Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

TÀI LIỆU môn HIẾN PHÁP và LUẬT TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.23 KB, 102 trang )

BỘ TRẢ LỜI CÂU HỎI
ÔN TẬP MÔN HIẾN PHÁP VÀ LUẬT TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC
Câu 1: Phân tích những đặc trưng cơ bản của các quan hệ xã hội do Luật
Hiến Pháp điều chỉnh?
Cũng như các ngành luật khác, đối tượng điều chỉnh của Luật Hiến pháp Việt Nam
là những mối quan hệ xã hội nhằm thiết lập một trật tự xã hội nhất định,phù hợp với ý chí
của nhà nước. mỗi ngành luật có đội tượng điều chỉnh riêng. Phạm vi điều chỉnh của Luật
Hiến pháp là những quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng nhất gắn liền với việc xác định
chính trị, chế độ kinh tế, chính sách văn hóa xã hội, quốc phòng an ninh, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân và hoạt động của bộ máy Chủ Nghĩa xã hội Việt Nam.
Từ đây ta có thể thấy đối tượng điều chỉnh của Hiến pháp có hai đặc điểm sau:
Thứ nhất: Đối tượng điều chỉnh của luật Hiến pháp bao gồm mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội chủ nghĩa là phạm vi điều chỉnh của nó rất rộng lớnn
Thứ hai: luật hiến pháp chỉ điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội cơ bản và quan
trọng nhất có nghĩa là luật hiến pháp không điều chỉnh tất cả các quan hệ trong lĩnh vực
đó.
Luật hiến pháp có đối tượng điều chỉnh rất rộng liên quan đến nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội và nhà nước. Tuy nhiên , điều đó không có nghã là luật hiến pháp trong
mọi lĩnh vực đời sống nhà nước và xã hội. Ngược lại luật hiến pháp điều chỉnh các quan
hệ xã hội cơ bản nhất, quan trọng nhất mà những quan hệ đó tạo thành nền tảng của chế
độ nhà nước xã hội, có liên quan đến việc thực hiện quyền lực nhà nước và quan hệ cơ
bản xác định chế độ nhà nước ( Giáo trình luật Hiến pháp – ĐH Luật Hà Nội )
Câu 2: Điểu 146 HP 1992 quy định: “ HP nước CHXXHCNVN là đạo luật cơ
bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất” Bằng kiến thức đã được tiếp thu,
hãy phân tích làm rõ quy định trên?
Hiến pháp là đạo luật cơ bản khác với các đạo luật khác. Tính chất cơ bản của hiến
pháp trong nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện trên nhiều phương diện
Xét về mặt nội dung, nếu các luật khác thường chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội
thuộc lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội thì đối tượng điều chỉnh của hiến pháp xã
hội chủ nghĩa rất rộng có tính chất bao quát tất cả các mặt của đời sống xã hội, đó là
những quan hệ xã hội cơ bản liên quan đến lợi ích cơ bản của mọi giai cấp, mọi công dân




trongt xã hội như chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chế độ văn hóa giáo dục khoa học và
công nghệ, địa vị pháp lý của công dân tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Xét về mặt pháp lý, Hiến pháp xã hội chủ nghĩa có hiệu lực pháp lý cao nhất. Đặc
tính đó của hiến pháp có những đặc điểm sau:
Một là các quy đinhị của hiến pháp là nguồn, là căn cứ của tất cả các ngành luật
khác thuộc hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa
Hai là tất cả các văn bản pháp luật khác không được mâu thuẫn mà phải phù hợp
với tinh thần và nội dung của hiến pháp được ban hành trên cơ sở của hiến pháp và để thi
hành hiến pháp
Ba là các điều ước quốc tế mà nhà nước xã hội chủ nghĩa tham gia không được
mâu thuẫn đối lập với hiến pháp thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền không được tham
gia ký kết, không phê chuẩn hoặc bảo hữu đối với từng điều riêng biệt
Bốn là tất cả cơ quan nhà nước phải thực hiện đúng chức năng của mình theo quy
định của hiến pháp sử dụng đầy đủ các quyền hạn, làm tròn tất cả các nghĩa vụ mà hiến
pháp quy định
Năm là tất cả các công dân có nghĩa vụ tuân theo hiến pháp nghiêm chỉnh chấp
hành các quy định của hiến pháp
Sáu là việc xây dựng thông qua, ban hành và sửa đổi hiến pháp phải tuân theo một
trình tự đặc biệt: chủ trương xây dựng hiến pháp thường được biểu thị bằng Nghị quyết
của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, việc cây dựng dự thảo hiến pháp thường được
tiến hành bằng một cơ quan dự thảo Hiến pháp do chính quốc hội lập ra, việc lấy ý kiến
nhân dân thường được tiến hành rộng rãi, việc thông qua hiến pháp thường được tiến
hành tại một kỳ họp đặc biệt của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, việc sửa đổi hiến
pháp thực hiện theo một trình tự đặc biệt được quy định tại hiến pháp cả quá trình xây
dựng, sửa đổi Hiến pháp được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng cộng sản
Câu 3. Hiến pháp 1992 – đạo luật cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
a.Trước hết, có thể thấy, Hiến pháp 1992 là văn bản duy nhất quy định tổ chức

quyền lực nhà nước, là hình thức pháp lý thể hiện một cách tập trung hệ tư tưởng của giai
cấp lãnh đạo, ở từng giai đoạn phát triển, hiến pháp 1992 là văn bản, là phương tiện pháp
lý thể hiện tư tưởng của Đảng cộng sản dưới hình thức những quy phạm pháp luật.
- Ví dụ: Điều 2, chương I của Hiến pháp 1992 có viết: “Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hôi chủ nghĩa của nhân dân, do nhân


dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là lien minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức. Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiên
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.”
Điều 4, chương I của Hiến pháp 1992 có viết: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc,theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
-Nội dung điều luật trên đã khẳng định được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với nhà nước và xã hội. Hiến pháp 1992 đã phần nào phản ánh được những
quy luật khách quan, hững ý chí, nguyện vọng, quyền và lợi ích của nhân dân, phát huy
được hiệu quả của pháp luật đối với các mối quan hệ xã hội.
b.Xét về mặt nội dung. Xét trên phương diện nội dung, nếu các luật khác thường
chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống; chẳng hạn
luật hôn nhân và gia đình, luật đất đai, luật lao động… thì đối tượng điều chỉnh của hiến
pháp rất rộng, có tính chất bao quát trên mọi lĩnh vực cuả sinh hoạt xã hội. Đó là những
quan hệ giữa công dân, xã hội với Nhà nước và là quan hệ cơ bản xác định chế độ nhà
nước.
- Trong lĩnh vực chính trị: Luật Hiến pháp 1992 điều chỉnh những quan hệ xã hội
cơ bản sau: các quan hệ xã hội liên quan đến việc xác định nguồn gốc của quyền lực nhà
nước, các hình thức nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước; các quan hệ xã hội xác định
mối quan hệ giữa Nhà nước, Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và

các thành viên của Mặt trận; các quan hệ xã hội quyết định chính sách đối nội, đối ngoại
của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam… Những quan hệ này trên cơ sở để
xác định chế độ chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ví dụ: Điều 6, chương I – Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Chế độ
chính trị quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do
nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội, Hội đồng nhân dân và
các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân
chủ.”
Điều 6 đã chỉ rõ một phần nguồn gốc quyền lực của nhà nước là thuộc về nhân
dân. Đồng thời chỉ rõ các hình thức sử dụng quyền lực nhà nước của nhân dân.


