Câu 25. Các tổ chức phụ trách bầu cử Đại biểu Quốc hội ở Việt Nam theo pháp luật
hiện hành :
Theo Điều 13, Luật bầu cử Đại biểu Quốc hội.
Các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội gồm có:
1. Hội đồng bầu cử ở trung ương :
- Chậm nhất là 90 ngày trước ngày bầu cử, Ủy ban thường vụ quốc hội thành
lập ra Hội đồng bầu cử từ 15-21 người gồm: Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Tổng
thư ký và các uỷ viên là đại diện Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Uỷ
ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một số cơ quan, tổ chức hữu quan.
2. Uỷ ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương :
- Chậm nhất là tám mươi ngày trước ngày bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân
dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành
lập Uỷ ban bầu cử từ 7-11 người gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Thư ký và
các uỷ viên là đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, một số cơ quan, tổ chức hữu quan.
3. Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử:
- Chậm nhất là sáu mươi ngày trước ngày bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân
dân và Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành
lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử từ 9-15 người gồm Trưởng ban, các
Phó Trưởng ban, Thư ký và các uỷ viên là đại diện Thường trực Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, một số cơ quan, tổ
chức hữu quan.
4. Tổ bầu cử ở khu vực bỏ phiếu.:
- Chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày bầu cử, Chủ tịch Hội đồng nhân dân
xã, phường, thị trấn sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân và Ban thường
trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập ở mỗi khu vực bỏ
phiếu một Tổ bầu cử từ 5-11 người gồm Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký và các uỷ
viên là đại diện Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc cùng cấp và đại diện cử tri ở địa phương.
- Đơn vị vũ trang nhân dân thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu của mình một Tổ
bầu cử từ năm đến chín người, gồm Tổ trường, Tổ phó, Thư ký và các uỷ viên
là đại diện Chỉ huy đơn vị và đại diện quân nhân.
- Trong trường hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương có chung một khu
vực bỏ phiếu thì Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn sau khi thống
nhất với Uỷ ban nhân dân, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp
và Chỉ huy đơn vị vũ trang nhân dân quyết định thành lập Tổ bầu cử từ năm
đến mười một người, gồm đại diện Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, đại diện Chỉ huy đơn vị, đại diện quân nhân và
đại diện cử tri ở địa phương.
Câu 26. Các tổ chức phụ trách bầu cử dại biểu Hội đồng nhân dân ở Việt Nam theo
quy định của pháp luật hiên hành.
Theo Điều 15, Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân.
Các tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân gồm có:
1. Hội đồng bầu cử:
- Chậm nhất là chín mươi ngày trước ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các
cấp, Uỷ ban nhân dân sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và
Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định thành
lập Hội đồng bầu cử gồm đại diện Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan khác
của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
- Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có từ 15-21 người.
- Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện có 11-15 người.
- Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã có từ 9-11 người.
- Hội đồng bầu cử bầu Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư ký.
- Danh sách Hội đồng bầu cử cấp tỉnh phải được báo cáo lên Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Chính phủ và Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Danh
sách Hội đồng bầu cử cấp huyện và cấp xã phải được báo cáo lên Thường trực Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cấp trên trực tiếp.
2. Ban bầu cử:
- Chậm nhất là bốn mươi lăm ngày trước ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ban
thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định thành lập ở
mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử.
- Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có từ 11-13 người.
- Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện có từ 9-11 người.
- Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã có từ 7-9 người.
- Thành phần Ban bầu cử gồm đại diện các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội.( ở cấp xã, thành phần Ban bầu cử có thêm đại diện tập thể
cử tri ở địa phương)
3. Tổ bầu cử.
• Chậm nhất là ba mươi lăm ngày trước ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân cấp xã sau khi thống nhất với Thường trực Hội đồng nhân dân và
Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp quyết định thành
lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử từ 5-9 người gồm đại diện các tổ chức
xã hội và tập thể cử tri ở địa phương.
• Tổ bầu cử bầu Tổ trưởng, Tổ phó và Thư ký.
• Trong trường hợp đơn vị bầu cử chỉ có một khu vực bỏ phiếu thì Ban bầu cử kiêm
nhiệm vụ của Tổ bầu cử.
• Đơn vị vũ trang nhân dân thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử từ 5-9
người gồm Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký và các uỷ viên là đại diện chỉ huy đơn vị và
đại diện quân nhân.
