phát triển theo phương thức may gia công
là chủ yếu, nguyên liệu vải và các phụ liệu đều phải nhập từ nước
ngoài. Mẫu mã sản phẩm dệt, may còn đơn điệu chủ yếu là những

sản phẩm dễ làm và có yêu cầu kỹ thuật trung bình, thấp.

Thứ hai: Việc xuất khẩu bằng phương thức gia công của các
doanh nghiệp may chiếm tỷ trọng lớn, cùng với việc không bảo
đảm nguyên phụ liệu trong nước đã gây ảnh hưởng khá nặng nề tới
hiệu quả xuất khẩu.
Phương thức gia công quốc tế phù hợp với trình độ phát triển thấp
của các doanh nghiệp Dệt May vì nó bảo đảm việc làm khi ngành
này chưa có đủ khả năng thâm nhập trực tiếp vào thị trường thế
8
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
giới và khi khả năng về vốn và trình độ công nghệ còn hạn hẹp.
Song đây lại không thể là phương thức có thể duy trì lâu dài trong
chiến lược của ngành Dệt May bởi lẽ nó sẽ gây nên tình trạng phụ
thuộc, bất ổn định trong sản xuất kinh doanh, trong đầu tư của các
doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế không được bảo đảm. Hơn nữa, ở
trong nước vẫn chưa có đủ khả năng bảo đảm nguyên liệu và phụ
liệu cho sản xuất mà chủ yếu các nguyên liệu và phụ liệu này phải
nhập khẩu từ bên ngoài nên hiệu quả sản xuất thấp.
Trong khi ngành Dệt May chủ yếu sử dụng nguyên liệu nhập khẩu,
thì kim ngạch xuất khẩu vải lại rất khiêm tốn: Nếu tính cả xuất
khẩu vải bông, sản phẩm dệt kim và các loại khăn thì kim ngạch
chỉ chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May.
Trong ngành may, phương thức gia công chiếm tỷ trọng lớn và vì
hầu hết các loại nguyên phụ liệu đều phải nhập khẩu nên giá trị gia
tăng nhỏ, thông thường chỉ khoảng 20 - 25%.

Thứ ba: Trình độ công nghệ của các doạnh nghiệp lạc
hậu và mất cân đối là yếu tố quan trọng làm giảm khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp.

Trong ngành dệt, chỉ có 15% máy mới ở các doanh nghiệp Nhà
nước. Tuy ở các doanh nghiệp may xuất khẩu, máy móc hiện đại
đẫ được trạng bị để thay thế máy móc thế hệ cũ nhưng sản phẩm
của các doanh nghiệp dệt không đủ khả năng đáp ứng yêu cầu
của các doanh nghiệp may xuất khẩu.
2. Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế:

Năng lực và thiết bị công nghệ của ngành dệt chỉ huy
động được gần 40% công suất thiết bị còn lại hầu hết công
9
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
nghệ là lạc hậu và thiếu đồng bộ giữa các khâu. Đặc biệt là thiết
bị dệt và nhuộm hoàn tất. Ngành may chưa chủ động tiếp cận
được trực tiếp với khách hàng tiêu thụ sản phẩm ở thị trường
thế giới (xuất khẩu sản phẩm qua đối tác trung gian công tác
đầu tư nghiên cứu tạo mẫu mốt thời trang quần áo chưa được
quan tâm đúng mức để phát triển phục vụ cho ngành may
chuyển từ xuất khẩu gia công sang xuất khẩu sản phẩm hoàn
chỉnh.
 Hệ thống quản lý chất lượng của ngành Dệt May chưa
được quan tâm chú ý đúng mức nhiều doanh nghiệp chưa có
giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng sản phẩm. Tính đến
cuối năm 2000 mới có 8 doanh nghiệp đăng ký quản lý chất
lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 trong đó 4 đơn vị được cấp
chứng chỉ.