Hay trong điều 9, chương I – Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – chế độ
chính trị quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp
tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá
nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn
dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng
và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo về lợi ích chính đáng
của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến
pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ,
viên chức nhà nước. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành
viên hoạt động có hiệu quả.”
Các điều quy định trên làm cơ sở cho Luật tổ chức và các bộ luật khác ra đời. Từ
Hiến pháp 1992 quy định việc tổ chức, khả năng và quyền hạn của phái Nhà nước và
nhân dân giúp các luật khác điều chỉnh theo.
-Trong lĩnh vực kinh tế: Luật hiến pháp điều chỉnh những quan hệ xã hội sau: các
quan hệ xã hội xác định các loại hình sở hữu, các thành phần kinh tế, chính sách của Nhà

nước đối với các thành phần kinh tế, vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế.
Ví dụ: Khi quy định về các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế chủ đạo, Hiến
pháp 1992 có viết. “Kinh tế nhà nước được củng cố và phát triển, nhất là trong các ngành
và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.” (Điều 19, chương II – Chế độ kinh tế).
Hoặc cũng tại chương II – chế độ kinh tế, điều 20 có viết: “Kinh tế tập thể do công dân
góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức trên
nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở
rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả.” Cùng với các điều khác trong chương “Chế
độ kinh tế”, hai điều trên đã trở thành cơ sở, nền tảng cho Luật kinh tế. Tạo điều kiện cho
Luật kinh tế ra đời có được những khuôn mấu để định hướng chính xác các vấn đề kinh
tế. Nhiều điều khoản trong Hiến páp 1992 cũng góp phần định hướng cho các luật doanh
nghiêp, luật tranh chấp… Một ví dụ khác để minh chứng cho “Hiến pháp 1992 là đạo luật
cơ bản” trong chương về chế độ kinh tế như: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài
nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài
sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế,
văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác
mà pháp luật quy định là của nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân.” (Điều 17, chương II).


Điều này chứng tỏ không chỉ có thể làm cơ sở, làm thước chuẩn cho Luật kinh tế, Luật
thương mại mà các Luật đất đai, Luật tài nguyên và môi trường… cũng dựa trên Hiến
pháp 1992 để ra đời.
-Trong lĩnh vực quan hệ giữa công dân và Nhà nước: Luật HP 1992 điều chỉnh các
quan hệ xã hội liên quan tới việc xác định địa vị pháp lý cơ bản của công dân như: Quốc
tịch, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Ví dụ: Điều 49,chương V Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”. Theo đó cả bộ luật " Luật quốc
tịch Việt Nam " gồm 6 chương 44 điều ra đời, quy định chặt chẽ về những người có quốc
tich Việt Nam, nhập quốc tịch Việt nam, trở về quốc tịch Việt nam,....

-Hay khi quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thì chương V, điều
54 viết: “Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn
giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có
quyền bầu cử và đủ hai mưới mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, HĐND
theo quy định của pháp luật.” Theo đó, Luật bầu cử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã được ban hành.
-Điều 58, chương V – Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quy định: “Công
dân có quyền sở hữu về thu nhập pháp, của cải để sản xuất, vốn và tài sản khác trong
doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được nhà nước giao sử
dụng thì theo quy định tại Quy định tại điều 17 và điều 18. Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.”
-Hay tại điều 60, chương V có viết: “Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kĩ
thuật, phát minh, sang chế, sang kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, sang tác, phê
bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hóa khác. Nhà nước bảo hộ
quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp.” Từ đó các uật như Luật bản quyền, Luật sáng
tạo… đã được dự thảo và đưa và cuộc sống. Có thể nói, Luật Hiến pháp 1992 đã tạo
những nền tảng cơ bản nhất cho những quy tắc, nền tảng cơ sở để tạo nên nhiều luật khác.
Đó là một cách cụ thể hóa Hiến pháp. Trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước: Luật hiến pháp điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến việc xác định các
nguyên tắc, cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Ví dụ: Điều 83, chương VI – Quốc hội quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biều
cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối
ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc


chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động
của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ
máy nhà nước.”
Như vậy, qua Hiến pháp ta có thể nhận thấy vai trò của Quốc hội trong việc lập

pháp. Đồng thời trong Hiến pháp 1992 vai trò của Chủ tịch nước và các cơ quan đại diên
cho nhà nước (Phó chủ tịch nước, UBND, HĐND, VKSND…) cũng được xác định vai
trò một cách cơ bản nhất và cụ thể nhất. Có thể nói, Hiến pháp 1992 đóng vai trò như vị
trí liên kết các ngành luật khác. Chính vị trí trung tâm này của HP 1992 mà hệ thống pháp
luật Việt Nam được xây dựng thành một hệ thống pháp luật thống nhất và hoàn chỉnh.
Hiến pháp 1992 xác lập những nguyên tắc cơ bản làm cơ sở để xây dựng ngành luật khác.
Từ HP 1992, chúng ta đã xây dựng nên một hệ thống hoàn chỉnh các bộ luâtj của nước
CHXH chủ nghĩa Việt Nam.
c. Xét về mặt pháp lý
Xét về phương diện pháp lý, HP năm 1992 với tính chất là luật cơ bản, có hiệu lực
pháp lý cao nhất. Đặc tính đó của Hiến pháp 1992 có những biểu hiện cụ thể như sau:
-Các quy định của HP 1992 đều là nguồn, là căn cứ cho tất cả các ngành luật khác
thuộc hệ thống pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ở đây, cần chú ý đến các đặc tính của các quy phạm HP và các ngành luật khác.
Thông thường, người ta thường phân biệt ba loại quy phạm hiến pháp: Quy phạm tuyên
ngôn – cương lĩnh, quy phạm điều chỉnh chung, quy phạm điều chỉnh trực tiếp.
- Các ngành luật khác hầu hết không mâu thuẫn với Hiến pháp 1992 mà hoàn toàn
phù hợp với tinh thần và nội dung các quy định của HP 1992.
- Tất cả các văn bản pháp luật khác cũng hoàn toàn phù hợp với tinh thần và nội
dung của Hiến pháp 1992, chúng đều được ban hành trên cơ sở HP 1992 và để thi hành
hiến pháp.
- Các điều ước Quốc tế mà Nhà nước CHXHCN Việt Nam tham gia không mâu
thuẫn, đối lập với quy định của HP 1992.
- Các cơ quan có thẩm quyền đã và đang ban hành các văn bản pháp luật mà Hiến
pháp năm 1992 đã quy định.
- Tất cả các cơ quan nhà nước phải thực hiện chức năng của mình theo quy định
của Hiến pháp 1992, sử dụng đầy đủ các quyền hạn, làm tròn các nghĩa vụ, chức năng mà
HP quy định.



