Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

làng nghề truyền thống - Phú Yên - Làng dệt thổ cẩm của người ÊĐê doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.03 KB, 5 trang )



Phú Yên - Làng dệt thổ cẩm của người
ÊĐê
Từ lâu ở Phú Yên đã có những làng nghề truyền thống, không ít những làng nghề
nổi tiếng đã hình thành từ hàng trăm năm trước. Sự tồn tại và phát triển của các
làng nghề truyền thống ở Phú Yên không chỉ góp phần giải quyết việc làm, ổn
định đời sống của người dân địa phương, mà còn chứa đựng những nét văn hoá
đặc trưng trong từng làng nghề, có giá trị cho việc nghiên cứu và tham quan du
lịch. Dưới đây chúng tôi xin mời các bạn cùng ghé thăm một làng nghề truyền
thống ở Phú Yên đó là làng dệt thổ cẩm của người Êđê, để cùng tìm hiểu cách
thức mà đồng bào dân tộc nơi đây tạo ra những tấm thổ cẩm đẹp và đặc sắc,
mang dấu ấn văn hoá của con người và vùng đất nơi đây.
Để tạo nên những tấm thổ cẩm đẹp thì sợi bông chính là nguồn nguyên liệu chủ
yếu. Xưa kia, bông được trồng ở khắp nơi trên đất của đồng bào Êđê: đất rẫy, đất
thổ, gieo hạt vào tháng 2 và tháng 3 , thu hoạch vào tháng 6 và tháng 7 âm lịch
hằng năm. Đến mùa bông chín, người dân hái bông từ rẫy về nhà rồi bắt đầu các
công đoạn sơ chế gồm: nhặt bông, cán bông, lăn con cúi, tiếp đến là kéo sợi chỉ,
chế biến sợi, nhuộm màu và cuối cùng là mắc sợi chỉ vào khung dệt.
Dụng cụ dệt vải là những bộ phận rời go dài trên 1m dùng để luồng sợi dọc và
dập sợi ngang. Khi dệt họ ngồi trên nền đất, hai chân duỗi thẳng đạp lên một
thanh gỗ nằm ngang để căng mặt sợi trên khung dệt, tất cả các đầu mối của sợi
dệt được gộp lại, buộc vào cây cột nhà hay một gốc cây, khi dệt người thợ dùng
chân và lưng của mình căng giàn sợi, một tay giật go, một tay giật thoi.
Trong quá trình luồn sợi chỉ vào khung dệt, người thợ có ý định tạo hoa văn cùng
lúc với luồng chỉ, khi tấm vải dệt rời khỏi khung đã lên ên, áo, mền, chăn, váy
với nhiều màu sắc hoa văn. Để tạo các hoa văn, người dệt sắp xếp trật tự màu sắc
của các sợi vải hợp thành thảm dọc ứng với kiểu trang trí được lựa chọn, rồi trong
quá trình dệt những sợi chỉ ngang dải hoa văn trên áo, váy, khố thường gần gũi
với thiên nhiên, phản ảnh các sinh hoạt đời sống thường ngày của người Êđê. Đó
là những dãy núi, nước sông lượn chảy, mưa rơi, hình con cá, lá dứa, tổ ong…


được cách điệu, những mũi tên bay nối tiếp nhau cũng là một mô típ hoa văn
thường thấy bên cạnh hoa văn kỷ hà.
Do lao động thủ công nên việc tạo ra một tấm thổ phải mất thời gian hàng tháng
trời (thời gian dệt liên tục) đôi khi đến vài ba tháng. Ngày nay, người Êđê ở miền
tây Phú Yên này vẫn còn giữ được nghề dệt thổ cẩm truyền thống, nhưng sử dụng
sợi chỉ màu của người Kinh còn về vẻ đẹp của áo, váy, khố… đều gắn với người
Êđê, luôn có sức hấp dẫn đối với việc bảo tồn và phát huy trang phục của người
Êđê, đặc biệt là nghề dệt thổ cẩm. Người Êđê ở Phú Yên đang ra sức gìn giữ nghề
dệt thổ cẩm như giữ gìn nét văn hoá độc đáo của dân tộc mình vậy.