Câu 27. Khái quát quy trình bầu cử Quốc hội tại Việt Nam
1. Ấn định ngày bầu cử
• Để tiến hành một cuộc bầu cử, trước hết phải xác định cho được ngày bầu cử
(ngày bỏ phiếu). Ở Việt Nam, ngày bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân
dân do Ủy ban thường vụ Quốc hội ấn định
và công bố chậm nhất là 105 ngày
trước ngày bầu cử
• Điều 54 Luật bầu cử Quốc hội quy định: Việc bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội
được tiến hành cùng một ngày trong cả nước. Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật,
do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất là 105 ngày trước
ngày bầu cử.
• Việc Ủy ban thường vụ Quốc hội ấn định ngày bầu cử là công đoạn đầu tiên của
công việc tiến hành một cuộc bầu cử. Bắt đầu từ đây, mọi việc có liên quan đến
việc bỏ phiếu và xác định kết quả bầu cử bắt đầu được tiến hành.
• Trong trường hợp đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn thì Ban
bầu cử phải báo cáo với Uỷ ban bầu cử để đề nghị Hội đồng bầu cử xem xét, quyết
định.
• Trước cuộc bỏ phiếu 10 ngày, Tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri
biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu
• Cử tri chỉ được đi bỏ phiếu đúng vào ngày đã được ấn định trước trên toàn quốc.
Tuy vậy, đối với một số vùng miền có khó khăn về giao thông, liên lạc, việc bầu
cử có thể tiến hành sớm hơn ngày đã ấn định để kết quả bầu cử có thể kịp chuyển
về tổng hợp chung( một số vùng như huyện đảo Trường Sa (Khánh Hoà) và huyện
đảo Bạch Long Vĩ (thành phố Hải Phòng) đã bỏ phiếu sớm hơn.
2. Thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử
Tại Việt Nam, việc thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử được chuẩn bị chu đáo.
Các tổ chức phụ trách bầu cử được pháp luật quy định thành lập từ trung ương đến
địa phương
Các tổ chức phụ trách bầu cử bao gồm:
• Hội đồng bầu cử
• Ủy ban bầu cử
• Tổ bầu cử
• Sự tham gia của các cơ quan hữu quan( thường là Mặt trận Tổ Quốc các cấp và
hội đồng nhân dân các cấp…)
3. Về kinh phí hoạt động
• Kinh phí trang trải cho hoạt động của bộ phận phụ trách cũng như trang trải cho
toàn bộ cuộc bầu cử được lấy từ ngân sách nhà nước.
• Kinh phí bầu cử được chi cho các việc chuẩn bị triển khai, tiến hành và tổng kết
bầu cử. Các chi phí này bao gồm in ấn các tài liệu, biểu mẫu, thẻ cử tri, mẫu biên
bản, các chi phí về mua sắm hòm phiếu, khắc con dấu của các tổ chức phụ trách
bầu cử, chi phí và bồi dưỡng cho cán bộ, nhân viên phục vụ cho cuộc bầu cử và
các khoản chi phí cần thiết khác theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
4. Phân chia đơn vị bầu cử.
• Song song với việc thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử là việc phân chia đơn vị
bầu cử. Đây là một bước hết sức quan trọng, nó xác định số lượng đại biểu cho
mỗi vùng, miền, cơ cấu đại biểu và nó tác động trực tiếp đến kết quả bầu cử. Đặc
biệt là việc phân chia này diễn ra rất quyết liệt đối với các nước theo chế độ đa
đảng.
• Về nguyên tắc các đơn vị được bầu cử được thành lập để bảo đảm sự cân bằng lá
phiếu của cư tri, tức là bảo đảm tôn trọng nguyên tắc bình đẳng. Điều đó có nghĩa
là những đơn vị có một ghế đại biểu thì phải có dân số như nhau.
• Ở Việt Nam, đơn vị bầu cử được hiểu là lãnh thổ với một số dân tương ứng nhất
định và được bầu ra một lượng đại biểu Quốc hội hoặc hội đồng nhân dân nhất
định. Cơ sở để phân chia đơn vị bầu cử cho các cuộc bầu cử khác nhau là tổng số
đại biểu Quốc hội hoặc Hội đồng nhân dân phải bầu và số dân sống trên lãnh thổ
của đơn vị bầu cử được phân chia. Số đại biểu được bầu cho mỗi đơn vị bầu cử
phụ thuộc vào số lượng dân cư sống trên một đơn vị bầu cử.
• Ví dụ: Số đại biểu Quốc hội khóa XII được phân bố cho tỉnh Quảng Trị là 06
người trên 2 đơn vị bầu cử, mỗi đơn vị bầu cử là 03 người.