- Tuân theo Hiến pháp 1992, nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của HP 1992 là
nghĩa vụ cao quý, thiêng liêng bậc nhất của mỗi công dân nước CHXHCN Việt Nam.
Kết luận. Nước ta đang trong thời kỳ Hội nhập Quốc tế và hợp tác hóa từng ngày.
Trước bối cảnh đó, Hiến pháp 1992 đã và đang làm đúng vai trò, nhiệm vụ của mình
trong việc định hướng và làm cơ sở cho các Bộ luật ra đời. Một lần nữa có thể khẳng
định, Hiến pháp 1992 là đạo luật cơ bản của nước CHXHCN Việt Nam.
Câu 4: Trình bày khái quát quá trình ra đời và phát triển của các bản hiến
pháp của nhà nước ta và nêu ý nghĩa của chúng trong mỗi giai đoạn phát triển của
cách mạng
Hiến pháp 1946
Sau cách mạng tháng Tám 1945, nhà nuoc1 Việt Nam ra đời, nhà nước phải ban
hành hệ thống pháp luật cơ bản trong hệ thống pháp luật để quản lý xả hội trong đó Hiến
pháp là đạo luật cơ bản trong hệ thống pháp luật đó. Ngày 20-9-1945 Chính phủ lâm thời
ra sắc lệnh thành lập ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 người do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng
đầu. Tháng 11-1945 Ban dự thải Hiến pháp hoàn thành công việc và bản dự thảo Hiến
pháp được công bố cho toàn dân thảo luận 2-3-1945 cuộc kháng chiến toàn quốc bùng
nổ . Do hoàn cảnh chính trị nên Hiến pháp 1946 không được chính thức công bố=>tinh
thần và nội dung được áp dụng và điếu hành mọi hoạt động của nhà nước
Đạc điểm co bản của Hiến pháp 1946 được thể hiện rõ trong ba nguyên tắc cơ bản
sau đó là đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi trai gái, giai cấp tôn giáo đảm bảo
quyền lợi dân chủ, thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân
Hiến pháp 1946 chú trọng đảm bảo quyền dân chủ cho nhân dân, Hiến pháp đã xây
dựng một chương riêng về chế định công dân. Lân đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nhân
dân được đảm bảo quyền dân chủ
-Ý nghĩa

- Là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà và cũng là bản Hiến
pháp đầu tiên của một Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân ở Đông Nam
châu Á. Hiến pháp đã ghi nhận thành quả đấu tranh của nhân dân ta
giành độc lập, tự do cho dân tộc, lật đổ chế độ thực dân-phong kiến ở

nước ta. Đây là sự kiện đánh dấu sự "đổi đời" của đất nước và của nhân
dân ta.
- Các quyền tự do, dân chủ của công dân được Hiến pháp năm 1946 quy
định mang tính tiến bộ, tính nhân văn sâu sắc.


- Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý nền tảng cho việc tổ chức và hoạt
động của một "chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt" của nhân dân với sự
sáng tạo ra một hình thức chính thể cộng hòa dân chủ độc đáo với chế
định Chủ tịch nước phù hợp với điều kiện chính trị-xã hội rất phức tạp ở
nước ta giai đọan này.
- Nhiều nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước được Hiến
pháp 1946 quy định đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Hiến pháp năm 1959
Hoàn cảnh ra đời và sự phát triển của hiến pháp 1959 dân chủ cộng hòa đa ra đời
và phát triển được 14 năm. Hiến pháp 1946 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, tuy
nhiên tình hình đất nước và nhiệm vụ cách mạng mới cần được bổ sung và điều chỉnh
Với chiến thắng Điện Biên phủ 7-5-1954 Hiệp định gionevo 20-7-1954 nước ta
tạm thời chia thành 2 miền. Việc thống nhất đất nước do chính quyền 2 miền hiệp thương
trong vòng năm năm nhưng thực tế hiệp định này bị phá hoại
Miền Nam với sự giúp đỡ của Mỹ chính quyền tay sai Sài Gòn thành lập chính phủ
Việt Nam cộng hòa
Miền bắc: cải tạo và xây dựng xã hội chủ nghĩa xây dựng và kiểm tra công nghiệp
(hiai cấp công nhân), kiểm tra Nông nghiệp (nông nghiệp tập thể)
Với nhiệm vụ chính trị thay đổi, nhiệm vụ cách mạng thay đổi: (độc lập dân tộc và
chủ nghiã xã hội) nhà nước đã ra nghị quyết sửa đổi hiến pháp 1946 để thành lập hiến
pháp mới và thánh lập ủy ban dự thảo sửa đổi hiến pháp 1946
Sau một thời gian dự thảo đưa ra thảo luận và lấy ý kiến xây dựng ngáy 1-1-1960
chủ tịch Hố Chí Minh đã ký sắc lệnh công bố Hiến pháp
Để phù hộp với hoàn cảnh đất nước bị chia cắt Hiến pháp 1959 không chỉ mang

tính chất xã hội chủ nghĩa
-Ý nghĩa
Hiến pháp 1959 ghi nhận thành quả đáu tranh giữ nước, xây dựng đất nước
Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động VN

Hiến pháp 1959 đặt nền tảng cho công cuộc xây dựng CNXH ở miền
Bắc và là cương lĩnh đấu tranh thực hiện hoà bình, thống nhất đất nước
Hiến pháp 1980
Sau cách mạng mùa xuân 1975 đất nước ta hoàn toàn thống nhất


Cuộc tổng tuyển cử vào ngày 25-4-1976 cử tri cả nước đạ bầu ra Quốc hội thống
nhất. tại kỳ họp Quốc hội đầu tiên Quốc hội đã thống nhất thông qua nhiều nghị quyết
trong đó có việc sữa đổi Hiến pháp 1959 và nghị quyết thành lập ban dự thảo sửa đổi hiến
pháp
Sau hơn một năm chuẩn bị khẩn trương dự thảo hiến pháp đã được lấy ý kiến thảo
luận trong cán bộ nhân dân. Ngáy 18-12-1980 Quốc hội khóa 6 đã thông qua hiến pháp
1980
-Ý nghĩa

Mặc dù có những hạn chế nhất định, nhưng Hiến pháp 1980 vẫn có ý
nghĩa quan trọng trong lịch sử lập hiến ở nước ta. Điều này thể hiện ở
chỗ:
- Hiến pháp 1980 là Hiến pháp của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thống
nhất, Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên CNXH trong phạm vi cả nước.
- Hiến pháp 1980 là văn bản pháp lý tổng kết và khẳng định những thành
quả đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam trong nửa thế kỷ qua,
thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân ta quyết tâm xây dựng CNXH
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
- Hiến pháp 1980 thể chế hóa cơ chế " Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ,

Nhà nước quản lý".
Hiến pháp 1992
Sau một thời gian dài áp dụng, hiến pháp 1980 tỏ ra không còn phù hơp với điều
kiện kinh tế xã hội của đất nước. để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng đi
dần vào thế ổn định và phát triển Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đề ra đường lối
đổi mới trên tất cả các lỉnh vực KT chính trị xh chính sách đối ngoại…
Cuối năm 1991 đầu năm 1992 bản dự thải hiến pháp phát triển kinh tế đất nước với
những chủ trương của Đảng là nhìn thằng vào sự thật phát hiện ra những sai lầm của chủ
trương đường lối chính sách của Đảng và NN phát huy nền tảng xã hội chủ nghiã phát
huy sự sang tạo của nhân dân lao động từ đó nhận thức đúng đắn hơn về chủ trương chính
sách của Đảng và nhà nước làm cho dân giàu nước mạnh xả hội công bằng văn minh
Nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách về đổi mới chính sách đối ngoại tháng 12-1988
Quốc hội thông qua nghị quyết sửa đổi lời nói đầu hiến pháp 1980 bỏ hết những câu chỉ
đích danh từng tên thực dân từng tên đế quốc,… để thực hiện phương châm “khép lại quá
khứ, tiến tới tương lai” với những nước đã từng xâm lược và gây tội ác với nhân dân ta
Đề dân chủ hóa đời sống chính trị phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng
cường vị trí và vai trò của các cơ quan dân cử ở địa phương, ngày 30-6-1986 kỳ họp thứ 5


nhiệm khóa VIII đã thông qua nghị quyết 7 điều hiến pháp 1980 để qui định them công
dân có quyền tự ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND quy định việc thành lập cơ
quan thường trực HĐND từ cấp huyện trở lên
Cũng trong kỳ họp này Quốc hội ra nghị quyết đã được đưa ra trưng cầu ý dân.
Ngày 15-4-1992 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thống qua hiến pháp
Ý nghĩa Hiến pháp 1992

- Hiến pháp 1992 là Hiến pháp thể chế hóa đường lối đổi mới
toàn diện do Đảng đề xướng và lãnh đạo, khẳng định quyết tâm bảo vệ
thành quả cách mạng và kiên định đi theo con đường XHCN mà Đảng và
nhân dân ta đã lựa chọn.

