1 
 
 
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN 
 
 
 
 
 
 
 
SA THỊ HẰNG NGA
 
 
 
 
 
 
 
 
NGÔN NGỮ CỬ CHỈ 
TRONG TIỂU THUYẾT ANH EM NHÀ CARAMAZOV 
CỦA DOSTOEVSKI 
 
 
 
 
 
 
LUẬN VĂN THẠC SĨ 
Chuyên ngành: Văn học nước ngoài         
Hà Nội-2012  
2    
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN        
SA THỊ HẰNG NGA    
   NGÔN NGỮ CỬ CHỈ 
TRONG TIỂU THUYẾT ANH EM NHÀ CARAMAZOV 
CỦA DOSTOEVSKI      
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học nước ngoài 
Mã số: 60220245    
 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thu Thuỷ      
Hà Nội-2012   
3  
LỜI CAM ĐOAN  
Tôi xin cam đoan đề tài Ngôn ngữ cử chỉ trong tiểu thuyết Anh em nhà 
Caramazov của F.M.Dostoevski và toàn bộ nội dung luận văn không phải là 
sự sao chép bất cứ một công trình khoa học hay luận văn nào đã được công bố 
trong và ngoài nước. Các tài liệu sử dụng tham khảo đã được trích nguồn đầy 
đủ và chính xác. 
Xin chân thành cảm ơn!  
Hà Nội, ngày12 tháng 5 .năm 2012 
Người viết luận văn    
Sa Thị Hằng Nga 
4  
LỜI CẢM ƠN  
Trong thời gian làm luận văn, tôi đã nhận được rất nhiều lời chỉ bảo, 
giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, nhận được nhiều sự động viên, ủng hộ 
của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. 
Tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Thị Thu Thủy và các thầy cô 
trong Hội đồng bảo vệ đề cương tháng 4/2011 đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận 
văn với đề tài Ngôn ngữ cử chỉ trong tiểu thuyết Anh em nhà Caramazov của 
F.M.Dostoevski. Tôi chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, tạo điều kiện của các trợ 
lí sau đại học: Th.s Nguyễn Năm Hoàng, TS. Diêu Lan Phương; các thầy cô 
giáo trong Khoa Văn học - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã 
tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn. 
Sau cùng cho tôi gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và đồng nghiệp 
đã luôn động viên, ủng hộ, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên 
cứu. 
Xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ quý báu đó.  
Hà Nội, ngày 12 tháng 5 năm 2012 
Người viết luận văn    
Sa Thị Hằng Nga        
5  
MỤC LỤC  
PHẦN MỞ ĐẦU 1 
1. Lý do chọn đề tài 1 
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2 
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8 
4. Phương pháp nghiên cứu 12 
5. Cấu trúc luận văn 12 
Chương 1: NGÔN NGỮ CỬ CHỈ VÀ CÁC TÌNH HUỐNG GIAO TIẾP 13 
1.1. Đối thoại trực tiếp – trường hợp Ivan và Xmerdiacov 14 
1.2. Giao tiếp đặc biệt 20 
1.2.1. Chủ thể thực hiện cử chỉ tự quan sát và phán đoán mình – trường hợp 
Ivan 20 
1.2.2. Chủ thể thực hiện cử chỉ bị quan sát công khai bởi nhân vật khác – 
trường hợp Dimit’ri 23 
1.2.3. Chủ thể thực hiện cử chỉ bị quan sát “lén” bởi nhân vật khác và người 
kể chuyện 25 
Chương 2: CỬ CHỈ VỚI VIỆC BIỂU HIỆN TÂM LÝ VÀ NHÂN CÁCH 29 
2.1. Đỉnh điểm của những thái cực: Aliosa, Fiodor và Xmerdiacov 30 
2.2. Đỉnh điểm của mâu thuẫn giữa những đối cực: Ivan và Dimit’ri 43 
Chương 3: CỬ CHỈ NHƯ LÀ BIỂU TƯỢNG 54 
3.1. Sự phát triển của cụm cử chỉ mang tính biểu tượng trong Những đêm 
trắng, Bút kí dưới hầm, Tội ác và trừng phạt 54 
3.2. Cụm cử chỉ mang tính biểu tượng trong tác phẩm Anh em nhà 
Caramazov. 63 
3.2.1. Nước mắt – nỗi đau khổ và sự thanh lọc. 63 
3.2.2. Xiết tay, ôm hôn và quỳ lạy – tình yêu thương, lòng tôn kính và sự sám 
hối 69 
PHẦN KẾT LUẬN 78  
1  
PHẦN MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
Phê bình văn học hiện nay rất phong phú và đa dạng, nó đòi hỏi cả 
những nghiên cứu liên ngành và đa ngành. Sự phong phú về cách tiếp cận văn 
chương tạo ra bức tranh đa sắc đa diện về giá trị tác phẩm văn học đồng thời 
làm cho đời sống phê bình văn học không nhạt nhẽo, phiến diện và bị động. 
Nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ trong tác phẩm văn học là một sự lựa chọn, một 
con đường tiếp cận thế giới nhân vật của nhà văn qua đó nhận định được giá 
trị tiềm tàng của những câu chữ văn chương. 
F.M.Dostoevski (1821-1881) là nhà văn Nga vĩ đại sinh ra và lớn lên 
trong bối cảnh xã hội rối ren, phức tạp của thời kì chế độ phong kiến nông nô 
suy yếu, giai cấp tư sản phát triển như vũ bão, thời đại chuyển giao ý thức hệ 
và mâu thuẫn nảy lửa giữa những luồng tư tưởng của xã hội Nga thế kỉ XIX. 
Dostoevski không những sống trong sự vật lộn với những khốn khó vật chất 
mà còn luôn trăn trở với vấn đề tư tưởng, con người. Sự trăn trở đó đã được 
phản ánh trong những trang viết của ông từ những tác phẩm đầu tay mang 
màu sắc lãng mạn cho đến những kiệt tác đạt đến âm hưởng hiện thực sâu sắc 
mà ông gọi là “hiện thực theo nghĩa cao cả nhất” vì nó “lột tả mọi bề sâu của 
tâm hồn con người”. Tác phẩm của ông ngoài những tiểu thuyết đồ sộ như 
Tội ác và trừng phạt (1866), Gã khờ (1868), Lũ người quỷ ám (1871), Vị 
thành niên (1874), Anh em nhà Caramazov (1878– 1880) còn có những 
truyện ngắn, truyện vừa Những người cơ cực (1846), Những đêm trắng 
(1848), Những kẻ tủi nhục (1861), Bút kí dưới hầm (1864), phóng sự Ghi 
chép mùa đông về những cảm tưởng mùa hè (1863)… 
Anh em nhà Caramazov là tác phẩm cuối cùng của đại thi hào 
Dostoevski và cũng là kiệt tác của nền văn học thế giới. Tác phẩm này chứa 
đựng rất nhiều vấn đề đã được các nhà phê bình “mổ xẻ” kể từ khi nó chào 
đời đến nay. Thế giới nhân vật trong Anh em nhà Caramazov là một thế giới 
2  
giằng xé và đấu tranh gay gắt giữa đầy rẫy những đối cực, mâu thuẫn, xung 
đột tự trong bản thân mỗi cá nhân và giữa các cá nhân. Những tư tưởng, 
những khổ đau, sự tự ý thức nhọc nhằn của nhân vật (chân dung tinh thần) 
nhiều khi làm mờ đi chân dung bên ngoài của nhân vật trong tác phẩm của 
ông, nhưng dù thế nào, nó vẫn tồn tại trong cấu trúc văn bản như một thành tố 
thi pháp bình đẳng. Nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ của nhân vật cũng chính là đi 
tìm cái chân dung bên ngoài đó trong sự tương quan sâu sắc với chân dung 
tinh thần của nhân vật và qua đó thấy được tài năng sáng tạo thiên tài của 
Dostoevski đối với nghệ thuật xây dựng nhân vật của mình. 
