ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
VŨ THỊ THẢO
TƯ TƯỞNG DUY TÂN CỦA LƯƠNG VĂN CAN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: TRIẾT HỌC
MÃ SỐ: 60.22.80
Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS ĐỖ THỊ HÒA HỚI
Hà Nội – 2011
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lương Văn Can là một trong những nhà yêu nước tiêu biểu ở Việt Nam
những năm đầu thế kỷ XX. Tên tuổi của ông gắn liền với phong trào Đông
Kinh nghĩa thục – không chỉ là một trường học theo lối mới, mà là một cuộc
vận động văn hóa – tư tưởng – chính trị quan trọng, là cả một phong trào
rộng lớn trong công cuộc cách mạng đầu thế kỷ XX. Với tư cách là một
trong các sáng lập viên, hiệu trưởng của Đông Kinh nghĩa thục, Lương Văn
Can cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho sự nghiệp “khai dân trí, chấn dân
khí, hậu dân sinh”. Tư tưởng duy tân, đổi mới của ông đại diện cho sự trăn
trở tìm lối thoát cho dân tộc của các sĩ phu yêu nước những năm đầu thế kỷ
XX, khi hệ tư tưởng phong kiến thất bại trước nhiệm vụ của lịch sử.
Với tấm lòng nhiệt thành yêu nước, các sĩ phu Nho học tiếp nhận tư
tưởng mới qua Tân thư, Tân văn và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo nhân dân
tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc. Khác với Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, sự lựa chọn phương thức cứu nước của Lương Văn Can và các đồng
chí trong Đông Kinh nghĩa thục mang nét đặc sắc riêng. Nhận thức được tầm
quan trọng của giáo dục – văn hóa trong sự nghiệp cứu nước, thông qua giáo
dục các ông đã khơi dậy lòng yêu nước, truyền bá tư tưởng mới, tiến bộ cho
nhân dân, khuyến khích dân làm giàu nhằm xây dựng tiềm lực để tiến hành
chống thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Đó là lời giải đáp mà các ông đã
thực hiện để góp phần trả lời bài toán lịch sử đặt ra ở Việt Nam trong cuộc
tiếp xúc Đông – Tây những năm đầu thế kỷ XX.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang trên đà phát triển và hội
nhập nền kinh tế toàn cầu hóa, vấn đề cải cách, đổi mới giáo dục – văn hóa,
đổi mới tư duy kinh tế trở nên cốt yếu và cấp thiết thì việc nhìn lại những bài
học quý giá trong lịch sử là tất yếu của logic phát triển tư tưởng. Trong đó,
những giá trị tư tưởng và hoạt động của Lương Văn Can nói riêng và Đông
2
Kinh nghĩa thục nói chung một lần nữa cần phải được đặt ra và đánh giá
dưới ánh sáng mới của đổi mới tư duy kinh tế.
Hiện nay, lịch sử tư tưởng giai đoạn cận đại cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX ở Việt Nam, thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu trong và
ngoài nước. Nguồn tài liệu gốc và các cách tiếp cận mới được cập nhật và
phong phú, do đó, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu sâu hơn tư
tưởng của các nhà yêu nước trong giai đoạn này, thể hiện một phần ở danh
mục tài liệu tham khảo chúng tôi đã lập ở cuối luận văn. Trong đó, những
nghiên cứu về tư tưởng của Đông Kinh nghĩa thục và Lương Văn Can cũng
nằm trong xu hướng được quan tâm phân tích ngày một sáng rõ hơn, song
vẫn còn những điểm chưa được thống nhất, chưa toàn diện
Từ những lý do nêu trên, tôi quyết định chọn “Tư tưởng duy tân của
Lương Văn Can” làm đề tài luận văn của mình mong muốn góp phần hệ
thống hóa và làm đầy đủ thêm những hiểu biết về nguồn gốc, nội dung và giá
trị đóng góp của tư tưởng duy tân ở Lương Văn Can trong lịch sử tư tưởng
dân tộc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lương Văn Can là một nhà giáo dục nổi tiếng về tài đức, ông đã dâng
trọn vẹn cuộc đời mình cho vận động duy tân của dân tộc và sự nghiệp “khai
dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” vang dội của phong trào Duy Tân –
Đông Du những năm đầu thế kỷ XX. Điều này đã được các đồng chí của ông
ghi chép lại ngay khi ông còn hoạt động, cùng với bản “Lương gia thế phả –
Lương gia thứ chi phả” do Lương Văn Can tự soạn trong khoảng 1922 –
1927. Đó là tài liệu gốc xác thực về thân thế và sự nghiệp của Lương Văn
Can, về sau đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu coi là căn cứ quan
trọng. Gần đây, có bản “Tiểu sử Lương Văn Can” được biên soạn lại trong
hai cuốn “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam” của Nguyễn Q. Thắng –
Nguyễn Bá Thế, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992 và “Từ điển tác gia
Việt Nam” của Nguyễn Q. Thắng, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1999.
Năm 1997, Lý Tùng Hiếu biên soạn “Bản Tiểu sử chí sĩ yêu nước, nhà duy
3
tân, nhà giáo Lương Văn Can” cho trường Trung học phổ thông Lương Văn
Can và được đăng trên Bản tin Lương Văn Can số 9 (1/2004) của Ban liên
lạc Cựu học sinh Lương Văn Can. Cùng năm 1997, tái bản cuốn “Đông Kinh
nghĩa thục và phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỷ XX”, NXB Văn hóa
Thông tin, Hà Nội, nhà sử học Chương Thâu đã dành vị trí đầu tiên cho tiểu
sử Lương Văn Can trong phần “Tiểu sử vắn tắt một số nhân vật trong phong
trào Đông Kinh nghĩa thục”. Năm 1998, Hoài Anh viết về Lương Văn Can,
đăng trong cuốn “Lịch sử văn hóa Việt Nam: Những gương mặt trí thức”,
Tập I, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. Hai công trình biên khảo này của
Chương Thâu và Hoài Anh sau đó đã được Lê Minh Quốc tham khảo để viết
bài “Lương Văn Can – bậc thầy đáng kính của Đông Kinh nghĩa thục”, đăng
trong “Danh nhân sư phạm Việt Nam”, NXB Trẻ, 2002. Ngày 3/3/2002, dựa
vào các tài liệu đã công bố, cháu cố Lương Văn Can là Lương Quân đã viết
bài “Thân thế và sự nghiệp của Lương Văn Can và gia đình” để làm tư liệu
cho gia tộc họ Lương. Tiếp đó là các bài viết: “Lương Văn Can – nhà ái
quốc và nhà giáo dục lớn đầu thế kỷ XX” của Trần Thanh Đạm, đăng trên
Báo Sài Gòn Giải phóng ngày 12/6/2002; bài “Bảo quốc túy, tuyết quốc sỉ”
của Thùy Dương đăng trên Báo Người Lao động ngày 15 – 16/6/2002; bài
“Lương Văn Can – Người thầy của giới doanh thương” của Thư Hoài trên
Thời báo Kinh tế Sài Gòn số Xuân Quý Mùi 2003. Ngoài ra, rất đáng lưu ý
là những nghiên cứu về Lương Văn Can của Lý Tùng Hiếu, Viện KHXH
Nam Bộ, nhân kỷ niệm 90 năm Đông Kinh nghĩa thục: “Những người thầy
phát rừng, mở lối” đăng trên Báo Phụ Nữ, số 91, 22/11/1997; “Hậu thế nhìn
về Lương Văn Can”, Tạp chí Xưa & Nay, số 214, 6/2004; bài viết “Lương
Văn Can, người kế tục tinh thần Đông Kinh nghĩa thục trong kinh doanh”
đăng trong cuốn “Một trăm năm Đông Kinh nghĩa thục”, NXB Tri thức,
2008. Và tài liệu được xem là có hệ thống và đầy đủ nhất về thân thế, cuộc
đời và sự nghiệp Lương Văn Can là cuốn sách “Lương Văn Can & Phong
trào Duy tân – Đông Du” của tác giả Lý Tùng Hiếu, NXB Văn hóa Sài Gòn,
2005.
4
Ngoài ra, với tư cách là hiệu trưởng, một trong các nhà sáng lập của
Đông Kinh nghĩa thục, chi tiết sử liệu về Lương Văn Can cũng được đề cập
đến trong các tài liệu liên quan về Đông Kinh nghĩa thục, phong trào Duy
Tân, Đông Du. Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu: “Đông Kinh nghĩa
thục” của tác giả Đào Trinh Nhất do nhà in Mai Lĩnh ấn hành năm 1937,
cuốn “Đông Kinh nghĩa thục” của Nguyễn Hiến Lê được tác giả xuất bản
năm 1956, cuốn “Phong trào Duy tân” của Nguyễn Văn Xuân năm 1995,
cuốn “Đông Kinh nghĩa thục và phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỉ XX”
của Chương Thâu xuất bản năm 1982. Năm 1997, nhân kỷ niệm 90 năm
Đông Kinh nghĩa thục, đã xuất hiện nhiều bài viết đăng trên Tạp chí Xưa &
Nay. Mới nhất về tư liệu, có cuốn “Văn thơ Đông Kinh nghĩa thục”, Cục lưu
trữ Nhà nước Việt Nam và Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp, NXB Văn hóa
Thông tin, 1997. Cuốn sách đã tập hợp và giới thiệu khá trọn vẹn khối lượng
trước tác của Đông Kinh nghĩa thục, trong đó có các trước tác do Lương Văn
Can và các đồng chí của ông biên soạn và biên dịch làm tài liệu giáo khoa
của Đông Kinh nghĩa thục. Đây là các nguồn tư liệu rất có giá trị để khảo sát
tư tưởng của phong trào Đông Kinh nghĩa thục nói chung và tư tưởng của
Lương Văn Can nói riêng.
Năm 2007, nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đông Kinh nghĩa thục, nhiều bài
viết có giá trị về Lương Văn Can và phong trào Đông Kinh nghĩa thục được
tập hợp trong cuốn sách “Một trăm năm Đông Kinh nghĩa thục và công cuộc
cải cách giáo dục ở Việt Nam hiện nay”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
2008 và cuốn “Một trăm năm Đông Kinh nghĩa thục”, NXB Tri thức, 2008.
Hiện nay, với sự phát triển kinh tế, các học giả chú ý đến tư tưởng giáo
dục đạo đức kinh doanh của Lương Văn Can. Tiêu biểu là các bài viết của
nhà sử học Dương Trung Quốc: “Đạo làm giàu của Doanh nhân”, Báo Diễn
Đàn Doanh Nghiệp số 32, 19/4/2000; bài “Soi lại tấm gương xưa”, Báo Tiền
phong số 205, 13/10/2004… Và cuốn sách: “Lương Văn Can – xây dựng
đạo kinh doanh cho người Việt” (Bộ sách Đạo kinh doanh Việt Nam và thế
giới), NXB Trẻ, 2007 của tác giả Nguyễn Thị Hồng Nhung. Đáng chú ý, gần
5
đây có bài viết: “Giáo khoa thư của doanh nhân Việt xưa” của tác giả Tôn
Thất Thọ đăng trên Tạp chí Xưa & Nay, số 375, 3/ 2011.
Nhìn tổng quát lại, các công trình nghiên cứu trên đây đã tập trung làm
rõ tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp thơ văn, các trước tác của Lương Văn Can rất
có giá trị. Tuy nhiên, tập trung chuyên sâu nghiên cứu nguồn gốc của sự hình
thành, nội dung cơ bản của tư tưởng Lương Văn Can một cách hệ thống,
toàn diện như một cách đặt vấn đề tìm hiểu bước chuyển đổi tư tưởng của
người Việt Nam đầu thế kỷ XX và đánh giá đóng góp của nó đối với lịch sử
tư tưởng Việt Nam thì đến nay chưa có công trình nào thực hiện. Bởi vậy,
tiếp cận từ góc độ lịch sử tư tưởng Việt Nam, chúng tôi mong muốn đóng
góp phần nào vào việc làm rõ bước chuyển đổi của tư duy mới dân tộc vào
đầu thế kỷ XX qua trường hợp Lương Văn Can.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi xác định mục tiêu nghiên cứu là:
Trình bày hệ thống hóa về nguồn gốc và nội dung tư tưởng duy tân, đổi
mới giáo dục, văn hóa – tư tưởng của Lương Văn Can (trong thời kỳ làm
hiệu trưởng của Đông Kinh nghĩa thục (1907 – 1908), và nhất là tư duy đổi
mới kinh tế của ông ở giai đoạn 1922 – 1927.
Để thực hiện được mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Phân tích tiền đề và nội dung tư tưởng duy tân của Lương Văn Can
trong giai đoạn làm hiệu trưởng Đông Kinh nghĩa thục. Tập trung phân tích
nội dung đổi mới tư duy kinh tế của ông giai đoạn 1922 – 1927.
- Nhận xét, đánh giá về vai trò những giá trị tiến bộ và hạn chế trong tư
tưởng của Lương Văn Can.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn thực hiện dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu:
6
Các phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học vận dụng vào nghiên cứu
lịch sử tư tưởng Việt Nam cụ thể như phân tích – tổng hợp, lịch sử – logic,
hệ thống – cấu trúc, đối chiếu so sánh…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng duy tân của Lương Văn Can
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động và các tác phẩm của Lương Văn Can
trong thời kỳ làm hiệu trưởng Đông Kinh nghĩa thục (1907 – 1908) và sau
Đông Kinh nghĩa thục (1922 – 1927). Đặc biệt thể hiện trong hai tác phẩm
“Thương học phương châm” và “Kim cổ cách ngôn”.
6. Đóng góp của luận văn
- Phân tích một cách biện chứng mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai
cấp trong xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ XX để thấy
rõ chuyển biến mới, những yêu cầu mới của thực tiễn. Đó là cơ sở, căn cứ
khách quan cho sự hình thành những nội dung tư tưởng duy tân của Lương
Văn Can như là bước chuyển mới của tư duy dân tộc.
- Hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển tư tưởng và nội dung cơ
bản tư tưởng duy tân của Lương Văn Can. Đặc biệt, tập trung đi sâu nội
dung tư tưởng đổi mới tư duy kinh tế của ông thể hiện rõ trong giai đoạn
1922 – 1927. Chỉ ra vai trò, ý nghĩa tư tưởng duy tân của Lương Văn Can
trong lịch sử tư tưởng dân tộc.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng
dạy, học tập, nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam – đặc biệt là những ai
quan tâm đến giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phần nội
dung chính của luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1: Những nhân tố tác động đến sự hình thành, phát triển tư
tưởng của Lương Văn Can
Chương 2: Nội dung tư tưởng duy tân của Lương Văn Can
7
CHƢƠNG 1:
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN TƢ TƢỞNG CỦA LƢƠNG VĂN CAN
1.1 Bối cảnh trong và ngoài nƣớc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
1.1.1 Tình hình Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
a. Xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa, nửa phong kiến
Trong những thập kỷ cuối của thế kỷ XIX, chế độ phong kiến ở Việt
Nam đang bước sang giai đoạn khủng hoảng suy vong, tan rã. Nền kinh tế
chủ yếu của Việt Nam là kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trì trệ do chính sách
“bế quan tỏa cảng” của triều Nguyễn.
Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, tình hình thế giới đầy biến động đã
tác động mạnh mẽ vào nước ta. Chủ nghĩa đế quốc bằng việc bành trướng ra
thị trường khắp các châu lục, làm cho mâu thuẫn giai cấp ở các nước cũng
như mâu thuẫn giữa các nước đế quốc và thuộc địa ngày càng gay gắt. Và
Việt Nam cũng buộc đón “một vị khách không mời mà đến” khi năm 1858,
thực dân Pháp nổ súng đầu tiên tại Đà Nẵng, đánh dấu sự xâm lược nước ta
và dần dần đặt ách thống trị hết sức hà khắc lên nhân dân ta, biến nước ta
thành một đất nước thuộc địa, nửa phong kiến.