- Hiến pháp 1992 là cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh đổi mới về
kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện các quyền tự do dân chủ của
công dân,
- Là cơ sở hiến định cho cải cách bộ máy Nhà nước, đặc biệt các
cơ quan trung ương, từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Câu 5: trong các bản hiến pháp của Việt Nam đều khẳng định: tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân. Anh chị hiểu vấn đề này như thế nào?
Nguyên tắc này được quy định tại các Điều 2 và có mối liên hệ chặt chẽ với các
điều 6, 7, 11, 53 của HP năm 1992, thể hiện sâu đậm tính nhân dân của NN Cộng hoà
XHCN VN. Việc thực hiện tốt nguyên tắc này không những đảm bảo cho NN ta luôn luôn
là NN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà còn là một biện pháp hữu hiệu ngăn
ngừa tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí trong BMNN. Nội dung
của nguyên tắc Thứ nhất, nhân dân tổ chức nên BMNN trước hết thông qua chế độ bầu cử
phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín để lựa chọn những người có đủ đức, tài
vào các cơ quan quyền lực NN. Sau đó các cơ quan quyền lực nhà nước bầu thành lập các
cơ quan chấp hành của mình và những người lãnh đạo các cơ quan đó. Cử tri có quyền
kiểm tra, giám sát hoạt động của đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND và có thể bãi miễn
các đại biểu đó khi họ không còn xứng đáng với cử tri nữa. Thứ hai, nhân dân trực tiếp
hoặc gián tiếp tham gia QLNN. + Dưới hình thức trực tiếp, nhân dân bỏ phiếu thành lập
các cơ quan quyền lực NN; + Thảo luận các chính sách, PL của NN và những vấn đề
chung nhất của cả nước và địa phương; + Bỏ phiếu quyết định những vấn đề trọng đại của
quốc gia (biểu quyết toàn dân- trưng cầu dân ý); + Kiến nghị với CQNN; + Làm việc
trong các CQNN; + Kiểm tra , giám sát sự hoạt động của các CQNN; + Quản lý một số
công việc mà chính quyền giao cho, v. v… Ngoài ra nhân dân còn tham gia QLNN thông
qua những tổ chức mà mình là thành viên( các tổ chức chính trị- xã hội, các hội quần


chúng…). Thứ ba, quyền lực NN là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các
CQNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ( Điều 2 HP năm

1992). Bản chất của quyền lực NN là thống nhất. Tuy nhiên, để thực hiện quyền lực NN
thống nhất ấy, mỗi giai cấp thống trị NN đều có cách thức tổ chức BMNN riêng, sao cho
nó phhù hợp với ý chí và bảo vệ được lợi ích cuả mình. Ở nước ta, tất cả quyền lực NN
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức"( Điều 2 HP năm 1992), bởi thế cho nên BMNN cần được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc cơ bản, có tính chất bao trùm là: "phân công và phối hợp giữa
các CQNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp" nhằm " bảo
đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sỗng
ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; nghiêm trị mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân"( Điều 3 HP năm 1992). Một trong những
điểm quan trọng ở đây là vừa cần "phân công" vừa phải "phối hợp". Phân công để giữa
các CQNN không có sự trùng lặp, lẫn lộn, chức năng, nhiệm vụ, nhưng khi thực hiện
chức năng nhiệm vụ đó lại cần có sự phối, kết hợp với nhau nhằm đảm bảo tính tập trung,
thống nhất, tính nhịp nhàng và đồng bộ trong hoạt động của BMNN để đạt được mục tiêu
chung.
Câu 6: Điều 4 của hiến pháp 1992 qui định: “…..” anh chị hãy phân tích vai
trò lãnh đạo của Đảng trong tổ chức bộ máy nhà nước ta
Vai trò lãnh đạo của Đảng được qui định tại điều 4 Hiến pháp 1992 được các đại
biểu Quốc hội đại diện cho nhân dân biểu quyết thông qua. Việc Hiến pháp qui định vai
trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và xã hội là điều hoàn toàn
phù hợp với quyền dân tộc tự quyết được ghi nhận trong hiến chương Liên Hợp Quốc
Như vậy vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội là đương nhiên và họp pháp
Trong hệ thống chính trị Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo toàn diện với nhà nước
nói chung tố chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước nói riêng thông qua
phương thức:
Thứ nhất: Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước bằng việc đưa những
đường lối chủ trương chính sách của mình về các lĩnh vực hoạt động khác nhau của quản
lý hành chính nhà nước
Thứ hai: vai trò lãnh đạo của Đảng trong quản lý hành chính nhà nước thể hiện

trong công tác quản lý cán bộ
Thứ ba: Đảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước bằng kiến thức kiểm tra


Thứ tư: sự lãnh đạo của Đảng trong quản lý hành chính nhà nước còn được thực
hiện thộng qua uy tính vai trò gương mẫu của tổ chức Đảng và các Đảng viên
Tuy vậy sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước không
đồng nghĩa vào việc can thiệp vào chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan nhà nước. Đây
chì là Đảng đóng vai trò định hướng về mặt tư tưởng xác định đường lối quan điểm của
giai cấp phương châm chính sách công tác tổ chức trong lĩnh vực chuyên môn. Trong
điều kiện hiện nay để nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng cần nâng cao năng lực lãnh
đạo của Đảng và xây dựng chỉnh đốn Đảng củng cố long tin của nhân dân đối với Đảng
Câu này có nhiều nội dung sai cơ bản! Các em có thể sử dụng các phương thức
lãnh đạo của đảng được đề cập tới trong các văn kiện, các nghị quyết và liên hệ, lồng
ghép vào vấn đề tổ chức (xây dựng bộ máy, mối quan hệ giữa các bộ phận, hình thành
nhân sự…) và hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Câu 7. Trình bày hiểu biết về quy định: “các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên
chức nhà nước phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân”.
Khoản 2 điều 8 HP 2013 có quy định: Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức,
viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân
dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân…
Khoản 3 điều 8 Luật Cán bộ công chức quy định của cán bộ, công chức đối với
Đảng, với nhân dân:
Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân”.
Trong quy định nêu trên, “Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự
giám sát của nhân dân” là điều kiện quan trọng nhất. Bởi, nếu không làm được điều đó,
thì cán bộ, công chức cũng không thể “tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân”
được.
Câu 8. Phân tích quy định HP: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà
nước và xã hội.”

Quyền tham gia quản lý nhà nước là quyền chính trị quan trọng nhất của công dân.
Để đảm bảo cho công dân có quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, Hiến pháp Việt
Nam 1992 quy định trong điều 53 như sau: “công dân có quyền tham gia quản lý nhà
nước và xã hội, tham gia thảo luân các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến
nghị vói các cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”.