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 
Tiếp nhận thế giới văn chương của Dostoevski, bạn đọc và giới phê bình 
trong và ngoài nước Nga qua nhiều thế hệ vẫn nổi lên những tranh luận gay 
gắt. Nếu như tác phẩm đầu tay của Dostoevski - Những người cơ cực được 
nhà phê bình lỗi lạc Bielinski đưa lên đến đỉnh cao với những lời khen ngợi: 
“Đó mới là chân lý của nghệ thuật (…) Nhất định anh sẽ trở thành một nhà 
văn vĩ đại” [1, tr 15] thì đến những tác phẩm sau, ông được đánh giá là lãng 
mạn, hoang đường; từ đỉnh cao vinh quang Dostoevski chịu những lời nhận 
định vô cùng đau đớn đối với một cây bút đang hăm hở vào nghề. Trong con 
mắt giới phê bình và những nhà văn nổi tiếng cùng thời, sự đánh giá về ông 
tồn tại nhiều mâu thuẫn. Song, nói như một người đam mê Dostoevski: “khi 
cuộc sống hữu tử trong thân xác phù sinh của Doxtoiepxki kết thúc cũng là 
lúc cuộc sống trong trường cửu của ông bắt đầu” [26], sang thế kỉ XX những 
nghiên cứu về Dostoevski đã trở nên phong phú và ngành “Dostoevski học” 
đã đạt được những thành tựu to lớn. Cho đến nay, những vấn đề có liên quan 
đến Dostoevski vẫn còn có ý nghĩa mới mẻ, hấp dẫn bạn đọc và giới phê bình 
trên toàn thế giới. Tuy nhiên trong luận văn này, chúng tôi chỉ tiếp cận được 
với những công trình nghiên cứu kinh điển về Dostoevski ở dạng tiếng Việt. 
3  
Trong các công trình nghiên cứu của giới phê bình văn học trên thế giới 
vể Dostoevski, trước hết phải kể đến cuốn sách Đôxtôépxki – cuộc đời và sự 
nghiệp của L. Grôxman. Cuốn sách theo như tên gọi của nó là một nghiên 
cứu tổng thể có tính chất lịch sử về cuộc đời, tư tưởng và phong cách của 
Dostoevski. Khi viết về cuốn sách cuối cùng của Dostoevski được coi là tiểu 
thuyết – tổng hợp Anh em nhà Caramazov, L. Grôxman đã dành hẳn chương 
XIX nghiên cứu từ nguyên mẫu đến quá trình hình thành tiểu thuyết, dự tính 
tương lai của cuốn tiểu thuyết thứ hai không thành của nhà văn, điểm qua một 
số nội dung, giá trị và nhân vật trung tâm của cuốn tiểu thuyết. Ông đánh giá: 
 “Đây là một loại tiểu thuyết – tổng hợp, biểu hiện toàn bộ kết quả hoạt 
động của nhà văn đang khao khát thể hiện tất cả những ý tưởng thiêng liêng 
thầm kín nhất. 
Một cuốn tiểu thuyết rộng lớn, nhiều bình diện viết về những tính cách 
Caramadop không thuần nhất trong bộ phận và trong tổng thể” [19, tr. 672]. 
Một công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về Dostoevski ở góc độ 
thi pháp là cuốn Những vấn đề thi pháp Dostoevski của M. Bakhtin. Ông 
đánh giá Dostoevski là: 
 “Một trong những nhà cách tân vĩ đại nhất trong lĩnh vực hình thức 
nghệ thuật. Ông đã sáng tạo ra, theo chúng tôi, một kiểu tư duy nghệ thuật 
hoàn toàn mới mà chúng tôi gọi theo một cách ước lệ là tư duy đa thanh (…) 
động chạm tới nguyên tắc cơ bản của mĩ học châu Âu” [1, tr. 11]. 
Để minh chứng cho khám phá của mình, M. Bakhtin đã đi vào phân tích 
những vấn đề về nhân vật, tư tưởng, thể loại – kết cấu, và lời văn của 
Dostoevski. Nghiên cứu của M. Bakhtin đề cập đến ngọn nguồn của tiểu 
thuyết đa thanh trong vấn đề cácnavan và cácnavan hóa văn học. Đặc điểm 
cấu trúc của hình tượng cácnavan là những đối cực, những phản đề đối chiếu 
lẫn nhau. Nó thể hiện trong tác phẩm Anh em nhà Caramazov ở: tình yêu 
tiếp giáp với lòng căm thù giữa Caterina Ivanopna với Dmit’ri Caramazov, 
4  
Ivan Caramazov với Caterina Ivanopna, Dmit’ri Caramazov với Grusenca; tín 
ngưỡng tiếp giáp với tư tưởng vô thần; sự cao cả, tốt lành tiếp giáp với sự suy 
đồi, hèn mạc ở Dmit’ri Caramazov; sự thanh sạch hiểu rõ cái xấu xa và ham 
mê sắc dục ở Aliosa Caramazov. 
Như vậy, ở hai công trình trên, những vấn đề về sự không thuần nhất của 
nhân vật, tính đa thanh liên quan đến những đối cực trong tâm hồn nhân vật 
được hai nhà phê bình đi sâu khám phá, bởi vậy chân dung tinh thần của nhân 
vật được phác họa khá đậm nét. 
Trong bài viết Dostoevski và di sản văn học của ông in trong cuốn Cá 
tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, M.B.Khrapchenkô tiếp 
tục đi sâu khám phá chân dung tinh thần của nhân vật trong Anh em nhà 
Caramazov. Nhận định về những xung đột nội tâm của nhân vật liên quan đến 
vấn đề đạo đức, ông viết: 
“Trong thế giới của những Karamazôv có những sự đối lập về tâm lý và 
đạo đức” [25, tr. 476]. 
Cái ác tồn tại trong xã hội đã gây nên sự mâu thuẫn về tư tưởng ở con 
người có óc hoài nghi mang tính triết học – Ivan Caramazov: “tự dày vò về sự 
lưỡng hóa của con người mình và trước hết về cái thấp hèn, cái đê tiện vốn có 
trong bản tính của y, tự phát nảy sinh trong y”. Khác với người em, sự mâu 
thuẫn ở nhân vật Dmit’ri “thể hiện qua những đam mê quằn quại”. 