• Theo quy định của pháp luật, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được chia
thành các đơn vị bầu cử. Ủy ban thường vụ Quốc hội ấn định và công bố số đơn vị
bầu cử, danh sách các đơn vị bầu cử và số đại biểu của mỗi đơn vị được tính theo
số dân. Ví dụ: số đại biểu Quốc hội khóa XI của thành phố Hồ Chí Minh là 25 đại
biểu, là đoàn đại biểu đông nhất cả nước.
5. Xác định khu vực bỏ phiếu
• Để việc bỏ phiếu được thuận tiện, mỗi đơn vị bầu cử được chia thành nhiều khu
vực bỏ phiếu. Khu vực bỏ phiếu là đơn vị địa dư thống nhất lượng cử tri nhất định,
nơi cử tri tiến hành bỏ phiếu bầu đại diện.
• Ở Việt Nam, lãnh thổ các đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân tỉnh, huyện, xã và tương đương thường rất rộng, một số địa phương hiện
nay đi lại rất khó khăn mặt khác Việt Nam là một nước nghèo, việc đầu tư cho hệ
thống giao thông còn hạn chế, nhiều hệ thống giao thông thi công kém do nhiều
nguyên nhân đã nhanh chóng xuống cấp vì vậy gây thêm khó khăn cho việc bầu
cử.
• Để thuận tiện cho cử tri thực hiện quyền bầu cử của mình, các đơn vị bầu cử này
thường phân chia thành các nơi bỏ phiếu (khu vực bỏ phiếu). Mỗi khu vực có thể
có từ 300 đến 2.000 cử tri hoặc có thể cao hoặc thấp hơn, miễn là bảo đảm thuận
tiện cho cử tri bỏ phiếu đồng thời cũng dễ cho đơn vị bầu cử.
6. Lập danh sách cử tri
• Để thực hiện quyền bầu cử của mình, công dân phải đăng ký, ghi tên vào danh
sách cử tri. Việc lập danh sách cử tri không những nhằm mục đích bảo đảm quyền
bầu cử của công dân mà còn ngăn chặn hiện tượng gian lận trong bầu cử
• Ở Việt Nam áp dụng phương pháp lập danh sách bắt buộc khi cử tri tại địa điểm
nào thì phải đăng ký danh sách tại nơi đó.
7. Giới thiệu ứng cử viên
• Ở Việt Nam, song song với việc thành lập các tổ chức phụ trách bầu cử là việc
giới thiệu ứng cử viên. Đây cũng là giai đoạn cực kỳ quan trọng của cuộc bầu cử.
Sự dân chủ không chỉ thể hiện trong khi xác định kết quả bầu cử mà còn ngay từ
khi giới thiệu ứng cử viên. Nếu công dân không được giới thiệu ra ứng cử, không
lập được danh sách ứng cử thì không có cơ hội để trở thành đại biểu được.
• Về mặt nguyên tắc, chủ thể giới thiệu ứng cử viên càng rộng bao nhiêu thì thể hiện
sự dân chủ bấy nhiêu của giai đoạn này. Pháp luật hiện hành không hạn chế việc
giới thiệu ứng cử viên của các tổ chức chính trị - xã hội và ứngcử viên cũng không
bắt buộc phải nộp một khoản tiền ký quỹ để tranh cử.
8. Hiệp thương lập danh sách ứng cử viên
• Muốn có được danh sách ứng cử viên chính thức cho các đơn vị bầu cử niêm yết
để cử tri bỏ phiếu bầu cử, mặt trận tổ quốc Việt Nam phải tổ chức ba hội nghị hiệp
thương cơ bản giữa các tổ chức là thành viên: Hội nghị hiệp thương để phân bổ số
lượng ứng cử viên mà các tổ chức xã hội được giới thiệu, hội nghị hiệp thương sơ
bộ các ứng cử viên để đưa về đơn vị nơi công tác và nơi cư trú lấy ý kiến đóng góp
của Hội nghị cử tri, và cuối cùng là hiệp thương để lập danh sách ứng cử viên để
đưa về các đơn vị bầu cử.
9. Vận động bầu cử
• Giai đoạn này là một giai đoạn quan trọng trong tiến trình bầu cử, bởi chính giai
đọan này phần nhiều quyết định sự thành bại của ứng cử viên.
• Kể từ khi lập danh sách cho đến ngày bỏ phiếu, các ứng cử viên cũng như các chủ
thể giới thiệu ứng cử viên được quyền bình đẳng trong việc vận động, tuyên
truyền bầu cử.
