Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Nhà đầu tư bảo vệ mình như thế nào trên thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.55 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

BÁO CÁO LÀM VIỆC NHÓM
Đề tài: Nhà đầu tư bảo vệ mình như thế nào trên thị trường chứng khoán?

Nhóm thực hiện: Nhóm 8
Trưởng nhóm: Đinh Thị Lệ Xuân
Lớp: QH2008E-TCNH
Môn học: Quản trị rủi ro tài chính.
Hà Nội, tháng 3 năm 2012
A. Thị trường chứng khoán- diễn biến và dự báo
I. Thực trạng TTCK 3 tháng đầu năm 2012:
Diễn biến thực tế từ đầu năm đến nay đã chứng tỏ thị trường chứng khoán đã có sự
khởi sắc về nhiều mặt so với 2 năm 2010-2011. Nếu năm 2010, VN-Index giảm
2,04%, năm 2011 giảm tiếp 27,54%, thì chỉ trong 2 tháng đầu năm 2012 đã tăng
20,5% (nếu tính đến 2/3 đã tăng tới 25%, cao gấp gần 2 lần lãi suất tiết kiệm trong
thời gian tương ứng)
Xét Chỉ số VN-index 3 tháng đầu năm
Chỉ số Vn-index 3 tháng đầu năm 2012. (Nguồn: www.vndirect.com.vn)
Hai tuần giao dịch đầu tháng 3/2012 đã khép lại sau hơn hai tháng phục hồi của
TTCK trong tâm lý hưng phấn của nhà đầu tư. Trước làn sóng tranh mua cổ phiếu
bằng mọi giá, các ngưỡng kháng cự của Vn-index từ 420 điểm rồi 440 điểm đều dễ
dàng bị phá vỡ, trước khi tăng kịch vào 5/3/2102 với 458.55 điểm và giảm nhẹ vào
tuần này (6-13/3/2012).
Xu thế tăng điểm của thị trường đã được khẳng định một cách vững chắc với thanh
khoản không ngừng gia tăng. Những kỷ lục về mức độ thanh khoản trên cả hai sàn
HSX và HNX lại được xác lập: bình quân có tới hơn 154 triệu cổ phiếu được giao
dịch mỗi phiên trong tuần.
Các cổ phiếu ngân hàng tiếp tục là tâm điểm dẫn dắt cho xu thế đi lên của thị


trường với các phiên tăng trần liên tục và có dư mua giá trần lên tới hàng triệu đơn
vị. Đồng thời, nếu căn cứ trên mức tăng của VNIndex là 30% thì tốc độ tăng giá
của các mã ngân hàng là rất ấn tượng: dẫn đầu là SHB (65%), HBB (58%), MBB
(51%), CTG, EIB, VCB đều tăng trên 40%, ACB, STB cũng tăng trên 30%.
TTCK đã hình thành phong trào mua các cổ phiếu thuộc diện nằm trong nguy cơ bị
thâu tóm, sáp nhập. Do vậy, sức cầu của những cổ phiếu này một phần từ các nhà
đầu cơ ngắn hạn tranh thủ lướt sóng kiếm lời hoặc từ bản thân các cổ đông nội bộ
buộc phải mua vào nhằm đối phó với áp lực có thể bị mất quyền kiểm soát Cty.
So sánh diễn biến thị trường 3 tháng đầu 2012 với 3 tháng cuối năm 2011:
Trong khi 3 tháng cuối năm 2011, TTCK là một kênh bỏ vốn cực kỳ rủi ro, với sự
ảm đạm và giảm điểm liên tục, cùng với việc Vn-index đã chạm đáy vào đầu tháng
1(ngày 6/1 với 340 điểm), thị trường bắt đầu phục hồi và bước vào một giai đoạn
khởi sắc.
Chỉ số Vn-index 3 tháng cuối năm 2011 và 3 tháng đầu năm 2012.
(Nguồn: www.vndirect.com.vn)
Nguyên nhân của sự phục hồi trên TTCK 3 tháng đầu năm 2012
1.Lãi suất có tín hiệu giảm: sau khi tăng tới 23% (tính đến tới tháng 8 vừa qua),
lãi suất hiện đã có dấu hiệu giảm xuống và chỉ còn 16,4% vào hồi tháng 1/2012
Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng cuối tuần đầu của tháng 3 chỉ còn ở mức 11
– 12%/năm đối với kỳ hạn một tháng. Lãi suất đấu thầu trái phiếu chính phủ kỳ
hạn 3 năm đã giảm xuống dưới 11%/năm.
Những ngân hàng tốt hiện tại đang có nguồn vốn khá ổn định và không chịu áp lực
quá lớn trong việc cạnh tranh huy động bằng mọi giá. Sau khi bốn ngân hàng đi
đầu trong việc giảm lãi luất cho vay là: Agribank, BIDV, CTG, VCB thông qua
cung cấp các gói tín dụng ưu đãi lãi suất đối với nhiều DN thì các ngân hàng cổ
phần khác cũng có những động thái tương tự: VIB, VPB
2. Một số tin tốt từ chính sách vĩ mô với việc Chính phủ hướng sự quan tâm vào
chứng khoán với việc ban hành đồng loạt các quyết định và chỉ thị:
+ Quyết định 252 phê duyệt chiến lược phát triển TTCK VN 2011 – 2020.
+ Quyết định 253 phê duyệt đề án quản lý vốn đầu tư gián tiếp