Trong Sáng tác của F.M.Dostoevski trong sự đánh giá của giới phê 
bình tôn giáo – triết học Nga, Mizanishkova.T.M trích dẫn nhận xét của 
Vjacheslav Ivanov (1886 – 1949) về hình thức tiểu thuyết của Dostoevski là 
“tiểu thuyết - bi kịch”, ông đề cập đến bi kịch tinh thần trong tâm hồn các 
nhân vật, vấn đề “tội lỗi”, và “sự vận động vô hình của tinh thần (…) ông dẫn 
các nhân vật của mình giống như Dante đi qua địa ngục và hỏa ngục tới 
ngưỡng cửa của thiên đường (…). Chính những đặc điểm không chỉ về mặt 
nội dung mà còn cả về mặt hình thức trong sáng tác của Dostoevski đã bắt 
5  
nguồn từ đó: sự điên cuồng hung hãn hay lặng lẽ của phần lớn nhân vật của 
Dostoevski, sự nổi trội của nhân tố bi tráng, cốt truyện mang tính hình sự của 
những cuốn tiểu thuyết” [30, tr. 101]. Tại đây, đi kèm với chân dung tinh thần 
của nhân vật, nhà phê bình đã chú trọng đến chân dung bên ngoài của nhân 
vật thể hiện qua “sự điên cuồng hung hãn hay lặng lẽ” mà nhân vật thể hiện. 
St.Zweig cũng đánh giá rất cao giá trị của tác phẩm Anh em nhà 
Caramazov nói chung và chân dung tinh thần của nhân vật trong tác phẩm nói 
riêng. Ông cho rằng: “Bi kịch của những người trong gia đình Caramazov giá 
trị như bộ ba bi kịch của Exsilơ và những sự rắc rối của nó ngang tầm anh 
hùng ca Hôme và các tác phẩm rất cao cả của Gơtơ”. 
Bên cạnh đó, St.Zweig chú ý đến những biểu hiện thể xác gắn liền với 
chân dung tinh thần nhân vật trong tác phẩm của Dostoevski. Ông cho rằng 
Dostoevski đã để cho các nhân vật “biểu hiện thể xác nhờ vào tâm hồn”. 
Trong cuốn Thi pháp văn xuôi, Tz.Todorov đã chú ý đến những cử chỉ 
ôm hôn của nhân vật trước kẻ tội đồ. Khi nói về khoảnh khắc Lisa, nhân vật 
nữ trong Bút kí dưới hầm “đột nhiên giang tay ra để ôm ghì kẻ nguyền rủa 
mình”, tác giả viết tiếp: 
“(…) bắt đầu từ cuốn sách này giải pháp ấy ngày càng in đậm trong tác 
phẩm của Dostoevski, ngay cả khi nó chỉ giữ lại như một dấu vết của một giới 
hạn hơn là như một đề tài trung tâm của câu chuyện (…). Cử chỉ ấy, biến đổi 
và lặp lại trong suốt tác phẩm của Dostoievski, có giá trị một cách rõ rệt. Ôm 
riết không nói, cái hôn lặng lẽ: đó là sự vượt qua ngôn ngữ nhưng không phải 
là chối bỏ ý nghĩa (…). Cái miệng kia không nói nữa mà hôn, dẫn nhập cho 
cử chỉ và cơ thể; nó ngắt lời nói nhưng thiết lập một luồng biểu tượng, mãnh 
liệt hơn” [32, tr. 211-212]. 
 Ở đây, Todorov đã nâng tầm giá trị của cử chỉ nhân vật lên thành biểu 
tượng, điều mà các nhà nghiên cứu khác không thực sự quan tâm bởi sự cuốn 
6  
hút với chân dung tinh thần của các nhân vật trong tác phẩm của Dostoevski 
là quá lớn. 
Ở Việt Nam, một trong những người say mê và viết về Dostoevski sớm 
nhất là Nguyễn Tuân. Trong Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập 3), dựa trên cảm 
quan nghệ thuật của mình và một số bài phê bình về Dostoevski mà ông đọc 
được, Nguyễn Tuân cho rằng con người của những thái cực kiệt cùng ở 
Dostoevski đã viết nên “tiếng kêu xé lòng về tình yêu, về hạnh phúc, về công 
lý và về chân lý” bằng cách: “đưa ra những cái tương phản nhau. Bên cạnh 
những cái rất bay bổng, rất thiêng liêng, Đốt kèm vào những cái rất phàm 
tục, thô bạo” [34, tr. 388]. 
Một trong những nhà nghiên cứu Việt Nam có những trang viết hay nhất 
về Dostoevski chính là Phạm Vĩnh Cư. Trong Dostoevski – sự nghiệp và di 
sản, Phạm Vĩnh Cư đã có một cái nhìn khái quát, một sự đánh giá xác đáng 
về cuộc đời, sự nghiệp của Dostoevski. Viết về Anh em nhà Caramazov, nhà 
nghiên cứu gọi đó là câu chuyện về “gia đình ngẫu hợp”, ở đó có người cha 
Fiodor Caramazov “bất khả ái, bất khả kính” truyền “chất Caramazov” cho 
hai người con Dmit’ri và Xmerdiacov. Ba tính cách được gọi tên: Dmit’ri là 
con người của tình cảm, Ivan là con người của lí trí, Aliosa là con người của 
cái Thiện và đức tin. 
Như vậy, Nguyễn Tuân và Phạm Vĩnh Cư đã đánh giá rất cao giá trị tư 
tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Phần khẳng định tính cách nhân vật của Phạm 
Vĩnh Cư cũng rất xác đáng và thú vị. Trong tương quan với đề tài của chúng 
tôi, hai nhà nghiên cứu này chưa thực sự quan tâm đến ngôn ngữ cử chỉ của 
nhân vật, tuy nhiên sự khái quát về tính cách nhân vật đã phần nào cho chúng 
tôi có một cái nhìn bao quát về nhân vật của Dostoevski. 
Trong cuốn Lịch sử văn học Nga, Dostoevski được Nguyễn Kim Đính 
giới thiệu ở những nét tổng quát về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác. Cùng với 
đó, trong cuốn sách do Lê Nguyên Cẩn chủ biên: Tác gia, tác phẩm văn học 
7  
nước ngoài trong nhà trường - Phêđor Mikhailôvich Đôxtôiepxki, 
Dostoevski cũng được Đỗ Hải Phong giới thiệu ở những nét khái quát nhất và 
tác phẩm Tội ác và hình phạt được đi sâu phân tích mổ xẻ ở góc độ nội dung 
tư tưởng. Hai công trình này được xem như những cuốn giáo trình quan trọng 
cho học sinh, sinh viên, học viên khi tìm hiểu, nghiên cứu về Dostoevski. 
Cuốn sách giúp chúng tôi có được những định hướng tổng quan nhất định khi 
tiếp cận với tác giả, tác phẩm mà chúng tôi nghiên cứu. 
Cùng với những nghiên cứu trên là những luận án, luận văn, những báo cáo 
khoa học và những bài phê bình về tác phẩm của Dostoevski đăng tải trên các 
tạp chí văn học. Trong đó, các tác giả tập trung chủ yếu vào nghệ thuật miêu tả 
tâm lý nhân vật, cốt truyện, hình tượng nhân vật, hay motip Kito giáo .v.v. trong 
tác phẩm của Dostoevski. Đây cũng là nguồn tư liệu quý báu giúp chúng tôi 
nắm được những cái nhìn nhiều chiều về tác phẩm của Dostoevski. 