Hầu hết các nguyên liệu phụ liệu phục vụ cho sản xuất
của ngành Dệt May hiện nay đều phải nhập khẩu 70% giá trị
sản phẩm dệt nằm ở nguyên liệu bông xơ, hoá chất thuốc
nhuộm. Nguồn nguyên liệu bông xơ từ trong nước có chất

lượng kém và sản lượng thấp chỉ đáp ứng được gần 10% nhu
cầu nguyên liệu cho ngành dệt. Trong 10 năm qua, thị trường
thế giới có nhiều biến động giá nguyên liệu cho ngành dệt nh
việc giảm giá bông xơ năm 1995 đã có tác động xấu gây nhiều
bất lợi cho ngành Dệt May của Việt Nam trong những năm từ
1996 cho đến nay.

Chất lượng nguồn nhân lực của ngành Dệt May còn
nhiều bất cập. Lực lượng lao động ngành Dệt May khá đông
10
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
(trên 1 triệu người), nhưng số lượng công nhân kỹ thuật trình độ
bậc cao, giỏi còn Ýt. Đội ngò cán bộ quản lý chủ chốt trong các
doanh nghiệp còn nhiều hạn chế trong tiếp cận với phong cách
quản lý hiện đại, đặc biệt là kinh nghiệm giao dịch xuất nhập
khẩu, nghiên cứu tiếp thị với thị trường thế giới. Mức thu nhập
bình quân của công nhân ngành Dệt May thấp và không ổn
định, thêm vào đó bệnh nghề nghiệp ở các nhà máy Dệt May
tác động xấu đến sức khoẻ và tâm tư của công nhân.
 Vốn cho đầu tư phát triển của ngành Dệt May còn thiếu,
đặc biệt ở các doanh nghiệp Nhà nước. Hiện tượng đầu tư dàn
trải, manh món theo xu hướng tự cân đối, khép kín ở nhiều
doanh nghiệp làm cho ngành Dệt May ở tình trạng mất cân đối
nghiêm trọng giữa các khâu sản xuất.
 Chính sách đầu tư phát triển ngành Dệt May trước đây
chưa hợp lý như quy định về thời hạn thu hồi vốn vay đầu tư
phát triển cho ngành dệt từ 7 - 10 năm, ngành may từ 5 - 7 năm.
Trong khi thực tế ở Việt Nam, đầu tư vào ngành dệt phải từ 12
- 15 năm, ngành may từ 10 - 12 năm mới có thể thu hối được
hết vốn. Các thủ tục triển khai đầu tư xây dựng thường kéo dài

nhiều năm. Các chính sách cơ chế chưa thực sự hấp dẫn nhà
đầu tư nước ngoài và trong nước bỏ vốn đầu tư nhiều hơn vào
ngành Dệt May.
B.Thiết bị, công nghệ ngành dệt may Viêt Nam
Tính đến cuối thập kỷ 80, công nghệ kéo sợi của Việt Nam vẫn còn
rất lạc hậu, máy móc thiết bị thiếu đồng bộ, một số thuộc thế hệ I, một
số thuộc thế hệ II. Trình độ tự động thấp, sản phẩm đạt chất lượng
11
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
thấp so với chất lượng trung bình của thế giới, hầu hết đạt mức
đường75% của hệ thống Uster thế giới. Công nghệ kéo sợi chải thô
chiếm phần lớn, sản xuất ra các loại vải có chỉ sè thấp, sợi chải kỹ sản
xuất đáp ứng được 3% nhu cầu trong nước.
Khi bước vào nÒn kinh tế thị trường, một số do đã được nhập những
dây chuyền công nghệ chải bông liên hợp tự động cao sử dụng máy
ghép tự động khống chế chất lượng. Nhờ đó mà đã có thể sản xuất
được những sản phẩm có chất lượng cao, đạt mức đường 25% của hệ
thống Uster thế giới. Nhưng nhìn chung số công nghệ cao còn quá Ýt,
đa số công nghệ kéo sợi của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam
vẫn còn đang trong tình trạng rất lạc hậu.
 Thiết bị kéo sợi toàn ngành được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 5 : Hiện trạng thiết bị sợi toàn ngành Dệt May Việt Nam
Tên Công
ty
Tổng số
cọc và
Roto hiện