+ Chỉ thị số 08 về thúc đẩy hoạt động và tăng cường quản lý TTCK VN. Nội dung
cơ bản của chỉ thị này bao gồm yêu cầu tái cấu trúc các sở giao dịch CK theo
hướng hợp nhất; tái cấu trúc các CTCK; công ty quản lý quỹ; tái cấu trúc hàng hóa
TTCK và tái cấu trúc cơ sở nhà đầu tư.
Ủy ban CK nhà nước cũng có chủ trương kiến nghị Chính Phủ, Quốc hội tiếp tục
kéo dài miễn giảm thuế đối với CK và TTCK theo nghị quyết 08/QH /2011/ QH13
ngày 06/08/2011; và tiếp tục xem các mức thuế theo hướng khuyến khích các nhà
đầu tư tổ chức.
3. Các kênh đầu tư khác không mang lại kỳ vọng lợi nhuận như mong muốn, với
thị trường vàng và ngoại tệ giảm từ đầu năm, trong khi đó thị trường bất động sản
tiếp tục đóng băng và không có nhiều sự hỗ trợ từ phía ngân hàng do thuộc nhóm
không được khuyến khích. Do vậy, 3 tháng đầu năm 2012 chứng kiến dòng tiền
đang chảy trở lại vào TTCK.
4. Ngoài ra, áp lực lo ngại từ việc bị thâu tóm bởi các đối thủ cạnh tranh đã khiến
cho nhiều cổ đông nội bộ, cổ đông lớn đăng ký mua vào.
5.Thêm vào đó, đầu năm nay, những thông tin xấu về áp lực phải tăng giá xăng
dầu hay điều chỉnh các hàng hoá thiết yếu khác dường như vẫn chưa khiến nhà đầu
tư lo ngại. Chính phủ tiếp tục thực hiện các biện pháp cần thiết để duy trì mặt bằng
giá hàng hoá trong nước ổn định. Ngày 21.2.2012, thuế nhập khẩu xăng dầu được
giảm về mức 0%. Ngày 2.3.2012, thuế nhập khẩu gas cũng đã được giảm còn 0%.
Có thể nói, với những thông tin khá tốt như trên thì sự tăng trưởng mạnh của
TTCK như trong thời gian qua hoàn toàn có cơ sở.
6. Kéo dài thời gian giao dịch: Từ 5/3, TTCK sẽ bắt đầu giao dịch thêm cả buổi
chiều thay vì chỉ giao dịch buổi sáng như 10 năm qua. Giờ mở cửa sẽ bắt đầu
muộn hơn nửa tiếng so với trước đây, theo đó, thời gian giao dịch hàng ngày được
thực hiện từ 9h00 đến 14h15 (thời gian nghỉ giữa giờ từ 11h30 đến 13h00) các
ngày từ thứ Hai đến thứ Sáu hàng tuần, trừ các ngày lễ. Việc kéo dài thời gian
giao dịch từ ngày 5/3/2012, ngoài yếu tố làm tăng thêm sự liên kết giữa TTCK
Việt Nam với TTCK thế giới ra, còn giúp cho nhà đầu tư có nhiều cơ hội giao dịch
hơn nữa. Việc có thêm phiên giao dịch buổi chiều cũng sẽ góp phần gia tăng thanh

khoản trong bối cảnh nhà đầu tư đang rất hứng khởi về triển vọng TTCK.
Nhận xét diễn biến TTCK 3 tháng đầu năm 2012 so với tổng thể:
Sự phục hồi của TTCK 3 tháng đầu năm nay là biểu hiện đáng mừng sau một
quãng thời gian dài thị trường rơi vào ảm đạm. Tuy nhiên, sức nóng của TTCK 3
tháng đầu năm 2012 là xét trong ngắn hạn, còn xét trong dài hạn thì thị trường vẫn
nằm trong thời kỳ thoát “đáy” vượt dốc đi lên, bởi theo chỉ số Vn-index, đỉnh 460
vẫn thấp so với mức hơn 550 điểm giữa năm 2010, mức 625 điểm cuối năm 2009,
càng thấp xa so với đỉnh điểm giai đoạn 2006-2007.
Chỉ số Vn-index từ 2006 đến 3 tháng đầu năm 2012
(Nguồn: www.vndirect.com.vn)
Những nhận định cho rằng thị trường đang hồi phục với tốc độ cao, trên thực tế là
do số gốc so sánh thấp, thực ra chưa đến “lưng chừng dốc” của lộ trình thị trường.
Tương tự, khi nhìn vào tốc độ tăng giá cổ phiếu vượt trội như trên là do trong đó
có những mã cổ phiểu có thị giá nhỏ, gốc so sánh thấp.
II. Dự báo TTCK năm 3 quý sau năm 2012
Nếu TTCK Việt Nam 3 tháng cuối năm 2011 giao dịch trong tình trạng ảm đạm thì
quý I năm nay là giai đoạn thị trường có sự điều chỉnh theo chiều hướng tích cực
(dù chỉ là sự điều chỉnh nhỏ), không khí các sàn giao dịch chứng khoán ngày càng
sôi động.
Trong chủ trương vực dậy TTCK của Nhà nước với việc ban hành các chỉ thị hỗ
trợ, nhà đầu tư còn kì vọng rất nhiều vào việc Việt Nam đang có kế hoạch cho các
quỹ đầu tư tín thác (ETF) và các quỹ mở (công cụ thu hút vốn đầu tư) được phép
hoạt động trong nước, cũng như việc cơ quan quản lý triển khai Quỹ hưu trí tự
nguyện, hình thành cơ chế cho phép các công ty quản lý quỹ cung cấp dịch vụ để
khai thác 1 phần tiền từ Bảo hiểm xã hội đệ tái đầu tư vào TTCK, chính là một
dòng tiền tốt đáng kể cho thị trường.
Đồng thời, với những giải pháp đề ra trong các văn bản vừa ban hành và một số
văn bản quan trọng sắp ra đời, nhất là Nghị định hướng dẫn Luật Chứng khoán và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, sẽ được ban hành vào
cuối tháng 3 này, TTCK được kì vọng sẽ phát triển minh bạch và lành mạnh hơn.