Tóm lại, qua lịch sử vấn đề đã nghiên cứu ở trên, chúng tôi rút ra được: 
Anh em nhà Caramazov thực sự là tác phẩm gây tiếng vang lớn và được 
nhiều nhà nghiên cứu đánh giá rất cao trên nhiều phương diện. Tác phẩm 
được đặc biệt chú ý đến ở giá trị nổi trội nhất của nó là bức chân dung tinh 
thần của nhân vật. Đâu đó trong phần phân tích và đánh giá của mình, các nhà 
nghiên cứu để đi tới những nhận định về chân dung tinh thần của nhân vật đã 
đề cập tới chân dung bên ngoài của họ, tuy nhiên việc đề cập này chưa thực 
sự sâu sắc. Do vậy, nghiên cứu riêng về ngôn ngữ cử chỉ - đơn vị nòng cốt 
của chân dung bên ngoài của nhân vật (khía cạnh luôn luôn song hành không 
thể tách rời với bức chân dung tinh thần kia) vẫn chưa thực sự được quan tâm 
đúng mực. Những nhận xét của Todorov về cử chỉ mang tính biểu tượng 
(những cái hôn của nhân vật trước kẻ tội đồ) khơi gợi cho chúng tôi tìm đến 
đề tài về ngôn ngữ cử chỉ trong tác phẩm này. Đồng thời, những nghiên cứu 
về chân dung tinh thần của nhân vật một cách sâu sắc đã có ý nghĩa rất lớn 
8  
đối với chúng tôi khi tiếp cận kiệt tác cuối cùng của Dostoevski ở phương 
diện đề tài nghiên cứu này. 
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
 Mục đích nghiên cứu 
Nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ trong tác phẩm Anh em nhà Caramazov 
nhằm mục đích: 
- Nhận diện ngôn ngữ cử chỉ của nhân vật trong những hoàn cảnh đặc 
thù trong tác phẩm. 
- Nhận diện nhân cách tuyến nhân vật chính thông qua ngôn ngữ cử chỉ, 
diện mạo, âm thanh lời nói của nhân vật. 
- Nghiên cứu tìm ra biểu tượng và ý nghĩa của nó gắn với những cử chỉ 
đặc biệt của nhân vật. 
Qua đó, thấy được nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ cử chỉ trong sáng tạo 
nghệ thuật, đặc biệt ở góc độ xây dựng nhân vật ở tác phẩm Anh em nhà 
Caramazov của Dostoevski. 
 Đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn này là ngôn ngữ cử chỉ của nhân 
vật trong tác phẩm Anh em nhà Caramazov của Dostoevski. Nghiên cứu chia 
làm ba hướng tiếp cận chính: 
- Tiếp cận ngôn ngữ cử chỉ gắn với những hoàn cảnh đặc thù trong giao 
tiếp giữa các nhân vật. 
- Tiếp cận ngôn ngữ cử chỉ gắn với nhân cách của tuyến nhân vật chính 
là các thành viên trong gia đình Caramazov. 
- Tiếp cận ngôn ngữ cử chỉ với vai trò biểu tượng trong tác phẩm. 
Về thuật ngữ ngôn ngữ cử chỉ, trong cuốn Từ điển tiếng Việt của Trung 
tâm từ điển học do cố GS Hoàng Phê thành lập tái bản năm 2010 chỉ có định 
nghĩa về ngôn ngữ và cử chỉ, chưa có định nghĩa về ngôn ngữ cử chỉ. Tại 
đây, ngôn ngữ được hiểu là: 1- hệ thống những âm, những từ và những quy 
9  
tắc kết hợp chúng, làm phương tiện để giao tiếp chung trong một cộng đồng 
(tiếng Anh là ngôn ngữ chính của người Anh, Mỹ), 2- hệ thống kí hiệu dùng 
để diễn đạt, thông báo (ngôn ngữ hội họa, ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ 
múa), 3 – cách thức, nghệ thuật hay trình độ sử dụng ngôn ngữ có tính chất 
riêng (ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ trẻ em). Cử chỉ được hiểu là: 1 – điệu bộ hoặc 
hành động biểu lộ một trạng thái tinh thần nào đó của thân thể chuyển động 
(cử chỉ âu yếm, để ý từng bước đi, từng cử chỉ) 2 – việc làm biểu lộ một thái 
độ nào đó (cử chỉ hào hiệp). Định nghĩa về ngôn ngữ cử chỉ chưa được đưa 
vào cuốn từ điển này trong khi đó ngôn ngữ cử chỉ là thuật ngữ đã đi vào đời 
sống và được nhiều người quan tâm. 
Cuốn Ngôn ngữ cử chỉ của hai tác giả người Mỹ Gregory Hartley và 
Maryann Karinch được dịch và xuất bản tại Việt Nam năm 2011 là cuốn sách 
gọi tên đích danh và nghiên cứu khá tỉ mỉ về ngôn ngữ này, mục đích của nó 
là giúp người đọc nhận biết những thông điệp và cảm xúc thể hiện qua ngôn 
ngữ cử chỉ. Tại đây, tác giả chia hình thái giao tiếp của con người làm ba loại: 
giao tiếp bằng lời (phải lựa lời, chú ý đến ý nghĩa của lời nói), giao tiếp bằng 
âm thanh (chú ý đến ngữ điệu của lời nói) và giao tiếp phi lời (chú ý đến điệu 
bộ, tư thế, các cử động và phản ứng của cơ thể từ đầu tới chân), và loại 
giao tiếp thứ ba được hiểu là ngôn ngữ cử chỉ. Khi diễn giảng về ngôn ngữ cử 
chỉ, tác giả luôn đi kèm với phân tích và đề cao vai trò của giao tiếp bằng âm 
thanh. Tác giả cuốn sách cũng chỉ rõ rằng ngôn ngữ cử chỉ mặc dù có những 
quy ước chung nhất định nhưng nó có sự thay đổi theo thời gian và không 
gian, đặc biệt nó có liên quan nhiều đến văn hóa và lối sống của mỗi vùng đất 
nên ngôn ngữ cử chỉ không đơn nghĩa, không đơn thuần chắc chắn như toán 
học. Cuốn sách của hai tác giả người Mỹ này cũng nhấn mạnh ngôn ngữ cử 
chỉ nói cho chúng ta nhiều điều về đối tượng giao tiếp, việc am hiểu và sử 
dụng ngôn ngữ cử chỉ rất cần thiết trong cuộc sống. 
10  
Đối với những người khiếm thính thì ngôn ngữ cử chỉ được xem như là 
công cụ duy nhất để họ giao tiếp, truyền tải thông tin và cảm xúc cho người 
khác. Không thể nghe và nói được khi giao tiếp, họ sử dụng những chuyển 
động, sự thay đổi tinh vi của một bộ phận nào đó trên cơ thể làm phương tiện 
truyền tải suy nghĩ và cảm xúc của mình. Trong đời sống ngày nay, ngôn ngữ 
cử chỉ không chỉ được xem như một công cụ giao tiếp giữa những người 
khuyết tật kém may mắn mà nó ngày càng thể hiện sự hữu dụng của mình 
trong giao tiếp xã hội. Tính thời sự ấy thể hiện rõ rệt nhất là trong giới kinh 
doanh, giới chính trị gia và trong lĩnh vực điều tra tội phạm .v.v. Nó thuộc về 
kỹ năng mềm trong giao tiếp thông thường. 