Mọi công dân không có bất cứ sự phân biệt, hạn chế nào đều có quyền đóng góp ý
kiến vào việc xác định các chính sách để xây dựng và phát triển mọi mặt phát triển của
đất nước.
Nhân dân có quyền tham gia xây dựng pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội, kiến nghị với các cơ quan nhà nước, tham gia biểu quyết
khi nhà nước tổ chức trung cầu ý dân.
Mọi công dân đều có quyền tham gia quản lý, lãnh đạo đất nước một cách trực tiếp
hoặc thong qua đại diện mà họ lựa chọn trong việc tham ứng cử hay bầu cử của một cuộc
bầu cử tự do, dân chủ, công bằng.
Công dân có thể trực tiếp tham gia quản lý và lãnh đạo khi thực hiện quyền lực với
tư cách là thành viên của các cơ quan lập pháp hay nắm giữ các chức vụ hành pháp, thông
qua trưng cầu ý dân hay các tiến trình bầu cử khác.
Công dân có thể gián tiếp tham gia quản lý thông qua việc tự do lựa chọn các đại
diện của mình trong các cơ quan dân cử, và tranh luận, đối thoại công khai với các đại
diện của mình bầu ra hoặc thông qua các cơ chế khác do công dân tự tổ chức.
Câu 9: Phân tích ý nghĩa của quy định Hiến pháp: “công dân có quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và
địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng
cầu ý dân.”
Câu này khác câu 8!
Thầy tham gia 1 vài ý nghĩa: - quy định này ghi nhận về 1 số hình thức cơ bản,
quan trong để công dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, bên cạnh đó còn có các điều
luật khác quy định về dân chủ trực tiếp nữa nhé!; - quy định này tiếp tục khẳng định tính

chất dân chủ thực sự của HP VN; - Tạo cơ sở hiến định cho sự ra đời của các văn bản
pháp luật quan trọng như luật trưng cầu ý dân, luật tiếp công dân…;
các em tiếp tục nghiên cứu, bổ sung nhé!

Quy định trên thuộc điều 53 HP 1992 và mới nhất là điều 28 HP 2013:
1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và
kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở,địa phương và cả nước.
2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công
khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.


Như vậy, quyền tham gia quản lý nhà nước là quyền chính trị quan trọng nhất của
công dân. Đẻ đảm bảo cho mọi công dân có quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Nghĩa là mọi công dân không có bất kỳ sự phân biệt nào, không có bất kỳ sự hạn chế nào
đều có quyền đóng góp ý kiến vào việc xác định các chính sách để xây dựng và phát triển
mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, đối nội, đối ngoại của đất nước.
Nhân dân có quyền tham gia xây dựng pháp luật, tham gia giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, kiến nghị với các cơ quan nhà nước, tham gia biểu
quyết khi nhà nước trưng cầu ý dân.
Mọi công dân đều có quyền tham gia quản lý, lãnh đạo đất nước một cách trực tiếp
hoặc thông qua đại diện mà họ tự do lựa chọn trong việc tham gia ứng cử hay bầu cử của
một cuộc bầu cử tự do, dân chủ và công bằng.
Công dân có thể trực tiếp tham gia quản lý và lãnh đạo nhà nước, xã hội khi thực
hiện quyền lực với tư cách là thành viên của các cơ quan lập pháp hay nắm giữ các chức
vụ hành pháp, thông qua trưng cầu dân ý, hay các tiến trình bầu cử khác.
Công dân cũng có thể tham gia trực tiếp vào hoạt động của quản lý nhà nước thông
qua việc tự do lựa chọn các đai diện của mình trong các cơ quan dân cử và tranh luận, đối
thoại công khai với các đại diện của mình bầu ra hoặc thông qua các cơ chế khác do công
dân tự tổ chức.
Qua các quy định của HP Việt Nam và công ước quốc tế về các quyền dân sự và

chính trị, đã ghi nhận và bảo vệ quyền của công dân được tham gia vào mọi hoạt động
quản lý nhà nước, quyền bầu cử, ứng cử và quyền tham gia lãnh đạo trong các cơ quan
công quyền. nó khẳng định nền tảng của việc quản lý nhà nước phải dựa trên sự đồng
thuận của nhân dân.
Câu 10 : Phân tích những hình thức biểu hiện cơ bản của dân chủ đại diện và
dân chủ trực tiếp trong các quy định của HP VN hiện hành
Các em tham khảo câu 5 và câu 8 để trình bày về các hình thức dân chủ trực tiếp
và dân chủ đại diện! Liên hệ, dẫn chứng bằng các điều luật của HP hiện hành - 2013
Dân chủ trực tiếp theo nghĩa truyền thống của nó là sự thể hiện 1 cách trực tiếp ý
chí of chủ thể quyền lực về 1 vấn đề nào đó mà không cần thông qua cá nhân hay tổ chức
thay mặt mình , nghĩa là bất cứ ai có đủ tư cách pháp lý đều có quyền bày tỏ ý chí của
mình và ý chí đó có ý nghĩa quyết định bắt buộc phải thi hành ngay , do đo bộ máy Quản
lý chỉ đơn thuần đóng vai trò tổ chức và đảm bảo các điều kiện để thực hiện ý chí đó


Dân chủ đại diện : là hình thức thưc hiện quyên lam chủ của cá nhân thông qua bộ
máy nhà nước , các cơ quan nhà nước , mà trước hết và quan trọng là các cơ quan đai diện
cho dân cử và câc tổ chức chính trị xã hội . Và do đó , vấn đề dân chủ thực sự hay không
là tuỳ thuộc vào bản chất của chế độ chính trị mà nhà nước đó đại diện.Ví dụ : Điều 29
HP 2013 và Điều 23 HP 2013
Công dân đủ 18t trở lên có quyền biểu khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân Công
dân đủ 18t trở lên có quyền bầu cử và đủ 21t trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội , Hội
đồng nhân dân . Việc thực hiện các quyền này do luật định. Như vậy, hình thức biểu hiện
cơ bản ở đây là tính dân chủ trực tiếp. Nó thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân mà
không cần phải thông qua, cá nhân hay tổ chức đại diện thay mặt mình . Giúp cho nhân
dân bày tỏ đc hết những tâm tư , làm cho dân và nhà nước gần gũi , đặt sự kiểm soát của
chính phủ trong tay nhân dân tạo tính đong thuận trong việc sử dụng quyền lực nhà nước ,
hạn chế khả năng lạm dụng quyền lực. Đồng thời tạo điều kiện, cơ hội đe nhà nước phát
huy hết khả năng nguyện vọng của mình trong việc quản lý nhà nước .
Ví dụ : điều 79 HP 2013

