Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
TỔNG KẾT KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG SÁCH GIÁO KHOA ĐỊA LÍ 9 
PHẦN “PHÁT TRIỂN TỔNG HỢP KINH TẾ VÀ BẢO VỆ 
TÀI NGUYÊN, MÔI TRƯỜNG BIỂN - ĐẢO”
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
 Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, đặc trưng của bộ môn Địa lí và yêu cầu đổi 
mới giáo dục cũng như thực tiễn dạy học bộ môn, việc biên soạn sách giáo khoa Địa 
lí có nhiều đổi mới về nội dung, cấu trúc, hình thức thể hiện so với trước đây. Sách 
giáo khoa Địa lí hiện nay được biên soạn không chỉ là tài liệu giảng dạy của giáo viên 
mà còn là tài liệu học tập ở lớp và ở nhà của học sinh theo định hướng đổi mới. Đó là 
học sinh không phải học thuộc lòng sách giáo khoa mà cần tìm tòi, nghiên cứu những 
sự vật hiện tượng địa lí có trong sách giáo khoa dưới sự tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ 
của giáo viên. Từ đó các em tự hình thành cho mình những hiểu biết về địa lí. Như 
vậy, sách giáo khoa là một nguồn thông tin để cho học sinh khai thác kiến thức. 
Tuy nhiên để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới phương pháp dạy học, 
giảm tính trừu tượng của các kiến thức và tăng cường rèn luyện kĩ năng địa lí cho học 
sinh trong quá trình học tập, số lượng kênh hình trong sách giáo khoa địa lý trung học 
cơ sở đã được tăng lên đáng kể. Các kênh hình này thay thế cho những sự vật, hiện 
tượng và các quá trình địa lý xảy ra trong thực tiễn mà giáo viên và học sinh không 
thể tiếp cận trực tiếp được. Hệ thống kênh hình trong sách giáo khoa địa lý trung học 
co sở rất đa dạng bao gồm các tranh ảnh, sơ đồ, lược đồ, biểu đồ, bảng số liệu…. Mỗi 
bài học thường có từ ba đến bốn hình vừa có tác dụng trực quan hoá các nội dung 
mang tính trừu tượng, vừa là nguồn cung cấp tri thức quan trọng, là cơ sơ ỷđể hình 
thành và rèn luyện các kĩ năng địa lí cho học sinh.
Là một giáo viên, trong những năm học vừa qua tôi đã được nhà trường phân 
công công tác giảng dạy bộ môn Địa lý 9. Qua thực tế giảng dạy, bản thân tôi thấy 
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
1
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
rằng việc sử dụng và khai thác các kênh hình trong sách giáo khoa Địa lý 9 để giảng 
dạy là rất quan trọng, giúp học sinh hiểu bài, tích cực và chủ động nắm kiến thức, có 
hứng thú học tập bộ môn. Đồng thời cũng tạo điều kiện cho giáo viên dễ dàng tổ chức 
các phương pháp dạy học nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình và sách giáo 
khoá mới môn địa lý hiện nay. 
Trái lại, trong các tiết học nếu giáo viên không sử dụng và khai thác các kênh 
hình trong sách giáo khoa hoặc nếu có nhưng chỉ ở mức độ sơ sài, đơn giản sẽ làm 
cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu kiến thức, đa số các em không hiểu bài và 
không có hứng thú học tập bộ môn. Các giờ học trở lên khô cứng và nhàm chán. Do 
đó không rèn luyện được các kĩ năng địa lý cơ bản cho học sinh. Hơn nữa, trong quá 
trình học tập đa số học sinh còn lúng túng trong việc khai thác kiến thức từ kênh hình 
trong sách giáo khoa để phục vụ cho việc học tập. 
Việc đổi mới nội dung, chương trình, và phương pháp biên soạn sách giáo 
khoa Địa lí như vậy đòi hỏi giáo viên và học sinh phải đổi mới phương pháp dạy và 
học. Trong đó giáo viên với tư cách là người tổ chức, hướng dẫn, phát huy tính tích 
cực, độc lập của học sinh trong quá trình học tập, cần nắm bắt được những nội dung 
chính của chuẩn kiến thức kĩ năng kết hợp sách giáo khoa nói chung và hệ thống 
kênh hình – một nguồn kiến thức quan trọng trong sách giáo khoa nói riêng. Trên cơ 
sở thực tiễn đó trong năm học 2011-2012 và năm học 2012 – 2013, tôi tiếp mạnh dạn 
đưa ra những kinh nghiệm sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 9 phần 
“Phát triển tổng hợp kinh tế và bảo vệ tài nguyên, môi trường biển – đảo”.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Những nguyên tắc, yêu cầu khi sử dụng và khai thác kênh hình trong dạy học 
môn địa lí.
1.1. Nguyên tắc khi sử dụng và khai thác kênh hình trong dạy học địa lí 
1.1.1. Nguyên tắc sử dụng đúng lúc:
 Sử dụng kênh hình vào lúc cần thiết, lúc học sinh mong muốn được quan sát 
trong trạng thái tâm lý thuận lợi nhất.
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
2
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
Kênh hình xuất hiện đúng lúc nội dung và phương pháp dạy học cần đến. 
Tránh đưa ra một lúc nhiều kênh hình hoặc nhiều loại phường tiện trực quan.