Các bộ phận trên cơ thể tham gia thể hiện ngôn ngữ cử chỉ của con người 
rất tinh vi. Có thể chia làm hai dạng để quan sát, một là phản ứng của các bộ 
phận trên khuôn mặt và hai là phản ứng của đầu, thân và tứ chi. Phản ứng của 
các bộ phận trên khuôn mặt cần sự để ý tinh tế hơn, nó có thể bộc lộ ở ánh 
mắt, ở cái nhíu mày, nhăn trán, hình dạng và chuyển động của cái miệng phát 
ra âm thanh to hay nhỏ, sự thay đổi cơ mặt hay màu sắc của khuôn mặt .v.v. 
Phản ứng của đầu, thân và tứ chi dễ phát hiện hơn, nó thuộc về những cử 
động, động tác. Cử chỉ, động tác là kênh giao tiếp, đồng thời nó là đơn vị làm 
nên hành động. Nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ cần đặt trong hoàn cảnh giao tiếp 
cụ thể, và để nó trở thành kênh giao tiếp hữu dụng phải có sự liên kết quan sát 
tổng hợp các cử chỉ. Có mối quan hệ mật thiết giữa cử chỉ và hành động, có 
những cử chỉ không lập thành hành động, nhưng hành động luôn đi kèm với 
cử chỉ. Hành động mang tư cách của một chỉnh thể hợp bởi các cử chỉ. Vì vậy 
nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ không phải chỉ đơn thuần phân tách hình thái và 
sự chuyển động của các bộ phận trên cơ thể mà phải gắn nó trong hành động 
của nhân vật, đặc biệt chú ý đến những hành động trong từng hoàn cảnh giao 
tiếp cụ thể bởi “nền tảng để hiểu ngôn ngữ cử chỉ là ngữ cảnh” [20, tr. 131]. 
11  
Tựu chung lại, chúng tôi sử dụng thuật ngữ ngôn ngữ cử chỉ trong luận 
văn này với cách hiểu: 
 Thuật ngữ mới có độ hữu dụng cao – ngôn ngữ cử chỉ là phương 
tiện giao tiếp bằng cử chỉ, nó đề cập đến phản ứng của các bộ phận trên 
cơ thể trong những tình huống giao tiếp cụ thể nhằm truyền đạt thông tin 
thay lời, qua đó thể hiện tư tưởng, tình cảm, thái độ, tâm lý, tính cách 
của mỗi người trong giao tiếp. 
Khi nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ nói chung, ngôn ngữ cử chỉ của nhân 
vật văn học nói riêng ta cần chú trọng đến ba yếu tố: 
- Tình huống giao tiếp cụ thể. 
- Thông tin thay lời của cử chỉ, chính là trả lời câu hỏi: “Cử chỉ nói gì?” 
- Tư tưởng, tình cảm, thái độ, tâm lý, tính cách của đối tượng thực hiện 
cử chỉ hay chính là đi tìm giá trị của ngôn ngữ cử chỉ. 
Thuật ngữ “ngôn ngữ cử chỉ” trong nghiên cứu nhân vật văn học tuy chưa 
được sử dụng nhiều, song trên thực tế việc nghiên cứu nhân vật ở lĩnh vực 
này đã được áp dụng như một trong những thao tác phân tích nhân vật cổ 
điển: nghĩa là phân tích nhân vật bằng những gì bộc lộ ra qua diện mạo, cử 
chỉ, hành động của nhân vật. Trong văn phân tích nhân vật từ bậc trung học 
trở đi, việc phân tích này gần như đã trở thành khuôn mẫu bên cạnh những 
tiếp cận lời nói, suy nghĩ của nhân vật. 
 Phạm vi nghiên cứu 
Nghiên cứu sử dụng bản dịch Anh em nhà Caramazov của dịch giả 
Phạm Mạnh Hùng, NXB Lao động, 2007. Phạm vi ngôn ngữ cử chỉ được lựa 
chọn để nghiên cứu trong luận văn là những cử chỉ, diện mạo, âm thanh lời 
nói của tuyến nhân vật chính là các thành viên của gia đình Caramazov tại 
những hoàn cảnh đặc thù của tác phẩm. Trong quá trình phân tích, luận văn 
có liên hệ mở rộng đến một vài tác phẩm khác trong sáng tác của Dostoevski.  
12  
4. Phương pháp nghiên cứu 
Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu liên ngành với các 
tiếp cận thi pháp học, tâm lí học, văn hoá học, phân tâm học. 
Phương pháp thi pháp học được chúng tôi sử dụng trong những phân 
tách cử chỉ, diện mạo, âm thanh lời nói của nhân vật trong những hoàn cảnh 
cụ thể của cốt truyện. 
Cùng với phương pháp thi pháp học, chúng tôi sử dụng phương pháp 
tâm lý học, văn hoá học, phân tâm học trong những phân tích, khám phá, 
khẳng định nhân cách nhân vật và luận về những cử chỉ mang tính biểu tượng 
trong tác phẩm Anh em nhà Caramazov của Dostoevski. 
5. Cấu trúc luận văn 
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung luận văn gồm ba 
chương: 
Chương 1: Ngôn ngữ cử chỉ và các tình huống giao tiếp 
Chương 2: Cử chỉ, tâm lý và nhân cách 
Chương 3: Cử chỉ như là biểu tượng             
13  
Chương 1 
NGÔN NGỮ CỬ CHỈ VÀ CÁC TÌNH HUỐNG GIAO TIẾP  
Xét một cách tổng thể, Anh em nhà Caramazov bày ra tình huống con 
giết cha trong một gia đình “ngẫu hợp” đa nhân cách. Tổ hợp nhân cách 
những thành viên trong gia đình ấy tạo thành một bức tranh có những mảng 
màu sáng, tối và tranh sáng tranh tối. Mảng màu sáng duy nhất của bức tranh 
nhân cách ấy nằm ở thiện nhân Aliosa. Đối lập với nó là mảng màu tối của 
nhân cách người cha dâm dục, phóng đãng, đồi truỵ Fiodor Pavlovitr và nhân 
cách ác nhân Xmerdiacov – đứa con trực tiếp đập bể sọ cha mình. Tình trạng 
tranh sáng, tranh tối diễn ra ở nhân cách Dimit’ri và Ivan với sự đấu tranh gay 
gắt giữa những thái cực đầy mâu thuẫn dẫn đến khủng hoảng nội tâm lớn lao: 
một kẻ sống kiệt cùng với bản năng rồi dằn vặt tự trong khát vọng đam mê ấy, 
một kẻ suy sụp kiếm tìm sự vĩnh cửu của đức tin, chân lý, kiếm tìm tình yêu 
thương tận thiện tận mĩ trong cái biến ảo khôn lường của cuộc đời. Dimit’ri 
trong lúc khốn quẫn nhất vì ghen tuông và danh dự đã toan giết cha, dù không 
thực hiện hành vi giết người nhưng chàng đã phải đứng trước vành móng 
ngựa và lĩnh án tù khổ sai. Khủng hoảng niềm tin vào Chúa – hiện thân của 
tính thiện, Ivan đã tiêm nhiễm tư tưởng “rắn nuốt rắn thế là đi đời cả hai” 
cho Xmerdiacov. Xmerdiacov với mầm ác, thú tính hèn hạ ấp ủ từ lúc sinh 
thời nay hút lấy phần cay độc trong tư tưởng của Ivan đã nhận lấy vai trò của 
một kẻ hành quyết hiện thân của cái ác. Aliosa thánh thiện nhưng bất lực, cái 
ác vẫn diễn ra trước mắt chàng như một điều không thể tránh khỏi. 
