0 
 
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN 
 *** 
 
 
 
 
TRẦN THỊ THANH THỦY 
 
 
 
 
MOTIP KITÔ GIÁO TRONG 
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA F.DOSTOEVSKY 
 
 
 
 
 
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC 
 
 
 
 
 
 
 
HÀ NỘI – 2009 
1 
  ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN 
 ***    
TRẦN THỊ THANH THỦY    
MOTIP KITÔ GIÁO TRONG 
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA F.DOSTOEVSKY    
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI 
MÃ SỐ: 60 22 30    
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC    
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM GIA LÂM   
HÀ NỘI – 200 
 0  
MỤC LỤC 
Mở đầu…………………………………………………………………… 
3 
Chương 1: Chính thống giáo và chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ 
XIX…………………………………………………………………………  
10 
1.1.1. Kitô giáo……………………………………………………………. 
1.1.2. Chính thống giáo trong hệ thống giáo hội…………………………. 
10 
16 
1.1.3. Kinh thánh và văn học Nga………………………………………. 
27 
1.1.4. Chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ XIX – chủ nghĩa hiện thực Kitô 
giáo?………………………………………………………………………  
33 
Chương 2. Hệ thống quan điểm triết-mỹ của F. Dostoevsky………… 
44 
2.1. Các quan điểm đạo đức-thẩm mỹ và tôn giáo của Dostoevsky về “bản 
chất” con người, về Quỷ, Thượng Đế, sự bất tử…………………………  
45 
2.2. Vаi trò của Thánh kinh trong việc hình thành ý đồ tư tưởng và cấu 
trúc nghệ thuật của “Anh em nhà Karamazov”……………………………….  
59 
Chương 3. Những thủ pháp đưa Kinh thánh vào cấu trúc nghệ thuật 
của tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov…………………………………  
65 
3.1. Tính chất hai bình diện không-thời gian và cốt truyện; …………… 
65 
3.2. Vay mượn trực tiếp cốt truyện và huyền thoại của Thánh kinh…… 
69 
3.3. Những ám gợi và song chiếu của hình tượng nghệ thuật trong mối 
liên hệ với Kinh Thánh…………………………………………………  
77 
3.4. Sử dụng trực tiếp hình tượng từ Kinh thánh………………………. 
83 
3.5. Những chi tiết chân dung nhân vật ……………………………… 
85 
3.6. Biểu tượng và châm ngôn của Kinh thánh trong diễn ngôn của nhân 
vật………………………………………………………………………….  
91 
Kết luận…………………………………………………………………… 
97 
Tài liệu tham khảo……………………………………………………… 
99 
Phụ lục…………………………………………………………………… 
104 
1    
MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
 Sau hai thế kỷ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ sự bất ổn xã hội, văn học 
Nga đã bước vào thời kỳ phát triển vượt trội ở thế kỷ XIX đem tới cho văn 
học thế giới những tên tuổi nổi bật như A.Pushkin, M.Lermontov, N.Gogol, 
L.Tolstoy, F.Dostoevsky, Ivan Turgenev… Chưa khi nào, trong lịch sử, văn 
học Nga lại có sự nỗ lực cách tân sâu rộng và toàn diện trên tất cả các thể loại 
như ở thời kỳ này. Gorky tự hào viết: “Trong lịch sử phát triển của nền văn 
học châu Âu, nền văn học trẻ tuổi của chúng ta là một hiện tượng kì lạ;” 
“không có nơi nào mà chỉ trong non một thế kỉ đã hiện lên cả một quầng sao 
rực rỡ của những tên tuổi vĩ đại như ở Nga và cũng không nơi nào đông đảo 
những nhà văn tuẫn đạo như ở nước ta” [23, 10]. Sau một thế kỷ vàng son, 
văn học Nga đã góp vào kho tàng văn chương thế giới rất nhiều tác phẩm lớn 
mang hơi thở thời đại như Những linh hồn chết, Chiến tranh và hòa bình, Tội 
ác và trừng phạt… Văn học Nga thế kỷ XIX có sự gắn bó chặt chẽ với sự vận 
động và tiến lên của xã hội Nga, phản ánh kịp thời và sâu sắc những biến 
động lớn lao trong đời sống nhân dân Nga. Vì thế, hơn tất cả những thời kỳ 
khác, nhà văn Nga được nhân dân tin yêu tuyên xưng với những tên gọi cao 
quý như “người chiến sĩ”, “nhà lãnh tụ”, “người bảo vệ nhân dân” và là “nhà 
tư tưởng” của dân tộc Nga. 
 Trong lĩnh vực tiểu thuyết, L.Tolstoy và F.Dostoevsky là hai nhà văn 
lớn nhất và được nhiều học giả coi là hai tiểu thuyết gia vĩ đại nhất của mọi 
thời đại. Tư tưởng của họ không những có ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống 
văn học trong và ngoài nước Nga mà còn khơi nguồn sáng tạo cho những trào 
2  
lưu văn học mới xuất hiện ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Tác phẩm của 
F.Dostoevsky đặc biệt ghi dấu sự đấu tranh giữa các học thuyết xã hội chủ 
nghĩa mới đang hình thành và phát triển trong lòng xã hội Nga cũng như châu 
Âu với truyền thống văn hóa của một nước Nga cổ. Nếu L.Tolstoy là nhà văn 
của nhân dân Nga thì Dostoevsky là nhà văn của tư tưởng Nga, luôn tuyên 
xưng một nước Nga mới trong vị thế của một dân tộc được Chúa tuyển chọn. 
Ở Dostoevsky, tinh thần Nga thể hiện đầy đủ và toàn vẹn nhất ngay cả ở 
những khía cạnh dị thường nhất của nó. Dostoevsky không chỉ là nhà tư 
tưởng mà còn là “người quy tụ trái tim Nga” [31, 295], là một người Nga 
chính thống với truyền thống tinh thần và lý tưởng gắn liền với niềm tin yêu 
vô tận đối với Chúa Jesus và Con người. 
 F.Dostoevsky tham gia văn đàn Nga với tác phẩm đầu tiên “Những kẻ 
bất hạnh” (1845) mang bóng dáng của “con người nhỏ bé” trong các tác 
phẩm của Pushkin và Gogol. Tác phẩm ngay lập tức thu hút sự chú ý của dư 
luận xã hội. Nước Nga biết đến một chiều sâu tâm hồn bên trong của những 
“con người nhỏ bé” mà trước đó, ở các tác phẩm Puskin hay Gogol, nó chưa 
toàn vẹn. Tiếp đó, những năm 40 của thế kỷ này, Dostoevsky viết “Trường ca 
Peterburg”, “Người hai mặt” khắc họa sâu thêm bi kịch cuộc đời của những 
con người ở tầng đáy xã hội. Đến “Bút ký từ ngôi nhà chết” (1861-1862), thế 
giới của những “con người biến chất” bắt đầu được khai mở, vấn đề Thiện – 
Ác được miêu tả trong một diễn trình tâm lý phức tạp. Ghersen từng gọi “Bút 
ký từ ngôi nhà chết” là “cuốn sách rợn người” chẳng khác tác phẩm “Địa 
ngục” của Dante hay bức họa “Ngày phán xử cuối cùng” của Mikenlange. Ở 
tác phẩm “Tội ác và trừng phạt” (1866), Dostoevsky đã miêu tả không chỉ sự 
vận động và biến đổi của một nước Nga tư bản mà còn cả những trường tư 
tưởng mới vừa xuất hiện trong lòng xã hội châu Âu. Bên cạnh hình tượng 
“con người nhỏ bé” hay “con người biến chất”, đến tác phẩm này, Dostoevsky 
3  
đã khái quát trọn vẹn hình tượng “con người nổi loạn” với đầy đủ các góc 
cạnh tâm lý cũng như động cơ của nó. Cái Ác và kẻ đồng lõa của nó là nỗi 
thống khổ, một lần nữa, bị lên án gay gắt, bị kết tội rồi bị trừng phạt bằng sự 
sám hối ăn năn trong chính bản thể chứa đựng nó. 