1.1.2. Nguyên tắc sử dụng đúng chỗ:
Tìm vị trí để giới thiệu kênh hình hoặc phương tiện trực quan trên lớp hợp lí 
nhất, giúp học sinh có thể sử dụng nhiều giác quan nhất, tiếp xúc phương tiện một 
cách đồng đều ở mọi vị trí trong lớp.
Đảm bảo cho toàn lớp được quan sát kênh hình một cách rõ ràng và không làm 
phân tán tư tưởng của học sinh khi tiến hành các hoạt động học tập tiếp theo.
1.1.3. Nguyên tắc sử dụng đủ cường độ:
Mỗi loại kênh hình có mức độ sử dụng tại lớp khác nhau. Nếu kéo dài sử dụng 
một loại phương tiện hoặc lặp đi lặp lại nhiều lần trong một buổi học hiệu quả của 
chúng sẽ giảm sút. 
 Việc sử dụng nhiều hình thức nhiều loại phương tiện khác nhau trong một buổi 
học có ảnh hưởng lớn đến sự tiếp thu của học sinh, đến hiệu quả sử dụng phương tiện 
dạy học.
Việc áp dụng thường xuyên các phương tiện nghe nhìn ở trên lớp sẽ dẫn đến sự 
quá tải thông tin đối với học sinh do chưa có đủ thời gian để chuyển hoá lượng thông 
tin đó. Sử dụng phương tiện nghe nhìn không quá 3 – 4 lần và kéo dài không quá 20 – 
25 phút trong một giờ dạy.
1.2. Yêu cầu khi sử dụng và khai thác kênh hình trong dạy học địa lí
Khi sử dụng kênh hình trong dạy học, giáo viên cần chú ý đảm bảo các yêu cầu 
sau:
Kênh hình phải được sử dụng có hiệu quả cao, đáp ứng các yêu cầu về nội 
dung và phương pháp được qui định trong chương trình giáo dục. 
Tập trung vào việc sử dụng các kênh hình như một nguồn kiến thức, hạn chế 
dùng chúng theo cách minh hoạ cho kiến thức.
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
3
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
Khi giáo viên lên lớp cần có kế hoạch chuẩn bị trước các kênh hình. Nghiên 
cứu kĩ các kênh hình để hiểu rõ nội dung, tác dụng của từng loại kênh hình, tránh tình 
trạng khi lên lớp mới cùng học sinh tiếp xúc các kênh hình.
Cần lựa chọn các nội dung mang tính thiết thực đối với nội dung bài học, đồng 
thời sử dụng tối đa các nội dung đã được thể hiện trên mỗi kênh hình.
Khi soạn bài cũng như lên lớp, giáo viên cần phải xây dựng được hệ thống các 
câu hỏi, bài tập tương đối chuẩn xác, rõ ràng để học sinh làm việc với các loại kênh 
hình nhằm lĩnh hội kiến thức, rèn luyện các kĩ năng địa lí.
Giáo viên cần giúp học sinh nắm được trình tự các bước làm việc với từng loại 
phương tiện, thiết bị dạy học để tìm kiến thức, rèn luyện kĩ năng, phát triển tư duy địa 
lý.
2. Sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 9 phần“ Phát triển tổng hợp 
kinh tế và bảo vệ tài nguyên, môi trường biển - đảo”.
2.1. Số lượng các kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 9 phần “ Phát triển tổng 
hợp kinh tế và bảo vệ tài nguyên, môi trường biển - đảo”.
Các kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 9, phần “ Phát triển tổng hợp kinh tế 
và bảo vệ tài nguyên, môi trường biển – đảo” nằm trong 3 bài học là bài 38, bài 39 và 
bài 40. Số lượng kênh hình trong các bài học trên cụ thể như sau:
Loại kênh hình Số lượng
Tranh ảnh 2 ( hình 38.4, hình 39.1)
Sơ đồ 2 ( hình 38.1, hình 38.2)
Lược đồ 2 ( hình 38.2, hình 39.2)
Biểu đồ 1 ( hình 40.2 )
Bảng thống kê 1 (bảng 40.1b)
Như vậy, mặc dù chỉ có 3 bài học về “ Phát triển tổng hợp kinh tế và bảo vệ tài 
nguyên, môi trường biển – đảo” nhưng các kênh hình rất đa dạng, bao gồm nhiều loại 
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
4
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
như tranh ảnh, sơ đồ, lược đồ, biểu đồ, bảng thống kê… đòi hỏi giáo viên khi sử dụng 
trong dạy học phải linh hoạt, sáng tạo.
2.2. Một số kinh nghiệm sử dụng kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 9 phần “ 
Phát triển tổng hợp kinh tế và bảo vệ tài nguyên, môi trường biển – đảo”.
Mỗi loại kênh hình có một phương pháp sử dụng riêng. Song tự chúng lại có 
thể sử dụng trong trình bày kiến thức mới, củng cố kiến thức đã học, ra bài tập về nhà 
và trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Trong qúa trình dạy học, giáo viên cần chú trọng nghiên cứu nội dung của các 
kênh hình để lựa chọn, xây dựng hệ thống các câu hỏi và bài tập kết hợp với sử dụng 
các phương pháp dạy học khác nhau như nêu vấn đề, phân tích, giải thích, so sánh, 
thảo luận nhóm… tạo điều kiện cho học sinh làm việc với kênh hình tìm kiến thức, 
rèn luyện kĩ năng địa lý.
Vì vậy, trong mỗi bài học đối với mỗi loại kênh hình khác nhau, trước hết tôi 
giới thiệu về nội dung của kênh hình và sau đó đưa ra phương pháp sử dụng chúng 
với việc trình bày những kinh nghiệm sử dụng trong quá trình dạy học ở trên lớp. 
Bài 38–PHÁT TRIỂN TỔNG HỢP KINH TẾ
VÀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN, MÔI TRƯỜNG BIỂN – ĐẢO
Hình 38.1 – Sơ đồ cắt ngang vùng biển Việt Nam.
Nội dung: 
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
5
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
Qua sơ đồ cho thấy vùng biển của nước ta bao gồm các vùng nội thuỷ, lãnh 
hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa. Ngày 12 – 11 
– 1982, Chính phủ ta tuyên bố đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt 
Nam. Theo đó các bộ phận của vùng biển nước ta quy định như sau:
Nội thủy là vùng nước nằm ở phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển. 
Đường cơ sở là đường nối liền các điểm nhô ra nhất của bờ biển và các điểm ngoài 
cùng của các đảo ven bờ tính từ ngấn nước thuỷ triều thấp nhất trở ra.
Lãnh hải nước ta có chiều rộng 12 hải lí. Ranh giới phía ngoài cùng của lãnh 
hải được coi là biên giới quốc gia trên biển; trên thực tế, đó là đường song song và 
cách đều đường cơ sở về phía biển 12 hải lí.
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển được quy định nhằm bảo đảm cho việc 
thực hiện chủ quyền đất nước. Vùng tiếp giáp lãnh hải cũng được quy định là 12 hải 
lí. Trong vùng này, nước ta có quyền thực hiện các biện pháp để bảo vệ an ninh, kiểm 
soát thuế quan, các quy định về y tế, môi trường, di cư, nhập cư…
Vùng đặc quyền kinh tế biển tiếp liền lãnh hải và hợp với lãnh hải thành một 
vùng biển có chiều rộng 200 hải lí, tính từ đường cơ sở. Ở vùng này, nước ta có chủ 
quyền hoàn toàn về kinh tế nhưng vẫn để nước khác được đặt các ống dẫn dầu, dây 
cáp ngầm, tàu thuyền, máy bay của nước ngoài được tự do về hàng hải và hàng không 
như Công ước quốc tế về Luật biển quy định.
Thềm lục địa nước ta gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo 
dài tự nhiên của lục địa Việt Nam, mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ 
ngoài của rìa lục địa. Nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở không đến 
200 hải lí thì thềm lục địa nơi ấy được tính cho đến 200 hải lí. Nước ta có chủ quyền 
hoàn toàn về mặt thăm dò và khai thác, bảo vệ và quản lí các tài nguyên thiên nhiên ở 
thềm lục địa Việt Nam. 
Phương pháp sử dụng: 
Hình 38.1 được sử dụng khi dạy mục I, ý 1- Vùng biển nước ta. Để thuận tiện 
cho việc học sinh quan sát, giáo viên có thể vẽ phóng to sơ đồ ra giấy khổ lớn. Trước 
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
6
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
hết, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình vẽ và giới thiệu đây là sơ đồ cắt ngang 
vùng biển nước ta. Sau đó đặt câu hỏi gợi mở: Quan sát hình 38.1, em hãy kể tên các 
bộ phận của vùng biển nước? Hãy nêu giới hạn từng bộ của vùng biển nước ta? Sau 
khi học sinh trả lời, giáo viên chốt lại kiến thức với nội dung như trên. Giáo viên có 
thể cho học sinh quan sát thêm lược đồ hình 38.2, để hiểu thêm về đường cơ sở trong 
vùng biển của nước ta và đi đến kết luận: Nước ta là quốc gia có đường bờ biển dài 
và vùng biển rộng.
Hình 38.2 – Lược đồ một số đảo và quần đảo Việt Nam.
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
7
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
Nội dung: 
Lược đồ có vai trò cung cấp cho học sinh những kiến thức về các đảo và quần 
đảo trong vùng biển của nước ta. Để từ đó các em hiểu được rằng vùng biển nước ta 
không những rộng mà còn có rất nhiều đảo, quần đảo có giá trị kinh tế và an ninh 
quốc phòng.
Việt Nam có khoảng hơn 4000 đảo lớn nhỏ, được chia thành các đảo ven bờ và 
các đảo xa bờ. Hệ thống các đảo ven bờ có khoảng 2800 hòn đảo với tổng diện tích 
khoảng 1720 km
2
, phân bố tập trung nhiều nhất ở vùng biển của các tỉnh: Quảng 
Ninh, Hải Phòng, Khánh Hoà, Kiên Giang. Vùng biển Nam Bộ tuy có số lượng đảo 
không nhiều nhưng diện tích các đảo lại khá lớn.
Một số đảo ven bờ có diện tích khá lớn như Phú Quốc (567 km
2
), Cát Bà 
(khoảng 100 km
2
) và số dân khá đông như Phú Quốc, Cái Bầu, Phú Quý, Lý Sơn, Cát 
Bà, Côn Đảo… Còn lại phần lớn là các đảo nhỏ hoặc rất nhỏ, không có dân sống 
thường xuyên.
Các đảo xa bờ gồm đảo Bạch Long Vĩ, Phú Quý và hai quần đảo Hoàng Sa, 
Trường Sa, thuộc chủ quyền nước ta từ lâu đời. Huyện đảo Hoàng Sa thuộc thành phố 
Đà Nẵng và huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hoà.