Đại biểu Quốc hội là ngươi đại diện cho ý chí , nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị
bầu cử ra mình và của nhân dân cả nước . Nó thể hiện tính dân chủ đại diện của nhân dân
ta . Đại biểu Quốc hội là ngươi có trình độ , phẩm chất , năng lực được ngươi dân bầu
chọn thông qua lá phiếu , hình thức dân chủ này cho phép sự điều tiết xã hội được quy về
1 mối . Là hình thức thực hiện quyền làm chủ của người dân thông qua bộ máy nhà nước ,
cơ quan nhà nước mà trước hết quan trọng là cơ quan đại diện do dân cử và các tổ chức
chính trị xã hội .
Câu 11: Hãy giải thích sự khác nhau giữa hiến pháp 1980 và hiến pháp hiện
hành, khi quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân?
- Hiến Pháp 1980 không công nhận quyền con người (không phải không ghi nhận
mà không quy định về phạm trù quyền con người) nhưng đến Hiến Pháp 1992 và Hiến
pháp 2013 thì quyền con người đã được ghi nhận(quy định) trong hiến pháp. HP 80 về
trước, ta hiểu đồng nhất quyền con người với quyền công dân và ghi nhận các quyền công
dân ở một phạm vi rộng, trên mọi lĩnh vực KT, CT, VH, XH. Cách hiểu như vậy về quyền
con người hàm chứa những điểm không hợp lý nên Mỹ và phương Tây luôn luôn lợi
dụng vấn đề nhân quyền để vu cáo Việt Nam. Đến năm 1992 thì quyền con người đã xuất
hiện trong Hiến pháp và tiếp tục được phát triển qua Hiến pháp 2013. Do điều kiện hội
nhập nên Đảng và Nhà nước ta đã có tư duy thông thoáng hơn. Đã xác định quyền con


người và quyền công dân là hai phạm trù không mâu thuẫn nhưng cũng không hoàn toàn
đồng nhất.
- Hiến Pháp 2013 đã khắc phục những điều mang tính không khả thi của
quyền công dân trong Hiến Pháp 1980. Hiến Pháp 1980, do quan niệm giản đơn về Chủ
Nghĩa xã hội, cũng như bệnh chủ quan duy ý chí khi thông qua Hiến Pháp 1980 nên có
nhiều quyền công dân đề ra quá cao, không phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển
kinh tế xã hội. Vì vậy các quyền này mang tính không khả thi, không có điều kiện vật
chất để đảm bảo thực hiện.
- Quyền “Trưng cầu dân ý”, mặc dù đây là một điều hiến định của Nhà nước từ
trên 20 năm nay, tuy vậy nhân dân Việt Nam vẫn chưa thực hiện, lỗi ấy thuộc về Nhà

nước và Quốc Hội không ban hành Luật Trưng cầu dân ý.
- Ngoài ra Hiến Pháp 2013 quy định công dân có quyền được suy đoán vô tội. Chỉ
có Toà án bằng bản ánhoặc hiệu lực mới có quyền kết tội một ai đó.
HAI Ý IN NGHIÊNG NÀY CÁC EM CÓ THỂ BỎ, NẾU KHÔNG THÌ CẦN PHẢI
BỔ SUNG LÝ DO!
NGOÀI RA CÁC EM CÒN CÓ THỂ PHÂN TÍCH THÊM: SỰ THAY ĐỔI VỊ TRÍ
CỦA CHƯƠNG, TÊN CHƯƠNG…
Câu 12: Trình bày những tiền đề mở rộng quyền, nghĩa vụ cơ bản của công
dân trong giai đoạn hiện nay?
NỘI DUNG CÂU TRẢ LỜI NÀY LÀ CHƯA PHÙ HỢP VỚI ĐỀ RA, THEO
THẦY SỬ DỤNG CHO CÂU 11 LÀ HỢP LÝ!
CÁC EM THAM KHẢO 4 Ý ĐƯỢC ĐỀ CẬP TRONG GIÁO TRÌNH CỦA HỌC VIỆN:
• Bản chất nhà nước, tương quan giai cấp
• Trình độ phát triển kinh tế, văn hóa
• Truyền thống dân tộc, cộng đồng
• Xu hướng quốc tế
ĐÂY LÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ KHÁI QUÁT, CÓ ẢNH HƯỞNG TỚI NHIỀU
QUỐC GIA, CÁC EM CÓ THỂ ĐỀ CẬP THÊM NHỮNG TIỀN ĐỀ ĐẶC THÙ CỦA
VIỆT NAM!


Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội (khóa XIII) thông qua tại kỳ họp thứ 6, gồm
11 chương, 120 điều có hiệu lực từ ngày 01/01/2014, giảm 01 chương và 27 điều so với
Hiến pháp năm 1992
Quyền con người được quy định trong Chương II của Hiến pháp 2013 được xây
dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V của Hiến pháp năm 1992
(Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân), so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp sửa đổi
năm 2013 bổ sung nhiều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân. Điều này được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu như:
Một là, đưa vị trí Chương "Quyền và Nghĩa vụ cơ bản của công dân" từ Chương V

trong Hiến pháp năm 1992 về Chương II trong Hiến pháp 2013. Việc thay đổi vị trí nói
trên không đơn thuần là sự thay đổi về bố cục mà là một sự thay đổi về nhận thức. Với
quan niệm đề cao chủ quyền Nhân dân trong Hiến pháp, coi Nhân dân là chủ thể tối cao
của quyền lực Nhà nước, thì quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
phải được xác định ở vị trí trang trọng hàng đầu trong một bản Hiến pháp. Việc thay đổi
này là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, thể
hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo
đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Hai là, Điều 14 Hiến pháp 2013 khẳng định “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Quy định này thể
hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con
người, quyền công dân trong Hiến pháp.
Nếu như Hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận thuật ngữ "quyền con người" thông
qua quy định “quyền con người về chính trị, dân sự và kinh tế, văn hóa, xã hội được thể
hiện trong quyền công dân” tại Điều 50. Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1992 lại chưa phân
biệt rạnh ròi được quyền con người với quyền cơ bản của công dân. Khắc phục thiếu sót
đó, Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt giữa “quyền con người” và “quyền công
dân”. Theo đó, quyền con người được quan niệm là quyền tự nhiên vốn có của con người
từ lúc sinh ra (kể cả đối với người quốc tịch nước ngoài, người không quốc tịch, người có
quốc tịch Việt Nam đã bị tước hoặc hạn chế một số quyền công dân); còn quyền công
dân, trước hết cũng là quyền con người, nhưng việc thực hiện nó gắn với quốc tịch, tức là
gắn với vị trí pháp lý của công dân trong quan hệ với nhà nước. Để làm rõ sự khác biệt
này, tham khảo các công ước Quốc tế về quyền con người và Hiến pháp của các nước,


Hiến pháp 2013 đã sử dụng từ “mọi người” khi thể hiện quyền con người và dùng
từ “công dân” khi quy định về quyền công dân.
Bên cạnh đó, nhằm khắc phục sự tùy tiện ra các quy định trong việc hạn chế quyền
con người, quyền công dân, Hiến pháp năm 2013 đã quy định nguyên tắc “Quyền con

người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự án toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng”. Theo đó, không ai được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền, ngoại
trừ các trường hợp cần thiết nói trên do Luật định. Điều này xác lập nguyên tắc quyền con
người, quyền công dân chỉ bị hạn chế bằng Luật chứ không phải các văn bản dưới luật.
Ba là, trách nhiệm của Nhà nước và những đảm bảo của Nhà nước trong việc ghi
nhận, tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người, quyền công dân được quy định đầy
đủ trong Hiến pháp. Ngoài nguyên tắc như: “Quyền con người, quyền công dân về chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hóa xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến
pháp và pháp luật”(Điều 14); ở hầu hết các điều đều quy định trách nhiệm và đảm bảo
của Nhà nước như Điều 17: “Nhà nước bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài”; Điều
28: “Nhà nước tạo mọi điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công
khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân”… và ở
nhiều điều khác.
Bốn là, Hiến pháp mới bổ sung một số quyền mới là thành tựu của gần 30 năm đổi
mới đất nước. Đó là Quyền sống (Điều 19), Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến
xác (Điều 20), Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư (Điều 21), Quyền được bảo
đảm an sinh xã hội (Điều 34), Quyền kết hôn và ly hôn (Điều 36), Quyền hưởng thụ và
tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa
(Điều 41), Quyền xác định dân tộc (Điều 42), Quyền được sống trong môi trường trong
lành (Điều 43)... Việc ghi nhận các quyền mới này hoàn toàn phù hợp với các điều ước
quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, thể hiện nhận thức ngày càng rõ
hơn về quyền con người và khẳng định cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc thực
hiện quyền con người.
Ngoài ra, Quyền con người không chỉ đề cập ở Chương II mà ở nhiều chương khác
như chương về Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân. Cụ thể, Chính phủ
bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân
(Khoản 6 Điều 96); Viện Kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân (Khoản 3 Điều 107); Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ



công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân (Khoản 3 Điều 102). Như vậy, bộ máy
Nhà nước được lập ra để bảo vệ quyền con người. Cách tiếp cận quyền con người này thể
hiện sự kế thừa và tiếp thu quan điểm tiến bộ của các nước trên thế giới.
Có thể nói, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 đã thể hiện
được ý Đảng, lòng dân, là sự kết tinh của tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ
mới. Việc hiến định, hiện thực hóa quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp sửa
đổi là sự tiếp nối, kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, đồng thời, chuyển hóa sâu sắc
nhiều nội dung, tinh thần các Công ước quốc tế về quyền chính trị, dân sự, quyền kinh tế,
văn hóa, nhân quyền…; tạo nền tảng pháp lý cao nhất bảo đảm quyền con người, quyền
và nghĩa vụ công dân được thực hiện, đáp ứng mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh".
Câu 13:Nêu những nguyên tắc HIến pháp về quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân? Phân tích nguyên tắc :”Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”
Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận 7 nguyên tắc của chế định quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân. Đó là các nguyên tắc:
1. Tôn trọng quyền con người;
2. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân;
3. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ
của mình đối với Nhà nước và xã hội.
4. Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định;
5. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
6. Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước
ngoài.
7. Nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng của người nước
ngoài cư trú ở Việt Nam
Sự ra đời của Hiến pháp 2013 đã làm rõ hơn các nguyên tắc về quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo hướng: quyền công dân không tách rời nghĩa
vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách

nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người,
quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp


pháp của người khác (Điều 15). Hiến pháp mới có nhiều điểm tiến bộ qua việc quy định
các quyền chính trị, quyền tham gia bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý Nhà nước...
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật phản ánh những nội dung căn bản, đó
là:
- Thứ nhất, tất cả mọi người đều có vị thế ngang nhau trước pháp luật và có quyền
không bị phân biệt đối xử, bình đẳng trước pháp luật.
Quyền bình đẳng trước pháp luật được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội đặc biệt là các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội nhất là quyền bình
đẳng trong lĩnh vực pháp lý. Quyền và nghĩa vụ của công dân không bị phân biệt bởi giới
tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, giàu nghèo, thành phần xã hội, địa vị xã hội… Trong
cùng một điều kiện như nhau, công dân được hưởng quyền và nghĩa vụ như nhau, có tư
cách pháp lý như nhau.
- Thứ hai, pháp luật là thước đo chuẩn mực của bình đẳng, là công cụ để bảo đảm
sự bình đẳng giữa con người với con người. Bất kỳ công dân nào vi phạm pháp luật đều
bị xử lí bằng các chế tài theo quy định của pháp luật.
Ở Việt Nam, bình đẳng trước pháp luật được thể hiện nhất quán trong các bản Hiến
pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992. Điều 6, 7 Hiến pháp 1946 quy định: "Tất cả công
dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa". "Tất cả
công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và
công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình". Hiến pháp năm 1992 tiếp
tục khẳng định: "Công dân có quyền bình đẳng trước pháp luật" (Điều 51).
Như vậy nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật là một nội dung xuyên suốt tư
tưởng lập pháp của nước ta. Tuy nhiên, có thể thấy, trong các văn bản pháp luật trên,
quyền bình đẳng trước pháp luật chỉ được nhà nước ta thừa nhận là quyền công dân chứ
không phải là quyền con người. Hiến pháp 1946 quy định tại Điều 6, Điều 7 thuộc
Chương II "Nghĩa vụ và quyền lợi công dân". Hiến pháp 1992 quy định tại Điều 51 cũng

thuộc Chương V "Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân". Trong khi đó, khái niệm
quyền con người có phạm trù rộng hơn quyền công dân. Do đó, quyền con người và việc
bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật của con người chưa được công nhận đầy đủ,
trọn vẹn. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến thực tế còn nhiều trường hợp không đảm bảo
bình đẳng, cơ chế thực hiện chưa được xây dựng phù hợp và phát huy hiệu quả trên thực
tiễn.
Trước xu thế hội nhập quốc tế, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã được sửa đổi, bổ
sung phù hợp, với những điểm mới quan trọng, nổi bật là đề cao quyền con người. Cụ thể


Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã quy định quyền con người tách khỏi quyền công dân và
được quy định tại Chương II "Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân".
Theo đó, nội dung của nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật được quy định tại Điều 16:
"Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội".
Như vậy, so với các quy định của các bản Hiến pháp trước đây thì quy định Hiến
pháp sửa đổi năm 2013 về quyền bình đẳng trước pháp luật được thể hiện đầy đủ, cụ thể
hơn:
- Thứ nhất, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 khẳng định bình đẳng trước pháp luật là
quyền con người. Việc quy định theo hướng mở rộng đối tượng có quyền bình đẳng trước
pháp luật như trên cho thấy Việt Nam ghi nhận quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền
tự nhiên của con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
- Thứ hai, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 khẳng định quyền bình đẳng trước pháp
luật của mọi người được công nhận trong tất cả lĩnh vực, bao gồm đời sống chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Cùng với việc ghi nhận nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của con người, Hiến
pháp sửa đổi năm 2013 quy định rõ ràng, đầy đủ các quyền của con người như quyền
sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư,
quyền tự do đi lại, tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, quyền tham gia quản lý nhà nước...
Song song với việc quy định các quyền là những quy định về nghĩa vụ của con người như

nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc, nghĩa vụ nộp thuế...
- Thứ ba, pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với mọi
người trong việc hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ.
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 khẳng định"Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền
của người khác" (Điều 15 khoản 2). Từ đó có những quy định một cách khái quát nhất về
cơ chế bảo vệ quyền và nghĩa vụ hợp pháp của con người bằng cách quy định những điều
"cấm" và quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng và bảo hộ quyền con
người.
Ví dụ: Điều 19 Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền sống.
Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật".
Câu 14:Thông qua các qui định của HP VN hiện hành về quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân, hã làm rõ mối quan hệ giữa NN và CD ở VN hiện nay?