Năm 1880, tác phẩm Anh em nhà Karamazov ra đời mang tới cho thế 
giới chân dung toàn vẹn của kiểu “con người hoài nghi” nổi loạn chống lại 
chính đức tin của mình. Đây là tác phẩm cuối cùng và là một kiệt tác xuất sắc 
nhất của Dostoevsky. Tác phẩm thể hiện đỉnh cao tài năng của nhà văn trong 
việc gắn kết những yếu tố nghệ thuật khác loại, nâng tầm khái quát hiện thực 
lên tầm cao tư tưởng triết lý nhân loại. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết có kết 
cấu minh bạch nhất, giàu chi tiết nhất của ông, nói như Sigmund Freud “đây 
cuốn tiểu thuyết tráng lệ nhất”, là cuốn tiểu thuyết “triết lí” của nhà văn dâng 
hiến cho lý tưởng tôn vinh Con người. Bằng tiểu thuyết và thông qua tiểu 
thuyết, Dostoevsky giải đáp những câu hỏi lớn về vấn đề Đức tin của con 
người trước Đấng tối cao, số phận, bản thân con người, trước quan niệm về sự 
sống, cái chết, cõi thiên đường hay địa ngục trong trường thuyết lý tôn giáo – 
đạo đức sâu sắc. Vì thế chúng tôi lựa chọn và phân tích vấn đề “Motip Kitô 
giáo trong “Anh em nhà Karamazov” của F.Dostoevsky mong góp thêm một 
hướng tiếp cận hữu hiệu đối với kiệt tác này cũng như đối với phong cách 
nghệ thuật tuyệt vời của Dostoevsky. 
 2. Ý nghĩa của đề tài 
 Việc chỉ ra những thủ pháp nghệ thuật đem Kinh Thánh vào tiểu thuyết 
“Anh em nhà Karamazov”, không chỉ góp một cách tiếp cận đối với tác phẩm 
cuối cùng của Dostoevsky mà còn góp phần xác lập phương pháp nghiên cứu 
văn hóa học trong nghiên cứu văn học. 
 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 
4  
 Dostoevsky đột ngột ra đi trong khi vẫn đang còn quá nhiều băn khoăn 
day dứt chưa giải đáp hết với cuộc đời. Không lâu sau một ngành khoa học 
nghiên cứu trước tác của nhà văn vĩ đại này bắt đầu hình thành và phát triển 
không ngừng. Người ta tìm thấy trong tư tưởng của Dostoevsky những thuyết 
lý có tính tiên báo về một thời đại xã hội vượt trước cả thời đại ông và có khi 
còn xa hơn cả thời hiện đại. Dostoevsky khiến người ta say mê hơn là ngưỡng 
mộ, khiến người ta cảm động hơn là thương cảm. Tìm đến tác phẩm của 
Dostoevsky là tìm đến với chính tâm hồn mình, bởi hơn tất cả, lý tưởng vì con 
người ở Dostoevsky luôn được đặt ở vị thế cao nhất, đẹp đẽ và vinh quang 
nhất. 
 Khi Dostoevsky xuất hiện, thế giới ngỡ ngàng và thán phục tài năng 
của ông. Belinsky - nhà phê bình văn học Nga lỗi lạc – đã từng mỉm cười 
hạnh phúc thốt lên những lời ngợi khen sau lần đọc tiểu thuyết đầu tiên của 
Dostoevsky. Rồi khi bình tĩnh lại, người ta hoài nghi Dostoevsky như một 
người “đến để chia rẽ thế giới” bởi tầm vóc của Dostoevsky quá lớn. Người ta 
bắt đầu nghiên cứu tư tưởng của Dostoevsky trong trường Đức tin của ông rồi 
bàng hoàng nhận ra ông hiền lành như một thánh hài đến và đem theo lời tiên 
cảm tốt đẹp cho loài người. Phương Đông nghiên cứu tư tưởng của ông để 
nhận ra mình. Còn phương Tây nghiên cứu ông để nhận ra phần hữu cơ còn 
lại của mình. Nhưng lạ kỳ thay ở Dostoevsky không chỉ có phần phương Tây 
duy lý và thực tế mà còn có cả phần phương Tây duy cảm và hoài nghi không 
ngừng về mọi giá trị của sự tồn tại. Người ta đi đến nhiều sự đồng thuận trong 
việc khám phá tư tưởng của Dostoevsky để rồi từ đó tìm đến nhiều sự đồng 
thuận trong quan điểm về Đức tin và về loài người. 
Cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, một số quan niệm triết học – 
lịch sử, tôn giáo – đạo đức và mỹ học về sáng tác của Dostoevsky được nêu 
lên trong những công trình nghiên cứu của K.N.Leont’ev, N.A.Berdjaev, 
5  
Vjach.I.Ivanov, H.M.Zernovun và những đại diện khác của tư tưởng triết học 
Nga. Những tìm tòi về mặt tôn giáo – đạo đức của Dostoevsky là cái trục mà 
xung quanh nó đã hình thành nền triết lý đạo đức của nước Nga trên ranh giới 
giữa hai thế kỷ góp phần tích cực trong sự phục hưng tinh thần Nga ở đầu thế 
kỷ sau. Những vấn đề về một nước Nga mới và về giới trí thức Nga trong tư 
tưởng của Dostoevsky cũng được phân tích thấu đáo trong trường so sánh đối 
chiếu đối với truyền thống văn hóa Kitô giáo, đặc biệt là Chính thống giáo. 
Cũng theo hướng tiếp cận văn hóa học như vậy, Ernest J. Simmons trong 
cuốn Dostoeski: The making of a novelist và George Pattison, Diane Oenning 
Thompson trong cuốn Dostoevsky and the Christian tradition đã chỉ ra những 
điểm tương hợp về mặt motip trong các tác phẩm của Dostoevsky và Kinh 
Thánh, từ đây khái quát và khẳng định một cách “giải mãi” tư tưởng của ông 
trong chiều sâu tư tưởng của triết học tôn giáo. Vì thế, dù Dostoevsky là nhà 
văn Nga, định cư và sáng tác trên đất Nga nhưng tư tưởng của ông đã gây ảnh 
hưởng sâu rộng đối với một lớp không nhỏ trí thức phương Tây. Dostoevsky 
được coi là nhà tiên tri, nhà tư tưởng vĩ đại không chỉ của nước Nga mà còn 
của cả phương Tây. 
Tuy vậy, lúc sinh thời, Dostoevsky không khi nào nhận mình là một 
nhà tư tưởng hay một nhà xã hội chủ nghĩa. Ông chỉ nhận mình là một nhà 
văn vì con người. Gắn mình vào dòng chảy bất tận của tín ngưỡng Chính 
thống giáo Nga, Dostoevsky rao giảng những tín hiệu về thời đại công bình 
mới nơi con người trưởng thành từ cuộc đấu tranh với chính mình chiêm 
nghiệm và làm chủ những nguyên tắc đạo đức được gìn giữ trong văn hóa 
truyền thống. 