Tình huống lớn của câu chuyện là một tình huống đầy bi kịch. 
Mỗi nhân vật trong tác phẩm tham dự tình huống lớn ấy mang lấy cho 
mình một hoàn cảnh riêng đầy bi kịch. Nhân vật của Dostoevski đã tự trải 
nghiệm bi kịch của bản thân và lựa chọn cho mình những con đường “phục 
sinh”. Dimit’ri “phục sinh” trong đoạ đày tù ngục. Ivan có dấu hiệu “phục 
14  
sinh” trong thức tỉnh sau những cơn điên loạn. Xmerdiacov có dấu hiệu “phục 
sinh” mầm thiện quyết định tự vẫn. Aliosa “phục sinh” sau trải nghiệm đau 
đớn vì bất lực trước tội ác và cái chết. 
Trên đoạn đường đi từ bi kịch đến “phục sinh”, Dostoevski để cho tổ 
hợp các nhân cách của mình cất lên những tiếng nói nội tâm sâu sắc. Trong 
những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, những tiếng nói ấy tranh luận và đấu tranh 
gay gắt với nhau. Và tiếng lòng với những giằng xé nghiệt ngã của bi kịch cá 
nhân ấy nhiều khi không thể hiện hết được bằng lời, nó buột ra theo những 
phản ứng của bộ phận nào đó trên cơ thể mỗi nhân vật trong giao tiếp mà ở 
trên chúng ta đã gọi nó là ngôn ngữ cử chỉ. Biểu hiện và nắm bắt được ngôn 
ngữ cử chỉ trong giao tiếp cần một sự chú ý tinh tế và việc thể hiện được điều 
tinh tế đó bằng văn bản ngôn từ lại cần một đầu óc tinh vi hơn thế. Dostoevski 
đã chú ý đến nó, biểu hiện nó và cho chúng ta thấy sức nặng của nó đối với 
việc xây dựng nhân vật của mình. 
Nghiên cứu ngôn ngữ cử chỉ của nhân vật trong những tình huống giao 
tiếp cụ thể thực tế là nghiên cứu việc thể hiện nó và việc đọc nó trong hoàn 
cảnh nào. Xét hoàn cảnh giao tiếp, ta chú ý đến “thế” của nhân vật ở các 
dạng: chủ động, bị động hay ngang hàng. Căn cứ vào điều này, tác phẩm Anh 
em nhà Caramazov có ngôn ngữ cử chỉ của nhân vật trong đối thoại trực tiếp: 
hai đối tượng giao tiếp cùng bình đẳng trong việc bộc lộ và tiếp nhận ngôn 
ngữ cử chỉ; ngôn ngữ cử chỉ của nhân vật trong trường hợp đặc biệt khi nhân 
vật tự đọc mình hay một trong hai đối tượng giao tiếp nằm ở thế bị động: 
nhân vật bị thâu tóm công khai hay bị “soi lén” bởi đối tượng khác, nhân vật 
bị thâu tóm bởi người kể chuyện xưng “tôi”. 
1.1 . Đối thoại trực tiếp – trường hợp Ivan và Xmerdiacov 
Tại những tình huống đối thoại trực tiếp, khách thể quan sát cử chỉ và 
chủ thể thực hiện cử chỉ đối diện với nhau để quan sát và phán đoán lẫn nhau. 
15  
Giới nghiên cứu cho rằng trong tác phẩm của Dostoevski tồn tại những 
cặp nhân vật đồng dạng, những “kẻ song trùng” về tư tưởng và hành động. 
Trong giao tiếp, đây cũng là những cặp hay “soi” cử chỉ và hành động của đối 
phương hơn cả, họ đọc đối tượng và đọc mình trong đối tượng. Trong tác 
phẩm này, ta để ý đến cặp nhân vật phải thường xuyên đọc lẫn nhau là 
Xmerdiacov và Ivan tại hai thời điểm trước và sau khi án mạng xảy ra. 
Trước khi Ivan lên đường ra đi bỏ mặc tấm thảm kịch gia đình sắp tới, đã 
có một cuộc giao tiếp giữa chàng và Xmerdiacov với những dấu hiệu đầy ẩn ý 
phát ra từ ngôn ngữ cử chỉ của mỗi người. Bắt đầu từ cử chỉ và phán đoán sơ 
khai mở đầu này: "Xmerdiacov đứng dậy khỏi ghế, và chỉ riêng cử chỉ ấy đã 
khiến Ivan Fiodorovitr đoán ra rằng hắn có chuyện muốn nói riêng với 
chàng”, hai con người ấy đã bước vào quá trình đọc cử chỉ của nhau để 
“ngấm ngầm” đi tới một “thoả thuận” không lời sau đó. Tại cuộc giao tiếp 
này, đằng sau những câu hỏi ngờ vực, thái độ của Ivan bắt đầu từ dè dặt 
chuyển sang nạt nộ: 
- Ông già ngủ hay thức? – chàng hỏi khẽ, vẻ nhún nhường (…) 
- ta có gì khiến ngươi ngạc nhiên? - Ivan Fiodorovitr nghiêm nghị hỏi 
bằng giọng nhát ngừng (…) 
- đồ quỷ, nói rõ hơn nữa đi, ngươi cần gì? Cuối cùng Ivan Fiodorovitr 
giận giữ quát lên, đành chịu nhịn mà chuyển sang thái độ thô lỗ [8, tr. 415] 
 - Thế ngươi vào đây làm gì? Tại sao ngươi lại thông tin cho cậu 
Dimit’ri Fiodorovitr? Ivan nói bằng giọng cáu kỉnh [8, tr. 416] 
- A, đồ quỷ, - Ivan bỗng sừng sộ, mặt méo đi vì giận giữ [8, tr. 417] 
Những đường nét trên mặt Ivan Fiodorovitr dường như méo đi và rung 
động. Chàng bỗng đỏ mặt [8, tr. 422] 
- Thế ta ở Tremasnia thì người ta không gọi sao… nếu có chuyện như thế 
xảy ra” – Ivan Fiodorovitr bỗng gào lên, không rõ vì sao mình bỗng quát to 
như vậy [8, tr. 424] 
16  
Đáp lại Ivan, Xmerdiacov lại hoàn toàn dè dặt, nhún nhường và trả lời 
những câu hỏi của Ivan một cách úp mở: 
- Tôi nói thế là vì thương cậu. Ở địa vị của cậu, lâm vào tình cảnh thế 
này, tôi sẽ vứt bỏ ráo… tội gì dính vào một việc như thế…- Xmerdicov trả lời, 
công nhiên nhìn vào cặp mắt long sòng sọc của Ivan Fiodorovitr. Cả hai đều 
im lặng [8, tr. 422] 
- Cậu đến Tremasnia thì…vẫn bị người ta quấy rầy, - Xmerdicov nói 
lúng búng, gần như thì thầm, như thể luống cuống, nhưng vẫn hết sức chăm 
chú nhìn thẳng vào mắt Ivan Fiodorovitr [8, tr. 423] 
- Hoàn toàn đúng như vậy, - Xmerdicov nói lúng búng giọng đã nghẹn 
lại, miệng mỉm nụ cười bỉ ổi và lại lật bật chuẩn bị để lùi cho kịp [8, tr. 424]. 