Quần đảo Hoàng Sa nằm trong khoảng kinh độ 111
0
 – 113
0 
Đ và vĩ độ 15
0
45’ – 
17
0
15’B, ngang với vĩ độ của Huế và Đà Nẵng. Quần đảo Hoàng Sa gồm trên 30 hòn 
đảo nằm rải rác trong một vùng biển rộng khoảng 15 nghìn km
2
.
Quần đảo Trường Sa nằm trong khoảng kinh độ 111
0
20’ – 117
0
20’Đ và vĩ độ 
6
0
50’ – 12
0 
B. Quần đảo Trường Sa gồm khoảng 100 hòn đảo, đá, cồn san hô và bãi 
san hô nằm rãi rác trong vùng biển rộng khoảng 160.000 – 180.000 km
2
, trong đó có 
23 hòn đảo, đá, cồn, thường xuyên nhô khỏi mặt nước với diện tích tổng cộng khoảng 
10 km
2
.
Phương pháp sử dụng: 
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
8
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
Hình 38.2 được sử dụng khi dạy mục I, ý 2 – Các đảo và quần đảo. Giáo viên 
yêu cầu học sinh quan sát Bản đồ Biển – đảo Việt Nam kết hợp với lược đồ 38.2, tìm 
các đảo và quần đảo trong vùng biển nước ta? Xác định trên bản đồ vị trí các đảo ven 
bờ, xa bờ, các quần đảo xa bờ? Vùng biển những tỉnh nào của nước ta có nhiều đảo 
và quần đảo? Sau khi học sinh trả lời, giáo viên chốt lại nội dung như trên đoạn từ 
“Việt Nam có khoảng 4000 đảo…thuộc tỉnh Khánh Hoà” và kết luận: Vùng biển 
nước ta có nhiều đảo lớn, nhỏ, có những đảo nằm ven bờ và có những đảo nằm xa bờ.
Tiếp theo, giáo viên đặt câu hỏi: Nêu ý nghĩa của vùng biển – đảo nước ta 
trong phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ an ninh quốc phòng? Giáo viên có thể nói 
thêm vấn đề an ninh quốc phòng trong vùng biển, vị trí chiến lược của quần đảo 
Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, hậu quả sự ấm lên của khí hậu toàn cầu làm cho 
nước biển dâng cao có nguy cơ nhấn chìm nhiều vùng đất ven biển như nước ta. Qua 
đó nhằm giáo dục cho học sinh có ý thức và trách nhiệm trong vấn đề bảo vệ an ninh 
chủ quyền vùng biển và bảo vệ tài nguyên, môi trường biển – đảo.
Hình 38.3- Sơ đồ các ngành kinh tế biển ở nước ta.
CÁC NGÀNH KINH TẾ BIỂN
Khai thác, nuôi 
trồng và chế biến 
hải sản
Du lịch biển – đảo Khai thác và chế 
biến khoáng sản 
biển
Giao thông vận tải 
biển
Nội dung: 
Qua sơ đồ giúp học sinh hiểu được các ngành kinh tế biển chủ yếu của nước ta 
bao gồm: Khai thác, nuôi trồng và chế biến hải sản; Du lịch biển – đảo; Khai thác và 
chế biến khoáng sản biển; Giao thông vận tải biển. Như vậy, phát triển tổng hợp kinh 
tế biển là sự phát triển nhiều ngành kinh tế biển nói trên, giữa các ngành có mối quan 
hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau để cùng phát triển và sự phát triển của một ngành không 
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
9
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
được kĩm hãm hoặc gây thiệt hại cho các ngành khác. Phát triển kinh tế biển cũng 
phải mang tính bền vững, phát triển trong hiện tại mà không làm tổn hại đến lợi ích 
của thế hệ mai sau, phát triển phải gắn với việc bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên 
nhiên biển – đảo.
Phương pháp sử dụng: 
Hình 38.3 được sử dụng khi dạy mục II – Phát triển tổng hợp kinh tế biển. 
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình 38.3, kể tên các ngành kinh tế biển chủ yếu 
của nước ta? Sau đó chia lớp thành nhóm nhỏ, mỗi nhóm thảo luận để tìm ra những ví 
dụ về điều kiện thuận lợi phát triển một ngành kinh tế biển. Đại diện các nhóm trình 
bày kết quả của nhóm mình, nhận xét bổ sung cho nhau, giáo viên đánh giá và chuẩn 
xác lại kiến thức cho học sinh. Cuối cùng, giáo viên giải thích khái niệm “ phát triển 
tổng hợp và phát triển bền vững kinh tế biển” rồi rút ra kết luận: Nguồn tài nguyên 
biển – đảo phong phú tạo điều kiện thuận lợi để phát triển tổng hợp kinh tế biển.
Hình 38.4 – Cảng cá Rạch Giá, Kiên Giang. 
Nội dung: 
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
10
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
Đây là bức ảnh chụp một cảng cá tại Rạch Giá (Kiên Giang). Nhìn vào bức 
ảnh, chúng ta thấy cảng cá hoạt động rất nhộn nhịp với nhiều tàu thuyền đánh bắt cá 
các loại. Sau nhiều ngày đánh bắt cá tôm trên biển, tàu thuyền được tập trung về 
cảng, ngư dân đang rất bận rộn đưa cá, tôm… lên bờ để tiêu thụ khắp nơi và tiếp tục 
chuẩn bị cho chuyến ra khơi mới. Tuy nhiên các tàu thuyền ở đây phần lớn có công 
xuất nhỏ, chủ yếu dùng để đánh bắt ven bờ. Do đó, cần phải hiện đại hoá đội tàu biển 
với công xuất lớn, để đẩy mạnh đánh bắt xa bờ. 
Phương pháp sử dụng: 
Giáo viên sử dụng bức ảnh này chủ yếu để minh hoạ cho kiến thức về hoạt 
động của ngành khai thác hải sản, khi giảng dạy mục II, ý 1 – Khai thác, nuôi trồng 
và chế biến hải sản. Giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh và miêu tả về hoạt 
động của cảng cá với nội dung như trên. Sau đó đặt vấn đề: Tại sao cần phải ưu tiên 
phát triển khai thác hải sản xa bờ? Phương hướng phát triển của ngành thuỷ sản là gì? 
Giáo viên kết luận: Khai thác hải sản ven bờ đã vượt quá mức cho phép dẫn 
đến kiệt quệ, suy giảm nguồn lợi hải sản. Trong khi đó đánh bắt xa bờ chỉ bằng 1/5 
khả năng cho phép, chưa khai tác hết tiềm năng cho phép. Do đó, ngành thuỷ sản 
đang ưu tiên phát triển khai thác hải sản xa bờ, đẩy mạnh nuôi trồng hải sản trên biển, 
ven biển và ven các đảo, phát triển đồng bộ và hiện đại công nghiệp chế biến hải sản.
Bài 39 –PHÁT TRIỂN TỔNG HỢP KINH TẾ 
VÀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN, MÔI TRƯỜNG BIỂN – ĐẢO 
 (tiếp theo)
Hình 39.1 – Sản xuất muối ở Cà Ná, Ninh Thuận.
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
11
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
Nội dung: 
Đây là bức ảnh chụp cánh đồng muối nổi tiếng nước ta ở Cà Ná, Ninh Thuận. 
Nhìn vào bức ảnh, ta thấy trên các ruộng muối, người dân đang tiến hành thu gom 
những hạt muối trắng thành những đống nhỏ, rồi gánh muối đổ thành những bãi muối 
lớn ở phía trên. Người dân cho đào các con mương nhỏ dẫn nước biển vào các ruộng 
muối, ánh nắng mặt trời làm cho nước biển bốc hơi, muối dần dần kết tinh, tới chiều 
người ta dùng các nạo sắt nạo lấy lớp muối. Sau khi thu được muối thô, người ta tiến 
hành các công nghệ làm tinh để nâng cao độ tinh khiết thành muối sử dụng hằng 
ngày.
Phương pháp sử dụng: 
Hình 39.1 sử dụng để dạy mục 3 – Khai thác và chế biến khoáng sản biển. 
Trước hết, giáo viên yêu cầu học sinh kể tên một số loại khoáng sản chính ở vùng 
biển nước ta? Sau đó cho học sinh xem hình 39.1, giới thiệu nội dung bức ảnh và quy 
trình sản xuất muối của địa phương. 
Tiếp theo, giáo viên yêu cầu học sinh xác định các bãi muối nổi tiếng của nước 
ta trên hình 39.2.Qua đó, các em thấy được rằng nghề làm muối phát triển mạnh ở 
ven biển Nam Trung Bộ. Giáo viên dặt vấn đề: Tại sao nghề làm muối phát triển 
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
12
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
mạnh ở ven biển Nam Trung Bộ? Giáo viên kết luận về tiềm năng phát triển ngành 
khai thác và chế biến khoáng sản biển.
Hình 39.2 – Lược đồ tiềm năng một số ngành kinh tế biển.
Nội dung: 
Lược đồ có vai trò cung cấp cho học sinh những kiến thức về tiềm năng phát 
triển một số ngành kinh tế biển của nước ta. Cụ thể như sau:
Ngành đánh bắt và nuôi trồng hải sản có tiềm năng rất lớn: Bờ biển dài 3260 
km, với vùng biển đặc quyền về kinh tế rộng hơn 1 triệu km
2
. Có rất nhiều bãi tôm, 
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
13
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
bãi cá với số lượng giống loài hải sản lớn, trong đó có một số loài có giá trị kinh tế 
cao. Bốn ngư trường trọng điểm của nước ta là ngư trường Hải Phòng – Quảng Ninh, 
ngư trường Ninh Thuận – Bình Thuận – Bà Rịa Vũng Tàu, ngư trường quần đảo 
Hoàng Sa - Trường Sa, ngư trường Cà Mau – Kiên Giang. Dọc bờ biển nước ta có 
những bãi triều, đầm phá, các dải rừng ngập mặn. Đó là khu vực thuận lợi cho nuôi 
trồng thuỷ sản nước lợ. Ở nhiều vùng biển ven các đảo, vũng, vịnh, có điều kiện 
thuận lợi cho nuôi trồng thuỷ sản nước mặn (nuôi trên biển).