 Ở Việt nam, tác phẩm Tội ác và trừng phạt là tác phẩm đầu tiên của 
Dostoevsky được dịch sang tiếng Việt. Đó là những năm 80, sau khi rất nhiều 
tác phẩm của các nhà văn Nga khác như Gogol, L.Tolstoy, Chekhov … được 
6  
dịch và đọc rộng rãi trong giới trí thức. Có lẽ thế giới trong văn Dostoevsky 
đối với độc giả Việt nam lúc đó còn là quá xa lạ, con người trong văn 
Dostoevsky còn quá kỳ dị mà độc giả thì lại đang quen với văn phong nhẹ 
nhàng đậm chất lãng mạn ảnh hưởng từ phong cách Pháp. Tuy vậy, nhiều 
người trong giới trí thức đã đọc Dostoevsky và say mê ông từ trước thời kỳ 
đó. Nhờ có việc chuyển ngữ, đặc biệt từ hai ngôn ngữ tiếng Pháp và tiếng Nga 
và một số các tác phẩm của Dostoevsky được giới thiệu rộng rãi hơn ở Việt 
nam. Bên cạnh việc đọc và say mê Dostoevsky, người đọc Việt nam dần được 
tiếp cận với những chuyên luận nghiên cứu về thi pháp nghệ thuật 
Dostoevsky được dịch ra tiếng Việt như Những vấn đề thi pháp Dostoevsky 
(Bakhtin) và Dostoevsky cuộc đời và sự nghiệp (L.Grossman) hay tổng tập 
các bài viết, bài nghiên cứu về tư tưởng của Dostoevsky như Sáng tác của 
Dostoevski – những tiếp cận từ nhiều phía và Ba bậc thầy Doxtoevxki, 
Balzac, Đickenx (Stefan Zweig). Những bài viết về vai trò và tầm ảnh hưởng 
sâu rộng của Dostoevsky đối với nước Nga và đối với phương Tây nói chung 
cũng được dịch và đăng tải rộng rãi trên các tạp chí chuyên ngành, trong đó, 
nổi bật nhất là bản dịch Ba diễn từ tưởng niệm Dostoevsky (Vladimir 
Soloviev) của Phạm Vĩnh Cư đăng trên tạp chí Văn học nước ngoài số 6 năm 
2001 và Tâm hồn Nga (N.A.Berdiaev) đăng trên tạp chí Văn học nước ngoài 
số 6 năm 2003. Các tác phẩm của Dostoevsky bắt đầu được giới nghiên cứu 
văn học Việt nam quan tâm và phân tích không chỉ bằng phương pháp tự sự 
học hay thi pháp học mà gần đây, còn được soi chiếu dưới cái nhìn từ phía 
văn hóa học. Tuy chưa có công trình nào được dịch hoặc được nghiên cứu đi 
vào nghiên cứu một tác phẩm cụ thể của Dostoevsky bằng phương pháp văn 
hóa học nói trên nhưng những tư tưởng của Dostoevsky về tôn giáo và văn 
hóa truyền thống Nga luôn được các nhà nghiên cứu nói tới như một đặc điểm 
7  
không thể bỏ qua khi khái lược về phong cách nghệ thuật cũng như cuộc đời 
và sự nghiệp của nhà văn vĩ đại này. 
Vì thế, công trình nghiên cứu những ảnh hưởng của truyền thống Kitô 
giáo trong tiểu thuyết Nghệ nhân và Magarita của Bulgacov của PGS. TS. 
Phạm Gia Lâm đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 2 năm 2007 đã gợi ý 
cho chúng tôi một cách thức nghiên cứu tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov 
trên cơ sở tổng hợp và phân tích những thủ pháp nghệ thuật đưa Thánh Kinh 
vào tiểu thuyết như là một phương tiện hữu hiệu nhất để biểu đạt tư tưởng của 
Dostoevsky. 
 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
 Luận văn sẽ sẽ tập trung vào tổng hợp và phân tích những thủ pháp đưa 
Thánh kinh vào cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm Anh em nhà Karamazov 
như không – thời gian, cốt truyện huyền thoại, hình tượng nghệ thuật và cách 
sử dụng biểu tượng và châm ngôn Kinh thánh trong diễn ngôn của nhân vật… 
qua đó làm rõ hệ thống quan điểm triết học – mỹ của nhà văn. 
 5. Phương pháp nghiên cứu 
 Chúng tôi sẽ áp dụng tổng hợp các phương pháp tiếp cận văn bản như 
tiếp cận liên văn bản, văn hóa học, thi pháp học, thi pháp học lịch sử… và 
những thao tác cụ thể như so sánh, thống kê… để tìm ra những đặc điểm thi 
pháp của Dostoevsky trên cơ sở phân tích những mối liên hệ và ảnh hưởng 
của Kinh Thánh đối với cấu trúc của tác phẩm Anh em nhà Karamazov. 
6. Cấu trúc luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu 
3 chương: 
Chương 1: Chính thống giáo và chủ nghĩa hiện thực Nga thế kỷ XIX 
Chương 2: Hệ thống quan điểm triết – mỹ của F.Dostoevsky 
8  
Chương 3: Những thủ pháp đưa Kinh thánh vào cấu trúc nghệ thuật của 
Anh em nhà Karamazov  
Chương 1: 
Chính thống giáo và chủ nghĩa hiện thực Nga 
thế kỷ XIX 
1.1. Chính thống giáo trong hệ thống giáo hội 
1.1.1. Kitô giáo 
 Kitô giáo là một trong ba tôn giáo lớn nhất và lâu đời nhất khởi nguồn 
từ Abraham, bên cạnh Do Thái giáo và Hồi giáo. 
 Abraham, theo truyền thuyết ghi lại trong sách Sáng thế ký của Thánh 
Kinh, là tổ phụ của dân Do Thái và dân Ả rập, được chính Thiên Chúa gọi và 
phán rằng: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ 
cho ngươi” (18, 51). Và ông Abraham đã ra đi theo lời mà Đức Chúa đã phán 
với ông, đến vùng đất Canaan – vùng đất mà ở đó Đức Chúa đã xác lập một 
giao ước với ông về dòng dõi của ông và vùng đất của họ. Từ đây, dòng dõi 
của ông Abraham cũng xác lập một giao ước tôn thờ duy nhất một Thiên 
Chúa là Đức Chúa tại vùng Canaan thuộc Palestin thông qua nghi thức cắt bì 
nơi bao quy đầu. Điều này có nghĩa rằng, Đức Chúa đã xác lập một tôn giáo 
duy nhất lên dòng tộc xuất phát từ Abraham. Điều này cũng có nghĩa rằng các 
dân tộc khởi nguồn từ Abraham đã xác quyết một niềm tin tuyệt đối vào Đức 
Chúa là Thiên Chúa của mọi tạo vật. 