Quảng Nam - Làng đường Bảo An
Làng Bảo An, Ðiện Bàn, Quảng Nam là một trong nhiều làng có nghề làm
đường, và trên bến sông tiếp giáp làng này với sông Cái (Thu Bồn) từ xa xưa đã
có bến tên gọi bến Ðường. Làng Bảo An có nghề làm đường từ bao giờ? Theo
các gia phả còn lưu lại của họ Lương (gốc Minh Hương hội nhập dân Bảo An) thì
đó là năm 1680. Các ông Lương Văn Long và Lương Minh Tiêu kết hợp buôn
bán và sản xuất nên ta có thể đoán nghề làm đường đã khá thịnh trước đó vì
người Hoa thường chỉ thấy nơi nào có sản xuất và thương mại hứa hẹn có lợi lớn
họ mới đến lập nghiệp và đóng góp tích cực vào sự nghiệp ấy.
Ở Quảng Nam, có những loại xe và dụng cụ chế tác theo lối Tàu, Ai Cập
có thể biết rõ nguồn gốc vài loại, nhất là xe trâu đạp nước do Phạm Phú Thứ
(Ðông Bàn) và Lương Văn Tấn (Bảo An) mang từ ngoại quốc (Ai Cập) về nhân
chuyến công du sang Pháp 1863. Nhưng còn có các dụng cụ như máy quạt lúa,
nhất là bộ che ép mía bằng gỗ cứng và dẻo thì không biết có từ bao giờ. Ðặc biệt
là "Ông Che" rất thuận tiện trong việc ép mía đại trà, cũng được kéo cần bằng
trâu hay bò, vận chuyển bằng bánh xe răng cưa như xe trâu, có dáng vẻ phương
Tây, xong chắc chắn đã xuất hiện lâu lắm vì phổ biến nhiều nơi và đã được tôn
lên hàng ông: "Ông Che", trong khi xe trâu đạp nước chẳng hạn, chưa được xưng
tụng như thế.
Chòi mía nằm trong sân khá rộng nơi có trữ nhiều bó mía mà người đi mua

đều phải biết rõ mía có lượng nước bao nhiêu, trồng trên loại đất cát hay biền và
ánh sáng mặt trời có bị che rợp hay không. Khi con vật kéo cần cho che quay ở lò
thì người thợ mang cây mía vào chòi và có người chuyên môn đưa vào cho che
ép ra nước. Nước mía được thợ nấu đường nhen lửa để chế đường. Thợ nấu
đường rất có kinh nghiệm "thén vôi" cho thích hợp để có đường tốt, nghĩa là biết
vận dụng mắt để quan sát màu nước đường và dùng mũi để ngửi mùi thơm của
chảo đường đang sôi sùng sục. Khi đến độ nào đó, người ta đến xin nước "chè
hai" để uống. Có thể nói ngày trước, không có thứ nước ngọt nào ngon, thơm
bằng nước chè hai. Nó cũng quí như các loại nước ngọt đắt tiền ngày nay. Nhưng
không thấy ai chế biến và buôn loại giải khát này. Khi nước đường đến độ gọi là
đường non thì người ta có thể dùng để ăn với bánh tráng nướng khá ngon. Khi
đường non đặc sánh thì người thợ nấu đường đổ vào hàng lớp các chén trung bày
sẵn tức là chế thành đường bát (táng). Ðây là đường đem bán ở thị trường từng
cặp úp lại bọc trong rơm để khỏi ẩm. Người ta cũng có phương pháp không làm
đường bát mà để nước đường sền sệt đổ vào các loại chum, vại để dự trữ bán
quanh năm cho những người có nhu cầu. Cao hơn nữa là đến độ nào đó, người ta
đổ nước đường vào muỗng rồi theo kỹ thuật riêng để chế biến thành đường cát.
Cái muỗng đường hình tròn và dài, nhưng đến nửa chừng thì uốn nắn dần cho tới
cuối cùng thì túm lại và kết thúc bằng một cái lỗ lù; trên nước mật khô ráo, người
ta đổ nước bùn lên để kích thích sự hoạt động của mật chảy xuống lỗ lù ra một
dụng cụ hứng đựng. Sau đó người ta chia đường làm ba hạng: số một là đường
trắng nhất, số hai là đường có hơi vàng và đường dưới muỗng được chế biến làm
đường chà để bán cho người trong làng nấu rượu có tiếng ngon mà thời Pháp
thuộc gọi là rượu lậu Bảo An (không chịu nộp thuế cho thương tín). Nhưng
không phải Bảo An có nhiều đường muỗng đủ để cung cấp thị trường đòi hỏi các
loại hảo hạng. Do đó, phải đi mua ở các làng vùng Gò Nổi hoặc các huyện có
nghề làm đường nhưng không rành thương mại.
Theo bản tường trình của đặc sứ Anh sang Trung Quốc và ghé lại Ðà Nẵng
1893 thì cách làm đường của ta thời ấy rất thịnh: cũng dùng đường hạ, đổ lên một
đoạn thân chuối (chắc là chuối sứ) để cho nhựa chuối lọc hết tạp chất và chảy vào

một cái khung tròn. Ðó là một loại đường ngọt dịu, xốp ăn rất ngon. Ta cũng biết
đó là đường phổi vì mặt đường lỗ chỗ mà lại xốp, hình tròn thân cây chuối.
Không rõ làng Bảo An có chế loại này không?.
Bảo An luôn chế đường cát để bán cho Hội An bất kỳ thời nào. Vì biết
đường có thể mang lại rất nhiều lời nên vào thời Minh Mạng, Thiệu Trị (1820-
1847) vua Minh Mạng cho đào sông Câu Nhí nối dài từ sông Thu Bồn ra Ðà
Nẵng, vừa có tính chiến lược quân sự, vừa có tính thương mại, cụ thể là buôn
đường, quế sang các nước nay gọi là ASEAN (tổ chức các nước Đông Nam Á).

×