Tiềm năng phát triển ngành du lịch biển – đảo: Việt Nam có nguồn tài nguyên 
du lịch biển – đảo phong phú. Dọc bờ biển nước ta suốt từ Bắc vào Nam có trên 120 
bãi cát rộng, dài, phong cảnh đẹp, thuận lợi cho việc xây dựng các khu du lịch và 
nghỉ dưỡng. Các bãi tắm đẹp nổi tiếng cả nước là: Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cửa Lò, Thiên 
Cầm, Nhật Lệ, Lăng Cô, Non Nước, Quy Nhơn, Nha Trang, Mũi Né, Vũng Tàu… 
Nhiều đảo ven bờ có phong cảnh kì thú, hấp dẫn khách du lịch như Cát Bà, Côn Đảo, 
Phú Quốc… đặc biệt vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản thiên 
nhiên thế giới và đã được bình chọn là một trong bảy kì quan thiên nhiên của thế giới. 
Một số trung tâm du lịch biển thu hút khách du lịch trong và ngoài nước như Nha 
Trang, Vũng Tàu…
Tiềm năng phát triển ngành khai thác và chế biến khoáng sản biển: Các khoáng 
sản chính của vùng biển nước ta là muối, titan, cát trắng đặc biệt là dầu khí. Biển 
nước ta là nguồn muối vô tận. Nghề làm muối được phát triển từ lâu đời ở nhiều vùng 
ven biển từ Bắc vào Nam, đặc biệt là ven biển Nam Trung Bộ như Sa Huỳnh (Quãng 
Ngãi), Cà Ná (Ninh Thuận). Dọc bờ biển có nhiều bãi cát chứa ôxit titan có giá trị 
xuất khẩu như Hà Tĩnh, Quy Nhơn…Cát trắng là nguyên liệu cho công nghiệp thuỷ 
tinh, pha lê có nhiều ở đảo Vân Hải (Quảng Ninh) và Cam Ranh (Khánh Hoà). Các 
mỏ dầu khí hiện nay được phát hiện và khai thác chủ yếu ở vùng thềm lục địa phía 
nam. Hàng trăm triệu tấn dầu và hàng tỉ mét khối khí đã được khai thác. Dầu thô là 
một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta hiện nay. Các mỏ dầu đang 
khai thác là Hồng Ngọc, Rạng Đông, Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng… Các mỏ khí là Lan 
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
14
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
Tây, Lan Đỏ… Dầu khí là ngành kinh tế biển mũi nhọn, chiếm vị trí hàng đầu trong 
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tiềm năng phát triển ngành giao thông vận tải biển: Nước ta nằm gần nhiều 
tuyến đường biển quốc tế quan trọng. Ven biển có nhiều vũng, vịnh có thể xây dựng 
cảng nước sâu, một số cửa sông cũng thuận lợi cho việc xây dựng cảng. Những điều 
kiện trên cho phép chúng ta phát triển giao thông đường biển giữa các địa phương 
ven biển với nhau, cũng như giữa nước ta với các nước khác. Hiện cả nước có hơn 90 
cảng biển lớn nhỏ, các cảng biển chính dọc từ Bắc vào Nam là Cửa ông, Cái Lân, Hải 
Phòng, Cửa Lò, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, Phan Thiết, Sài Gòn…
Trong đó, có 3 cảng biển quốc tế là Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn. Các tuyến 
vận tải ven biển chính là Hải Phòng – Cửa Lò, Hải Phòng – Đà Nẵng, Hải Phòng – 
Sài Gòn, Cửa Lò – Đà Nẵng, Đà Nẵng – Quy Nhơn, Quy Nhơn – Sài Gòn… Các 
tuyến vận tải biển quốc tế chính là Hải Phòng đi Hồng Kông, Tôkiô, Vlađivôxtốc, 
Mannila, Xingapo; Sài Gòn đi Hồng Kông, Vlađivôxtốc, Băng Cốc, Xihanúcvin…
Phương pháp sử dụng:
Hình 39.2 được sử dụng ở mục II – Phát triển tổng hợp kinh tế biển, khi 
giảng về tiềm năng phát triển của mỗi ngành kinh tế biển. Giáo viên yêu cầu học sinh 
quan sát Bản đồ kinh tế chung Việt Nam kết hợp xem hình 39.2 và đặt vấn đề:
- Trình bày tiềm năng phát triển của ngành đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản? 
(Cho học sinh trình bày trên bản đồ)
- Trình bày tiềm năng phát triển ngành du lịch biển – đảo? Xác định trên bản 
đồ các bãi tắm nổi tiếng của nước ta?
- Tìm trên hình 39.2, các khoáng sản chính của vùng biển nước ta? (Yêu cầu 
học sinh xác định nơi có các loại khoáng sản đó)
- Tìm trên hình 39.2 một số cảng biển và tuyến giao thông đường biển của 
nước ta? Việc phát triển giao thông vận tải biển có ý nghĩa như thế nào đối với ngành 
ngoại thương ở nước ta?
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
15
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
Giáo viên cũng nên sử dụng thêm tranh ảnh để minh hoạ cho nội dung bài học. 
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên cần chốt lại những kiến thức cơ bản về tiềm năng 
phát triển kinh tế biển của mỗi ngành với nội dung như trên. Đặc biệt với những địa 
phương có biển, giáo viên có thể yêu cầu học sinh lấy dẫn chứng đẻ minh hoạ cho tiết 
học thêm sinh động. 
Bài 40 –THỰC HÀNH
ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG KINH TẾ CỦA CÁC ĐẢO VEN BỜ
VÀ TÌM HIỂU VỀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ
Bảng 40.1 – Tiềm năng kinh tế của một số đảo ven bờ.
Các hoạt động Các đảo có điều kiện thích hợp
Nông, lâm nghiệp Cát Bà, Lý Sơn, Côn Đảo, Phú Quốc, Phú Quý.
Ngư nghiệp Cô Tô, Cái Bầu, Cát Bà, Cù Lao Chàm, Phú Quý, Lý 
Sơn, Côn Đảo, Hòn Khoai, Thổ Chu, Hòn Rái, Phú 
Quốc.
Du lịch Các đảo trong vịnh Hạ Long và vịnh Nha Trang, Cát Bà, 
Côn Đảo, Phú Quốc…
Dịch vụ biển Cái Bầu, Cát Bà, Trà Bản, Phú Quý, Côn Đảo, Hòn 
Khoai, Thổ Chu, Phú Quốc.
Nội dung: 
Bảng thống kê cung cấp cho học sinh hiểu được tiềm năng phát triển kinh tế 
của một số đảo ven bờ ở vùng biển nước ta. Qua đó giúp học sinh củng cố và nắm 
vững kiến thức về phát triển tổng hợp hinh tế biển. Cụ thể như sau:
- Các đảo có điều kiện thích hợp phát triển ngành nông, lâm nghiệp là Cát Bà, 
Lý Sơn, Côn Đảo, Phú Quốc, Phú Quý.
- Các đảo có điều kiện thích hợp phát triển ngành ngư nghiệp là Cô Tô, Cái Bầu, 
Cát Bà, Cù Lao Chàm, Phú Quý, Lý Sơn, Côn Đảo, Hòn Khoai, Thổ Chu, Hòn Rái, 
Phú Quốc.
- Các đảo có điều kiện thích hợp phát triển ngành du lịch là các đảo trong vịnh 
Hạ Long và vịnh Nha Trang, Cát Bà Côn Đảo, Phú Quốc…
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
16
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
- Các đảo có điều kiện thích hợp phát triển dịch vụ biển là Cái Bầu, Cát Bà, Phú 
Quý, Côn Đảo, Hòn Khoai, Thổ Chu, Phú Quốc.
Phương pháp sử dụng: 
Bảng 40.1 được sử dụng khi dạy mục 1 – Đánh giá tiềm năng kinh tế của các 
đảo ven bờ. Trước hết giáo viên yêu cầu học sinh đọc thông tin trong bảng để hiểu rõ 
tiềm năng phát triển kinh tế của các đảo và nhắc lại khái niệm “ phát triển tổng hợp 
kinh tế biển”. Sau đó đặt câu hỏi: Dựa vào bảng 40.1, hãy cho biết những đảo có điều 
kiện thích hợp nhất để phát triển tổng hợp các ngành kinh tế biển? 
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên yêu cầu các em xác định các đảo vừa tìm 
được trên bản đồ, cho biết thuộc tỉnh, thành phố nào? Điều quan trọng là học sinh 
phải nêu điều kiện phát triển tổng hợp kinh tế biển của từng đảo dựa vào bản đồ. Các 
đảo có điều kiện thích hợp nhất để phát triển tổng hợp các ngành kinh tế biển là:
+ Cát Bà: Nông – lâm nghiệp, ngư nghiệp, du lịch, dịch vụ biển.
+ Côn Đảo: Nông – lâm nghiệp, ngư nghiệp, du lịch, dịch vụ biển.
+ Phú Quốc: Nông – lâm nghiệp, ngư nghiệp, du lịch, dịch vụ biển.
Hình 40.1 – Biểu đồ sản lượng dầu thô khai thác, dầu thô xuất khẩu và xăng dầu 
nhập khẩu của nước ta giai đoạn 1999 – 2003.
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
17
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
Nội dung: 
Biểu đồ có vai trò cung cấp cho học sinh kiến thức về tình hình khai thác, xuất 
khẩu dầu thô, nhập khẩu xăng dầu và chế biến dầu khí nước ta giai đoan 1999 -2003. 
Nước ta có trữ lượng dầu khí lớn và dầu mỏ là một trong những mặt hàng xuất khẩu 
chủ lực trong những năm qua. 
Từ năm 1999 đến năm 2003, sản lượng dầu thô khai thác không ngừng tăng từ 
15, 2 triệu tấn lên 16, 9 triiêụ tấn. Tuy nhiên, hầu như toàn bộ lượng dầu khai thác 
được xuất khẩu dưới dạng thô. Năm 1999, sản lượng dầu thô khai thác là 15, 2 triệu 
tấn, chúng ta xuất khẩu dầu thô là 14, 9 triệu tấn. Đặc biệt năm 2002, khai thác dầu 
thô là 16, 9 triệu tấn thì xuất khẩu cũng là 16, 9 triệu tấn. Điều này cho thấy công 
nghiệp chế biến dầu khí chưa phát triển. Đây là một điểm yếu của ngành công nghiệp 
dầu khí nước ta. Trong khi xuất khẩu dầu thô thì nước ta vẫn phải nhập lượng xăng 
dầu đã chế biến với số lượng ngày càng nhiều. Năm 1999, nhập khẩu xăng dầu là 7, 4 
triệu tấn đến năm 2002 tăng lên 10 triệu tấn. Mặc dù lượng dầu thô xuất khẩu hằng 
năm lớn gấp hai lần lượng xăng dầu nhập khẩu nhưng giá xăng dầu đã chế biến lớn 
hơn nhiều so với giá dầu thô.