 Do Thái giáo là nền tảng cơ bản của Kitô giáo và Hồi giáo và là gốc 
đạo của người Do Thái. Do Thái giáo thiết lập niềm tin dựa trên giao ước giữa 
Thiên Chúa và ông Abraham trong kinh Cựu Ước và tuyệt đối tôn trọng việc 
học hỏi các tín điều đã ghi trong Ngũ thư Kinh thánh hay còn gọi là sách 
9  
Torah gồm 5 quyển đầu của Cựu Ước là Sáng thế – Xuất hành – Lê vi – Dân 
số – Đệ nhị luật. Ngoài ra, nó còn tiếp nhận một hệ thống văn bản khác làm 
Sách Thánh giúp cho việc định chế các tín luật nghiêm khắc cho cộng đồng 
Do Thái. 
 Vào khoảng năm 33 sau CN, cách Jerusalem – thủ phủ của đạo Do Thái 
– không xa, có một người không rõ nguồn gốc, tên là Jesus Christ đã bị chính 
quyền La Mã xử tội hành hình với hình thức cao nhất là đóng đinh câu rút lên 
cây thập giá về tội truyền bá niềm tin rằng có một Vương quốc Thánh thần – 
Vương quốc của Thiên Chúa và có một Đấng cứu tinh chính là Jesus Christ 
xuất hiện để lãnh đạo dân tộc Do Thái đứng lên đoạt lại tự do và xây dựng 
Vương quốc của Thiên Chúa trên quê hương của họ. Sau cái chết của Jesus, 
những tông đồ của Jesus ngỡ ngàng nhận ra rằng Vương quốc mà Thiên Chúa 
hứa cho dân tộc Do Thái và những dân tộc khác theo lời Jesus không hề tồn 
tại. Tuy vậy, việc Đấng Jesus sống lại vào ngày thứ ba sau cuộc hành hình để 
truyền giảng cho các tín đồ của Ngài về Nước Chúa lại củng cố niềm tin cho 
họ và giúp họ vượt qua khỏi những bách hại tàn khốc của những người theo 
Do Thái giáo khác. Cuộc hành hình và sự phục sinh của đấng Jesus Christ 
được thuật lại trong sách Phúc Âm, còn gọi là sách Tân Ước, gồm 4 cuốn Tin 
Mừng Mathew, Maco, Luca và Gioan. Từ Jesus Christ, một đạo giáo mới 
hình thành gọi là Kitô giáo (Christiany) hay còn gọi là Cơ Đốc giáo. 
 Người khởi xướng và có công truyền bá đức tin Kitô ra các cộng đồng 
khác ngoài Do Thái là Thánh Paul (Saul, Phao – lô, Sứ đồ Phao – lô). Paul là 
người Israel thuộc chi phái Benjamin, có quốc tịch La Mã. Paul, cũng như 
những tín đồ Do Thái khác đều thất tin ở học thuyết của Đức Jesus nên coi 
Kitô giáo như một dị giáo ngoài Do thái giáo. Nhưng chính bản thân Paul, 
trên đường đi bức hại những tín đồ Kitô giáo ở thành Damacus, đã trải qua 
một cuộc cải hoàn kỳ diệu từ một người mắc chứng mù lòa trở nên sáng mắt 
10  
trở lại. Paul coi đây là ơn huệ đặc biệt mà đấng Messiah – Jesus tối cao đã 
dành cho ông. Từ đây ông chấp nhận cải đạo Thiên Chúa, chấp nhận Jesus là 
hiện thân xác thịt của Thiên Chúa và là con của Thiên Chúa. Trong Thư gửi 
tín hữu Roma, Thánh Paul viết rằng: “Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Đức Kitô 
Jesus; tôi được gọi làm Tông đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của 
Thiên Chúa. Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà 
hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về con của Người là Đức Jesus 
Kitô , Chúa của chúng ta.” Và “Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để 
cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do Thái, sau là người Hy Lạp. Vì 
trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin 
để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được 
sống” [18, 1934] “Người (Thiên Chúa) cũng là Thiên Chúa của các dân ngoại 
(ngoài dân Do Thái) nữa, vì chỉ có một Thiên Chúa, Đấng làm cho người 
được cắt bì nên công chính vì họ tin, và làm cho người không được cắt bì nên 
công chính cũng bởi họ tin” [18, 193]. Bởi người ngoại hay người Do Thái 
đều phải chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa bất kể có Luật Mô-sê, phép cắt bì 
hay có lời hứa của Thiên Chúa hay không. Như vậy là người được cắt bì – tín 
hữu Do Thái giáo theo Cựu Ước, và người không được cắt bì – tín hữu Kitô 
tin vào Chúa Jesus, cũng đều được hưởng đặc ân của Thiên Chúa như nhau 
cũng như cùng được Người trao cho niềm tin để trở nên công chính giống như 
Người như nhau. 
 Paul và mười hai sứ đồ đã lãnh nhận trách nhiệm truyền bá đức tin này 
ra các cộng đồng ngoài Do Thái và cả đối với cộng đồng Do Thái để ai cũng 
được trở nên công chính như Thiên Chúa. 
 Từ thế kỷ đầu tiên sau Công nguyên, cùng với hành trình truyền giáo 
của các tông đồ Kitô, Kitô giáo tách khỏi Do Thái giáo và nhanh chóng lan 
truyền tới những vùng đất mới trong suốt thời kỳ đế chế La Mã, thông qua Ai 
11  
Cập đến Bắc Phi, Sudan; thông qua vùng Lưỡng Hà đến Ba Tư, Nội Á, và Ấn 
Độ; thông qua Hy Lạp và La Mã đến Châu Âu. Hội thánh nguyên khởi được 
xác lập bởi cộng đồng Do Thái và cộng đồng Hy Lạp. Cộng đồng Do Thái 
quy tụ ở Jerusalem muốn duy trì một số tập tục và nghi lễ cổ như lễ cắt bì 
nhằm bảo tồn tôn giáo của mình trong khi cộng đồng Hy Lạp lại chủ trương 
truyền bá đức tin Jesus Kitô tới những vùng đất khác nhau theo những 
phương cách phù hợp hơn. Vì thế mà Kitô giáo, vượt qua khoảng không hạn 
hẹp của thành Jerusalem, vươn tới những vùng đất rộng lớn khác và nhanh 
chóng trở thành quốc giáo của một quốc gia rộng lớn dưới thời Constantine. 
 Trong hơn 300 năm đầu đấu tranh để sinh tồn, Kitô giáo đã vấp phải 
một làn sóng phản đối tàn bạo tại các nước phương Đông, đứng đầu là La Mã. 
Đế quốc La Mã trực tiếp kế thừa đế quốc Hy Lạp do Alexander Đại đế gây 
dựng lên từ thế kỷ thứ III trước CN nên văn minh La Mã thực chất vẫn là văn 
minh Hy Lạp. Dân chúng La Mã, vì vậy, vẫn thờ cúng toàn thể các thần linh 
trong hệ thống các thần Hy Lạp nhất là thần Mặt trời Apolon. Cùng với sự 
bành trướng của đế chế La Mã là sự gia nhập của một số thần của người Ai 
Cập, Hy Lạp hay Ba Tư khác vào hệ thống các thần được thờ cúng như thần 
Mặt trời Mitra của người Ba Tư, Nữ thần phì nhiêu Kibela của Hy Lạp và Nữ 
thần tình yêu Ixida của người Ai Cập. Vì thế việc giáo dân Kitô không tuân 
theo những nghi lễ tôn kính các thần linh của người La Mã là việc không thể 
chấp nhận được. Hoàng đế Neron, năm 60 sau CN, đã quy cho dân theo đạo 
Kitô tội đốt thành La Mã, giam cầm giáo dân và giết chết Thánh Pier và Paul. 