Máy mới
Second-

hand cả
dây
chuyền
Second-
hand
không
đồng bộ
Bổ sung và
nâng cấp
1. Dệt Huế 47.000
2. Dệt
Nam Định
105.256
24.000
(Nhật)
16.400
(Italia)
3. Dệt 8-3 70.280 27.716 10.200
4. Dệt Hà
Nội
136.548
+320 Roto
5. Dệt
Vĩnh Phú
28.968
6. Dệt
Thành
Công
41.000
15.000(TQ)

26.000(Nhậ
t)
7. Dệt
Đông Nam
44.864
8. Dệt
Thắng Lợi
104.992
12
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
9. Dệt Nha
Trang
108.496
+4600
Roto
10.000
(Riester)
10. Dệt lụa
Nam Định
17.136
11. Dệt
Việt
Thắng
47.200
9.600
(Nhật)
12. Dệt
Phong Phó
29.456
+1600

Roto
1.600 Roto
(TQ)
9.456
(Italia)
13. Dệt
Hoà Thọ
18.928 8.928
Cộng
677.124
+3520
Roto
84.600
+1600 Roto
25.856 10.200
Nguồn : Tổng Công ty Dệt May Việt Nam
Bảng trên cho ta thấy, hiện nay toàn ngành có 677.124 cọc sợi và 3520
roto. Trong đó:
- Thiết bị mới hoàn toàn là 84600 cọc sợi và 1600 roto.
- Thiết bị được thay thế bằng máy Second-hand của Tây Âu là
56500 cọc sợi.
- Thiết bị bổ sung nâng cấp là 10200 cọc sợi.
Nhìn chung, thiết bị của Ngành còn rất lạc hậu, tỷ lệ số cọc sợi mới
hoàn toàn thấp chỉ chiếm 12,5% tổng số cọc sợi của toàn ngành, số
cọc sợi được thay thế bằng máy Second-hand của Tây Âu cũng chỉ
chiếm hơn 8,3%, thiết bị nâng cấp không đáng kể chỉ có 1,5%, tức là
số thiết bị được coi là hiện đại chỉ có khoảng 22,3% tổng số cọc sợi.
Hiện đã có một số doanh nghiệp như Dệt Thành Công, Dệt Nha
Trang, Dệt Phong Phú đã mua sắm thiết bị kéo sợi tiên tiến là các roto
nhưng con số này còn Ýt ái so với quy mô thiết bị toàn ngành chỉ có

3520 roto, mà chủ yếu là của Trung Quốc (chiếm 91%).
13
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
I . Thiết bị, công nghệ dệt thoi
Về thiết bị, công nghệ dệt thoi trong nhiều năm qua, các doanh nghiệp
đã bỏ vốn đầu tư mua sắm thiết bị góp phần nâng cao chất lượng, đa
dạng hoá sản phẩm; hàng ngàn máy dệt không thoi có thoi khổ rộng
được nhập về, nhiều bộ mắc hồ mới hiện đại thay cho các thiết bị cũ,
đến nay trong toàn ngành, máy dệt mới chiếm 25%, số lượng máy có
khả năng nâng cấp chiếm 45%.
Về công nghệ, đã chuyển biến mạnh dưới tác động của cơ chế thị
trường, một số công nghệ hiện đại đã được nhập nh :
- Công nghệ dệt sợi bông 100% : Có tiến độ trong dệt vải bảo hộ
lao động, vải cào bông, xuất khẩu (Tiệp, Tây Âu) và phục vụ nội
địa. Đặc biệt trong lĩnh vực dệt khăn bông có tăng trưởng mạnh mẽ
hàng chục nghìn tấn cho Nhật, Đài Loan.
- Công nghệ dệt vải tổng hợp : Nhờ thiết bị se, hấp giảm trọng
lượng nên đã sản xuất ra được nhiều sản phẩm giả tơ, giả len cao
cấp được khách hàng ưa chuộng.
- Công nghệ dệt vải pha : Được phát triển mạnh mẽ, sử dụng tới
50% công suất kéo sợi của toàn ngành. Công nghệ sản xuất đã
tương đối đồng bộ giữa kéo sợi, dệt vải, hoàn tất tạo được nhiều
sản phẩm tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.
- Công nghệ tơ tằm và len : Đã mở ra khả năng mở rộng qua sản
xuất thăm dò ở một số doanh nghiệp. Công nghệ kéo sợi tại công
14
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
ty len Hải Phòng và dệt len tại Dệt lụa Nam Định có nhiều triển
vọng phát triển qua mặt hàng xuất khẩu phục vụ sĩ quan quân đội.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực tơ tằm còn gặp nhiều khó khăn do sức

cạnh tranh mạnh mẽ từ bên ngoài. Do vậy, khả năng phát triển
công nghệ tơ tằm còn nhiều nghi vấn trong tương lai.
- Công nghệ dệt vải Denim : Đã có ở công ty liên doanh
IUMBO-Sài Gòn, Phong Phó.
II. Thiết bị, công nghệ dệt
kim.
Từ sau năm 1986, thiết bị dệt kim được nhập chủ yếu từ Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan, đều thuộc thế hệ mới, trong đó có nhiều loại được
trang bị máy vi tính nên đã đạt được năng suất cao, chất lượng tốt, tính
năng sử dụng rộng. Tuy được đầu tư thiết bị mới, song công nghệ và
đào tạo chưa được nâng cao tương xứng do : kiến thức về thị trường
xuất khẩu, kiến thức về đầu tư, về mặt hàng còn rất hạn chế ở những
năm đầu của thời kỳ mở cửa ; thiếu chuyên gia và công nhân lành nghề,
thiếu các nhà kinh doanh và quản trị giỏi ; khả năng vốn đầu tư không
có, hầu hết là đều phải đi vay nên hạn chế trong việc phát triển. Hơn
nữa, chất lượng sợi sản xuất trong nội địa thấp, không đủ tiêu chuẩn để
làm ra sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao. Nhiều chuyên gia nước ngoài
đã khẳng định chất lượng nguyên liệu chiếm tới 70% yếu tố tạo ra sản
phẩm có giá trị cao, còn thiết bị chiếm 30%. Chính hạn chế về nguồn
cung cấp nguyên liệu, đặc biệt là sợi Cotton chải kỹ chất lượng cao nên
phần lớn các doanh nghiệp đầu tư mới trong giai đoạn này đều lùa chọn
phương án sản phẩm dệt kim từ sợi PE/Co - do ổn định được kích thước
vải trên máy văng định hình. Còn vải dệt kim từ sợi Cotton hiện phần
lớn phải nhập sợi để làm hàng xuất khẩu hoặc chỉ sản xuất từ sợi Cotton
nội địa với số lượng hạn chế và xuất với giá trị thấp.
15
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
III. Thiết bị, công nghệ in nhuộm
Trong những năm vừa qua, ngành đã nhập được một số thiết bị
hiện đại của thế giới như máy nhuộm sợi Bobin Hisaki, máy Jet, máy

làm bóng dệt kim tròn Dornier, máy in hoa cấy bông, máy in nhuộm
hoa lưới quay, máy hồ văng định hình, máy Sanfort, comfit, cào bông,
chải tuyết… làm các mặt hàng từ PE/Co, Petex, có khả năng sản xuất
các áo Jacket, áo sơ mi. Song theo đánh giá của Bộ Công nghiệp và
Tổng công ty Dệt May Việt Nam, thiết bị công nghệ in nhuộm đã rất
lạc hậu. Hiện nay, thiết bị in nhuộm có khoảng 35% còn mới, 30% có
thể cải tạo nâng cấp được, 35% phải loại bỏ dần từ nay đến năm 2010.
In nhuộm được coi là khâu yếu nhất trong hệ thống dệt của ngành Dệt
May làm cho sản phẩm dệt không đáp ứng được nhu cầu vải cho may
xuất khẩu (hiện chỉ đáp ứng được 10 - 15%) nhu cầu của ngành may.
Do đó, hiệu quả của toàn ngành Dệt May giảm, không tạo được mối
liên hệ chặt chẽ giữa ngành Dệt và ngành May trong quá trình phát
triển.
IV. Thiết bị, công nghệ may
16
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
Thiết bị, công nghệ may được đánh giá là hiện đại nhất trong ngành
công nghiệp Dệt May.
1. Về thiết bị:
Từ đầu thập kỷ 90, ngành May không ngừng đầu tư đổi mới thiết bị,
đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước. Hiện tại thiết bị, công nghệ
ngành May ở từng khâu sản xuất nh sau:
- Công đoạn cắt: Vẫn trải vải thủ công, chưa có máy trải vải; sử
dụng máy cắt đầu bàn, thiết bị cắt vòng, các máy cắt đẩy tay tiên
tiến có lực cắt khoẻ, tốc độ cao; các máy Ðp dính liên tục của Đức,
Nhật có năng suất cao cũng đã được sử dụng.
- Công đoạn may: Các máy may phần lớn là máy hiện đại có tốc
độ cao, bơm dầu tự động, đảm bảo vệ sinh công nghiệp. Máy may
chủ yếu là máy JUKI của Nhật. Các máy chuyên dùng (máy may 2
kim, máy vắt, cuốn ống, thùa bằng…) cũng đã được trang bị.

Xu hướng chung ngày càng nhiều máy chuyên dùng được sử dụng để
nâng cao năng suất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhiều doanh
nghiệp đã đầu tư dây chuyền sử dụng nhiều máy chuyên dùng sản
xuất mọi mặt hàng:
 Dây chuyền may sơ mi của công ty may 10: Có tự động
may cổ, may secmăng, máy tự động là thân áo.
 Dây chuyền may quần: Dây chuyền đứng thao tác, nhiều
bộ phận may theo chương trình tự động.
- Công đoạn hoàn tất sản phẩm: Hầu hết các doanh nghiệp sử
dụng hệ thống là hơi, tối thiểu cũng dùng bàn là treo phun nước để
đảm bảo chất lượng sản phẩm.
2. Về công nghệ:
Công nghệ may cũng có sự chuyển biến kịp thời đồng bộ với thiết
bị để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Công nghệ may ở các xí
nghiệp gồm 4 giai đoạn:
17
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
- Kho nguyên phụ liệu: Nguyên phụ liệu của từng mã
hàng kèm theo bảng màu và số lượng được các xí nghiệp phát
về từng phân xưởng.
- Khâu cắt: Cắt trên giác đồ mẫu giấy, có nhiều ghim kẹm,
có giấy lót dưới bàn vỉ đảm bảo chính xác, đánh số bằng giấy
theo từng cây vải hoặc giác mẫu bằng hệ thống máy vi tính.
- Khâu may: Công nhân tay nghề cao, các đường mí đều
sử dụng cữ, gá. Các dây chuyền may bố trí vừa và nhỏ khoảng
25 - 26 máy may, sử dụng 34 - 38 lao động, có khả năng cơ
động nhanh mỗi khi có thay đổi mã hàng chỉ cần tối đa 2 ngày
là có thể ổn định sản xuất. Nhân viên kiểm tra được bố trí vào
các dây chuyền may chấn chỉnh sai háng ngay từ đầu, tránh
được sai háng hàng loạt.

- Khâu hoàn tất: Rất được coi trọng vì đây là khâu tốn
thêm chất lượng sản phẩm, phần lớn dùng hệ thống là hơi, đóng
tói nilon cho vào thùng caton.
Công nghệ mới ứng dụng tin học đã được một số công ty đưa vào
áp dụng trong một số khâu của quá trình sản xuất như phần thiết
kế được làm trên máy vi tính và được nháy mẫu ra nhiều cỡ khác
nhau.
PHẦN II
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG
NGHIỆP DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 ĐỂ ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU HỘI NHẬP WTO
A/ Quan điểm và mục tiêu tổng quát phát triển
ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010
18
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
Ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam là một trong những ngành
công nghiệp trọng tâm của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại
hoá đất nước. Quyết Định số 55/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về chiến lược phát triển và một số cơ chế, chính sách
hỗ trợ việc thực hiện chiến lược phát triển ngành công nghiệp Dệt
May đến năm 2010, với những quan điểm và mục tiêu nh sau:
I. Quan điểm phát triển
- Đa dạng hoá các thành phần kinh tế trong quá trình đẩy
nhanh phát triên công nghiệp Dệt May. Có nh vậy mới huy động
được mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài, kể cả nguồn lực quốc
tế cho bước phát triển đột biến trong thời gian ngắn đối với ngành
công nghiệp Dệt May. Coi trọng các nguồn lực từ nhân dân lao
động. Đồng thời đẩy mạnh kêu gọi đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực
Dệt May, kể cả đầu tư nước ngoài cho phát triển cây bông và trồng
dâu nuôi tằm.

- Coi trọng phát triển chiều rộng đi đôi với củng cố chiều sâu.
Đây là bước đi quan trọng trong giai đoạn đến năm 2010. Công
nghiệp Dệt cần phát triển thành từng cụm, nằm trong các khu công
nghiệp nhằm tiết kiệm vốn đầu tư cho hạ tầng cơ sở, giải quyết vấn
đề xử lý nước thải tập trung, lành mạnh trong môi trường sinh thái.
Có như vậy mới có thể hình thành các doanh nghiệp mới vừa và
nhỏ. Trên cơ sở đó tạo ra các cơ hội để đưa công nghệ hiện đại vào
sản xuất và áp dụng các mô hình quản lý, điều hành tiên tiến của
thế giới vào công nghiệp Dệt May Việt Nam.
Công nghiệp May cần phát triển rộng khắp. đến tận các vùng nông
thôn, miền núi nhằm huy động mọi nguồn vốn có trong nhân dân
và trong mọi thành phần kinh tế. Có nh vậy mới thu hót được mọi
nguồn lực lao động khắp trên mọi miền đất nước, đồng thời thực
19
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
hiện thành công chủ trương công nghiệp hoá-hiện đại hoá vùng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa của Đảng và Nhà nước. Mặt khác,
lấy May xuất khẩu để kích thích phát triển vải và các loại nguyên
phụ liệu chất lượng cao, nghĩa là thúc đẩy phát triển ngành Dệt.
- Tập trung phát triển các vùng nguyên liệu nh bông, tơ tằm và
xơ sợi tổng hợp cùng với việc phát triển công nghiệp hoá dầu. Cho
đến nay, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu khoảng 90% nhu cầu
nguyên liệu ban đầu cho ngành Dệt May. Việc nâng cao tỷ lệ giá
trị xuất xứ nội địa trên sản phẩm Dệt May vừa là yêu cầu bắt buộc
của thị trường nhập khẩu, vừa là môi trường của chiến lược phát
triển ngành Dệt May nhằm nâng cao phần lợi nhuận cho ngành và
cho đất nước.
- Phát triển nhanh bằng việc đầu tư các công nghệ mới nhất,
với thiết bị hiện đại nhằm tạo ra một bước nhảy vọt về sản lượng
và chất lượng. Mặt khác, cần coi trọng và tận dụng các loại thiết bị

đã qua sử dụng với công nghệ tiên tiến từ các nước công nghiệp
hoá, thế hệ từ những năm 90 trở lại đây.
- Đầu tư phát triển ngành Dệt May theo hướng chuyên môn
hoá cao theo loại công nghệ. Có nh vậy mới tạo được bước nhảy
vọt về chất lượng sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp cần thiết phải
chuyên sâu và làm chủ được một vài loại công nghệ để tạo ra
những mặt hàng mới chất lượng cao. Xây dựng mối quan hệ cung -
cầu giữa các doanh nghiệp trên cơ sở hợp tác thương mại.
II. Mục tiêu phát triển
1.Mục tiêu tổng quát:
20
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
Phát triển ngành công nghiệp Dệt May trở thành một trong những
ngành công nghiệp trọng điểm, mòi nhọn, thoả mãn ngày càng cao
nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng
cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc khu vực và thế giới.
2.Các chỉ tiêu cụ thể:
Bảng 6: Các chỉ tiêu của ngành Dệt May năm 2005 và 2010.
Các chỉ tiêu Đơn vị 2005 2010
1. KNXK Triệu USD 4000 - 5000 8000 – 9000
2. Sử dụng LĐ Nghìn LĐ 2500 - 3000 4000 – 4500
1. Các sản
phẩm chủ yếu:
_ Bông xơ
_ Xơ sợi tổng hợp
_ Sợi các loại
_ Vải lụa
_ Sản phẩm dệt kim
_Sản phẩm may
Nghìn tấn

Nghìn tấn
Nghìn tấn
Triệu mét
Triệu sản phẩm
Triệu sản phẩm
30
60
150
1000
300
7800
80
120
300
1750
500
1500
4. Tỷ lệ sử dụng NPL
nội địa trên SP Dệt
May XK
% >50 >75
5. Nhu cầu vốn
đầu tư toàn Ngành
_ Tổng vốn đầu tư:
+) Vốn cho đầu tư mới
+) Vốn cho đầu tư
chiều sâu
Tỷ đồng
Tỷ đồng
Tỷ đồng

35000
23200
11800
30000
20000
10000
Nguồn : Bé Kế hoạch và Đầu tư
B. Mét số vấn đề đặt ra cho ngành công nghiệp Dệt May
Việt nam trong quá trình hội nhập vào WTO
I. Sù ra đời và mục tiêu của WTO
21
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
Trước nhu cầu đẩy mạnh tự do hoá thương mại sau chiến tranh thế
giới lần thứ hai, 50 quốc gia đã trao đổi và xây dựng một kế hoạch
thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO). Mục đích thành lập
ITO là để giải quyết vấn đề hợp tác kinh tế quốc tế trong hệ thống
Breeton Woods bên cạnh Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ
Quốc tế (IMF). ITO cuối cùng không ra đời do điều lệ của nó
không được một số quốc gia phê chuẩn. Tuy vậy, 23 trong 50 nước
tham gia đàm phán đã ký kết Hiệp định chung về thuế quan và mậu
dịch (GATT) bắt đầu có hiệu lực từ tháng 1 năm 1948.
GATT chủ yếu điều chỉnh các lĩnh vực thương mại hàng hoá, và đã
tạo ra một hệ thống thương mại đa phương vững mạnh, thịnh
vượng, ngày càng tự do hoá thông qua tám vòng đàm phán. Vòng
đàm phán thứ tám của GATT, vòng Uruguay kéo dài từ 1986 đến
1994, diễn ra trong tình hình thương mại thế giới đã trở nên phức
tạp. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra;
thương mại dịch vô - lúc đó không có trong phạm vi điều chỉnh
của GATT - trở thành vấn đề ngày càng được quan tâm; đầu tư
quốc tế đã phát triển. Với sự tham gia của 123 nước, vòng đàm

phán này đã thảo luận tất cả các lĩnh vực thương mại và dẫn đến sự
ra đời của WTO với một hệ thống hiệp định mới và mang lại sự
đổi mới lớn nhất trong hệ thống thương mại thế giới. Từ năm
1995, WTO không chỉ điều chỉnh thương mại hàng hoá mà cả
thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ.
Nh vậy, WTO là tổ chức kế thừa của GATT với các mục tiêu cơ
bản sau:
22
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
• Tù do hoá thương mại bằng cách xoá bỏ các loại rào cản
và đảm bảo tính minh bạch, dự đoán được trong chính sách
thương mại của các nước thành viên.
• Làm diễn đàn để các thành viên đàm phán và ký kết các
Hiệp định Thương mại.
• Giải quyết tranh chấp thương mại.
II. Lé trình cắt giảm thuế quan đối với một số mặt hàng Dệt
May của Việt Nam trong tiến trình hội nhập WTO
1. Hiệp định ưu đãi thuế quan phổ cập CEFT trong hội nhập
khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
CEFT là một thoả thuận giữa các nước thành viên ASEAN trong việc
giảm thuế quan thương mại giữa các nước thành viên ASEAN xuống
còn từ 0 - 5 (%), đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và
các rào cản phi thuế quan khác trong vòng 10 năm, bắt đầu từ ngày
01/01/1993 và hoàn thành vào ngày 01/01/2003.
- Mặt hàng Dệt May bắt đầu thực hiện CEFT từ năm 1998. Cụ
thể nh sau:
 Đối với vải sợi:
Các loại tơ, sợi , vải dệt có líp phủ tráng được đưa vào thực hiện
CEFT năm 1997 và bắt đầu thực hiện từ năm 1998. Trong số các
mặt hàng này chỉ có khoảng 1/3 số mặt hàng là những mặt hàng có

thuế suất 0 - 5%
23
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
Năm đưa vào thực hiện CEFT 1997, những mặt hàng có thuế suất
t = 20%
• Bước giảm dự kiến:
Bảng 7 : Biểu thuế đối với những mặt hàng có thuế suất t = 20%
Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
t (%) 20 15 15 15 10 10 5
Nguồn : Bé Kế hoạch và Đầu tư
Các loại tơ sợi tổng hợp hoặc sợi pha, lưới, vải các loại, lịch trình
cắt giảm được chia thành 3 bước:
- Bước 1 : Đưa vào thực hiện CEFT từ năm 1999, chủ yếu là các
mặt hàng sợi đơn đã có thuế suất 5% nên thực tế ta không phải
giảm thuế.
- Bước 2 : Thực hiện CEFT từ năm 2000, chủ yếu là các mặt hàng
sợi xoắn có thuế suất 10%, một số mặt hàng sản xuất trong nước
có khả năng phát triển nên tuy thuế suất là 5% nhưng cũng lùi lại
bước này để tránh khả năng tăng thuế lên trên 5 % trước khi giảm.
Năm đưa vào thực hiện CEFT 2000 những mặt hàng có thuế là
10%
• Bước giảm dự kiến:
Bảng 8 : Biểu thuế đối với những mặt hàng có thuế suất t = 10%
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
t (%) 10 10 10 10 5 5 5
Nguồn : Bé Kế hoạch và Đầu tư
24
CÔNG NGHỆ DỆT MAY NHÓM ANH_ NHẬT
- Bước 3: Đưa vào thực hiện CEFT từ năm 2002 (trừ một số vải
dệt, bông thì lùi tới năm cuối cùng để bảo hộ tối đa) gồm những

mặt hàng có thuế từ 30% trở lên.
Năm đưa vào thực hiện CEFT: 2002, những mặt hàng có thuế từ 30 -
40%
• Bước giảm dự kiến:
Bảng 9 : Biểu thuế đối với những mặt hàng Dệt May có thuế suất t
= 30 - 40%
Năm 2002 2003 2004 2005 2006
t(%)
40 30 20 10 5
30 20 20 10 5
Nguồn : Bé Kế hoạch và Đầu tư
 Đối với mặt hàng may :
Được đưa vào thực hiện CEFT từ năm 1998 những mặt hàng có thuế
từ 50%
• Bước giảm dự kiến:
Bảng 10 : Biểu thuế đối với những mặt hàng Dệt May có thuế suất
là t = 50%.
Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
t(%) 40 30 20 20 20 15 15 10 5
Nguồn : Bé Kế hoạch và Đầu tư
2. Hiệp định hàng Dệt May ký kết giữa Việt Nam với EU
giai đoạn 2000 - 2005:
Đối với thị trường EU thì hiện Việt nam đang được hướng thuế
MFN nhưng phải chịu hạn ngạch. Từ nay đến năm 2004, EU vẫn
25

×