• Vận động bầu cử là hoạt động gặp gỡ, tiếp xúc của người ứng cử với cử tri và các
phương tiện thông tin đại chúng. Mục đích là tạo điều kiện cho người ứng cử đại
biểu Quốc hội gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri để báo cáo với cử tri dự kiến chương
trình hành động của mình nếu được bầu làm đại biểu
10. Bỏ phiếu
• Theo nguyên tắc bỏ phiếu kín
• Khi đến phòng bỏ phiếu, cử tri phải xuất trình giấy tờ tùy thân hoặc thẻ cử tri do
nhân viên phụ trách bầu cử cung cấp đồng thời nhận phiếu bầu. Cử tri viết trong
phòng kín sau đó gấp lại hoặc cho vào phong bì gián lại rồi ra ngoài tự tay bỏ vào
thùng phiếu.
11. Kiểm phiếu
• Sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc, các tổ chức phụ trách bầu cử ở khu vực bỏ phiếu
lập tức tiến hành việc kiểm phiếu. Việc kiểm phiếu được tiến hành công khai.
12. Xác định kết quả bầu cử
Kết quả cuộc bầu cử được xác định trước hết ở từng đơn vị bầu cử. Kết quả này
được chuyển lên cho Ủy ban bầu cử ở Trung ương (Hội đồng bầu cử). Trên cơ sở
những văn bản do các tổ chức phụ trách ở đơn vị bầu cử gửi đến, Ủy ban bầu cử
Trung ương xác nhận tính hợp pháp của cuộc bầu cử ở từng đơn vị bầu cử rồi
công bố kết quả bầu cử
13. Công bố kết quả bầu cử
• Sau khi nhận và kiểm tra biên bản xác định kết quả bầu cử của các Ban bầu cử, Uỷ
ban bầu cử và giải quyết các khiếu nại, tố cáo (nếu có), Hội đồng bầu cử lập biên
bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước.
• Hội đồng bầu cử căn cứ vào biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước công bố
kết quả bầu cử và danh sách những người trúng cử đại biểu Quốc hội (hoặc Hội
đồng nhân dân).
14. Bầu cử thêm, bầu bổ sung
• Để đảm bảo công bằng, bình đẳng đối với người trúng cử trong cuộc bầu cử lần
thứ nhất và người trúng cử trong cuộc bầu cử thêm, bầu cử lại, Pháp luật hiện hành
quy định
• Đối với cuộc bầu cử thêm và bầu cử lại chỉ có giá trị khi có quá nửa số cử tri đi
bầu. Người trúng cử phải được quá nửa số phiếu hợp lệ. Nếu bầu cử thêm mà vẫn
chưa đủ số đại biểu thì không tổ chức bầu cử thêm lần thứ hai. Nếu bầu cử lại mà
số cử tri đi bầu vẫn chưa được quá nửa số cử tri ghi tên trong danh sách thì không
tổ chức bầu cử lại lần thứ hai.
Câu 28: Vai trò của QH trong lĩnh vực xây dựng bộ máy nhà nướcđược quy định
trong HP hiện hành.
Quốc hội đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, củng cố và phát triển bộ
máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước ta từ Trung ương được tổ chức theo mô hình nào, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động ra sao đều do Quốc hội xem xét, lựa chọn và thể hiện trong
Hiến pháp, quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
Hiến pháp được thông qua tại kỳ họp thứ sáu - Quốc hội khóa XIII gồm 11
chương, 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992) có hiệu
lực từ ngày 1-1-2014.
- Nội dung tổ chức bộ máy nhà nước quy định trong HP 2013 : Tiếp tục kế
thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước trong Hiến pháp năm
1992, thể chế hóa các quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền,
Hiến pháp định danh và làm rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp; xác định rõ hơn chức năng, thẩm quyền của cơ quan thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan này; bổ sung một số thiết chế hiến định độc lập là Hội đồng bầu cử
quốc gia và Kiểm toán nhà nước.
- Vai trò của QH:
• Ngoài việc quy định chung về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà
nước, Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch
nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Ủy viên
UBTVQH, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch
nước về việc thành lập Hội đồng quốc phòng và An ninh.
• Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn việc bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7 Điều
70) để phù hợp với yêu cầu đổi mới mô hình Tòa án nhân dân, làm rõ hơn
vai trò của Quốc hội trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện quyền tư
pháp, đồng thời nâng cao vị thế của Thẩm phán theo tinh thần cải cách tư
pháp.
• Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc giám sát, quy định tổ chức và
hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm
toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập (các khoản 2, 6, 7 và
9 Điều 70).