Tại đây, giao tiếp bằng lời của các nhân vật là những câu hỏi ngắn và 
những câu trả lời cộc lốc không rõ ý, ý của họ ngụ trong ngôn ngữ cử chỉ. Cái 
“công nhiên nhìn”, “nhìn thẳng” của Xmerdicov trước Ivan như ngấm ngầm 
báo hiệu một sự thoả thuận bằng mắt. Và giây phút “cả hai đều im lặng” 
trong cuộc nói chuyện ấy mặc nhiên ám chỉ rằng thoả thuận đã xong xuôi. Sẽ 
có một chuyện gì đó xảy ra, cả hai đều biết và sắp đặt trước. Cụ thể ở đây là 
chuyện giết cha. Và cái “lúng búng” của Xmerdiacov mang dáng dấp của một 
kẻ tôi đòi bỉ ổi nhận mật lệnh. Ivan có phản đối trước thái độ của Xmerdiacov 
không, chàng có đồng tình với kế hoạch giết cha của hắn không, một lần nữa 
tác giả để cho nhân vật nói ra bằng cử chỉ, hành động. Đã có lúc chàng phản 
ứng dữ dội chuẩn bị cho một cuộc ẩu đả nhưng chàng đã kìm nén lại: 
“Ivan Fiodorovitr bỗng đứng phắt dậy khỏi chiếc ghế băng. Chàng toan 
đi ra vườn nhưng đột nhiên chàng dừng lại, quay về phía Xmerdiacov. Đã xảy 
ra một điều kì lạ, bất thình lình, như lên cơn co rút, chàng bậm môi, xiết chặt 
nắm tay, tưởng như chỉ giây lát nữa là sẽ xông vào đánh Xmerdicov. Giây lát 
ấy ít ra hắn cũng nhận thấy điều đó, hắn giật mình ngả người về phía sau. 
17  
Nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra với hắn. Lẳng lặng, nhưng dường như hơi 
băn khoăn, Ivan Fiodorovitr quay về phía cửa vườn” [8, tr. 422-423]. 
Mỗi cử chỉ của Ivan đều được Xmerdiacov thu lại, phán đoán và kịp thời 
phản ứng lại. Đây là một quá trình đọc đối tượng từng chút một. Vẻ “lẳng 
lặng” của Ivan đã mang đến cho Xmerdiacov câu trả lời đồng thuận trước âm 
mưu giết cha sắp tới. Tuy nhiên, sự “hơi băn khoăn” và thái độ “nhát ngừng” 
cáu kỉnh trong những câu nói của Ivan trước đó đã đem đến cho chúng ta một 
sự ngờ vực về dã tâm của nhân vật. Và kết cục cho buổi giao tiếp đấy, cái 
cười của Ivan là một điều bí ẩn: 
“Nhưng Xmerdiacov ngạc nhiên vì Ivan Fiodorovitr bỗng bật cười và đi 
nhanh ra cửa vườn, vẫn vừa đi vừa cười. Người nào nhìn mặt chàng lúc ấy hẳn 
sẽ kết luận rằng chàng cười không phải vì trong lòng rất đỗi vui vẻ. Vả chăng 
chính bản thân chàng cũng không sao giải thích được lúc ấy đã có chuyện gì xảy 
ra với chàng. Chàng cử động và đi như con rối giật” [8, tr. 424]. 
Dostoevski đã rất coi trọng ngôn ngữ cử chỉ của nhân vật. Ông để cho 
hai đối tượng có những đối thoại bằng lời rất mập mờ này giao tiếp và đọc 
nhau bằng cử chỉ. Tại đây, Xmerdiacov đọc Ivan nhiều hơn cả. Hắn đọc được 
ý đồ thâm hiểm trong con người Ivan khi quyết định ra đi bỏ mặc tai họa gia 
đình sắp ập đến. Đây cũng là lần cuối cùng hắn khẳng định được sự được 
phép của tội ác mà hắn sắp sửa thi hành. Cũng tại đây, tác giả bày ra cho ta 
một thực tế về mối quan hệ giữa ngôn ngữ nói, ngôn ngữ cử chỉ và suy nghĩ 
bên trong của nhân vật. Ngôn ngữ nói của Ivan là những câu hỏi cặn kẽ, căn 
cứ vào đó khẳng định được chàng đang quan tâm đến kế hoạch của 
Xmerdiacov và đồng tình, ngôn ngữ cử chỉ của chàng bộc lộ sự tức giận 
chứng tỏ có sự mâu thuẫn giữa câu nói và nội tâm. Tại đây đã có một sự 
“vênh” giữa lời nói và suy nghĩ, và ta đọc được điều này từ cử chỉ của nhân 
vật. Song, đây mới chỉ là cấp độ đầu tiên của vấn đề, cấp độ sâu hơn là cử chỉ 
của nhân vật lại mâu thuẫn với suy nghĩ, khiến người ta không thể đọc được 
18  
nhân vật bằng cử chỉ nữa. Cái cười của Ivan là một kiểu “vênh” giữa cử chỉ 
và suy nghĩ của nhân vật. Trong thâm tâm, Ivan muốn cái chết kia, nhưng lý 
trí không cho phép chàng nghĩ rằng mình lại có dã tâm giết cha, chàng muốn 
vô can trước cái chết đó. Một thế giới nội tâm đầy mâu thuẫn đã buột ra qua 
cử chỉ của nhân vật. 
Trước khi án mạng xảy ra, trong cuộc gặp gỡ giữa Ivan và Xmerdiacov, 
người bị “soi” nhiều hơn là Ivan bởi chàng là con bài chủ đạo dẫn đường cho 
Xmerdiacov thực thi tội lỗi; trái lại, sau khi án mạng xảy ra, kẻ nắm thế chủ 
động trong đối thoại lại là Xmerdiacov. Không còn vẻ e dè như trước, y thản 
nhiên, trắng trợn phơi bày tội lỗi của mình đồng thời y hạ bệ sự vô can của 
Ivan đối với án mạng. Mỗi lần tiếp chuyện Xmerdiacov là một lần Ivan nhận 
ra sâu sắc hơn thực chất của vấn đề, nhận ra rõ nét tội lỗi của mình. 
 Trong cuộc đối thoại đầu tiên, điều làm Ivan ngạc nhiên là sự điềm tĩnh 
của Xmerdiacov trong giọng nói có phần ảnh hưởng của bệnh tật “gầy yếu, 
nói chậm, dường như cử động lưỡi khó khăn” [8, tr. 918], điệu bộ “đôi mắt 
trái nheo nheo” ngầm ám chỉ điều gì, và sự im lặng, thở dài nhiều lần. Lúc 
này Xmerdiacov chưa thú nhận tội lỗi nên những cử chỉ của hắn úp mở một 
cách có dụng ý, hắn muốn dò xét Ivan. Chính điều này làm Ivan phát cáu. 