Hiệp ước Hácmăng (1883) và Patơnốt (1884) ký giữa triều đình Huế và
chính phủ Pháp dưới áp lực quân sự của tư bản Pháp đã đánh dấu sự sụp đổ
hoàn toàn của nhà nước phong kiến Việt Nam và sự đầu hàng của triều
Nguyễn trước sự tấn công của chủ nghĩa tư bản phương Tây, công nhận sự
bảo hộ lâu dài của người Pháp ở Việt Nam.
Sau khi cơ bản hoàn thành “công cuộc chinh phục và bình định Việt
Nam”, thực dân Pháp hầu như đã thắng thế tuyệt đối. Dựa vào sức mạnh
quân sự và chính trị đã được xác lập ở các nước thuộc địa, kết hợp với đà
phát triển mới của chủ nghĩa đế quốc Pháp từ những năm 80 của thế kỷ trước
8
sang những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, thực dân Pháp đã bắt tay ngay vào
việc khai thác, bóc lột nhân dân Việt Nam một cách ráo riết để thực hiện
mục tiêu kinh tế – mục tiêu tối thượng của hành vi xâm lược. Dưới tác động
của chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897–1914) của thực dân
Pháp, cơ cấu kinh tế Việt Nam đã bắt đầu thay đổi. Phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa được đưa vào Việt Nam phối hợp với quan hệ cũ bóc lột
phong kiến, và trong bối cảnh đó Việt Nam đã trở thành một xã hội thuộc
địa, nửa phong kiến ngày càng rõ rệt, bảo đảm siêu lợi nhuận cao và nhanh
cho chủ nghĩa đế quốc Pháp.
Về kinh tế: Thực dân Pháp không xóa bỏ chế độ phong kiến mà lợi
dụng nó để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa. Vì vậy, sự ra đời của hình
thức tư bản ở nước ta không phải trên cơ sở tiêu diệt chế độ phong kiến,
ngược lại quan hệ kinh tế cũ được duy trì và củng cố. Điều đó làm chậm sự
phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta.
Thực dân Pháp thực hiện thống nhất tài chính toàn Đông Dương, nguồn
thu chủ yếu là các loại thuế đè nặng lên nhân dân Đông Dương. Tư bản nước
ngoài đầu tư chủ yếu vào Việt Nam là của Pháp, nguồn vốn tập trung cho hai
ngành nông nghiệp và công nghiệp. Các ngành công nghiệp khai khoáng, sửa
chữa, chế biến, lắp ráp, khai mỏ,… lần lượt ra đời, hình thành một số khu
công nghiệp như Hồng Gai, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lào Cai…
Hệ thống giao thông đường sắt, đường thủy, đường bộ, hàng không,…
được thực dân Pháp đầu tư xây dựng phục vụ cho việc vận chuyển các sản
phẩm và hàng hóa Pháp khai thác, đồng thời là phương tiện để đưa quân đội
đến những nơi cần thiết đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân. Thương
nghiệp cũng du nhập những hình thức phân phối khác hẳn thời quân chủ, đó
là các cửa hàng đại lý chuyên doanh, các cửa hiệu bách hóa, hiệu buôn…
Gắn với những nhân tố kinh tế mới ấy là sự quản lý các đô thị theo kiểu
phương Tây với nhiều công trình kiến trúc mới.
9
Ở nông thôn, chính sách tập trung và cướp đoạt ruộng đất lập các đồn
điền cao su, cà phê của chính quyền thực dân đã làm cho cơ cấu sở hữu đất
đai thay đổi và nông thôn Việt Nam bắt đầu rạn vỡ dưới tác động này.
Như vậy, sự du nhập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của thực
dân Pháp vào nước ta đầu thế kỷ XX dù dưới hình thức thực dân, phân tán,
nặng về vơ vét bóc lột nhưng đã làm xuất hiện các nhân tố kinh tế mới mà
hàng ngàn năm phong kiến chưa xuất hiện. Kinh tế Việt Nam có bước
chuyển biến trên các lĩnh vực, nhưng lại đặt trong vòng kiềm tỏa của các
quan hệ kinh tế cũ nên tạo ra một cơ cấu kinh tế què quặt, mất cân đối dẫn
đến sự phân hóa thiếu triệt để trong cơ cấu giai cấp.
Về chính trị: Thực dân Pháp chủ trương duy trì chế độ thực dân, nửa
phong kiến, dùng bộ máy phong kiến chuyên chế lạc hậu làm công cụ thống
trị, đàn áp các phong trào phản kháng của nhân dân ta.
Với kinh nghiệm lọc lõi của tên trùm thực dân, để cai trị dân tộc Việt
Nam có truyền thống yêu nước từ ngàn năm với sức mạnh đoàn kết to lớn,
thực dân Pháp đã thực thi những chính sách thâm độc, như “chia để trị” đặt
ra ba chế độ chính trị khác nhau cho ba miền đất nước, áp dụng chính sách
“Dùng người Việt Nam trị người Việt Nam”, duy trì bộ máy vua quan phong
kiến làm công cụ áp bức nhân dân. “Để bóc lột nhân dân lao động, chủ yếu
là nông dân nước ta, đế quốc Pháp không phá bỏ chế độ phong kiến, để cho
chủ nghĩa tư bản phát triển tự do, trái lại chúng rất cần duy trì chế độ phong
kiến đó. Chúng nuôi dưỡng chế độ phong kiến chính là để bóc lột theo lối tư
bản chủ nghĩa một cách nặng nề hơn, mạnh và nhiều hơn” [18, 22].
Đối với làng xã cổ truyền, chúng duy trì tổ chức bộ máy quản lý cũ kỹ
lạc hậu, cột chặt nông thôn Việt Nam trong vòng nô dịch, lệ thuộc. Thực dân
Pháp đã không “quấy rầy” hay “phá hoại” các tổ chức làng xã cổ truyền mà
biến chúng thành công cụ bình định và cai trị nước ta.
Cùng với việc tận dụng triệt để triều đình phong kiến bất lực, thông qua
bộ máy của nó, để nắm lấy xã thôn, chúng thả lỏng cho bọn hương chức,
10
cường hào mặc sức bóc lột, đàn áp người nông dân. Chúng ý thức rõ ràng về
khả năng sử dụng các công cụ phong kiến ở nông thôn nước ta thời đó. “Cơ
cấu vững chắc của làng xã An Nam được hoàn toàn tôn trọng và còn cần
phải được duy trì triệt để sau này cho việc cai trị của chúng ta được dễ dàng.
Nhờ có tổ chức này, trước mặt chúng ta không phải hàng triệu cá nhân cần
phải chú trọng đến nhu cầu, quyền lợi, tình cảm, mà chỉ còn lại vài ngàn tập
thể tổ chức chặt chẽ và có kỷ luật, liên hệ với chúng ta theo đơn vị từng khối
mà chúng ta chỉ cần biết có hội đồng kỳ mục mà thôi. Tổ chức cộng hòa bé
nhỏ tự trị trong giới hạn những quyền lợi địa phương của làng xã An Nam bớt
cho Chính phủ phần lớn những khó khăn và công việc cần thiết…” [40, 29].
Với mục đích nô dịch và bóc lột về kinh tế, thực dân Pháp một mặt duy
trì các quan hệ kinh tế cũ, mặt khác chúng tìm mọi cách để đem một cơ cấu
kinh tế đế quốc bao trùm lên cơ cấu kinh tế cũ. Sau khi thực thi chính sách
khai thác thuộc địa, kinh tế Việt Nam trở thành nền kinh tế bị hút vào quỹ
đạo tư bản chủ nghĩa, nhưng là thứ “chủ nghĩa tư bản sân sau”, là một thị
trường độc chiếm, là nơi cung cấp nguyên liệu, nhân công rẻ mạt, là nơi xuất
các vốn thừa của tư bản Pháp.
Về văn hóa – giáo dục: Thực dân Pháp hiểu rõ sức mạnh súng đạn chỉ
nhất thời khuất phục được người Việt Nam, cai trị bằng văn hóa sẽ lâu bền
hơn, trong đó giáo dục là một vũ khí lợi hại nhất. Do vậy, ngay từ khi chiếm
được Việt Nam, Pháp đã chú trọng xây dựng nền văn hóa – giáo dục thực
dân cho người bản xứ. Chúng chủ trương duy trì chế độ vua quan với nền
Nho học bảo thủ, lạc hậu để mê hoặc, ru ngủ dân trí Việt Nam. Nhưng, “từ
truyền thống tốt đẹp của dân tộc lại nảy nở tại những vùng “đất học” đội ngũ
trí thức, văn thân có tinh thần yêu nước, có sức phản kháng chống lại sức
mạnh bạo tàn của chủ nghĩa thực dân chuyên chế” [40, 30]. Nhận thức được
mối quan ngại đó, thực dân Pháp tìm mọi cách từng bước loại bỏ ảnh hưởng
to lớn của các trí thức văn thân, loại bỏ ảnh hưởng của các giá trị văn hóa
dân tộc, thiết lập nền giáo dục ngu dân và đồng hóa. Năm 1906, Toàn quyền
11
Paul Beau chủ trương tiến hành cải cách giáo dục toàn liên bang và Nha học
chính Đông Dương. Đồng thời, trong năm đó, triều đình Huế ra chỉ dụ thừa
nhận nền giáo dục Pháp – Việt của thực dân Pháp. Mục tiêu của nền giáo dục
nhằm tuyên truyền cho chiêu bài khai hóa văn minh, đào tạo đội ngũ những
người thừa hành các nhiệm vụ và khai thác thuộc địa. Tuy vậy, nền giáo dục
mới không mấy kết quả, nó gặp phải sự tẩy chay của người Việt Nam. Với
người Việt Nam, yêu nước là chống đối và bất hợp tác với thực dân Pháp.
Việc đi học ở trường Pháp khác nào là sự phản bội Tổ quốc. Sẽ là một
nghịch lý lớn khi các sĩ phu vừa cho con đến trường Tây học lại vừa cầm
súng đánh Tây. Pháp không thực hiện được ý đồ lợi dụng giáo dục phong
kiến cũ để phục vụ cho công cuộc thực dân hóa, cuối cùng, chúng ra lệnh bãi
bỏ khoa cử ở Bắc Kỳ vào năm 1915 và ở Trung Kỳ vào năm 1918. Bởi vậy,
đại đa số nhân dân đói nghèo bị bủa vây trong u tối, trì trệ, thất học.
Dưới tác động của chương trình khai thác bóc lột thuộc địa lần thứ nhất
(1897 – 1914) của tư bản Pháp được đẩy mạnh trên quy mô lớn với tốc độ
nhanh, một cách có hệ thống, Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đã biến đổi ngày
càng rõ rệt về cả hai mặt cấu trúc kinh tế và cơ cấu xã hội.
b. Sự phân hóa giai cấp trong xã hội Việt Nam
Thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác trên quy mô lớn từ đầu thế kỷ XX
đã làm cho nhân dân lao động bị bần cùng hóa, xã hội phân hóa ngày càng
sâu sắc, nông thôn và thành thị đều có những chuyển biến rõ rệt. Những biến
đổi về cơ cấu xã hội tất yếu có ảnh hưởng đến tư tưởng của người Việt Nam,
đến tính chất của cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta diễn ra trong
giai đoạn đó và sau này. Xã hội Việt Nam có sự phân hóa của các giai cấp,
tầng lớp cũ và mới:
Giai cấp địa chủ phong kiến: vốn là giai cấp cũ tồn tại lâu đời trong xã
hội phong kiến Việt Nam. Đại bộ phận giai cấp này đã bất lực thỏa hiệp và
đầu hàng, lại được thực dân Pháp nâng đỡ nên ưu thế kinh tế và chính trị của
địa chủ Việt Nam tăng lên. Chúng trở thành chỗ dựa vững chắc cho thực dân
12
Pháp trong công cuộc khai thác thuộc địa và duy trì trật tự xã hội có lợi cho
chúng. Tuy vậy, vẫn có một bộ phận có tinh thần yêu nước, cảm thông với
nỗi thống khổ của nhân dân lao động, nhưng họ bất lực. Một số tỏ ra bất hợp
tác, bi quan, yếm thế, quay lưng với thực tại. Một số khác, do hoàn cảnh bắt
buộc phải ra làm quan, nhưng để chờ thời hoặc che mắt thiên hạ. Họ sẵn
sàng cáo quan về ở ẩn khi bị bức bách. Trong số họ có một số không chịu
biến đổi, “trung thành” với tư tưởng phong kiến một cách cố chấp.
Giai cấp nông dân: Là giai cấp chiếm đại đa số trong nhân dân phải
gánh chịu tình cảnh “vua là tượng gỗ, dân là thân trâu”. Họ bắt đầu bị quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chi phối. Tư bản Pháp và bè lũ phong kiến tay
sai trắng trợn cướp đoạt ruộng đất trên quy mô lớn để lập các đồn điền nông
nghiệp. Ruộng đất bị tập trung cùng với nạn sưu thuế, phu phen, tạp dịch
nặng nề làm cho đời sống của nông dân ngày càng khốn khổ. Họ mang trong
mình truyền thống đấu tranh bất khuất của một dân tộc anh hùng, để rồi đây
sẽ là người tiếp nhận và thực hiện các tư tưởng đấu tranh đòi độc lập, tự do,
đòi dân sinh, dân chủ, là đội quân hùng hậu cho các phong trào cách mạng.
Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở vào buổi giao thời,
xét về mặt phân hóa giai cấp, ngoài các giai cấp cũ của xã hội phong kiến là
địa chủ và nông dân, đã bắt đầu hình thành những giai cấp và tầng lớp mới,
trước hết là giai cấp tư sản và vô sản.
Giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, đang trong quá trình hình thành, tập hợp, còn là giai cấp “tự nó”;
phải đến sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) mới dần dần trở
thành giai cấp “vì nó” và “cho nó”. Họ phần lớn xuất thân từ nông dân, trở
thành công nhân từ nhiều con đường khác nhau. Một số bị tước đoạt hết tư
liệu sản xuất phải tự tìm đến các hầm mỏ, xí nghiệp kiếm việc. Một số là
“phu” bị cưỡng bức, bị thực dân, phong kiến bắt các làng xã phải giao nộp để
làm các công việc phục vụ chế độ thực dân: xây dựng các công trình giao
thông, công sở… Công nhân chịu sự bóc lột trực tiếp của quan hệ tư bản chủ
13
nghĩa. Tuy còn non trẻ, số lượng không nhiều nhưng giai cấp công nhân Việt
Nam tập trung ở các khu công nghiệp, đô thị. Dưới sự áp bức của thực dân –
phong kiến, trình độ văn hóa khoa học kỹ thuật thấp, nhưng giai cấp công
nhân Việt Nam là đại diện cho phương thức sản xuất mới và có những phẩm
chất tốt đẹp. “Họ là những người sẽ kế thừa những truyền thống bất khuất
của dân tộc, được tiếp thu ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Họ là người
đứng ở vị trí tiên phong tiếp tục cầm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam
để thực hiện thắng lợi hai mục tiêu dân tộc và dân chủ” [40, 36].
Tầng lớp tư sản: Đầu thế kỷ XX, tầng lớp tư sản ở Việt Nam tuy chưa
hội đủ các điều kiện là giai cấp nhưng đã hình thành theo hai kiểu: Xuất hiện
sớm nhất là bộ phận tư sản mại bản – lợi dụng cuộc khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp, câu kết với thực dân Pháp nhanh chóng trở thành tư bản thực
sự. Bộ phận này đứng ra bao thầu, trở thành đại lý phân phối hàng hóa, nhận
cung cấp tiếp tế lương thực, nguyên liệu cho Pháp. Quyền lợi của những
người này gắn chặt với quyền lợi của thực dân Pháp. Một bộ phận nữa có
quan hệ với tư bản nước ngoài nhưng không có điều kiện phát triển, bị chèn ép
nên ở chừng mực nhất định, họ có tinh thần dân tộc, đã có những đóng góp cho
phong trào yêu nước chống thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng dân
chủ tư sản tiến bộ. Trong số này có người làm kinh doanh thương nghiệp để hỗ
trợ cho các hoạt động chính trị, hỗ trợ cho các phong trào yêu nước.
Tầng lớp tiểu tư sản: Cùng với sự mở mang các đô thị và bộ máy hành
chính, sự nghiệp của chính quyền thực dân, tầng lớp tiểu tư sản thành thị
cũng đã ra đời. Họ là các nhà tiểu thương, tiểu công nghệ, những người làm
việc ở các sở công hay tư, những người làm nghề tự do, học sinh các
trường… Tuy đời sống vật chất của những người này có phần khá hơn so với
các tầng lớp khác nhưng họ cũng bị chèn ép rất nhiều về mặt chuyên môn
nghề nghiệp cũng như chính trị. Các trí thức tiểu tư sản mới hình thành trừ
một số cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp, giai đoạn này một số họ có
những đóng góp tích cực cho việc truyền bá tư tưởng dân chủ tư sản. Nhưng
14
đó là một tầng lớp trung gian, phức tạp, không có hệ tư tưởng riêng, do đó
không có khả năng lãnh đạo cách mạng.
Thực dân Pháp cũng đã mở một số trường học chỉ nhằm đào tạo một số
công chức và kỹ thuật viên cấp thấp. Do đó, trong thời gian đầu thế kỷ XX
tầng lớp trí thức Tây học chưa có mấy người.
Trong những điều kiện lịch sử như trên, bộ phận có tinh thần yêu nước
và tiến bộ trong tầng lớp trí thức Nho học tự nhận lấy trách nhiệm, nhiệm vụ
trong chức năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam (nuôi dưỡng tinh thần yêu
nước của nhân dân, tố cáo tội ác của giặc, tiếp thu tư tưởng mới, đưa ra
đường lối cứu nước…). Vào thời điểm đầu thế kỷ XX, bộ phận này của tầng
lớp trí thức Nho học là những người có khả năng nhất trong việc vận động
phong trào cứu nước và học hỏi, tiếp thu các tư tưởng mới. Tự giác hay
không tự giác, họ đã đảm nhận sứ mệnh mà lịch sử giao cho họ trong buổi
giao thời của xã hội.
Sự khủng hoảng về ngọn cờ lãnh đạo cách mạng trong những năm đầu
thế kỷ, trước chiến tranh thế giới thứ nhất, và vai trò của các trí thức Nho học
yêu nước giai đoạn này đã in một dấu ấn sâu đậm vào lịch sử tư tưởng Việt
Nam trước khi dân tộc ta tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin.
Bộ phận yêu nước trong tầng lớp trí thức Nho học mà chúng ta đang nói
tới đã để lại không ít những tấm gương bất khuất sáng chói. Thơ văn của họ
chứa chan tâm huyết của những con người nhiệt thành yêu nước, trăn trở,
suy nghĩ tìm đủ mọi cách để “khai dân trí”, “chấn dân khí”, bất chấp mọi sự
khủng bố dã man của giặc Pháp, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Họ mang trong
mình truyền thống yêu nước của dân tộc. Họ biết chữ Hán và có uy tín trong
nhân dân. Vì thế, một khi chủ nghĩa thực dân đã phá vỡ chính sách “bế quan
tỏa cảng”, giáo dục Nho học cũ của chính quyền phong kiến trước kia, thì họ
có thể tiếp xúc với các sách báo viết bằng chữ Hán từ ngoài, nhất là từ Trung
Quốc du nhập vào nước ta. Nhưng, mặt khác các sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ
XX được đào tạo trong nhà trường Nho học cũ kỹ, tri thức của họ không thể
15
theo kịp thời đại. Họ không biết tiếng nước ngoài nào khác tiếng Trung
Quốc, chỉ có thể tiếp xúc với các tư tưởng mới qua sách báo Trung Quốc.
Do đó, việc tiếp thu tri thức mới của các nhà Nho giai đoạn này bị hạn chế
rất nhiều, họ luôn bị đặt trước nguy cơ chỉ tiếp thu được các học thuyết
phương Tây đã bị “khúc xạ” qua thế giới quan của các tác giả và dịch giả
Trung Quốc.
Sự chuyển biến trong cơ cấu kinh tế và xã hội Việt Nam những năm
đầu thế kỷ XX là nền tảng vật chất cho các luồng tư tưởng mới của phong
trào cách mạng thế giới dội vào.
1.1.2 Tình hình thế giới tác động đến Việt Nam
Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ
giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa) đã tạo ra những mâu thuẫn gay gắt trong lòng xã hội tư bản. Nền kinh
tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó chính
là nguyên nhân sâu xa các nước tư bản phương Tây tiến hành những cuộc
chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương Đông. Vì lợi ích của
các tập đoàn tư bản mà chủ nghĩa đế quốc đã phản lại các mục tiêu lý tưởng
của thời kỳ chủ nghĩa tư bản đang lên. Chúng xuất khẩu tư bản, đầu tư khai
thác thuộc địa đem lại lợi nhuận tối đa cho tư bản chính quốc, trước hết là tư
bản lũng đoạn; làm cho quan hệ xã hội của các nước thuộc địa biến đổi một
cách căn bản. Các nước này bị lôi cuốn vào con đường tư bản thực dân. Sự
áp bức và thôn tính dân tộc của chủ nghĩa đế quốc ngày càng tăng thì mâu
thuẫn giữa dân tộc thuộc địa và thực dân ngày càng gay gắt, sự phản ứng của
các dân tộc thuộc địa càng quyết liệt. Chính sự xâm lược và thống trị của chủ
nghĩa đế quốc ở các thuộc địa lại tạo ra cho các dân tộc bị chinh phục những
lực lượng, phương tiện và phương pháp để tự giải phóng. Sự thức tỉnh về ý
thức dân tộc và phong trào đấu tranh dân tộc để tự giải phóng khỏi ách thực
dân, lập lại các quốc gia dân tộc độc lập trên thế giới chịu tác động sâu sắc
của chính sách xâm lược, thống trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
16
Sự xâm lược của thực dân Pháp vào Việt Nam đã đặt nước ta vào hệ
thống thuộc địa của Pháp trên thế giới. Do đó, Việt Nam chịu tác động dữ
dội của tình hình thế giới bên ngoài hơn bao giờ hết. Đặc biệt, những biến
động mạnh mẽ của các nước trong phạm vi Đông Á, như vận động duy tân
của Minh Trị Nhật Bản (1868), vận động biến pháp duy tân (1898), vận động
dân chủ tư sản (1905 – 1912) ở Trung Quốc, đã tác động lớn đến sự chuyển
biến tư tưởng Việt Nam trong giai đoạn này.
* Ảnh hưởng đến Việt Nam trước hết là sự thức tỉnh của nhân dân
Trung Quốc, chống trả sự xâm lược của các thế lực phương Tây
Việt Nam và Trung Quốc vốn là hai nước có quan hệ chặt chẽ, gần gũi
với nhau. Vì vậy, những chuyển biến mạnh mẽ trong triều chính nhà Thanh
thời kỳ này, các phong trào nhân dân đòi duy tân, cải cách đất nước, đặc biệt
sự kiện Mậu Tuất chính biến (1898), các tư tưởng đổi mới của Khang Hữu
Vi, Lương Khải Siêu, Đàm Tự Đồng… đều có ảnh hưởng gần như trực tiếp,
dội vào Việt Nam. Những nét tương đồng của hoàn cảnh hai nước là điều
kiện cơ bản thuận lợi cho sự du nhập các tư tưởng mới của Trung Quốc vào
Việt Nam.
Từ sau cuộc chiến tranh thuốc phiện (1840), Trung Quốc đã lâm vào
tình trạng của một nước nửa thuộc địa. Vương triều Mãn Thanh suy bại dần,
giai cấp phong kiến phản động Trung Quốc không còn đảm đương nổi sứ
mệnh lịch sử trước quốc gia và dân tộc nữa. Lúc đó, có một số sĩ phu tiến bộ
đã hướng về phương Tây tìm chân lý để cứu nguy cho nước nhà. Để mau
chóng đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới, họ chủ trương chính sách
“khai phóng” (mở cửa) học tập khoa học – kỹ thuật phương Tây tư bản chủ
nghĩa; cải cách kinh tế, chính trị, xã hội, học thuật. Đặc biệt, từ sau Điều ước
Mã Quan (17/4/1895), nguy cơ đối với dân tộc Trung Hoa ngày càng nghiêm
trọng. Các sĩ phu tên tuổi đương thời như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu,
Đàm Tự Đồng, Nghiêm Phục… tiếp tục phát động phong trào đòi cải cách
duy tân đất nước. Họ viết sách báo, sáng lập các học hội, học đường, hiệu
17
sách, nhà xuất bản để giới thiệu nền văn minh, văn hóa phương Tây và
tuyên truyền cổ động cho sự nghiệp duy tân, cải cách ở Trung Quốc. Hoạt
động duy tân đã trở thành một phong trào rộng lớn khắp trong cả nước. Trào
lưu tư tưởng cải cách này đã tác động mạnh mẽ đến vua Quang Tự, trẻ tuổi,
đầy nhiệt tình, lúc đó muốn dựa vào phái cải cách, làm một cuộc duy tân vừa
để thay đổi xã hội Trung Quốc, vừa để thay đổi địa vị lệ thuộc của nhà vua
vào Từ Hy thái hậu. Giữa tháng 6 năm 1898, Khang Hữu Vi được vua
Quang Tự giao cho trách nhiệm nghiên cứu thực hiện công cuộc “Biến
pháp”. Nhưng công cuộc duy tân của Trung Quốc đã bị cản trở bởi lực lượng
bảo thủ do Từ Hy thái hậu cầm đầu. Từ Hy cùng với phe đảng lập mưu truất
ngôi vua và hạ ngục Quang Tự; tự mình đảm nhiệm việc triều chính. Những
người chủ trương Biến pháp bị đàn áp. Biến pháp chỉ tồn tại được khoảng
100 ngày ( từ 11/6 – 21/9/1898), nên thường được sử sách Trung Quốc gọi là
“Bách nhật duy tân” hoặc “Mậu Tuất biến pháp”.
Cuộc vận động duy tân ở Trung Quốc thất bại, vì vậy tác động khích lệ
của nó đối với sĩ phu Việt Nam yêu nước lúc ấy chính là ở tinh thần quả cảm
hy sinh, những cách nhìn mới đối với thời cuộc của sĩ phu ở một đất nước
xưa nay vẫn tự xem mình là trung tâm của thiên hạ và được coi là tiêu biểu
của văn minh phương Đông – một mô hình tham chiếu của Việt Nam.
Mặt khác, “vận động duy tân ở Trung Quốc, bắt đầu với vua Quang Tự,
gặp sự cản trở của thế lực phong kiến, rồi tiếp đến sự xâu xé của các liệt
cường, trải qua nhiều biến cố mới đi đến cuộc cách mạng Tân Hợi. Nhưng
chính cuộc vận động này đã dồn dập xuất hiện nhiều tác phẩm lý luận chính
trị xã hội, làm cho giới Nho sĩ Trung Quốc thức tỉnh, chuyển biến theo
đường lối mới, và ảnh hưởng đến các nước trong vùng. Cả khu vực Đông Á
đang bắt đầu thức tỉnh, trong đó có Việt Nam” [61, 428]. Những diễn biến đó
đã tạo điều kiện khách quan cho sự hình thành phát triển của phong trào Duy
tân ở nước ta đầu thế kỷ XX. Các sĩ phu Việt Nam được làm quen với tư
tưởng dân chủ tư sản phương Tây của Rútxô, Môngtetkiơ qua các tác phẩm
18
của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi… Trên cơ sở những biến đổi kinh tế –
xã hội Việt Nam, cùng với ảnh hưởng của tư tưởng bên ngoài du nhập vào,
tư tưởng tư sản bắt đầu xuất hiện trên vũ đài chính trị nước ta: Duy tân hội,
Đông Kinh nghĩa thục, Việt Nam quang phục hội… ra đời và hoạt động, tuy
chưa dẫn đến thành công nhưng đã phát động phong trào yêu nước rầm rộ
trong toàn quốc, tập hợp được một lực lượng kháng Pháp khá hùng hậu,
chuẩn bị về mặt tinh thần cho các cuộc đấu tranh sau này.
* Sự kiện gây ảnh hưởng lớn đến Việt Nam đầu thế kỷ XX còn là thắng
lợi công cuộc Minh Trị duy tân tại Nhật Bản
Từ sau cuộc Duy tân năm 1868, Nhật Bản đã tiến nhanh sang con
đường tư bản chủ nghĩa. Đầu thế kỷ XX, Nhật Bản trở thành đế quốc mạnh
cùng với các nước đế quốc chủ nghĩa xâu xé Trung Quốc, rồi lấn tới những
vùng đất giàu có của châu Á. Với chính sách bóc lột thậm tệ nhân dân trong
nước kết hợp chặt chẽ với vơ vét tận lực của cải những nơi xâm chiếm được
đã đưa nước Nhật tiến mạnh trên con đường công nghiệp hóa. Trong hoàn
cảnh đó, đời sống nhân dân lao động rất khổ cực khiến thị trường trong nước
bị co hẹp, tư bản Nhật phải tăng cường chính sách xâm lược để tìm kiếm thị
trường mới. Đế quốc Nhật cùng các đế quốc phương Tây chia nhau quyền
lợi ở Trung Quốc, liên hiệp với nhau để đàn áp phong trào cách mạng của
nhân dân Trung Quốc, nhưng lại có mâu thuẫn, tranh giành quyền lợi với
nhau. Sau khi chiếm Triều Tiên, Mãn Châu, Nhật chủ trương gây chiến với
đế quốc Nga cũng đang muốn bành trướng thế lực về phía Đông. Trong thời
gian này, người Việt Nam mới chỉ biết rằng Nhật Bản nhờ khai thương mà
trở nên giàu mạnh. Đầu năm 1904, Nhật bất ngờ tấn công Nga trên biển và
trên bộ, chớp nhoáng đánh bại nước vốn được xếp thứ hai trong bốn cường
quốc của thế giới cũ (Anh, Nga, Pháp, Phổ). Chiến thắng của Nhật có tiếng
vang lớn trên thế giới, nhất là đối với các dân tộc châu Á. Từ lúc này, Nhật
được xem là “cứu tinh” của các dân tộc da vàng. Một xu hướng thân Nhật
phát triển đã ít nhiều có tác động đến tinh thần chống đế quốc ở các nước
19
thuộc địa và nửa thuộc địa của châu Á. Tác phẩm “Nhật Bản tam thập niên
duy tân sử” nói về đất nước Nhật Bản trở nên hùng cường có đủ sức mạnh
chống lại sức mạnh bên ngoài đã thực sự là một tấm gương có sức kích thích
mạnh suy nghĩ của sĩ phu yêu nước Việt Nam lúc đó. Các ông Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh… lần lượt sang Nhật Bản để xem xét, học hỏi và truyền bá
tư tưởng duy tân cho nhân dân, làm thành phong trào Duy tân rộng lớn.
Nếu tấm gương duy tân Nhật Bản kích thích nhà Nho Việt Nam này
một cách sôi nổi thì ở một số nhà Nho khác, ảnh hưởng của cuộc duy tân
Trung Quốc lại có phần đậm đà hơn. “Lý do đơn giản vì sách báo Trung
Quốc vào Việt Nam dễ hơn, đọc nhanh mà cũng hiểu nhanh hơn, chưa thấy
nói có tác phẩm nào của Nhật Bản (bằng tiếng Nhật lưu hành ở nước ta) và
những hiểu biết về Nhật Bản lúc đó, cũng chủ yếu bằng phương tiện ngôn
ngữ của Trung Quốc. Lúc đó, sự nghiệp duy tân của Trung Quốc chưa thành
công, nhưng chính vì thế mà tư tưởng duy tân thêm sôi nổi. Một loạt tác giả
mới, sách báo mới và những hội nghiên cứu, hội chính trị mới ra đời, đều có
ảnh hưởng đến Việt Nam” [61, 429-430]. Tất cả nhất loạt hô hào cái mới, đòi
bỏ chế độ khoa cử, phủ nhận chế độ phong kiến hủ bại, đề cao dân chủ, tán
thành dân quyền. Các tác phẩm phương Tây cổ xúy cho tư tưởng dân chủ
đều được biên dịch và phát hành rộng rãi. Các nhà Nho Việt Nam đã đọc
những sách ấy và hào hứng tiếp thu những kiến giải mà họ cho là hợp lý
nhất, mới nhất và đúng nhất với lịch sử nhân loại tiến hóa. Họ cảm thấy phải
đi theo con đường này, và đó cũng là con đường cứu nước hiệu nghiệm.
Chính làn sóng Tân thư, Tân văn, tức là các sách vở mang nội dung tư
tưởng chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản và văn minh phương Tây,
chủ yếu là các sách viết bằng chữ Hán, theo “mưa Âu, gió Mỹ” tràn vào Việt
Nam gây nên những phân hóa, đổi mới về tư tưởng.
1.2 Tiền đề tƣ tƣởng cho sự hình thành tƣ tƣởng Lƣơng Văn Can
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của Lương Văn Can không
chỉ kế thừa các giá trị truyền thống dân tộc mà còn chịu ảnh hưởng của luồng
tư tưởng dân chủ tư sản được truyền bá vào nước ta qua Tân thư, Tân văn.
20
1.2.1 Tư tưởng truyền thống dân tộc và tư tưởng dân chủ tư sản
a. Những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
* Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam với nội dung chính yếu là
độc lập dân tộc gắn liền với tự do, hạnh phúc của dân
Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam xuất hiện từ rất sớm và
luôn được củng cố, trở thành thứ vũ khí tinh thần cực kỳ mạnh mẽ, đồng thời
là động lực sẵn có của cộng đồng dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Chính từ xuất phát điểm này, người Việt Nam luôn đứng vững trên mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với hạnh phúc của dân để không ngừng sáng
tạo, chọn lọc, tiếp thu, cải biến tri thức của các luồng văn hóa, tôn giáo, triết
học từ bên ngoài vào; sắp xếp theo hệ thống của mình làm cho tư tưởng, tri
thức Việt Nam ngày càng đa dạng, phong phú mà vẫn duy trì được bản sắc
riêng biệt.
Đầu thế kỷ XX, các nhà Nho Việt Nam được dẫn dắt bởi chủ nghĩa yêu
nước truyền thống, họ đã làm cho chính bản thân mình và đem lại cho dân
tộc những đổi mới khá lớn và rõ về tư tưởng khi tiếp thu và truyền bá tư
tưởng dân chủ tư sản phương Tây vào phong trào quần chúng nhân dân.
Do hoàn cảnh lịch sử Việt Nam hết sức đặc thù đã hình thành nên đặc
điểm một lối tư duy là “tái cấu trúc” lại các hệ thống quan niệm ngoại nhập
thành một kiểu “hệ thống” mới, phù hợp với yêu cầu hoàn cảnh của Việt
Nam. Trong đời sống tinh thần của người Việt, một sản phẩm tư duy mới
được hình thành bằng nhiều cách khác nhau: hoặc là đồng thời phá vỡ tính
“quy chuẩn” của hệ thống tư tưởng mới và mở rộng nội hàm của hệ thống tư
tưởng sẵn có, quen thuộc, tiếp tục sử dụng những giá trị tích cực còn đang
phù hợp với yêu cầu thực tiễn mới. Hoặc để chuyển tải nội dung mới trong
buổi đầu tiếp biến tư tưởng, họ mượn tạm vỏ “hình thức” của tư tưởng cũ,
nhào nặn lại một cách sáng tạo. Cách hình thành tư tưởng mới kiểu đặc thù
như vậy trong lịch sử vẫn còn được tái lập, phát huy tại thời điểm đầu thế kỷ
21
XX. Tuy nhiên, chúng tôi muốn nhấn mạnh hơn ở đây rằng, “con đường tiếp
nhận đưa vào hàng loạt các quan niệm, khái niệm mới làm công cụ nhận
thức các vấn đề lịch sử, xã hội, con người từ cấp độ đổi mới thế giới quan và
nhân sinh quan của các phong trào duy tân đầu thế kỷ XX trong đó có Đông
Kinh nghĩa thục không chỉ có ý nghĩa làm cơ sở lý luận chỉ đạo nhận thức và
hành động cho phong trào lúc đó, mà nó còn đóng vai trò công cụ tư tưởng
nâng trình độ tư duy của dân tộc Việt Nam lên một trình độ mới” [58, 42].
Sự học hỏi lý thuyết từ Tân thư, Tân văn luôn đi liền với tư tưởng yêu
nước, cách mạng giải phóng dân tộc, đó là đặc điểm của tư tưởng Việt Nam
cận đại. Vả lại, điều này không có gì lạ. Chủ nghĩa dân tộc, lòng yêu nước là
chuẩn mực để nhào nặn tất cả những tư tưởng ngoại lai và sáng tạo ra những
giá trị mới mang tinh thần dân tộc. Với các nhà Nho duy tân chuyện đó
không lạ và trường hợp Lương Văn Can không ngoại lệ.
* Truyền thống dân chủ làng xã của nhân dân Việt Nam
Trong tiến trình phát triển lịch sử Việt Nam, ý thức về quyền của người
dân được tham gia giải quyết mọi vấn đề của đất nước đã sớm hình thành.
Cơ sở hiện thực của ý thức ấy bắt nguồn từ đặc điểm tồn tại và phát triển của
dân tộc ngay từ buổi đầu dựng nước và giữ nước. Để đảm bảo cuộc sống của
dân tộc, nhân dân ta sớm có ý thức về trách nhiệm của mình trong việc cùng
nhau liên tục chống thiên tai và địch họa. Nhiệm vụ chung ấy đã gắn bó nhân
dân ta lại với nhau, đoàn kết thương yêu nhau trong các cuộc kháng chiến
chống xâm lược, giành và giữ độc lập dân tộc.
Tuy không thể hiện thành hệ thống, nhưng tư tưởng dân chủ ấy luôn
tồn tại trong ý thức mỗi người dân Việt trong cơ cấu làng xã cổ truyền.
Người dân tự tổ chức đời sống của mình và trật tự xã hội được duy trì bằng
phong tục, tập quán. “Nó tạo nên tinh thần dũng cảm, bất khuất trước sức
mạnh thiên nhiên và xã hội, vừa chống lại sự tàn bạo của kẻ xâm lược vừa
không chấp nhận sự bất công, hà khắc của giới cầm quyền ngay trong đất
nước mình” [40, 24].
22
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, khi những tư tưởng dân chủ tư sản
phương Tây được truyền bá vào Việt Nam thì truyền thống dân chủ làng xã
của nhân dân ta đã trở thành cội nguồn tư tưởng dân chủ của các nhà Nho thế
hệ duy tân. Ở họ đã có sự kế thừa truyền thống trọng dân, thân dân trong lịch
sử dân tộc nhưng được nâng lên ở tầm cao mới tương xứng với xu thế của
thời đại.
* Truyền thống đổi mới của dân tộc để tồn tại và phát triển
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của một đất nước luôn phải đối mặt
với những khó khăn thách thức to lớn từ thiên nhiên và địch họa. Nhưng, dân
tộc ta là một dân tộc anh hùng, không khuất phục trước bất kỳ một thế lực
nào. Trên nền tảng tinh thần yêu nước sâu sắc và mãnh liệt, với khả năng tư
duy nhạy bén, linh hoạt, trước những thay đổi lớn lao của thời cuộc gắn với
nhiệm vụ đấu tranh mới, yêu cầu thực tiễn mới, bao giờ cũng có một số
người thức thời – họ là những trí thức tiến bộ nhất của dân tộc trong thời đại
đó – trăn trở suy nghĩ để tìm ra biện pháp đưa dân tộc, đất nước ra khỏi cơn
nguy khốn. Hiện tượng đẹp đẽ này từ thời kỳ phong kiến sang thời kỳ cận
hiện đại đều có. Trong tiến trình phát triển lịch sử dân tộc, có thể kể đến các
cuộc cải cách, đổi mới lớn gắn với tên tuổi của Trần Thủ Độ, Hồ Quý Ly, Lê
Thánh Tông, Đào Duy Từ, Minh Mệnh Và nếu chỉ giới hạn trong thời kỳ
nhà Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng của nước ta sáng chói lên
những nhân vật tiêu biểu như Phạm Phú Thứ, Đinh Văn Điền, Nguyễn
Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Bùi Viện, Đặng Huy Trứ,… Dù khác nhau về
mặt này, mặt khác, nhưng tất cả những con người đó đều thống nhất nhận
định là Nho giáo đã đi vào khủng hoảng, bế tắc, không thể hoàn toàn dựa vào
như một vũ khí toàn năng để cứu nước như thời chống Minh, phá Nguyên,
chống Thanh nữa, mà bằng bất cứ giá nào phải tìm ra con đường canh tân đất
nước, cứu nước mới. Các nhà yêu nước Việt Nam ý thức được rằng, giải
phóng dân tộc và đổi mới xã hội là hai việc thống nhất với nhau. Vì vậy, đầu
thế kỷ XX, trên cơ sở phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
23
tộc, họ hồ hởi, hào hứng đón chào tư tưởng mới từ bên ngoài vào để rồi tìm
cách vận dụng vào công cuộc đổi mới đất nước đặt ra, nhằm mục đích tối
thượng là đưa đất nước, dân tộc tiến lên, có tiềm lực để giải phóng dân tộc.
Trong một chừng mực nào đó, ngày nay nhìn lại, chúng ta có thể xem đó là
như là một sự cố gắng hội nhập vào bối cảnh mới vì lợi ích tối cao của đất
nước, của dân tộc.
b. Tư tưởng dân chủ tư sản từ bên ngoài truyền vào qua Tân thư,
Tân văn
Tư tưởng dân chủ tư sản được truyền bá vào Việt Nam thông qua nhiều
con đường mà trước hết, cũng phải thấy một cách biện chứng là do sự thống
trị của thực dân Pháp, đã trực tiếp du nhập những tư tưởng dân chủ tư sản
với mục đích mị dân, áp bức, nô dịch chính trị nhưng khách quan, nó đem lại
cho người Việt Nam những tư tưởng tiến bộ. Đó là do sự nhạy bén chính trị,
sự thúc đẩy của chủ nghĩa yêu nước truyền thống, người Việt Nam với tư
duy logic của mình đã bóc tách lấy những tư tưởng dân chủ, tiến bộ, có lợi
cho mình trong cuộc đấu tranh chống lạc hậu và áp bức.
Mặt khác, ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây còn được
truyền bá và lan rộng ở nước ta do sự tác động mạnh mẽ của trào lưu tư
tưởng dân chủ tư sản đang phát triển ở Á Đông được mệnh danh “phong trào
châu Á thức tỉnh”, qua sách báo Tân thư, Tân văn từ Trung Quốc, Nhật Bản.
Tân thư, Tân văn là những sách báo chủ yếu viết bằng chữ Hán, giới thiệu về
tư tưởng chính trị, kinh tế, văn hóa, văn minh phương Tây.
Theo con đường Tân thư từ Trung Quốc, Nhật Bản và sự du nhập trực
tiếp của thực dân Pháp, tư tưởng dân chủ tư sản đã được truyền bá vào Việt
Nam. Khi tư tưởng chính trị phong kiến đã thất bại, người Việt Nam bằng
bản lĩnh của mình đã tìm thấy ở đây những yếu tố tiến bộ và mới mẻ nhất là
tư tưởng chống chuyên chế, cùng với những tư tưởng về phát triển kinh tế,
văn hóa, triết học… đã tạo nên sự bừng khởi của các trí thức yêu nước Việt
Nam đang mong tìm ra con đường mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
24
Hơn nữa, ở những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ảnh hưởng phong
trào cách mạng vô sản thế giới chưa có điều kiện vào Việt Nam nên đường
lối dân chủ tư sản được đón nhận một cách nồng nhiệt.
Tân thư, Tân văn quả thật đã có tác động như “hồi chuông tỉnh mộng”,
một ánh sáng soi đường đối với sĩ phu yêu nước Việt Nam lúc bấy giờ. Ý
kiến sau đây của Huỳnh Thúc Kháng là một trong rất nhiều minh chứng:
“Địa ngục mấy tầng, ngọn triều Âu tràn vào ở bốn mặt đồng nội mịt mù, đêm
dài dằng dặc, bỗng đâu gà hàng xóm gáy lên một tiếng, giấc mộng quần
chúng thoạt tỉnh giấc. Sau cuộc Trung – Nhật chiến tranh (1894), Canh Tý
liên binh (1900), người Trung Hoa đã dịch các học thuyết Đông – Tây, sách
báo của các danh nhân như Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi… như trong
buồng tối bỗng chợt thấy ánh sáng lọt vào, những học thuyết mới “cạnh
tranh sinh tồn”, “nhân quyền tự do” gần chiếm cả cái chủ đích môn học khoa
cử ngày trước mà một tiếng sét nổ đùng, có sức kích thích mạnh nhất, thấm
vào tâm não Việt Nam ta là trận chiến tranh 1904 Nhật Bản thắng Nga…”
[84, 24].
Qua Tân thư, Tân văn, các nhà Nho Việt Nam được biết đến chủ nghĩa
tư bản, xã hội phương Tây, thuyết khế ước xã hội của Rútxô, thuyết tam
quyền phân lập của Môngtétkiơ, thuyết cạnh tranh sinh tồn của Đácuyn
Tân thư, Tân văn được viết bằng chữ Hán – ngôn ngữ quen thuộc với các
Nho sĩ nên họ có thể hiểu được những nội dung tư tưởng mới này. Qua lăng
kính của chủ nghĩa yêu nước, phản ánh sát thực trạng xã hội đen tối và yêu
cầu của nhân dân Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến,
trong tư tưởng của các nhà Nho duy tân đã hình thành cách nhìn nhận khác
về phương Tây. “Họ nhận thức ra kẻ thù của dân tộc không chỉ là thực dân,
đế quốc mà còn là chế độ phong kiến đã mục ruỗng, lạc hậu. Lực lượng có
thể đánh đổ kẻ thù, cứu nước là nhân dân. Tiền đồ của đất nước là độc lập,
dân chủ” [31, 222]. Những tư tưởng phương Tây được giới thiệu thông qua
Tân thư, Tân văn so với nội dung thực tế của nó trong nguyên tác ở phương