• Hiến định thẩm quyền của Quốc hội trong việc thành lập Ủy ban lâm thời
để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất
định được quy định tại Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Luật tổ
chức Quốc hội (Điều 78). Đồng thời, bổ sung quy định giao Quốc hội quyết
định việc thành lập, giải thể Ủy ban của Quốc hội (Điều 76).
Câu 29: Cơ cấu tổ chức và cách thức hoạt động của Quốc hội.
A.Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của Quốc hội bao gồm:
1. Ủy ban thường vụ Quốc hội: là cơ quan thường trực của Quốc hội, gồm có
Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên.
2. Hội đồng dân tộc : Theo Điều 75, hp 2013:Hội đồng dân tộc gồm Chủ tịch,
các phó Chủ tịch và các Ủy viên.Chủ tịch HĐ dân tộc do QH bầu, các phó
chủ tịch và Ủy viên HĐ dân tộc do Ủy ban thường vụ QH phê chuẩn.
3. UB của QH : gồm 9 Uỷ ban
1)Uỷ ban pháp luật;
2) Uỷ ban tư pháp;
3)Uỷ ban kinh tế;
4)Uỷ ban tài chính, ngân sách;
5) Uỷ ban quốc phòng và an ninh;
6) Uỷ ban văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng;
7) Uỷ ban về các vấn đề xã hội;
8) Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường;
9) Uỷ ban đối ngoại;
4. Đại biểu Quốc hội: Quốc hội có không quá 500 đại biểu đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của cử tri cả nước, trong đó có những đại biểu hoạt động
chuyên trách và những đại biểu hoạt động không chuyên trách. Số lượng
đại biểu chuyên trách chiếm ít nhất 25% tổng số đại biểu Quốc hội;
5. Đoàn đại biểu Quốc hội gồm các đại biểu Quốc hội được bầu trong một
tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương hợp thành;
6. Văn phòng Quốc hội là cơ quan tham mưu, giúp việc cho Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội,
các Ban của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
B. Hình thức hoạt động của quốc hội.
- Kỳ họp QH
- Các hoạt động của UBTVQH
- Các hình thức hoạt động của hội đồng dân tộc
- các hình thức hoạt động của các UB của QH
- các hoạt động của Đoàn đại biểu QH( 63 đoàn)
- các hình thức hoạt động của Đại biểu QH
+) Kì họp QH ( quan trọng nhất )
• Là hình thức hoạt động chủ yếu của QH
• Là nơi thể hiện tập trung nhất quyền lực nhà nước, là nơi quyết định những vấn
đè quan trọng nhất của đất nước, nơi thực hiện quyền giám sát tối cao của nhân
dân thông qua QH
• Tại kì họp QH xem xét và thông qua các dự án luật, các báo cáo, thông qua các
nhiệm vụ kinh tế- xã hội, dự toán ngân sách nhà nước.
• Các luật và Nghị quyết của QH phải được quá nửa tổng số ĐB biểu quyết và
tán thành.
• Hiến pháp và việc sửa đổi HP phải được ít nhất là 2/3 tổng số đại biểu thống
nhất tán thành.
• Thành viên Chính phủ không phải là đại biểu Quốc hội được mời dự các kỳ
họp Quốc hội, có trách nhiệm tham dự các phiên họp toàn thể của Quốc hội khi
Quốc hội xem xét về những vấn đề có liên quan đến ngành, lĩnh vực mà mình
phụ trách; được phát biểu ý kiến về vấn đề thuộc ngành, lĩnh vực mà thành
viên đó phụ trách theo yêu cầu của Quốc hội hoặc được Quốc hội đồng ý theo
đề nghị của thành viên đó.
• Đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, lực lượng vũ trang
nhân dân, cơ quan báo chí, công dân và khách quốc tế có thể được mời dự các
phiên họp công khai của Quốc hội.
Theo điều 83, HP 2013:
• QH họp công khai. Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của chủ tịch
nước ,UBTVQH, Thủ Tướng Chính Phủ hoặc của ít nhất 1/3 tổng số Đại biểu
Quốc Hội, Quốc Hội quyết định họp kín
• Quốc Hội họp mỗi năm 2 kì. Trường hợp Chủ Tịch nước, UBTVQH, Thủ
tướng Chính phủ hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu QH yêu cầu thì QH họp bất
thường . UBTVQH triệu tập kì họp QH.
• Kì họp thứ nhất của QH khóa mới được triệu tập chậm nhất là 60 ngày, kể từ
ngày bầu cử đại biểu QH, do Chủ tịch QH khóa trước khai mạc và chủ tọa cho
đến khi QH khóa mới bầu ra Chủ tịch QH
Câu 30: Theo hiến pháp hiện hành, QH có quyền : Lập hiến, lập pháp, quyết định
những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, giám sát tối cao. Tại sao?
- Quyền lập hiến và lập pháp của Quốc hội xuất phát từ vị trí, tính chất của cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Quốc hội lập hiến, lập pháp thể hiện ý chí
nguyện vọng của nhân dân nhằm đạt được hiệu quả điều chỉnh những quan hệ xã
hội nhất định.
- Đương nhiên Quốc hội không thể không quan tâm đến Hiến pháp, luật do mình
làm ra được thực hiện như thế nào, nói một cách khác, lập hiến, lập pháp không
phải là mục đích tự thân của Quốc hội. Với tư cách là người lập hiến, lập pháp,
Quốc hội phải có quyền theo dõi, xem xét (giám sát) việc thực hiện chúng trong
đời sống thực tiễn. Chính vì vậy, hoạt động lập hiến, lập pháp, và hoạt động giám
sát của Quốc hội là hai hoạt động có nội dung độc lập với nhau. Quyền giám sát
của Quốc hội là tối cao vì không thể có một cơ quan nào đứng trên Quốc hội trong
việc xem xét thi hành Hiến pháp, luật - những văn bản mà chỉ có Quốc hội mới có
quyền ban hành. Lập hiến, lập pháp và giám sát của Quốc hội là những hình thức
thực hiện quyền lực nhà nước cao nhất. Bản chất của những hoạt động này là thực
hiện quyền lực nhà nước.
- Có thể rút ra kết luận quan trọng ở đây: Quyền giám sát việc thực hiện, tuân thủ
Hiến pháp, luật là quyền thuộc về Quốc hội. Đó là quyền chủ thể của Quốc hội
(quyền này chỉ thuộc về Quốc hội), quyền giám sát này là tối cao.
- Nhiệm vụ giám sát của Quốc hội nhằm làm cho những quy định của Hiến pháp,
pháp luật được thi hành triệt để và thống nhất. Quốc hội giám sát hoạt động của cơ
quan Nhà nước, bảo đảm cho những cơ quan này hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn
được quy định, làm cho bộ máy Nhà nước hoạt động đều đặn, hiệu lực, không
chồng chéo; chống các biểu hiện tham nhũng, quan liêu và hách dịch.
- Là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Quốc hội có quyền quyết định các mục
tiêu phát triển kinh tế- xã hội, các vấn đề quốc kế dân sinh tác động đến đời sống
của nhân dân trong cả nước, những vấn đề đối nội, đối ngoại và an ninh quốc
phòng. Việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp trong năm 2011 là nhằm
tạo điều kiện để Quốc hội giữ vững và bảo đảm hướng phát triển đi lên của đất
nước, làm cho các luật, chính sách, quy định do Quốc hội thông qua có hiệu lực
thực sự trong cuộc sống.
Câu 31. Những giải pháp cơ bản để QH thực hiện tốt chức năng lập pháp.
Lập pháp là một trong những chức năng cơ bản của Quốc hội nước ta. Với tư cách là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội là
cơ quan có quyền lập hiến và lập pháp. Việc tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công
tác lập pháp của Quốc hội là yêu cầu có tính khách quan nhằm đáp ứng những nhiệm vụ
đặt ra trong tình hình mới.
Một số giải pháp tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp của QH:
Một là, nâng cao chất lượng Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của QH.
o Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh là những dự kiến mang tính kế
hoạch, dù đã được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu và tổng kết thực tiễn thì
vẫn không tránh khỏi có những điểm chưa thay đổi kịp so với sự biến đổi
trên thực tế, nên cần được điều chỉnh cho phù hợp. Chính vì vậy, trong quá
trình tổ chức triển khai thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
phải phát huy được tính linh hoạt, chủ động, sáng tạo của các cơ quan của
Quốc hội, đặc biệt là Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhằm giải quyết kịp thời
các vướng mắc phát sinh
o Bên cạnh đó, cần quan tâm đến cách thức đề xuất sáng kiến xây dựng luật,
phát huy hơn nữa vai trò của công dân và các tổ chức trong quá trình sáng
kiến pháp luật. Cần quan tâm, tạo điều kiện hơn nữa cho mọi chủ thể trong
xã hội có thể tham gia tích cực vào quá trình đề xuất xây dựng pháp luật.
Có như vậy, Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội mới thực
sự phản ánh nhu cầu điều chỉnh pháp luật của mọi tầng lớp, cá nhân trong
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Hai là, tăng cường vai trò của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong công tác xây
dựng pháp luật.
o Trong nhiệm kỳ vừa qua, việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý
kiến đối với dự án luật trước khi trình Quốc hội đã phát huy tác dụng tích
cực, có ý nghĩa thiết thực, nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động lập pháp
của Quốc hội. Ý kiến của các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ
sở ban đầu cho việc chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo luật trước khi trình Quốc
hội xem xét, thông qua.
o Trong nhiệm kỳ tới, cùng với việc khẳng định vị trí của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội - cơ quan thường trực giữa hai kỳ họp Quốc hội, cần nâng cao
hơn nữa vai trò của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong công tác xây dựng
pháp luật, làm rõ hơn giá trị pháp lý của việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội
cho ý kiến về nội dung của dự án luật, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức
có liên quan trong việc tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Ba là, nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động thẩm tra của Hội đồng Dân tộc,
các ủy ban của Quốc hội đối với các dự án luật, pháp lệnh.
o Thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh giữ vai trò rất quan trọng trong việc bảo
đảm chất lượng và hiệu quả hoạt động lập pháp của Quốc hội. Trong thời
gian tới, do phần lớn đại biểu Quốc hội vẫn hoạt động không chuyên trách,
số lượng dự án luật được xem xét, thông qua tại mỗi kỳ họp Quốc hội ngày
càng nhiều và đòi hỏi chất lượng ngày càng cao nên việc thẩm tra toàn diện,
khoa học, hiệu quả, đúng pháp luật và có chất lượng càng có ý nghĩa quan
trọng, nhằm bảo đảm tiến độ cũng như chất lượng của dự thảo được xem
xét, thông qua. Không những thế, trong điều kiện nước ta, tổ chức Quốc hội
một viện là một tất yếu khách quan và tất yếu lịch sử, việc nâng cao chất
lượng hoạt động thẩm tra là một phương thức thích hợp để bảo đảm chất
lượng, hiệu quả của quá trình xây dựng và ban hành luật
Bốn là, xây dựng và quy định cụ thể về cơ chế thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh
do cơ quan của Quốc hội trình.
o Hiện nay, bên cạnh đa số các dự án luật, pháp lệnh do Chính phủ trình, có
một số ít dự án luật, pháp lệnh do cơ quan của Quốc hội trình, ví dụ: Luật
Tổ chức Quốc hội (sửa đổi), Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (sửa đổi), Luật
Về hoạt động giám sát của Quốc hội, Việc thẩm tra đối với các dự án luật,
pháp lệnh này cần được điều chỉnh bởi những quy định riêng, phù hợp để
bảo đảm tính khách quan và chất lượng của hoạt động thẩm tra.
o Trong quá trình thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, Hội đồng Dân tộc, các ủy
ban của Quốc hội cũng cần tập hợp và sử dụng có hiệu quả các chuyên gia
ở từng lĩnh vực trong các ngành và các địa phương nhằm giúp cho việc
thẩm tra đạt kết quả cao hơn.
Năm là, nâng cao trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật, pháp
lệnh.
o Quốc hội là cơ quan có quyền lập pháp, tuy nhiên, cơ quan chủ trì soạn
thảo, đặc biệt là Chính phủ (người chủ trì soạn thảo, trình Quốc hội xem
xét, ban hành trên 95% số dự án luật, pháp lệnh) có trách nhiệm thực thi
các đạo luật để quản lý xã hội. Việc Chính phủ chủ động tham gia và đóng
vai trò quan trọng vào công tác lập pháp có thể tác động một cách tích cực
đến hoạt động lập pháp của QH.
o Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, sau khi dự
án luật được trình Quốc hội thì cơ quan chủ trì soạn thảo không chủ trì việc
nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo và xây dựng dự thảo báo cáo giải
trình tiếp thu, mà nhiệm vụ này được giao cho cơ quan chủ trì thẩm tra (Hội
đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội) và Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Như vậy, kể từ khi dự án luật được trình Quốc hội, cơ quan soạn thảo chỉ
giữ vai trò tham gia việc chỉnh lý dự án luật. Điều này tuy có điểm hợp lý
nhất định - nhằm ngăn ngừa tính cục bộ của các bộ, ngành trong soạn thảo
dự án luật, nhưng lại chưa phát huy cao nhất vai trò, trách nhiệm của cơ
quan soạn thảo đối với chính sách do mình khởi xướng, bởi lẽ sau khi dự án
luật được thông qua, cơ quan soạn thảo cũng sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm
chính trong việc thực thi các quy định đó. Do vậy, việc tăng cường trách
nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong việc tiếp thu, chỉnh lý dự án luật
theo ý kiến của đại biểu Quốc hội cần được xem xét để có quy định phù
hợp.
Sáu là, tăng cường vai trò của đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội trong
công tác lập pháp.
o Trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, việc nâng cao
chất lượng của đại biểu Quốc hội, đề cao vai trò cá nhân và vị trí trung tâm
của đại biểu Quốc hội trong mọi hoạt động của Quốc hội là một xu hướng
tất yếu, phù hợp với nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Quốc hội. Bên cạnh
đó, do đặc thù trong tổ chức và hoạt động đại biểu Quốc hội ở nước ta,
đoàn đại biểu Quốc hội cũng có vai trò nhất định trong việc tổ chức thực
hiện các hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, đại biểu Quốc
hội. Để tăng cường vai trò của đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội
trong hoạt động tham gia xây dựng pháp luật, cần thực hiện các biện pháp
sau:
+ Xây dựng cơ chế và tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội phát huy quyền
sáng kiến lập pháp;
+ Tăng cường thêm tài liệu tham khảo ngoài dự thảo luật, pháp lệnh để tạo
điều kiện thuận lợi cho đại biểu Quốc hội nghiên cứu, so sánh và phát biểu
ý kiến về dự án luật, pháp lệnh;
+ Tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, kiến thức pháp luật,… cho đại biểu
Quốc hội, đồng thời, tạo điều kiện để các đại biểu Quốc hội tự bổ túc kiến
thức chuyên ngành, kiến thức pháp luật,…
Bảy là, đổi mới phương thức thảo luận và thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc
hội.
o Hoạt động xem xét, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội là hoạt động
thể hiện tập trung và rõ nét nhất chức năng lập pháp của Quốc hội. Với việc
sửa đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hoạt động xem xét,
thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội đã có bước đổi mới rõ nét và ngày
càng trở nên thiết thực, hiệu quả hơn. Tuy vậy, việc thảo luận, thông qua dự
án luật vẫn còn những hạn chế nhất định. Do đó, cần nâng cao hiệu quả
trong việc thảo luận và chất lượng các dự án luật được thông qua, Quốc hội
cần tiếp tục đổi mới phương thức thảo luận, thông qua dự thảo luật .
Tám là, xác định rõ mối quan hệ giữa hoạt động lập pháp của Quốc hội và hoạt
động xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
o Hiện nay, theo quy định tại Điều 20 của Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước bằng
việc ban hành nghị quyết. Trình tự, thủ tục soạn thảo, thẩm tra và xem xét,
thông qua nghị quyết của Quốc hội được quy định chung trong Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật.
o Với xu thế chuyển mạnh từ một Quốc hội tham luận, phát biểu nêu vấn đề
sang một Quốc hội tranh luận và quyết định chủ yếu theo hình thức luật,
cần xác định rõ mối quan hệ giữa chức năng lập pháp và quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước. Do đó, cần luật hoá đến mức tối đa những vấn
đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội.
Đặc biệt, trong việc quyết định những vấn đề liên quan đến ngân sách nhà
nước, thẩm quyền quyết định về ngân sách của Quốc hội cần phải được
khẳng định bằng Luật Về ngân sách nhà nước hằng năm./.
Câu 32. Theo HP hiện hành, QH thực hiện quyền giám sát tối cao thông qua hoạt
động giám sát của UBTVQH, HĐ dân tộc, các UB của QH, tập thể ĐB QH tại kỳ
họp QH. Tại sao ?
Quốc hội giám sát tối cao là giám sát tầng cao nhất của bộ máy Nhà nước, đó là
giám sát những người và những tổ chức mà Quốc hội bầu ra, phê chuẩn và thành
lập những cơ quan nào mà Quốc hội thành lập và những cá nhân nào mà Quốc hội
bầu hoặc phê chuẩn như : CTN, Chính phủ, VKSNDTC….
Về thẩm quyền giám sát, chủ thể thực hiện quyền giám sát: Theo quy định tại Điều
1 của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát
tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát
tối cao của mình tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc
hội và đại biểu Quốc hội”.
Vì Quốc hội là một hệ thống bao gồm cả các bộ phận cấu thành của Quốc hội
như UBTVQH, Hội đồng dân tộc, các Ub của QH, các ĐB QH và đoàn ĐB
QH.