Tuy nhiên, vấn đề lạm phát tiếp tục gây nhức nhối khi giá điện tăng thêm 5% , giá
xăng dầu tăng đến hơn 10% gây ảnh hưởng trực tiếp đến CPI quý I năm 2012. Việc
thiếu thông tin hỗ trợ vĩ mô là vấn đề đối với thị trường chứng khoán và nhà đầu tư
khi hệ thống ngân hàng chưa thoát khỏi tình trạng căng thẳng thanh khoản. Điều
này đã và đang dự báo về một bức tranh không mấy lạc quan đối với thị trường
chứng khoán nói chung và nhà đầu tư nói riêng năm 2012.
Do đó, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2012 dự báo sẽ gặp nhiều khó khăn bởi những
khó khăn trong năm 2011 tiếp tục ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung. Số liệu
các doanh nghiệp giải thể hay số liệu bán lẻ có xu hướng giảm, điều này dự báo
không mấy lạc quan về GDP, dự báo có thể GDP các quý tiếp theo của năm 2012
GDP sẽ tăng xấp xỉ 5,5% so với cùng kỳ năm trước và tăng trưởng cả năm khoảng
6%.
Tóm lại , TTCK năm 2012 sẽ chờ đón các nhà đầu tư với nhiều khó khăn thách
thức và cả những cơ hội to lớn, thành hay bại tùy thuộc vào sự tìm tỏi, hiểu biết
về thị trường và biết nắm bắt cơ hội của các nhà đầu tư.
B. Nhà đầu tư tự bảo vệ mình như thế nào trên TTCK?
I. Tổng quan các loại rủi ro trên TTCK.
I.1 Các yếu tố rủi ro từ bên ngoài:
I.1.1 Lừa đảo trên thị trường:
Hiện tượng lừa đảo trên các thị trường chứng khoán tồn tại ở nhiều dạng khác
nhau:
- Làm giả các số liệu tài chính, đánh bóng công ty
- Che dấu không cho các nhà đầu tư biết các rủi ro hay các tin xấu
- Rút ruột công ty
- Trò Ponzi: hút tiền của các nhà đầu tư mới để trả cho các nhà đầu tư cũ và
một phần đút túi, chứ doanh nghiệp không tạo lợi nhuận thật sự
- Lũng đoạn giá chứng khoán trên thị trường
- Giao dịch nội gián
- Cò mồi kích động các nhà đầu tư mua bán bằng các tin đồn, phân tích rởm,
v.v.

Trong tất cả các vụ lừa đảo như vậy, thì người bị thiệt hại là các nhà đầu tư.
Một khi các nhà đầu tư đã bị lừa đảo mất tiền, thì rất ít khả năng đòi lại được số
tiền bị mất đó.
Ví dụ : Năm 2011, thị trường chứng khoán tiếp đà sụt giảm mạnh cả về giá
các loại cổ phiếu cũng như số nhà đầu tư. Trước tình thế khó khăn, để thu hút nhà
đầu tư, một số công ty chứng khoán đã cố tình vi phạm các quy định của Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) như làm giá một số cổ phiếu, ứng khống
trước cổ phiếu cho một số nhà đầu tư "ruột", bảo lãnh khống cho một số nhà đầu tư
vay tiền ngân hàng… Đồng thời, một số nhà đầu tư đã có hành vi tung tin thất thiệt
tạo sốt ảo một số cổ phiếu, thao túng giá cổ phiếu nhằm trục lợi tiêu biểu là sự
kiện Tổng Giám đốc Công ty Dược Viễn Đông thao túng giá cổ phiếu DHT-Dược
Hà Tây; khai khống, tạo doanh thu ảo cho DVD. Hiện công ty đã phải chấm dứt
hoạt động cuối 9/2011 và bị xử lý hình sự. Đây là vụ khởi tố hình sự đầu tiên trên
TTCK.
I.1.2 Rủi ro về hoạt động của doanh nghiệp:
Có những rủi ro có thể bất ngờ xảy đến với các doanh nghiệp, làm giảm giá trị của
doanh nghiệp, không dự đoán trước được. Ví dụ như thiên tai xảy ra ở Nhật Bản,
không những chỉ gây thiệt hại cho người Nhật, mà còn gây thiệt hại cho các doanh
nghiệp nước ngoài có liên quan, đặc biệt là các công ty bảo hiểm có bán bảo hiểm
ở Nhật. Các công ty năng lượng hạt nhân cũng giảm giá trị rất nhiều sau vụ tai nạn
nhà máy điện nguyên tử ở Nhật, vì cả thế giới hoãn lại các chương trình điện hạt
nhân.
Ví dụ : từ giữa năm 2008, thị trường bất động sản và nguyên vật liệu bắt đầu
lao dốc do bị tác động mạnh bởi cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu. Kết quả là, giá
các cổ phiếu thuộc các nhóm ngành này cùng bị "vạ lây", giảm hơn 80% so với đầu
năm 2008. Chẳng hạn, cổ phiếu TDH (Công ty Phát triển Nhà Thủ Đức) đã giảm
xuống còn 28.900 đồng (31.12.2008) từ mức 141.000 đồng/cổ phiếu.
I.1.3 Rủi ro biến động giá thị trường:
Thị trường cổ phiếu là bất hợp lý (irrational), và giá cổ phiếu có thể biến động
mạnh trong ngắn hạn, nhiều khi lên cao hơn nhiều lần so với giá trị thật, và nhiều

khi lại chỉ còn bằng một phần nhỏ so với giá trị thật. Nếu giá xuống quá thấp so
với giá trị thật, thì dủ có mua được cổ phiếu ở mức giá thấp vẫn có thể bị lỗ tạm
thời.
I.1.4 Rủi ro về thanh khoản:
Có những chứng khoán có thanh khoản thấp, tức là muốn mua/bán rất khó. Khi
đó mỗi lần mua bán nói chung đều bị thiệt thòi về giá.
I.1.5 Rủi ro về chính sách:
Các cơ quan chính phủ có thể ban hành nhiều loại chính sách khác nhau ảnh
hưởng trực tiếp đến các nhà đầu tư, ví dụ như: mức thuế cho lợi nhuận từ đầu tư,
các qui định về việc được mua bán những gì hay không được mua bán những gì, có
được giữ ngoại tệ hay chuyển tiền ra nước ngoài không, v.v.Các chính sách đó có
thể khiến cho các nhà đầu tư không thực hiện được các chiến lược đầu tư mà đáng
nhẽ có thể thực hiện được. Đặc biệt là khi chính sách đột ngột thay đổi, thì nhà đầu
tư có thể bị mắc kẹt các đầu tư, thậm chí trở nên phạm pháp nếu không kịp thời
thay đổi theo chính sách.
Ví dụ : Ngày 27 - 9 - 2010, Thông tư 19 sửa đổi Thông tư 13 quy định về tỷ lệ bảo
đảm an toàn của tổ chức tín dụng được ban hành. Thông tư 13 và thông tư 19 là
văn bản pháp lý có ảnh hưởng lớn nhất tới thị trường chứng khoán trong năm 2010
khi được xem là tác nhân gây ra sự lo lắng về khả năng thoái vốn ồ ạt của các ngân
hàng, giảm hoạt động cho vay đầu tư chứng khoán, bất động sản nhằm đảm bảo
tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu theo chuẩn mới.
I.1.6 Rủi ro về thông tin:
- NĐT thiếu thông tin đáng tin cậy, đặc biệt là đối với các cổ phiếu nhỏ, để có
thể dựa vào đó phân tích giá trị cổ phiếu và phân tích biến động giá.
- Vấn đề thông tin bất đối xứng: Có một số ‘”tay trong” nắm được thông tin tốt
hơn và sớm hơn, mua bán dựa trên các thông tin đó, còn những người khác không
hề nhận được thông tin, hoặc chỉ nhận được khi đã muộn.
Ví dụ, thông tin về SJS (Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Đô thị Khu
Công nghiệp Sông Đà) "sập sàn" do báo Tiền phong điện tử đăng ngày 12/1/2007.
Thực chất là do SJS chia 3 cổ phiếu thưởng cho 1 cổ phiếu hiện tại nên giá cổ

phiếu của công ty giảm tương ứng từ 728.000đ/CP xuống còn 190.000đ/CP. Sự
thua thiệt thuộc về các nhà đầu tư cá nhân, không có nguồn tin nội bộ, khi muốn
mua thì không thể nào tìm được nguồn mua do các nhà đầu tư lớn đã thâu tóm toàn
bộ, khi muốn bán thì cũng không thể nào bán được do thị trường bão hòa.
I.2 Các yếu tố rủi ro từ bên trong:
I.2.1 Rủi ro về khả năng quản lý:
Việc quản lý danh mục đầu tư nói chúng, và quản lý rủi ro nói riêng, đòi hỏi
nhiều sức lực, kiến thức, kinh nghiệm, v.v. Có rất nhiều việc phải làm trong đầu tư:
thu thập thông tin, phân tích đầu tư, quyết định đầu tư, theo dõi và xử lý các đầu tư,
v.v. Một người riêng lẻ có thể không đủ khả năng để làm tất cả những việc đó một
cách có hiệu quả, dễ dẫn đến nhiều sai lầm gây thiệt hại đồng thời bỏ lỡ nhiều cơ
hội đầu tư tốt.
I.2.2 Rủi ro về ước lượng sai giá trị:
- Việc ước lượng giá trị thật của cổ phiếu không đơn giản, và những người
khác nhau có thể cho các ước lượng chênh nhau đến vài lần, trong đó có những
người quá lạc quan và người quá bi quan.
- Nếu lạc quan quá, ước lượng giá trị cao quá so với giá trị thật, thì có thể sẽ
thành mua cổ phiếu đẳ hơn so với giá trị thật, và nếu sau đó giá cổ phiếu giảm về
giá trị thật thì thua lỗ.
Ví dụ : vào khoảng thời gian tháng 3-4/2011, TTCK nằm trong bối cảnh
chịu đựng nhiều thông tin xấu về kinh tế vĩ mô như chỉ số lạm phát cùng giá một
số mặt hàng thiết yếu tăng liên tục. Tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp
niêm yết cũng trở nên mờ mịt. Có đến 1/3 số công ty chứng khoán báo lỗ. Trong
khi đó, nhiều phiên giao dịch nối tiếp nhau với thanh khoản lên xuống thất thường
vẫn không phát ra một tín hiệu rõ ràng nào về xu hướng thị trường.
Hiển nhiên, đây là giai đoạn mua vào mang tính đánh cược rất cao và quá sức rủi
ro đối với nhà đầu tư. Hệ quả của sự rủi ro đó đã đến vào tuần đầu tháng 5/2011,
khi cả hai sàn chứng khoán đồng loạt lao dốc mạnh, tạo nên hiệu ứng về "tuần lễ
kinh hoàng". Niềm tin đánh cược với thị trường đã bị đổ vỡ hoàn toàn.
I.2.3 Rủi ro về lỗ quá mức chấp nhận được:

Nhà đầu tư có thể bị lỗ quá mức chấp nhận được trên thị trường chứng khoán.
Ví dụ nhà đầu tư có 2 tỷ VND, nhưng trong đó 1 tỷ phải dành vào 1 việc nào đó
không thể để bị mất, nếu đem 2 tỷ đi đầu tư mà bị mất 1,2 tỷ, thì là mất quá mức
chấp nhận được.
I.2.4 Rủi ro về tâm lý và thực hiện:
- Nhà đầu tư có thể bị kích động, mua lúc đáng nhẽ không nên mua, bán lúc
đáng nhẽ không nên bán, mua bán quá nhiều v.v.
- Đầu tư cũng như là đẽo cầy giữa đường, nếu cứ nghe theo hết người này đến
người khác, thì không đẽo thành cái gì cả.
- Trong lúc thực hiện đầu tư cũng có thể có nhiều sai phạm (đặt lệnh nhầm,
tính toán sai, v.v.)
Ví dụ: Khi thị trường chứng khoán trong trạng thái mania (giá bị thổi phồng
lên rất cao), là lúc có rủi ro cao, thì các nhà đầu tư lại phấn khởi hồ hởi tranh nhau
mua vào theo tâm lý bầy đàn, để rồi sau đó thua lỗ thảm hại khi thị trường sập.
Ngược lại, khi thị trường ở mức thấp, rất rẻ so với giá trị thực, là cơ hội hấp dẫn,
thì người ta lại sợ, lại chỉ lo bị thua lỗ thêm nếu mua chứng khoán, không dám mua
vào. Tâm lý này không chỉ ảnh hưởng các nhà đầu tư nhỏ lẻ, mà ảnh hưởng đến cả
các quỹ đầu tư lớn và các doanh nghiệp lớn.
II. Các rủi ro đối với nhà đầu tư từ thực trạng 3 tháng đầu năm 2012
Nhà đầu tư hưng phấn trước sự bùng nổ mạnh mẽ trên TTCK vào đầu tháng 3 dẫn
tới hiện tượng tăng mạnh về lượng cầu. Thị trường xuất hiện hiện tượng nhà đầu tư
chạy theo tâm lý đám đông, nhất là tình trạng “đánh bạc” với cổ phiếu nóng: trên
sàn HOSE, 3 tháng qua có 10 mã tăng nóng (trong đó tăng thấp nhất cũng trên
34%, cao nhất lên đến 46,6%) và có 10 mã giao dịch sôi động (bình quân 1 phiên
thấp nhất cũng trên 386.000 đơn vị, cao nhất lên đến trên 1,2 triệu đơn vị); trên sàn
HNX cũng có 10 mã tăng nóng (thấp nhất tăng 45,4%, cao nhất quá gấp đôi) và có
10 mã giao dịch sôi động (bình quân 1 phiên thấp nhất là 500.000 đơn vị, cao nhất
lên đến trên 3,25 triệu đơn vị.
Họ đối mặt với rủi ro về tâm lý và thực hiện do sự gia tăng mua vào ào ạt: Người
bán quá sớm không có cơ hội mua ngược trở lại trong khi đã phải bán với một mức

giá thấp trong quá khứ. Người mua lại có khả năng chịu rủi ro T+ cao do mua vào
bất kể chất lượng chứng khoán như thời gian qua, với một số CK dưới mệnh giá đã
tăng nóng 30-100% dù kết quả kinh doanh thấp. Việc tranh đua cổ phiếu tăng nóng
mà bỏ qua giá trị nội tại của doanh nghiệp có thể sẽ gặp phải rủi ro thanh khoản.
Ngoài ra việc thâu tóm và chia quyền lực của Eximbank đối với Sacombank diễn
ra cũng làm cho thị trường chứng khoán diễn biến thú vị trong một thời gian
dài.Nhưng trước đó hàng loạt nhà đầu tư đã đối mặt không ít với vấn đề rủi ro
thông tin vì trong suốt thời gian dài 2 ngân hàng chưa có thông tin chính thức thì
đã đối mặt hàng loạt đồn thổi, dự đoán gây tâm lý hoang mang. Lãi suất giảm, việc
mua bán sát nhập ngân hàng tạo ra hiệu ứng tốt cho chứng khoán. Chứng khoán
ngân hàng tạm thời có dấu hiệu đầu cơ tiềm năng. Nhưng theo các ý kiến của
chuyên gia lãi suất tăng là điều không tránh khỏi.
Hiện có tới hơn 90% CTCK quản lý tiền gửi của NĐT qua tài khoản tổng do
CTCK đứng tên. Hiện tại, các công ty chứng khoán vẫn “gộp” tài khoản của tất cả
các nhà đầu tư vào một tài khoản tổng. Điều này khiến nhiều NĐT gặp rủi ro
không thể kiểm soát tài sản của mình và phát sinh tranh chấp, như sự việc một số
NĐT phát hiện ra tiền hay chứng khoán của mình bỗng dưng “không cánh mà
bay”.
Một rủi ro khác cho nhà đầu tư là sự thua lỗ trong kinh doanh của một số CTCK
năm 2011 dẫn tới việc cắt bỏ một số nghiệp vụ không mang lại hiệu quả. Nhiều
vấn đề về quyền lợi của NĐT - khách hàng đang được đặt ra và thực tế một số
trường hợp chưa được giải quyết thích đáng. Vd : tài khoản khách hàng được
chuyển giao rất chậm, khiến NĐT hoặc không thể giao dịch khi thị trường sôi
động/ có nhu cầu, hoặc rắc rối phát sinh trong việc tất toán.
Thực tế vào tháng 12 năm 2011, CTCK Trường Sơn (TSS) thông báo trên website
về việc đóng tài khoản giao dịch của NĐT và yêu cầu, trong vòng 7 ngày (từ ngày
23 - 29/12/2011), NĐT phải đến TSS để tất toán, chuyển tài khoản. Sau thời hạn
đó, nếu NĐT chưa đến, CTCK sẽ tự động chuyển các tài khoản sang CTCK
Navibank. Đã có một số NĐT gửi đơn thư tố cáo, khiếu nại tới TSS như: NĐT
Trần Thị Vượng liên tiếp có đơn thư tới các cơ quan chức năng tố cáo CTCK này

phong tỏa trái phép tài khoản trị giá hơn 2 tỷ đồng của bà; NĐT Khúc Xuyền tố
cáo TSS giả mạo chữ ký; NĐT Phan Huỳnh Dũng tố cáo CTCK Trường Sơn lừa
đảo của ông hơn 4 tỷ đồng… Những rắc rối này đã gây phiền hà cho NĐT cũng
như phát sinh thêm nhiều chi phí tốn kém.
III. Dự báo một số rủi ro cho NĐT có thể gặp phải trong các Quý tới:
1, Mặc dù dòng tiền vào thị trường đang rất mạnh và CK đang tăng giá với những
mức khá cao, sự ồ ạt mua vào của các NĐT đầu cơ chờ tăng giá có thể gặp 2 loại
rủi ro:
• Sức sống thật sự của các công ty niêm yết (Nhiều doanh nghiệp niêm
yết còn chưa ra khỏi được thời kỳ khó khăn năm vừa qua)
• Và tiềm ẩn đằng sau sự phục hồi mạnh mẽ này ( trong bối cảnh một
loạt tin tốt được tung ra và CK tăng giá mạnh từ sau Tết) là cơ hội để
những kẻ nắm giữ các cổ phiếu yếu kém xả hàng. Việc mua lại những
cổ phiếu này là một rủi ro về thông tin mà NĐT dễ gặp phải.
2, Sự hưng phấn có phần thái quá của NĐT mấy ngày đầu tháng 3 có thể chỉ mang
tính thời điểm, nhưng lại có tác động không nhỏ tới sự ổn định của dòng tiền đi
vào TTCK. Nhất là sau khi mọi mã cổ phiếu bất chấp tốt xấu bị đẩy lên mức giá
trần cho thấy sự vận động đỉnh điểm của dòng tiền đầu cơ thì sự giảm điểm các
ngày sau cho thấy một sự bất ổn. Quy luật điều chỉnh sau những phiên diễn biến
quá đà cùng việc mua đuổi giá trần có thể dẫn tới rủi ro T+ lớn cho NĐT.
3, NĐT Việt Nam thường dễ bị lôi kéo vào, ra thị trường theo dám đông, tạo nên
những hiện tượng khuếch đại. TTCK Việt Nam có đầy đủ thuộc tính về sự khuếch
đại hiệu ứng để tạo ra những cú tăng ngoạn mục và lao dốc bất ngờ, điều mà sẽ
làm tăng rủi ro sai lệch trong các dự tính của NĐT.
4, UBCK còn dễ dàng cho các công ty niêm yết tăng vốn ( thông qua các hình thức
phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi), điều mà sẽ khiến cho nhiều nhà
đầu tư gặp rủi ro về giá và tái đầu tư, quyền lợi của họ không được đảm bảo.
5, Giá xăng tăng đang kéo theo hệ quả là sự tăng giá nhiều mặt hàng khác tạo ra
hiệu ứng lạm phát kỳ vọng tăng cao. Các nhà đầu tư khó tránh khỏi việc ảnh hưởng
của rủi ro tỷ giá hay rủi ro sức mua do giá trị nội tệ giảm. Biến động giá càng cao

thì rủi ro càng tăng.
6, Rủi ro lãi suất đang ở dạng tiềm ẩn khi mà quyết định giảm 1% lãi suất đã được
Thống đốc Ngân hàng nhà nước đưa ra một cách chính thức và chắc chắn rất khó
thay đổi, những động thái của thị trường dưới sự kiên này còn rất khó đoán.
IV. Quy trình quản trị rủi ro cho NĐT với các loại rủi ro cụ thể:
IV.1 Rủi ro từ bên ngoài
IV.1.1 Lừa đảo trên thị trường:
Các biện pháp NĐT có thể vận dụng linh hoạt để bảo vệ mình là:
- Tránh xa các cổ phiếu nhỏ, ít thông tin, ít người quan tâm, trừ khi tiếp cận
được với các giám đốc điều hành đang tin cậy của các công ty đó, bởi cổ phiếu
càng nhỏ và càng ít thông tin thì càng dễ bị lừa đảo và lũng đoạn.
- Khi cổ phiếu đang giữ là của doanh nghiệp có dấu hiệu lừa đảo, NĐT nên loại
nó khỏi danh mục đầu tư, kiểm tra lại cẩn thận trước khi quyết định có nên đầu tư
vào lại cổ phiếu đó không.
- Xây dựng khả năng tự phân tích và thu thập thông tin, tự xác định được giá trị
của các cổ phiếu, để khỏi bị các cò mồi kích động.
IV.1.2 Rủi ro về hoạt động của doanh nghiệp:
Các biện pháp NĐT có thể vận dụng linh hoạt để bảo vệ mình là:
- Đa dạng hóa, để nếu cổ phiếu này bị rủi ro về doanh nghiệp thì có cổ phiếu
khác bù lại.
- Chọn lựa cổ phiếu của cách doanh nghiệp đang mạnh và tương đối ít rủi ro, loại
khỏi danh mục đầu tư những doanh nghiệp có nhiều nguy cơ suy yếu hay phá sản
(ví dụ như nợ quá nhiều mà tỷ lệ lợi nhuận kém, công nghệ lỗi thời, v.v.).
IV.1.3 Rủi ro biến động giá thị trường:
Các biện pháp NĐT có thể vận dụng linh hoạt để bảo vệ mình là:
- Có tầm nhìn đầu tư dài hạn, để có thể chấp nhận lỗ tạm thời khi các biến
động bất lợi về giá trong ngắn hạn xảy ra, miễn sao kỳ vọng lợi nhuận về dài hạn là
tốt.
- Cash is king: Không tham lam dùng đòn bẩy cao, sẽ dễ bị bật ra khỏi thị
trường khi có biến động ngắn hạn bất lợi, dù là phán xét về dài hạn có đúng đến

đâu. Ngược lại, có tiền mặt dự trữ (hay là nguồn thu nhập đều đặn có thể dùng để
đầu tư thêm), để mỗi khi giá của cổ phiếu tốt đi xuống trong ngắn hạn thì là cơ hội
mua vào.
- Có thể kết hợp sử dụng các chứng khoán phái sinh làm hedging, để làm giảm
bớt độ biến động của danh mục đầu tư, tăng độ ổn định ngắn hạn.
- Việc đa dạng hóa góp phần làm giảm rủi ro biến động giá thị trường. Càng
có được hệ số tương quan thấp giữa các chứng khoán đang giữ thì càng giảm được
rủi ro biến động giá ngắn hạn.
IV.1.4 Rủi ro về thanh khoản:
NĐT có thể:
- Trừ bớt phần thiệt về giá do thanh khoản kém vào lợi nhuận kỳ vọng, khi
phân tích có nên đầu tư hay không
- Tầm nhìn dài hạn, có thể sẵn sàng giữ lâu thì đỡ rủi ro thanh khoản.
- Đối với các đầu tư ngắn hạn, thì tránh đụng vào các chứng khoán có thanh
khoản kém.
IV.1.5 Rủi ro về thông tin:
- Tương tự như đối với rủi ro lừa đảo, NĐT nên tránh các cổ phiếu nào mà
thiếu thông tin đáng tin cậy, đặc biệt là các cổ phiếu nhỏ, mờ ám.
- Dành công sức, thời gian và tiền chi phí một cách thích đáng cho việc thu
thập thông tin.
IV.2 Rủi ro từ bên trong
IV.2.1 Rủi ro về khả năng quản lý:
- NĐT cần có những người đáng tin cậy giúp đỡ trong quản lý đầu tư.
- Đầu tư có tổ chức: một tổ chức đầu tư, có phân công công việc, sẽ hiệu quả
hơn nhiều so với một cá nhân tự làm mọi thứ.
- Nếu không phải là thành viên của một tổ chức đầu tư, hay là được những
người có trình độ và đáng tin tưởng giúp đỡ, thì tốt nhất là không nên tự đầu tư, mà
gửi tiền cho một quĩ nào đó đáng tin.
- Học các kiến thức về tài chính và đầu tư. Càng hiểu biết nhiều về tài chính
càng thuận lợi.

IV.2.2 Rủi ro về ước lượng sai giá trị:
- Đệm an toàn về giá trị: Chỉ đầu tư khi mà giá trị trường thấp hơn rất đáng kể
(ví dụ chỉ bằng 1/2) so với ước lượng giá trị thật.
- Cần tích lũy kinh nghiệm phân tích, hoặc dựa trên sự tham mưu của những
người nào đó đáng tin cậy trong việc phân tích.
- Phân tích cần dựa trên các mô hình hợp lý và các nguồn tin đáng tin cậy.
- Đối với các ứng cử viên mới cho danh mục đầu tư: cần có đủ thời gian phân
tích (ít ra 1 tháng), để có thể hiểu rõ các công ty và giá trị của chúng trước khi đầu
tư, không vội vàng nhảy vào mua nhiều khi chưa biết rõ các lắt léo bên trong.
IV.2.3 Rủi ro về lỗ quá mức chấp nhận được:
- NĐT không nên đầu tư mạo hiểm các khoản tiền không thể để mất (mà đầu tư
chứng khoán là đầu tư mạo hiểm).
- Tính Value-at-risk và downside risk để biết số tiền có thể bị mất nếu những
tình huống xấu không may xảy ra, xem có chấp nhận được không.
- Mức lỗ chấp nhận được càng thấp, thì value-at-risk phải càng thấp, có nghĩa
là càng phải chọn những chứng khoán có mức rủi ro thấp cho danh mục đầu tư và
tăng mức tiền mặt dự trữ.
IV.2.4 Rủi ro về tâm lý và thực hiện:
- Xây dựng trước các tình huống có thể xảy ra, và tính trước là nếu gặp tình
huống nào thì xử lý thế nào, để khỏi hoang mang thụ động
- Kỷ luật trong đầu tư: có chiến lược và qui trình rõ ràng, và tuân thủ theo nó,
không đầu tư theo cảm tính, theo tham lam hay sợ hãi.
- Có kiểm soát: cần có người kiểm soát (nếu một mình đầu tư thì không có ai
kiểm soát, làm bậy cũng không ai ngăn chặn, dễ xảy ra các hành động điên rồ gây
thiệt hại)
- Những người phân tích đầu tư phải giữ được khách quan trong phân tích,
không bị cái trạng thái đầu tư làm mất khách quan, trở nên wishful thinking. (Để
tăng tính khách quan, thì người phân tích và người thực hiện đầu tư phải là 2 người
khác nhau).
PHỤ LỤC THAM KHẢO

1. Phân tích đánh giá về chỉ thị 8 của Chính phủ về TTCK:
1- Nội dung: Các chỉ thị đã thể hiện được quyết tâm cao của Chính phủ khi kết
hợp với Ngân hàng NN và Bộ Tài chính cải tổ TTCK thành một kênh huy
động vốn trung và dài hạn hiệu quả nhất cho nền kinh tế; xây dựng TTCK
phát triển lành mạnh, an toàn và bền vững lên hàng đầu; coi trọng bảo vệ lợi
ích NDT và các thành viên thị trường.
Với điểm nhấn tại Chỉ thị 08/CT-TTg là phát triển TTCK thực sự trở thành
một kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế, các định hướng là: chỉ đạo
của Thủ tướng yêu cầu tập trung tái cấu trúc Sở GDCK theo hướng hợp
nhất; tái cấu trúc CTCK, công ty quản lý quỹ phù hợp với chủ trương tái cấu
trúc hệ thống tài chính ngân hàng; tái cấu trúc NĐT theo hướng chuyên
nghiệp bằng triển khai thành lập các công ty đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư
chứng khoán dạng mở; sớm nâng tiêu chuẩn niêm yết và đăng ký giao dịch.
Chỉ thị 08 cũng yêu cầu Bộ Tài chính phối hợp với Bộ LĐTB&XH nghiên
cứu trình Thủ tướng Chính phủ Đề án thành lập Quỹ hưu trí tự nguyện; Bộ
Tài chính chủ trì, phối hợp với NHNN xây dựng Đề án tập trung tài khoản
tiền giao dịch chứng khoán và tài khoản chứng khoán của NĐT, để thực hiện
trong năm 2012, nhằm giám sát hoạt động thanh toán giao dịch chứng khoán
của CTCK, bảo vệ quyền lợi của NĐT.
Tại Chỉ thị 08, Thủ tướng Chính phủ còn chỉ đạo NHNN điều hành chính
sách tiền tệ hài hòa với chính sách tài khóa, nhằm giảm lạm phát, qua đó,
giảm mặt bằng lãi suất hợp lý, hỗ trợ TTCK phát triển bền vững.
2- Đánh giá:
Với sức mạnh và tính bền vững, chỉ thị 8 có hiệu quả hơn giải pháp kích
cầu năm ngoái. Có thể thấy, trước kia, nếu Chỉ thị 03 (về hạn chế cho vay
đầu tư kinh doanh chứng khoán của NHNN) đưa TTCK xuống vực thì hôm
nay Chỉ thị 08 có thể sẽ khiến TTCK phục hồi mạnh mẽ. Đây có lẽ là lần
đầu tiên có một chỉ thị trực tiếp và mạnh mẽ như vậy từ Thủ tướng đối với
TTCK.
Tính toàn diện: có sự phối kết hợp đồng bộ toàn diện với sự tham gia của

không chỉ Bộ Tài chính mà cả NHNN. Nó bao phủ từ vấn đề tái cấu trúc thị
trường, thanh lọc CTCK và doanh nghiệp niêm yết không đủ tiêu chuẩn, cho
tới phát triển sản phẩm mới, đến hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và bảo
vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
Bảo vệ nhà đầu tư: Chỉ thị tập trung bảo vệ quyền lợi chính đáng của NDT
trong việc quyết tâm tách bạch tài khoản tiền của NDT và CTCK, từ đó cũng
tạo tiền đề đảm bảo cho TTCK hoạt dộng minh bạch, công bằng hơn.
2. Mô hình Ponzi
Mô hình Ponzi là trò vay tiền của người này để trả nợ người khác. Kẻ đi vay đưa
ra cam kết trả lợi tức cao cho người cho vay và quảng cáo với họ về những tấm
gương đã từng nhận được lợi tức cao trước đây để hấp dẫn người cho vay. Người
cho vay bị hấp dẫn bởi lợi tức cao lại thậm chí giới thiệu những người cho vay mới
hơn. Bằng hình thức này, kẻ đi vay càng ngày càng vay được những khoản tiền lớn
hơn từ nhiều người cho vay mới hơn.
3. Tại sao nói thị trường cổ phiếu là bất hợp lý?
Thị trường cổ phiếu là bất hợp lý (irrational), là bởi dưới tác động của bất cân xứng
thông tin, của tâm lý đám đông mà giá cổ phiếu thường không phản ánh đúng giá
trị thực sự của công ty niêm yết.
4. Hiểu về lũng đoạn giá- rủi ro lừa đảo trên TT.
Các ví dụ về lũng đoạn giá:
* Sử dụng nhiều tài khoản khác nhau, tự mua từ bán cho chính mình, để đẩy lượng
giao dịch tăng lên (thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư) và đẩy giá theo hướng
mình muốn.
* Dùng đòn bẩy và các công cụ tài chính phái sinh để kiểm soát một lượng lớn cổ
phiếu nhằm ép giá.
* Đưa ra các báo cáo, khuyến cáo, tin đồn, v.v. nhằm kích thích các nhà đầu tư
mua vào hay bán ra.
* Mua vào một lượng lớn chứng khoán trước khi đẩy giá lên. Sau khi đã đẩy được
giá lên rất cao thì bán số chứng khoán đó ra cho các nhà đầu tư bị mắc bẫy, mua
vào với giá cao vì tưởng là chứng khoán đó hấp dẫn ở giá cao như vậy. (Thông

thường giá sẽ sụt xuống lại sau đợt lũng đoạn thổi giá lên cao).
Hoặc ngược lại, bán khống chứng khoán trước khi dìm giá xuống thấm, khiến các
nhà đầu tư đang giữ chứng khoán hoang mang không còn tin tưởng vào chứng
khoán mình giữ, hoặc là bị thua lỗ buộc phải bán ra để cắt lỗ. Mua lại chỗ đã bán
khống với giá rẻ, khi các nhà đầu tư buộc phải bán ra để cẳt lỗ hoặc bán ra vì
hoang mang.
* Đẩy giá lên rồi lại đẩy giá xuống rồi lại đẩy giá lên, v.v., để chuộc lợi cả chiều đi
lên lẫn chiều đi xuống của chứng khoán: tung tin xấu để đẩy giá xuống, rồi mua
vào, tung tin tốt để đẩy giá lên, rồi bán ra, rồi lại tung tin xấu, và cứ thế.
Cash is king: Để trong lúc thị trường bất ổn thì NDT có thể chọn cẩm tiền mặt
trong tay, có thể nhảy từ mục đầu tư này sang mục đầu tư khác nếu cần thay vì
không chốt lãi chặn lỗ.
5. Thuật ngữ Value-at-risk (VaR)
Ðể trình bày khái niệm cơ bản của Value at Risk (VaR), hãy lấy một ví dụ sau đây:
Anh/chị đầu tư một khoản tiền lớn vào một danh mục cổ phiếu châu Âu và tháng
vừa rồi giá trị danh mục đầu tư này đã giảm xuống 50,000€. Sau khi khảo sát
những nguyên nhân dẫn đến sụt giảm lợi nhuận, anh/chị muốn biết mức tổn thất tối
đa vào cuối tháng này. Câu trả lời ngay lập tức là anh/chị có thể mất hết khoản tiền
đầu tư, nhưng câu trả lời này không phù hợp với thực tế vì ai cũng biết trường hợp
thiệt hại lớn này hiếm khi xảy ra. Câu trả lời thích hợp là : "nếu không tồn tại sự
kiện đặc biệt, thì tổn thất tối đa trong 95% các trường hợp sẽ không vượt quá
4000€ vào cuối tháng này". Ðó là khái niệm của VaR.
VaR của một danh mục tài sản tài chính được định nghĩa là khoản tiền lỗ tối đa
trong một thời hạn nhất định, nếu ta loại trừ những trường hợp xấu nhất (worst
case scenarios) hiếm khi xảy ra.
VaR là một phương pháp đánh giá mức rủi ro của một danh mục đầu tư theo hai
tiêu chuẩn như giá trị của danh mục đầu tư và khả năng chịu đựng rủi ro của nhà
đầu tư.
Trong ví dụ vừa rồi, VaR ở mức 95% của danh mục cổ phiếu châu Âu trong một
tháng là 4000€, có nghĩa là nếu danh mục này không thay đổi trong vòng một

tháng và nếu thị trường tài chính vẫn trong một tình trạng bình thường (không tồn
tại worst case scenarios), thì khoản lỗ trong 95% các trường hợp thấp hơn 4000€
và xác suất khoản lỗ cao hơn 4000€ là 5% trong trường hợp worst case scenarios :
VaR(1 tháng, 95%) = 4000€.
Mục đích của phân tích VaR là để trả lời câu hỏi: Với độ tin cậy là 95% (hoặc
99%) thì trong tháng tới (quý tới/năm tới), khả năng thua lỗ lớn nhất của danh
mục là bao nhiêu % (tương ứng với bao nhiêu VND trên khoản đầu tư ban đầu vào
danh mục – I)?

×