Ca dao, tục ngữ: Con ơi nhớ lấy cầu này…..; quan tham, dân gian; quan có
cần nhưng dân chưa vội, quan có vội quan lội quan sang… Phong kiến cũng không
hẳn là biết ơn vua quan đâu các em!
Thời nay, dân có giàu thì nước mới mạnh, và ngược lại, nước có vững mạnh,
ổn định, thì dân mới có điều kiện để làm giàu. Dân có ghét nhà nước đến bao nhiều
thì một thực tế rằng, cho đến giờ nhà nước vẫn phải tồn tại để thay mặt xã hội thực
hiện hoạt động quản lý, hiện chưa có một tổ chức nào có thể thay thế được vai trò
của nó.
Nước mất thì nhà tan, vậy nên giặc đến nhà đàn bà cũng đánh, chẳng phải
công việc của riêng nhà nước!
Mối quan hệ này là mối quan hệ bình đẳng, qua lại về quyền và nghĩa vụ, giữa
cá nhân mỗi thành viên với cá nhân khác và với cộng đồng (trong đó bao gồm cả
người đại diện chính thức của cộng đồng đó – Nhà nước). Các em tham khảo:

-Nhà nước đảm bảo thực hiện các quyền của công dân
Ví dụ: Quyền bình đẳng trước pháp luật( điều52Hp 1992; điều 16 hp sửa đổi 2013),

quyền tự do dân chủ(điều 69 hp1992 ; điều 25 hp 2013 )…
-Công dân phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và xã hội
Ví dụ: công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ Quốc(điều 76 hp1992; điều 44
hp2013), công dân có nghĩa vụ tuân theo HP và PL…( điều 79 hp1992; điều
46hp2013), nộp thuế( điều 80 hp1992, điều 47 hp2013)…

MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÔNG DÂN
Chúng ta hãy hiểu rằng hành vi biết ơn chỉ nên được dành cho những người đã làm
gì đó tốt đẹp cho mình mà mình đã không phải trả công lại cho họ lúc họ thực hiện điều
đó. Biết ơn bố mẹ, ông bà là điều bình thường, vì họ đã ban cho mình những điều quý báu
nhất: cuộc sống, ăn học, vật chất từ nhỏ đến lớn - họ tự nguyện thực hiện những điều đó
mà không cần và không nhận đền đáp từ mình một chút nào trong suốt quá trình mình
thừa hưởng thành quả của họ. Còn với vua chúa, chính phủ thì khác. Vua chúa, chính phủ
chỉ đơn thuần là một nhóm người cung cấp một số dịch vụ chuyên biệt cho người dân dựa
trên tiền thuế mà người dân bị BUỘC phải đóng góp. Mối quan hệ này không hề có "ơn
nghĩa" gì ở đây cả. Ngày nay, chiếu theo ý nghĩa hiện đại của public policy, đây chỉ đơn
thuần là một "hợp đồng" (hay đúng hơn là một "khế ước xã hội" - vì nó ko mang tính tự


nguyện như hợp đồng / khế ước thông thường) giữa chính phủ và người dân, thông qua
đó người dân trả tiền thuế cho chính phủ thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận tương ứng của
mình. Không ai nợ ai cái gì ở đây cả.
Việc một chính phủ bảo vệ người dân, trấn áp tội phạm, đánh đuổi giặc ngoại xâm,
hay dàn xếp những xung đột trong dân chúng (thông qua tòa án) chỉ đơn thuần là biểu
hiện của khế ước xã hội này, chấm hết! Nhưng nhiều quốc gia, nhiều nước trong đó có
Việt Nam vẫn còn bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi nho giáo phong kiến, phong tục, tạp quán,
niềm tin và ý thức hệ ,.. - đặc biệt tư tưởng của Khổng Tử luôn coi vua chúa, chính phủ,
lãnh đạo là cha mẹ. Và vì thế nghĩ họ - vua chúa và chính quyền - luôn đúng, hay phải
biết ơn và có nghĩa vụ biết ơn những gì mà họ mạng lại.
Chính vì vậy , nên xuất hiện những câu hỏi đặt ra như : "không có chính phủ, nhà

nước thì dân sẽ bị không có cái này, không có cái kia, thiếu cái này, thiếu cái kia, không
ai làm cái này, không ai làm cái kia... ". Trong khi lại không tự hỏi nếu không có tiền thuế
của dân thì chính phủ sẽ làm được gì? .. Không có tiền của dân đóng góp thì chính phủ có
thể làm được gì ?Hay chính phủ có thể làm được gì khi không có tiền thuế của dân ?
Thậm chí chúng ta - nhiều người chỉ trích chính phủ hiện tại, nhưng lại tôn vinh
những ông vua chúa thời phong kiến, những người về mặt bản chất mang chức năng
thống trị, ăn cắp, và đàn áp nhiều hơn là chức năng của một "người bảo vệ" hay một
"quan tòa.". Hay như theo Bác Hồ đã từng nói : “Bất kỳ ở địa vị nào, làm công tác gì,
chúng ta đều là đầy tớ của nhân dân. Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta
dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta phải đền bù xứng
đáng cho nhân dân. Muốn làm như vậy chúng ta phải cố gắng thực hiện cần, kiệm, liêm,
chính…”. Chính vì vậy, “Cán bộ từ trên xuống phải chăm nom đến chỗ ăn, chỗ ở” của
nhân dân. “… Nếu dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính
phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có
lỗi…”
Câu 15:Nguyên tắc hiến định:”Tôn trọng quyền con người về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” ở nước ta được hiểu như thế nào?
Quyền con người trong Hiến pháp năm 2013
Tiếp thu tinh thần về quyền con người của Hiến pháp năm 1992, bản Hiến
pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28/11/2013, với tuyệt đại
đa số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (sau đây gọi là Hiến pháp năm 2013)


tiếp tục khẳng định các quyền cơ bản như: quyền bầu cử và quyền ứng cử vào Quốc
hội, Hội đồng nhân dân; quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội
họp, biểu tình, quyền và cơ hội bình đẳng giới…
So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới có những sửa đổi, bổ sung và phát
triển quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Theo đó,
Hiến pháp đã khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính chị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn

trọng bảo vệ, đảm bảo theo Hiến pháp và pháp luật”(Điều 14) quy định này thể hiện sự
phát triển quan trọng về nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con người, quyền
công dân trong Hiến pháp, bởi vì Hiến pháp năm 1992 chỉ ghi nhận quyền con người về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện trong quyền công dân. Hiến pháp
năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc hạn chế quyền phù hợp với các công ước quốc tế về
quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Đó là “Quyền con người, quyền công dân
chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”
(Điều 14). Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân không thể tùy tiện mà phải
“theo quy định của luật”.
Hiến pháp khẳng định và làm rõ hơn các nguyên tắc về quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân theo hướng: quyền công dân không tách rời nghĩa vụ của
công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người,
quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác. Hiến pháp tiếp tục làm rõ nội dung quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa và trách nhiệm
của Nhà nước và xã hội trong việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người. Đồng
thời, Hiến pháp sắp xếp lại các điều khoản theo nhóm quyền để đảm bảo tính thống nhất
giữa quyền con người và quyền công dân, đảm bảo tính khả thi.
Hiến pháp đã bổ sung một số quyền mới là thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất
nước, thể hiện rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo thực hiện quyền con
người, quyền công dân. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm bổ sung quan trọng
về quyền con người trong Chương II là một bước tiến đáng kể về tư duy nhà nước pháp
quyền và thực hiện quyền con người ở Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy
định quyền sống; quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, nghiên cứu và thụ hưởng các kết
quả khoa học; quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn
ngôn ngữ giao tiếp; quyền được sống trong môi trường trong lành….



Hiến pháp năm 2013 còn khẳng định mạnh mẽ mọi công dân Việt Nam đều quyền
bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội; được nhà nước bảo hộ, không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác. Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh
dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối
xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị
bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện
kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật
định. Mọi người có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của
luật. Việc thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào
khác trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm.
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí
mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Mọi công dân có quyền có nơi ở
hợp pháp, có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở và việc khám xét chỗ ở do luật định; có
quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về
nước theo quy định pháp luật; có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; không ai được xâm
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền
được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.
Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng,
công khai và được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật
định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác
bào chữa cho mình.
Quyền sở hữu tư nhân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh
hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế
khác và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà

nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị
trường. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng
đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ
theo quy định của luật. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ. Mọi người có quyền tự
do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Công dân có quyền


×