Trong cuộc đối thoại, giọng điệu chủ đạo của Ivan là cáu kỉnh. Ivan vẫn cố 
bấu víu vào hy vọng vô can với án mạng. Mặc dù thâm tâm chàng nhận ra 
một phần sự thật qua giọng điệu và cử chỉ của Xmerdiacov nhưng chàng cố 
kiếp phủ nhận nó và đẩy sự thật đi xa. Chính vậy chàng “cảm thấy ghê tởm 
khi phải đào sâu vào những cảm giác của mình”, đó là cảm giác tội lỗi. 
Lần thứ hai tiếp chuyện, Xmerdiacov đã đi gần đến sự thật hơn, mặc dù 
vẫn khẳng định sự vô can của mình nhưng hắn đã chính thức lên tiếng buộc 
tội Ivan chủ ý giết cha, mong muốn án mạng xảy ra. Lần này, Ivan đã muốn 
“chơi bài ngửa”, chàng bắt đầu “đào sâu vào những cảm giác của mình” chứ 
không buông xuôi như lần trước. Tuy nhiên, điều chàng nhận được lại là cái 
19  
nhìn “hằn học, thiếu niềm nở, và cái chính là kiêu kì” của Xmerdiacov. Hắn 
không ở trong bộ dạng ốm yếu nữa mà chải chuốt với vẻ mặt: “tươi tắn, đầy 
đặn, túm tóc trên đầu chởm ngược, hai bên thái dương chải sáp” [8, tr. 929], 
Xmerdiacov hoàn toàn nắm thế chủ động: “mắt Xmerdiacov loé lên hằn học, 
mắt trái nhấp nháy (…) giọng nói thậm chí đã nghe thấy một cái gì cứng rắn và 
dai dẳng, độc ác và khiêu khích, trâng tráo (…) nhếch mép cười khinh miệt (…) 
toác miệng cười giễu cợt” [8, tr. 930 – 933]. Đối diện với những biểu hiện cử 
chỉ ấy, Ivan đã tiệm cận đến sự thật, phản ứng đầu tiên của chàng là sự run 
rẩy. Ngay từ khi bước vào phòng, trước khi ngồi xuống, chàng đã “hai tay run 
rẩy cầm lấy chiếc ghế” [8, tr. 929]. Tiếp sau đó, sự run rẩy bám riết lấy chàng, 
chàng đã run rẩy toàn thân vì phẫn nộ. Sự cáu kỉnh trong giọng nói lên cao 
đến mức “cuồng nộ”, thay bằng việc quát tháo chàng đã “nghiến răng” cay 
nghiệt ức chế, tức giận đến mức bung ra thành hành động “đấm mạnh tay 
xuống bàn” rồi “ráng sức thụi một quả vào vai hắn khiến hắn ngã lạng vào 
tường” [8, tr. 931]. Nhưng sau tất cả, còn lại với Ivan là sự tự vấn. Quá trình 
tự vấn của Ivan chính thức được bắt đầu từ dáng diệu “ngồi cau có, hai tay co 
quắp, tỳ xuống đầu gối” [8, tr. 934]. Đó là dáng điệu của sự đau khổ bất lực. 
Lần thứ ba, Xmerdiacov đã bắt đầu nhận ra sự sợ hãi của Ivan trong 
dáng điệu run rẩy, biểu hiện này làm hắn “sửng sốt”. Vẫn cái vẻ trâng tráo của 
Xmerdiacov, vẫn sự tức giận muốn “lật bài” của Ivan, cuộc đối thoại trở nên 
dài hơn khi sự thật được Xmerdiacov kể tỷ mỷ. Tác giả không cho biết 
Xmerdiacov có ân hận hay không mặc dù “mồ hôi túa ra trên mặt hắn”, cũng 
không lột trần hoàn toàn thế giới nội tâm của Ivan mặc dù chàng đã run rẩy 
vừa sợ hãi vừa giận dữ. Ivan sợ hãi và giận dữ không phải chỉ với 
Xmerdiacov trong cuộc đối thoại này. Phần cuối của cuốn tiểu thuyết cho ta 
thấu suốt sự đau khổ và giận giữ thực sự của Ivan nằm ở việc đấu tranh với 
những tư tưởng đang chế ngự đầu óc mình, tư tưởng của sự đau khổ, tư tưởng 
về việc trả giá cho nỗi đau và tội ác bằng chính tội ác và chết chóc. Song tại 
20  
đây, thế giới nội tâm của hai nhân vật được mở ra đầy “khiêu khích”, ngôn 
ngữ cử chỉ mà nhà văn phác họa không để cho nhân vật “bộc toạch” tất cả 
những suy tư của mình, ông để một khoảng cách xác định giữa cử chỉ và suy 
nghĩ của nhân vật để lôi cuốn chúng ta vào bức chân dung tinh thần ấy. 
Có thể kết luận rằng những cuộc đối thoại giữa Xmerdiacov và Ivan là 
những cuộc rượt đuổi, thâu tóm nhau. Ban đầu là Xmerdiacov rượt đuổi theo 
những ý đồ chưa hoàn toàn định hình của Ivan về tội ác. Về sau là Ivan rượt đuổi 
theo Xmerdiacov để đi tìm sự thật về án mạng, sự thật về “con quỷ” xui khiến nên 
những ý đồ tội lỗi trong tâm trí chàng. Chỉ có ở cuộc đối thoại cuối cùng là họ “lật 
bài” nhau, còn trong những cuộc đối thoại trước đó họ đều vừa thăm dò vừa lấp 
liếm nhau qua ý tứ cử chỉ của đối tượng. Ngay cả trong cuộc “lật bài”, họ không 
quên thu lấy từng biểu hiện nhỏ nhất của cử chỉ để nắm được thái độ và ý đồ của 
đối tượng giao tiếp. Và người đọc, qua đó cũng đọc được bức tranh nội tâm của 
nhân vật, một thế giới đầy sóng gió và có thể đẩy đến tận cùng nguy hiểm. 
1.2. Giao tiếp đặc biệt 
1.2.1. Chủ thể thực hiện cử chỉ tự quan sát và phán đoán mình – trường 
hợp Ivan 
 Ở phần trên, ta đã đề cập đến sự “vênh” giữa suy nghĩ, cử chỉ và lời nói 
của nhân vật trước sự đánh giá của một đối tượng quan sát cụ thể. Không chỉ 
dừng lại ở đó, sự mâu thuẫn còn được đẩy vào sâu hơn, nhân vật của 
Dostoevski đã phải tự đọc và cảm nhận độ “vênh” ấy của chính bản thân 
mình. Ivan là nhân vật điển hình trong tác phẩm thường xuyên phân thân. 
Trong giao tiếp, Ivan thường xuyên phải “lăn tăn” về lời nói và cử chỉ của 
mình hơn cả. Chàng đọc mình, càng đọc càng thấy lý trí không giải thích nổi 
tại sao mình lại hành xử như vậy. Ivan bị động đối với chính cử chỉ của mình. 
Tại tình huống Ivan nói chuyện với Xmerdiacov trước buổi lên đường, 
không thiếu những phút giây Ivan dừng lại suy tư về chính mình và việc 
không lí giải được đã trở thành nỗi ám ảnh: