Trờng đại học ngoại thơng
B MễN CHUYN GIAO CễNG NGH
----------------------------------------------
TIểU LUậN chuYN GIAO CÔNG NGHệ
Đề tài :
CÔNG NGHệ DệT MAY VIệT NAM
Giáo viên hớng dẫn : Đinh Hoàng Minh
Nhúm ti : Nhóm BAD BOY
Mai Th Dng-Anh3-C2
Phm Gia Minh-Anh3-C2
Qun Thanh Dng-Anh3-C2
Nguyn ỡnh Cụng-Anh3-C2
Bựi Quang Hng-Nht-C2
Phan Anh V-Anh3-C2
Lờ Minh Tin-Anh3-C2
CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ SẢN PHẨM
-----------O0O-------------
CHUYỂN GIAO CHẤT LƯỢNG DỆT MAY Ở VIỆT NAM
I. Tổng quan ngành dệt may Việt Nam
1.1 Giới thiệu chung:
Dệt may được coi là một trong những ngành trọng điểm của nền công
nghiệp Việt Nam, là ngành sản xuất mũi nhọn, có tiềm lực phát triển khá.
Bộ Công Thương cho biết, kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may trong 9
tháng đã đạt trên 5,805 tỷ USD, tăng 31,6% so với cùng kỳ năm ngoái, chính
thức “qua mặt” dầu thô vươn lên vị trí đứng đầu trong danh mục 8 mặt hàng
xuất chủ lực của Việt Nam. Dự kiến đến cuối năm, dệt may tiếp tục bứt phá
đạt mức 7,3-7,5 tỷ USD.
Việt Nam là nước có tiềm năng lớn về dệt may. Với trên 80 triệu dân, đa số
là dân số trẻ, giá nhân công rẻ, chi phí thấp, có nguồn nguyên liệu tại chỗ...
là lợi thế cạnh tranh lớn so với các quốc gia khác. Việt Nam hiện có hàng
ngàn nhà máy dệt may, thu hút hơn 50 vạn lao động, chiếm trên 22% tổng số
lao động trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng sản xuất hàng năm đều
tăng với tốc độ trên hai con số.
1.2 Thị trường trong nước và xâm nhập thị trường thế giới:
Mức tiêu thụ hàng dệt may ở thị trường nội địa năm 2007 đạt khoảng 2,8 tỷ
Usd; trong đó vừa là hàng nhập khẩu, vừa là hàng trong nước sản xuất. Gần
đây, xu thế sử dụng thu nhập cho nhu cầu mặc cũng tăng hơn từ 10-12%. Xu
thế tiêu dùng hàng may sẵn cũng có xu hướng tăng lên do ngày càng tiện lợi
cho người tiêu dùng, đáp ứng được thị hiếu và giá rẻ hơn.
Vấn đề cần quan tâm hiện nay là khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may vào Eu được thực hiện qua các khâu trung gian như Hồng Kông, Đài
Loan, Hàn Quốc... Vì vậy, làm sao Việt Nam có thể tiếp cận và bán hàng
trực tiếp sản phẩm dệt may, giảm bớt phụ thuộc vào các nhà đặt hàng trung
gian, nâng cao hiệu quả xuất khẩu.
Trong các mặt hàng may mặc xuất khẩu vào Eu, mới chỉ tập trung vào các
mặt hàng dễ làm như áo jacket, sơ mi... còn các mặt hàng có giá trị, đòi hỏi
kỹ thuật cao hơn như bộ complet hay các loại áo sơ mi cao cấp thì ít doanh
nghiệp có thể sản xuất được. Do đó, trên thực tế, nhiều mặt hàng có hạn
ngạch nhưng lại chưa có doanh nghiệp xuất khẩu.
Có nhiều ý kiến lạc quan về xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ sau
khi có Hiệp định thương mại Việt Mỹ. Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may vào thị trường này đạt 43 triệu Usd. Đến năm 2000, tuy hàng
dệt may Việt Nam bán vào thị trường Mỹ vẫn bị đánh thuế nhập khẩu cao
hơn 2-3 lần so với hàng của các nước khác nhưng vẫn đạt kim ngạch xuất
khẩu khoảng 60 triệu Usd. Với những con số đã thực hiện khả quan này và
một khi thuế nhập khẩu giảm xuống, ngành dệt may có thể đạt kim ngạch
xuất khẩu khoảng 300 triệu Usd vào thị trường Mỹ trong năm 2001. Trong
vòng 3-4 năm kể từ khi hai nước trao cho nhau quy chế thương mại bình
thường (Ntr), ngành dệt may hoàn toàn có thể đạt kim ngạch xuất khẩu vào
Mỹ 1 tỷ Usd.
Ngành dệt may Việt Nam tuy đã có nhiều yếu tố thuận lợi để tạo đà có tiến
trình hội nhập sắp tới như Quota thị trường Eu được tăng 30%, bước đầu mở
được thị trường Mỹ và thị trường vùng Trung Cận Đông, châu Phi; kinh tế
Nhật Bản đang hồi phục khiến cho thị trường này tiêu thụ hàng dệt may Việt
Nam tăng hơn trước. Nhưng xuất khẩu hàng dệt may cũng gặp không ít khó
khăn do giá sản phẩm giảm liên tục, giá cả ở thị trường Nhật từ năm 1998
giảm bình quân 12% mỗi năm do áp lực cạnh tranh của hàng Trung Quốc.
Bên cạnh đó, giá nguyên liệu lại tăng; đặc biệt thị trường phi quota, trong đó
thị trường Đông Âu giảm mạnh.
1.3 Vấn đề v à chiến lược khắc phục:
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, đặc biệt sau khi
gia nhập WTO thì ngành dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều
thách thức. Dệt may Việt phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc
xuất khẩu lớn, đặc biệt từ phía Trung Quốc. Hạn ngạch dệt may của Trung
Quốc vào thị trường EU hết hạn. Hàng rào bảo hộ tại thị trường nội địa sẽ
không còn. Thuế XNK hàng dệt may từ các nước ASEAN vào Việt Nam
cũng sẽ giảm từ 40-50% xuống tối đa còn 5% nên hàng dệt may Việt phải
cạnh tranh quyết liệt với hàng nhập từ các nước trong khu vực ngay tại thị
trường nội địa.
Ngành may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị và dây
chuyền đồng bộ chuyên sản xuất một mặt hàng như dây chuyền may sơ mi,
may quần âu, quần Jean, complet, hệ thống giặt là... nhưng cũng chưa đáp
ứng được yêu cầu xuất khẩu ngày càng cao. Xuất khẩu hàng dệt may tuy đạt
kim ngạch cao, nhưng chủ yếu làm gia công, ngành dệt vẫn nhập khẩu nhiều
và nguyên liệu cho sản xuất của ngành dệt hầu như hoàn toàn nhập khẩu từ
nước ngoài...
Vấn đề bức xúc hiện nay là hàng vải sợi, may mặc từ nước ngoài tràn vào từ
nhiều nguồn (hàng trốn lậu thuế, hàng cũ) giá rất rẻ đã làm cho sản xuất
trong nước bị ảnh hưởng. Mặt khác, hệ thống bán buôn, bán lẻ hàng vải sợi
may mặc trong nước chưa có tổ chức, để thả nổi cho một số tư thương làm
giả nhãn mác một số công ty có uy tín. Bản thân các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam lại chưa tạo được các kênh tiêu thụ ngay ở thị trường trong nước.
Do vậy, để các nhà sản xuất hàng dệt may Việt Nam làm chủ được thị
trường nội địa không có biện pháp nào khác ngoài việc phải giải quyết tốt
mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông, bán buôn và bán lẻ.
Trong Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt đến năm 2010, đã được
Chính phủ phê duyệt, mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 10 tỷ đô la
Mỹ, thu hút từ 4 đến 4,5 triệu lao động, tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu
nội địa ở sản phẩm dệt may xuất khẩu đạt trên 75% là hoàn toàn có khả năng
thực hiện được.Dự tính, trong 10 năm tới, số kỹ sư công nghệ cần có thêm là
50.000 người và số cán bộ quản lý doanh nghiệp là 5.000 người cho các
chương trình đầu tư mở rộng dệt may. Ngoài ra, số cán bộ công nhân viên
hiện có của ngành là khoảng 40.000 người và 3.000 cán bộ quản lý doanh
nghiệp cũng cần được cập nhật hóa kiến thức thường xuyên.
Ngành Dệt May Việt Nam đã đề ra 4 giải pháp lớn phải đồng bộ thực hiện,
đó là: đổi mới công nghệ, ổn định chất lượng sản phẩm, giảm giá thành sản
xuất để tăng sức cạnh tranh trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Đầu tư mở
rộng quy mô sản xuất từ khâu may đến khâu sản xuất vải và phụ liệu may,
bông xơ sợi cho sản xuất vải; trong đó, đầu tư cho các nhà máy may hiện đại
may hàng Fob (xuất khẩu trực tiếp) ở trung tâm hai thành phố lớn Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh; mở rộng mạng lưới may gia công ở tất cả các tỉnh,
thành trong cả nước. Cùng với việc quy tụ các nhà máy mới vào 10 cụm
công nghiệp dệt là phát triển mạnh vùng bông ở Tây Nguyên, Nam Trung
Bộ và Đông Nam Bộ, ngành sẽ đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị, xây dựng
mạng lưới bán buôn bán lẻ trong nước và các đại diện thương mại quốc tế;
áp dụng ngay phương thức kinh doanh mới như thương mại điện tử và cuối
cùng là đào tạo nguồn nhân lực.
Qua phân tích các thuận lợi khó khăn và thách thức thì vấn đề đổi mới công
nghệ, nâng cao năng lục sản xuất từ đó nâng cao chất lưọng sản phẩm để các
sản phẩm dệt may của Việt Nam có khả năng cạnh tranh với dệt may Trung
Quốc, Thái Lan, Indonesia...
II.THỰC TRẠNG DỆT MAY VIỆT NAM:
_Trong ngành Dệt-May Việt Nam, cho đến nay, việc sản xuất các sản phẩm
“xanh” chưa được quan tâm đúng mức. Một số nhà quản lý, điều hành doanh
nghiệp còn chưa được trang bị kiến thức hoặc hiểu biết còn hạn chế về
những yêu cầu “xanh” đối với các sản phẩm dệt- may xuất khẩu. Ngoài ra,
phần lớn các công ty, xí nghiệp trong dây chuyền nhuộm- hoàn tất vẫn còn
sử dụng một số hoá chất, chất trợ, thuốc nhuộm và các công nghệ gây ô
nhiễm môi trường. Có thể nêu lên vài ví dụ nổi bật sau đây. Trong hồ sợi,
ngày càng sử dụng nhiều PVA làm tăng tải lượng COD (nhu cầu oxy hoá
học) trong nước thải và PVA khó xử lý vi sinh. Nước thải rũ hồ thông
thường chứa 4000- 8000 mg/l COD. Kỹ thuật “giảm trọng” polieste bằng
kiềm được áp dụng phổ biến làm sản sinh một lượng lớn terephtalat và
glycol trong nước thải sau sử dụng 5-6 lần, đưa COD có thể lên tới 80.000
mg/l Trong thành phần nước thải của các công ty, nhà máy dệt – nhuộm
hiện nay, có khoảng 300- 400 mg/l COD (đã vượt tiêu chuẩn nước thải loại
B 3- 4 lần) dự đoán sẽ tăng lên mức 700- 800mg/l và có thể còn tăng hơn
nữa trong tương lai.
Nếu như tình hình ô nhiễm môi trường, trước hết là ô nhiễm nước thải
không được kiểm soát, thì các doanh nghiệp dệt- nhuộm phải đương đầu với
nhiều vấn đề nghiêm trọng, phải tốn rất nhiều kinh phí cho việc xử lý môi
trường, mới đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định về môi trường, cũng như
để phát triển sản xuất, xuất khẩu bền vững, đáp ứng các yêu cầu của tiêu
chuẩn “Eco friendly” về môi trường.
_Chi phí cho một đơn vị sản phẩm đều cao hơn từ 15-20% mặt hàng tương
tự của Trung Quốc, Bangladesh, Pakistan. Giới phân tích khẳng định, giá lao
động Việt Nam rẻ nhất khu vực châu Á, từ 0,16-0,35 USD/giờ (Indonesia là
0,32 USD/giờ, Trung Quốc 0,70 USD/giờ, Ấn Độ 0,58 USD/giờ...). Tuy
nhiên, năng suất lao động của ngành dệt may Việt Nam nói chung chỉ bằng
2/3 mức bình quân các nước ASEAN, chi phí nguyên phụ liệu (phần lớn
phải nhập khẩu) và khâu trung gian cao làm sản phẩm thiếu tính cạnh tranh.
- Mỹ hạn chế bằng quota từ giữa 2003. Mức tăng trưởng cao của Việt Nam
thời gian qua với trên 20 mã hàng vượt quá 1% tổng thị phần nhập khẩu
khiến Mỹ đưa ra yêu cầu xúc tiến đàm phán và hiện đã ký Hiệp định dệt may
với Việt Nam.
- EU là bạn hàng truyền thống, với khối lượng nhập khẩu hàng chỉ đứng sau
Mỹ. Song hai năm gần đây có xu thế sụt giảm.Năm 2002 chỉ còn 550 triệu
USD so với 660 triệu USD năm 2001. Riêng mặt hàng chủ lực là áo jacket,
năm qua giảm tới 3 triệu sản phẩm (còn gần 17 triệu sản phẩm).
- Nhật Bản: Hàng dệt may Trung Quốc hiện đang tràn ngập thị trường.
Trung Quốc chiếm gần 90% tổng trị giá hàng dệt may nhập khẩu vào Nhật
trong khi đó, Việt Nam chỉ chiếm 3-5%.
- Australia: Doanh nghiệp dệt may Việt Nam chưa khai thác được hết tiềm
năng, với mức xuất khẩu chỉ đạt 25 triệu USD (2002).
- Châu Á: Là thị trường lớn với GDP đạt trên 580 triệu và dân số là hơn 460
triệu người. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam vào các nước
ASEAN thậm chí chưa vươn tới mức 100 triệu USD.
_Thực tế, trong những năm qua, ngành dệt may của ta chủ yếu là gia công
hàng hóa và xuất khẩu qua nước thứ ba, nên hàm lượng giá trị gia tăng còn
thấp, thương hiệu sản phẩm dệt may chưa thực sự khẳng định được tên
tuổi.Thực sự thì ngành dệt may Việt Nam ngày càng có tỷ lệ hàm lượng nội
địa hóa cao. Nếu như năm 2003, tỷ lệ nội địa hóa mới đạt khoảng 30% thì
năm 2006 đã đạt gần 40%, đặc biệt là khâu sản xuất vải và phụ liệu. Cách
đây 2 năm, toàn bộ xơ sợi tổng hợp phải nhập khẩu 100%, nhưng từ năm
nay, chúng ta đã tự cung ứng được 50% nhu cầu xơ sợi tổng hợp. Trong khi
đó, chúng ta cũng đã có nhiều dự án sản xuất vải lớn, và có thể đáp ứng
được 30% nhu cầu vải của ngành. Tuy nhiên, để gia tăng tỷ lệ nội địa hóa thì
cần có một thời gian dài hơn. Hiện nay, Chính phủ, Bộ Công thương cũng
như Hiệp hội Dệt may Việt Nam đang có những chủ trương kêu gọi đầu tư
mạnh hơn vào việc sản xuất vải, phụ liệu tại Việt Nam.
_ Rào cản kỹ thuật vẫn đang là một vấn đề lớn đối với hàng dệt may xuất
khẩu.