Cuộc tàn sát này ngầm xác quyết một bản án tử hình cho những người theo 
đạo Kitô và mở đầu cho một giai đoạn thanh trừ tôn giáo đẫm máu kéo dài 
cho đến thời hoàng đế Constantine I. 
 Với một Kitô hữu, những đau khổ mà họ nếm trải cũng chỉ giống như 
là đấng Jesus tối cao của họ đã nếm trải. Họ tin vào sự phục sinh trở lại cũng 
12  
như đấng Jesus đã thực sự phục sinh trở lại. Và như thế, con đường đau khổ 
mà cộng đồng Kitô hữu đã đi qua suốt chiều dài 300 năm cũng là con đường 
mà đấng Jesus đã đi, trên đường đến với Nước Chúa, đến với sự Phục Sinh. 
Điều đó có nghĩa rằng các cuộc bách hại chỉ là những đau khổ mà họ phải 
chịu đựng trên đường tới Nước Chúa mà thôi, giống như dụ ngôn của Thiên 
Chúa với ông Abraham: “Ngươi phải biết rằng: dòng dõi của ngươi sẽ trú 
ngụ trong một đất không phải của chúng. Chúng sẽ làm tôi người ta và người 
ta sẽ hành hạ chúng bốn trăm năm. Nhưng Ta sẽ xét xử dân tộc chúng phải 
làm tôi, và sau đó chúng sẽ ra đi với nhiều tài sản” [18, 55] 
Sự kiện hoàng đế Constantine I cùng với các hoàng đế phương Đông 
ký kết chiếu chỉ Milan vào năm 313 đã chấm dứt thời kỳ bách hại khốc liệt 
của các bậc đế vương đối với Kitô giáo, xác lập quyền tự do tôn giáo đối với 
các tín hữu Kitô trên toàn thế giới. Kitô giáo đã giữ vững được sự đồng thuận 
trong cộng đồng tín hữu của mình cũng như các giáo lý nền tảng đến thế kỷ 
này không chỉ vì niềm tin duy nhất vào sự thống nhất các dân tộc trên toàn thế 
giới dưới quyền năng Thiên Chúa mà còn vì niềm tin vào sự bất diệt của Đạo. 
Mỗi cuộc bách hại khốc liệt giáng xuống một cộng đồng Kitô hữu đều cướp 
đi sinh mạng của ít nhất là một người truyền giáo. Nhưng sau mỗi cuộc bách 
hại, sức mạnh của niềm tin lại càng được gia tăng thêm, vững chắc hơn, bởi 
những người tử vì đạo kia là hiện thân cho niềm hy vọng vào sự phục sinh trở 
lại. Và bởi vì đấng Jesus Christ chính là minh chứng xác tín nhất cho sự phục 
sinh thần thánh đó. 
 “Vào năm 324, sau khi hoàng đế Constantine I bình định xong phần 
phía đông của La Mã và tự công nhận mình là người theo đạo Cơ Đốc (Kitô), 
ông đã cho xây dựng trên vùng lãnh thổ Byzantine một thành phố và trong 
thành phố này, ông cho xây dựng một nhà thờ thờ thánh Sophia. Bên cạnh đó, 
hoàng đế Constantine I còn trao thành phố Constantinople trở thành thành 
13  
phố thủ phủ của đạo Cơ Đốc trong vòng 1000 năm. Constantine đã coi việc 
thiết lập sự thống nhất trong hàng ngàn những thần dân theo đạo Cơ Đốc là 
trách nhiệm cứu tinh của mình.” [34, 67] 
 Hoàng đế Constantine I và những đời hoàng đế nối dõi ngài đã dần loại 
trừ những tôn giáo khác, đưa Kitô giáo lên vị trí quốc giáo (năm 380), kêu gọi 
cộng đồng tín hữu liên kết lại dưới một mái nhà tôn giáo chung cho tất thảy 
mọi người. 
 Đạo Kitô trở nên hấp dẫn như vậy là do ngay từ khi vươn ra khỏi Do 
Thái giáo, Kitô giáo đã có xu hướng thu nạp vào nó những giá trị nhân đạo tốt 
đẹp, thích ứng với đời sống tình cảm của con người. Người ta tìm thấy ở hình 
ảnh Đức Chúa Jesus đau khổ hình ảnh của nỗi thống khổ và đồng thời cũng là 
hình ảnh của sự cứu rỗi, rằng đấng Jesus sinh ra để gánh đỡ mọi tội lỗi cho 
loài người và cũng là để cứu rỗi loài người. Hoàng đế Constantine I, tuy cải 
đạo Kitô nhưng trong tâm trí ông vẫn xảy ra cuộc đấu tranh giữa Thần Mặt 
Trời và Chúa su Jesus Christ. Cuối cùng thì ông cũng ra chiếu chỉ phán quyết 
rằng ngày lễ Thần Mặt Trời cũng là ngày tháng thích hợp để tổ chức Lễ Giáng 
Sinh của Jesus Christ. Trong hệ tư tưởng của đạo Kitô, người ta cũng tìm thấy 
tinh thần tôn kính Người Mẹ và niềm hy vọng vào sự trường tồn bất diệt ở 
đạo Kibela và Ixida trong hình ảnh của Đức Mẹ Đồng Trinh Maria và đấng 
Cứu Thế Jesus Christ. 
 Trên đỉnh cao của sự tôn vinh đó, một nền khoa học thần học Kitô dần 
hình thành. Giáo dục trong hệ nhà thờ không chỉ dừng lại ở việc truyền dạy 
giáo lý mà còn truyền dạy cả những khoa học khác như y học, triết học và luật 
học. Các cuộc tranh biện thần học tuy có gây ra những cách hiểu khác nhau 
về bản thể của Thiên Chúa trong các cộng đồng nhỏ nhưng về cơ bản Kitô 
giáo vẫn phát triển theo hướng thống nhất, dựa vào Kinh thánh và giáo luật 
được ghi trong Kinh thánh. 
14   
 1.1.2. Chính thống giáo trong hệ thống giáo hội 
 Chính thống giáo tách ra khỏi Kitô giáo nguyên thủy từ thế kỷ thứ XI, 
sau sự kiện rút phép thông công lẫn nhau giữa Giáo hội La Mã và Giáo hội 
Constantine do bất đồng quan điểm về giáo lý Ba ngôi, về đời sống của giới 
tăng lữ, các kỳ nghi lễ hay những hoạt động khác của Giáo hội. Sự kiện ly 
giáo này chính thức đánh dấu sự tan rã của Đế chế La Mã, chia giáo hội Kitô 
giáo nguyên thủy, lúc đó với tư cách là giáo hội thống nhất, thành Giáo hội 
Công giáo phương Tây và Chính thống giáo phương Đông. Giáo hội Công 
giáo phương Tây liên kết với La Mã, chịu ảnh hưởng trực tiếp từ văn hóa 
Latin trong khi giáo hội Chính thống giáo phương Đông ngày càng có xu 
hướng hướng về Hy Lạp. 
 Tính chất Đông – Tây thật ra vừa là do sự định danh về mặt địa lý giữa 
hai khu vực có sự phổ biến hơn của mỗi giáo phái vừa là do sự khác biệt văn 
hóa du nhập từ văn hóa bản địa vào hệ tư tưởng của mỗi giáo phái. Trong khi 
Công giáo phương Tây trở thành một giáo hội toàn năng, có tầm ảnh hưởng 
quan trọng đến đời sống chính trị, kinh tế, tinh thần của toàn thế giới, chủ 
trương liên kết các cộng đồng giáo phận riêng thành một khối chặt chẽ thì 
Chính thống giáo phương Đông vẫn tồn tại với tư cách là các giáo phận gần 
như độc lập. Giáo trưởng của giáo phận này không có quyền kiểm soát hay 
can thiệp vào công việc của giáo phận khác. Công giáo phương Tây thiết lập 
chế độ phân quyền mà đứng đầu là Giáo hoàng, coi Giáo hoàng như là người 
được ban quyền cao nhất, là hiện thân của Chúa và là người kế thừa sự mặc 
khải. Chính thống giáo phương Đông, ngược lại, coi sự Mặc khải từ Thiên 
Chúa là đồng đều cho tất cả mọi người. Theo đó, Chúa mới là người đứng đầu 
còn Giáo hội là bản thể của người, mọi giáo hữu đều phụng sự và tôn vinh 
Thiên Chúa thông qua việc cầu nguyện và tuân theo giáo luật. 
15  
 Sự khác biệt lớn nhất của giáo lý Chính thống giáo so với giáo lý Công 
giáo là ở học thuyết về Chúa Ba ngôi , trong đó Đức Chúa Thánh Linh đứng ở 
Ngôi thứ ba, được hiểu là khởi phát từ Đức Chúa Cha và ngang bằng Chúa 
Cha và Chúa Con và cũng là Chúa Chân Thực. Trong Phúc Âm, Đức Thánh 
Linh thường hiện ra cùng với Chúa Con là Đức Jesus và được xem như là 
hiện thân của Chúa Cha là Thiên Chúa. 
 Sách Phúc Âm Mathew có kể về việc khi Đức Jesus chịu phép rửa 
xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí 
Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Lúc đó có tiếng 
từ phán rằng: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” Điều này 
ngụ ý rằng khi Đức Jesus chịu phép rửa nghĩa là Người đã đồng hóa mình với 
dân của Người. Và lời của Đức Thánh Linh có nghĩa rằng Đức Chúa Cha trao 
sứ mạng cho Chúa Jesus, Chúa Jesus sẽ là Con và là tôi tớ của Chúa Cha. Và 
như vậy Đức Thánh Linh cũng đồng thời là Ngôn sứ của Chúa Cha đến với 
Chúa Con, hiện thân bảo đảm tình yêu mà Thiên Chúa ban tặng cho loài 
người. 
 Theo giáo lý Chính thống giáo, Đức Chúa Cha, Đức Chúa Thánh Linh 
và Đức Chúa Con cùng tạo thành Ba ngôi thống nhất, không phân chia được 
xét về bản chất của mình và ngang bằng nhau xét về phẩm cách thánh thần. 
Đức Thiên Chúa là ngôi thứ nhất và là thần vĩnh hằng, nhân hậu, hiện diện ở 
khắp nơi, toàn năng và toàn quyền quyết định mọi sự vận hành, vận động của 
thế giới. Thiên Chúa là Chúa tối cao sáng tạo ra trời đất, tạo vật, con người và 
như vậy Thiên Chúa sẽ bảo vệ cũng như dẫn dắt con người theo điều mà Chúa 
muốn. Con người phải ngợi ca, tôn kính Chúa để được Chúa ban phúc và để 
được hạnh phúc. 
 Chúa Jesus đứng ở Ngôi thứ hai, được Đức Mẹ Maria là người trần 
sinh ra và được thụ hưởng sự mặc khải của Thiên Chúa, là hiện thân Người 
16  
của Thiên Chúa và cũng vĩnh hằng như cha của mình. Chúa Jesus được gửi 
đến thế giới người để thay mặt Thiên Chúa dẫn dắt con người đi theo lẽ phải, 
hướng dẫn con người sám hối để chuộc tội trước Thiên Chúa và cầu nguyện 
để trở thành công chính như Thiên Chúa. Vì thế, với những tín hữu Chính 
thống giáo, việc giữ gìn các giáo luật khởi phát từ hội thánh tiên khởi còn là 
để giữ gìn thần khí lưu truyền từ Thiên Chúa và phân phát công bằng ân huệ 
của Thiên Chúa cho tất cả mọi người. 
 Trong ý nghĩa về sự hiện thân của Đức Jesus và sự hóa thân của Thiên 
Chúa nơi Chúa Jesus đã bao hàm ý nghĩa về sự chuộc tội và sự tồn tại vĩnh 
hằng của con người. Chúa Jesus được một con người trần tục sinh ra nên 
Người mang trong mình hai bản thể con người và thánh thần. Vì thế sự xuất 
hiện và sự chết của Người trong cõi người được coi là một phương thức hợp 
nhất giữa con người với thánh thần, hóa giải tội lỗi mà tổ tiên con người là 
Adam và Eva đã phạm phải với Thiên Chúa. Sau khi bị đóng đinh trên cây 
thập giá đến chết, ba ngày sau, lời sấm ngôn mà Chúa Jesus nói trước ngày bị 
bắt ở bữa tiệc cuối cùng đã ứng nghiệm. Chúa Jesus đã sống lại và hiện diện 
trước mắt mọi người trong thân xác người. Điều này đã trả lời cho mọi sự 
hoài nghi của con người về cuộc đời sau khi chết và cũng khơi dậy niềm tin 
vào sự sống vĩnh hằng. Ý nghĩa của sự chết và sự phục sinh, như vậy, không 
nằm trong biên độ sống của một cuộc đời thật mà đã hướng con người tới một 
niềm tin cao cả hơn, hóa giải những mối lo về nguồn gốc cũng như về giới 
hạn của cuộc sống thực. 
 Chính thống giáo, như đã nói ở trên, có xu hướng bảo lưu các giáo lý 
khởi phát từ giáo hội nguyên thủy, coi đây là một bằng chứng về lòng chung 
thủy và ước nguyện hợp nhất giáo hội với Thiên Chúa. Vì thế Chính thống 
giáo không tiếp nhận thêm giáo lý nào cũng như không chối bỏ giáo lý nào 
trong hệ thống giáo lý được truyền dẫn từ giáo hội nguyên thủy. Thêm nữa 
17  
mọi tín điều đều được giải thích và cụ thể hóa bằng các bí tích và thông qua 
sự tuân thủ nghiêm ngặt các ngày thánh lễ. Ngoài bẩy thánh lễ được xem như 
gắn liền với lịch sử tồn tại và phát triển của cộng đồng giáo dân cùng tuyên 
xưng một đức tin với Chúa Jesus, Chính thống giáo không hạn chế việc tiến 
hành các thánh lễ khác trong nhà thờ. Đối với giáo dân, các nghi lễ không chỉ 
là để bày tỏ lòng thành kính với Đức tiên khởi mà còn là để tôn vinh niềm tin 
của cộng đồng mình, nhắc nhở con người hướng thiện, hướng tới sự công 
bằng. 
 Chính thống giáo đặc biệt có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống chính 
trị văn hóa của nước Nga. Và hiện nay, Giáo hội Chính thống giáo Nga được 
xem như là Giáo hội lớn nhất và có ảnh hưởng lớn nhất lên các giáo hội độc 
lập khác ngoài cộng đồng giáo dân người Nga. 
 Kitô giáo du nhập vào nước Nga theo đường truyền đạo. Truyền thuyết 
kể rằng, Thánh Andrew - người được gọi đầu tiên, trong khi đi rao giảng Tin 
Mừng, đã dừng lại ở ngọn đồi Kievan để cầu nguyện cho tương lai của thành 
phố Kiev. Lúc này nước Nga cổ đại đang nằm giữa những nước láng giềng có 
truyền thống Kitô giáo rất mạnh thuộc Đế chế Byzantine. Cũng như những 
nước khác, làn sóng bách hại những người theo Kitô giáo lan sang nước Nga 
và Kitô giáo sẽ không được công nhận là một chính đạo nếu như không có sự 
kiện hoàng hậu Olga của thành phố Kiev đã rửa tội, cải đạo Kitô vào năm 
954. Sự kiện này dẫn đường cho hàng loạt sự kiện lớn trong lịch sử dân tộc 
Nga. Lễ rửa tội của hoàng tử Vladimir cũng như Đại lễ rửa tội cho nước Nga 
vào năm 988 đã ghi nhận Kitô giáo trở thành quốc giáo. 
 Trước khi bị người Tartar chiếm đóng, giáo hội Nga là một trong 
những giáo khu thuộc quyền quản lý của Giáo trưởng Constantinople. Giáo 
trưởng đứng đầu giáo hội Nga là người do Giáo trưởng Constantinople lựa 
chọn từ những người Hy Lạp. 
18  
 Những nhà thờ nguy nga tráng lệ bắt đầu được xây dựng vào thế kỷ thứ 
X. Các tu viện cũng bắt đầu phát triển ở thế kỷ XI. Thánh Anthony đã mang 
truyền thống tập tu đến nước Nga vào năm 1051 và chính ông đã sáng lập ra 
một tu viện nổi tiếng ở thành phố Kiev mà sau này trở thành trung tâm tôn 
giáo của nước Nga cổ đại. Tu viện đóng vai trò rất lớn ở nước Nga, không 
những phục vụ với tư cách là một nơi thờ tự tinh thần mà còn là một trung 
tâm giáo dục chính cho người Nga. Đặc biệt, tu viện đã ghi chép lại trong 
biên niên sử của nhà thờ tất cả các sự kiện quan trọng trong đời sống dân tộc 
Nga. 
 Ở thế kỷ XII, dưới chế độ phong kiến, Giáo hội Nga vẫn luôn nhắc nhớ 
lý tưởng về sự hiệp thông hoàn toàn trong cộng đồng dân tộc Nga, chống lại 
xu thế phân quyền và cuộc chiến tranh giành đất đai giữa các hoàng tử. Cuộc 
xâm lược của người Tartar ở thế kỷ XIII cũng không phá vỡ được Giáo hội 
Nga. Giáo hội hoạt động như là một lực lượng có thật và là nơi giải thoát cho 
con người khỏi tình trạng tuyệt vọng. Nó trở thành một trợ lực tinh thần, vật 
chất và đạo đức cho cuộc khôi phục sự thống nhất nước Nga như là một sự 
đảm bảo về chiến thắng trong tương lai của nó trước quân xâm lược. 
 Các hoàng tử được chia quyền bắt đầu liên kết lại quanh Moscow vào 
thế kỷ XIV. Giáo hội Chính thống giáo Nga tiếp tục đóng vai trò quan trọng 
trong sự thống nhất nước Nga. Các giám mục người Nga đã đảm nhiệm công 
việc như là người đỡ đầu về tinh thần và là trợ lý cho Hoàng tử của thành phố 
Moscow. Giáo trưởng Alexis (1354-1378) đã dạy dỗ Hoàng tử Dimitry 
Donskoy. Ông, cũng như Giáo trưởng Jonas (1448-1471) sau đó, bằng ảnh 
hưởng của mình, đã giúp Hoàng tử kết thúc những cuộc tranh giành quyền lực 
giữa các thế lực phong kiến và khôi phục một liên bang thống nhất. 
 Các tu viện tạo lên tầm ảnh hưởng lớn đối với việc gìn giữ tinh thần 
dân tộc Nga trong suốt thời kỳ bị người Tartar đô hộ và trong thời kỳ chịu sự 
19  
ảnh hưởng của phương Tây. Tu viện Pochayev Laura được thành lập ở thế kỷ 
XIII và giám mục đứng đầu tu viện này đã làm nhiều việc để phát triển chính 
thống giáo ở vùng đất phía Tây nước Nga. 
 Giành độc lập từ quân xâm lược, liên bang Nga trở nên ngày càng vững 
mạnh và càng củng cố Giáo hội Chính thống giáo Nga. Năm 1448, không lâu 
trước thời kỳ Đế chế Byzantine sụp đổ, Giáo hội Nga đã tách khỏi tầm ảnh 
hưởng của Giáo trưởng Constantinople. Giáo trưởng Jonas, được Hội đồng 
giám mục Nga chỉ định trở thành Tổng giám mục của Moscow và toàn cõi 
nước Nga vào năm 1448. 
 Sự vững mạnh của nước Nga góp phần vào sự lớn mạnh của Giáo hội 
Nga độc lập. Năm 1589, tổng giám mục Job của thành phố Moscow trở thành 
giáo trưởng đầu tiên của nước Nga. Các giáo trưởng khác ở phương Đông 
công nhận giáo trưởng Nga đứng ở vị trí danh dự thứ 5. 
 Đầu thế kỷ XVII là thời kỳ khó khăn của nước Nga. Người Hà Lan và 
Thụy Điển xâm lược nước Nga từ phía Tây. Ở thời kỳ khủng hoảng này, Giáo 
hội Nga vẫn hoàn thành sứ mạng của mình đối với đất nước như nó đã làm 
trước đây. 
 Sau khi đuổi được quân xâm lược ra khỏi nước Nga, Giáo hội Nga đã 
tham gia vào một trong số những nhiệm vụ của nó là mở đầu việc sửa chữa 
các sách thánh và nghi lễ. Đóng góp lớn nhất vào việc này là Giáo trưởng 
Nikon. Một vài giáo sỹ và con chiên không hiểu và không chấp nhận cuộc cải 
tiến nghi thức tế lễ do Giáo trưởng Nikon giới thiệu và từ chối tuân theo. Điều 
này dẫn tới việc ra đời một nhóm mới gọi là Cựu giáo. 
 Thế kỷ XVIII mở đầu bằng sự cải cách triệt để của hoàng đế Peter I. 
Cuộc cải cách đã không gây ảnh hưởng lớn tới Giáo hội Nga như sau cái chết 
của Giáo trưởng Adrian vào năm 1700. Perter I đã trì hoãn cuộc bầu cử Tổng 
giám mục mới của Giáo hội và vào năm 1721 đã thiết lập một Hội thánh và 
20  
Hội đồng giáo chức tối cao trong Giáo hội. Hội đồng tối cao này vẫn giữ 
quyền tối cao trong Giáo hội Nga hơn hai thế kỷ nay. 
 Ở giai đoạn 1721-1917, Giáo hội Nga quan tâm đặc biệt tới sự phát 
triển của giáo dục tôn giáo và nhiệm vụ truyền giáo ở các địa phương. Các 
nhà thờ cũ được xây dựng lại và các nhà thờ mới tiếp tục được dựng lên. Các 
nhà thần học Nga đã góp sức phát triển nhiều lĩnh vực khoa học khác như lịch 
sử, ngôn ngữ và văn hóa phương Đông. 
 Những năm đầu thế kỷ XX, Giáo hội Nga bắt đầu chuẩn bị cho một hội 
đồng toàn Nga. Nhưng nó chỉ được tổ chức sau Cách mạng 1917. Một trong 
các hoạt động chính của nó là khôi phục trụ sở của giáo chủ trong Nhà thờ 
Nga. Hội đồng tối cao đã bầu Giáo trưởng Tikhon của Moscow làm tổng giám 
mục của Moscow và của toàn Nga (1917-1925). 
 Thánh Tikhon của Moscow nỗ lực kiềm chế các cuộc bạo động nổ ra 
trong công cuộc cách mạng. Thông báo của Hội thánh ban hành ngày 11 
tháng 11 năm 1917 nói rằng: 
“Thay vì một trật tự xã hội mới do những người dẫn dắt hứa hẹn, chúng 
tôi thấy các cuộc đình công đẫm máu giữa những người công nhân, thay vì 
hòa bình và tình hữu nghị giữa mọi người là sự đánh tráo ngôn ngữ và sự hận 
thù giữa những người anh em. Nhân dân đã quên Thiên Chúa và đang lao 
vào nhau như những con sói dữ… Từ bỏ giấc mộng vô cảm và vô thần của 
những người dẫn dắt sai lầm, những người kêu gọi tình hữu nghị phổ biến 
thông qua chiến tranh phổ biến. Hãy quay lại con đường của Chúa” 
 Khi những người Bolshevik lên cầm quyền vào năm 1917, Giáo hội 
Chính thống giáo Nga là một kẻ thù tư tưởng tiên nghiệm như một phần của 
chế độ phong kiến Nga hoàng, hậu thuẫn cho chế độ cũ sau cách mạng tháng 
10. Đây là lý do tại sao, nhiều giám mục, hàng nghìn giáo sĩ, thầy tu và nữ tu 
cũng như những người theo đạo bị đàn áp tàn khốc. 
21  
 Năm 1921-1922, khi chính quyền Xô Viết yêu cầu nhà thờ cống nạp 
toàn bộ những gì có giá trị để hỗ trợ cho nạn đói do mất mùa năm 1921, một 
cuộc va chạm quyết liệt giữa Giáo hội và chính quyền mới nổ ra, và chính 
quyền mới đã sử dụng sự kiện này để phá hủy Giáo hội. Những năm đầu thế 
chiến thứ II, hệ thống nhà thờ hầu như bị phá hủy ở khắp đất nước. Chỉ một 
số ít giám mục vẫn tự do và vẫn thực hiện bổn phận của họ. Và chỉ vài trăm 
nhà thờ được phép mở cửa trong suốt thời kỳ Xô Viết. Phần lớn tăng lữ bị 
tống giam trong các trại cải huấn nơi rất nhiều người trong số họ bị chết hoặc 
bỏ trốn trong các hầm mộ, trong khi hàng nghìn giáo dân khác từ bỏ Đạo. 
 Những thất bại trên chiến trường buộc Stalin phải huy động mọi nguồn 
lực trong xã hội cho cuộc chiến, bao gồm cả Giáo hội Chính thống giáo Nga 
với tư cách là người bảo trợ tinh thần. Chính phủ cho phép nhà thờ mở cửa 
phục vụ giáo dân, và trả tự do cho các giám mục. Giáo hội Nga đã dốc toàn 
lực bảo trợ tinh thần cho quê hương. Giai đoạn này được diễn tả như là một 
sự hòa giải giữa Giáo hội và quốc gia trong một liên minh vì dân tộc và đỉnh 
cao của sự hòa giải này là sự kiện Stalin tiếp đón người đại diện Giáo trưởng 
Tenes, Tổng giám mục Segriy Stragorod và Tổng giám mục Alexy Simansky 
và Nikolay Yarushevich vào ngày 4 tháng 12 năm 1943. 
 Từ đó bắt đầu thời kỳ tan băng trong mối quan hệ giữa Giáo hội và 
quốc gia. Giáo hội tuy vậy vẫn luôn nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước và 
bất cứ nỗ lực truyền bá hoạt động của nó ra ngoài phạm vi cho phép đều gặp 
phải sự đàn áp mãnh liệt bao gồm cả việc xử phạt hành chính. 
 Lễ kỷ niệm 1000 năm lễ Baptism của nước Nga đã đem đến một không 
khí tươi mới hơn cho mối quan hệ giữa Giáo hội và Nhà nước. Điều này buộc 
giới cầm quyền phải bắt đầu cuộc đối thoại với Giáo hội, xây dựng mối quan 
hệ dựa trên cơ sở công nhận vai trò lịch sử to lớn của Giáo hội đối với quê 
22 
 hương và sự cống hiến của Giáo hội vào việc hình thành truyền thống đạo đức 
của dân tộc. 
 Giáo hội Chính thống giáo Nga là một giáo hội có tính địa phương, độc 
lập và đa sắc tộc duy trì mối liên hệ giữa các giáo dân và giáo luật với các 
Giáo hội địa phương khác. Nó có quyền hạn đối với cộng đồng giáo dân theo 
Chính thống giáo sinh sống trong địa hạt của Giáo hội Chính thống giáo Nga 
bao gồm cả Nga, Ukraine, Belarus, Moldova, Azherbaijan, Kazakhstan, 
Kirghizia, Latvia, Lithuania, Tazhikistan, Turkmenistan, Uzbekistan, Estonia, 
cũng như giáo dân theo Chính thống giáo ở các nước khác. Vào năm 1988, 
Giáo hội Chính thống giáo Nga tổ chức lễ kỷ niệm 1000 năm lễ Baptism cho 
nước Nga. Đến thời điểm này, Chính thống giáo Nga đã có 67 giáo khu, 21 tu 
viện, 6893 xứ đạo, 2 học viện thần học và 3 chủng viện thần học. Đến năm 
2008, Giáo hội Chính thống giáo Nga có 156 giáo khu ở nhiều đất nước khác 
nhau và 48 giáo trưởng; 14 giáo trưởng nghỉ hưu. Có 769 tu viện bao gồm 
372 tu viện dành cho nam và 397 nữ tu viện. Số trung tâm giáo dục tôn giáo 
không ngừng tăng lên. Đến nay có 5 học viện thần học, 38 chủng viện, 39 tiền 
viện, 3 trường đại học Chính thống giáo, 6 trung tâm đào tạo mục sư, và 2 
trường đào tạo giám mục dành cho phụ nữ. 
 Chính thống giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong số các tôn giáo 
khác cùng tồn tại trên đất nước Nga, cũng là hệ quả tất yếu của lịch sử hình 
thành và phát triển Giáo hội Chính thống với tư cách là người bảo trợ tinh 
thần cho dân tộc Nga và là lực lượng hỗ trợ tích cực nhất cho các cuộc cách 
mạng của người Nga chống quân xâm lược cũng như dàn xếp các cuộc nội 
chiến. Bản thân nước Nga hay Chính thống giáo Nga không tồn tại với tư 
cách là một cầu nối giữa phương Đông và phương Tây mặc dù trong đặc thù 
văn hóa của nó vẫn tồn tại những yếu tố thuộc về cả hai phần của thế giới.