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
18
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
Phương pháp sử dụng: 
Hình 40.1 được sử dụng khi dạy mục 2 – Tìm hiểu về ngành công nghiệp dầu 
khí. Trước hết, giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại tiềm năng phát triển ngành dầu 
khí nước ta. Sau đó cho học sinh quan sát hình 40.1 và hướng dẫn các em phân tích 
biểu đồ: phân tích diễn biến của từng đối tượng qua các năm, rồi phân tích mối quan 
hệ giữa các đối tượng. 
Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm nhỏ theo yêu cầu của bài 
tập: Quan sát hình 40.1, hãy nhận xét tình hình khai thác, xuất khẩu dầu thô, nhập 
khẩu xăng dầu và chế biến dầu khí ở nước ta giai đoạn 1999 -2003? Các nhóm thảo 
luận, cử đại diện trả lời, các nhóm khác bổ sung và giáo viên chuẩn xác kiến thức cho 
học sinh theo nội dung như trên. Giáo viên có thể đặt thêm vấn đề cho học sinh suy 
nghĩ: Tại sao ngành công nghiệp dầu khí ở nước ta chưa phát triển? Các phương 
hướng chính để thúc đẩy sự phát triển của ngành là gì? 
Giáo viên cũng cần bổ sung thêm thông tin: Năm 2009, chúng ta đã đưa vào 
vận hành nhà máy lọc dầu Dung Quất (Quãng Ngãi) cùng với việc sắp sửa hoàn thành 
nhà máy lọc Nghi Sơn (Thanh Hoá) và Bình Sơn (Bà Rịa Vũng Tàu) sẽ đáp ứng 
khoảng 60% nhu cầu xăng dầu trong nước, góp phần đưa ngành công nghiệp dầu khí 
phát triển. 
III. KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Dạy học phần “ Phát triển tổng hợp kinh tế và bảo vệ tài nguyên, môi trường 
biển – đảo” có nhiều kênh hình với vai trò bổ sung cho kênh chữ, thậm chí có những 
kênh hình thay thế kênh chữ hoàn toàn. Vì vậy tổ chức cho học sinh khai thác các tri 
thức địa lí qua kênh hình là rất cần thiết nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và 
sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập có hiệu quả.
Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi trong việc sử dụng và khai thác kênh 
hình trong sách giáo khoa Địa lí 9 phần “ Phát triển tổng hợp kinh tế và bảo vệ tài 
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
19
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
nguyên, môi trường biển - đảo”. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các kinh 
nghiệm đó và đạt nhiều kết quả. Đa số các em hiểu bài, nắm vững kiến thức cơ bản 
của bài học và có hứng thú học tập bộ môn, tiết học trở nên sôi nổi hơn, không khô 
cứng nhàm chán. Đồng thời cũng tạo điều kiện cho giáo viên đi đúng trọng tâm của 
bài dạy, dễ dàng tổ chức các phương pháp dạy học và đánh giá, kiểm tra học sinh. 
Tuy nhiên để việc sử dụng và khai thác kênh hình trong sách giáo khoa Địa lí 9 
nói chung và trong sách giáo khoa Địa lí trung học cơ sở nói chung để đạt được hiệu 
quả cao ngoài việc thực hiện những yêu cầu của đề tài, tôi đề xuất một số ý kiến như 
sau:
1. Giáo viên phải triệt để thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học địa lí 
theo tinh thần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
2. Sử dụng và khai thác tối đa các kênh hình có trong sách giáo khoa và phù 
hợp với đối tượng học sinh. Điều đó đòi hỏi mỗi giáo viên phải có sự đầu tư vào bài 
soạn, tích cực học tập và rèn luyện thêm để nâng cao khả năng sư phạm của mình.
3. Thường xuyên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy của đồng nghiệp 
thông qua những tiết dự giờ, thực tập ở trường hoặc thao giảng liên trường, những tiết 
dạy mẫu… do ngành tổ chức.
4. Tăng cường công tác viết sáng kiến kinh nghiệm và phổ biến những cải tiến, 
sáng kiến kinh nghiệm hay, áp dụng những kinh nghiệm đó và thực tế giảng dạy. 
 Những kinh nghiệm trên của tôi không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong 
được sự đóng góp ý kiến của quý thầy (cô) giáo và các bạn đồng nghiệp để bản sáng 
kiến được hoàn thiện hơn. 
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
20
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho GV THCS chu kì III 
(2004 – 2007), Môn Địa lí, Quyển1, NXB Giáo dục, 2004.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho GV THCS chu kì III 
(2004 – 2007), Môn Địa lí, Quyển2, NXB Giáo dục, 2004.
3. Đặng Văn Đức – Nguyễn Thu Hằng, Phương pháp dạy học địa lí theo hướng tích 
cực, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2003.
4. Đặng Văn Đức, Lý luận dạy học địa lí (Phần đại cương), NXB Đại học Sư phạm 
Hà Nội, 2005.
5. Trần Bá Hoành, Định hướng đổi mới phương pháp dạy học, Tài liệu bồi dưỡng 
giáo viên, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2000.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo, SGK Địa lí 9, NXB Giáo dục, 2005
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo, SGV Địa lí 9, NXB Giáo dục, 2005
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
21
Trường THCS Phù Đổng Tổ Xã Hội
Giáo viên: Trần Quốc Huy Năm học: 2012-2013 
22