CÁC NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHỦ YẾU
1. CÔNG NGHIỆP NĂNG LƯỢNG (CNNL)
a. Vai trò
CNNL bao gồm hàng loạt các ngành khác nhau từ việc khai thác các dạng năng lượng (than, dầu
khí...) cho đến việc sản xuất điện năng nhằm tạo ra cơ sở động lực phục vụ cho quá trình CNH’ & HĐH’ đất
nước. Có thể chia ra 2 nhóm ngành chính (nhóm ngành khai thác các mỏ nhiên liệu và nhóm ngành sản xuất
điện). CNNL được coi như mảng CSHT quan trọng nhất trong toàn bộ kết cấu hạ tầng sản xuất. Phát triển
ngành này sẽ kéo theo hàng loạt các ngành khác như CN cơ khí; SXVLXD; xây dựng cơ bản khác. Đồng
thời nó cũng thu hút những ngành sử dụng nhiều điện năng như luyện kim màu; CB' kim loại; CB'TP; Hố
chất; Dệt... Vì thế, CNNL thường là một tổng thể sản xuất có qui mơ lớn, được xây dựng ở nơi có vị trí địa
lý thuận lợi, đầu mối giao thơng quan trọng có khả năng tạo vùng rất lớn (tiêu biểu là TTCN Hạ Long, Cẩm
Phả). Ngành này từ lâu đã được Đảng và Nhà nước đã coi trọng và được đi trước một bước, vốn đầu tư cho
ngành thường chiếm trên 1/2 vốn đầu tư cho CN. Về GTSL, chỉ đứng sau CNCB LT-TP.
b. Quá trình phát triển
▪ Thời kỳ Pháp thuộc & kháng chiến chống Pháp ở miền Bắc
+ Công nghiệp khai thác than. Thực dân Pháp rất chú ý đến việc phát triển ngành này, ngay từ khi
chưa hoàn thành việc xâm lược Bắc Kỳ Pháp đã chú ý đến dải than Đông Triều-Cái Bàn (1882), đến 1884
chúng thành lập Công ty than Bắc Kỳ. Việc khai thác than có sức cạnh tranh lớn, đạt hiệu quả kinh tế cao;
Vì vậy chỉ sau 10 năm xây dựng cơ bản, năm 1895 Công ty than Bắc Kỳ đã đi vào hoạt động với qui mơ
lớn. Trong vịng 30 năm sau (1895-1925) sản lượng than đã đứng thứ 5 châu Á, chỉ sau sau Nhật, Trung
Quốc, Ấn Độ (thuộc Anh), Inđônêxia (thuộc Hà Lan). Cho đến khi rút khỏi vùng mỏ, trong vòng 60 năm,
thực dân Pháp đã khai thác khoảng 50-60 triệu tấn, phần lớn là than lộ thiên, chất lượng tốt đưa về chính
quốc. Nguyên nhân dẫn tới việc khai thác than sớm của thực dân Pháp: Trước hết, than ở nước ta là than
antraxit nhiệt lượng cao, phân bố tập trung ở Quảng Ninh, nằm sát biển, dễ vận chuyển, than lộ thiên, ít tốn
kém trong khi xây dựng CSHT, tiết kiêm được vốn đầu tư, thuận lợi trong việc sử dụng lao động thủ công.
Vùng mỏ Quảng Ninh nằm gần kề ĐB sông Hồng, đông dân, việc tuyển mộ công nhân dễ dàng và giá rẻ.
Mặt khác, thời kỳ này thị trường ĐNÁ thiếu than, Pháp đẩy mạnh việc khai thác than để chiếm lấy thị
trường này và ngăn chặn sự xâm nhập của Anh. Những hậu quả xấu khi Pháp khai thác than ở nước ta. Với
nhiều lý do khác nhau, chúng thường hướng vào các mỏ dễ khai thác. Do thiếu qui hoạch cụ thể nên tài
nguyên này bị khai thác bừa bãi, lãng phí. Các bãi thải đất đá đổ lên các khoáng sản chưa khai thác. Mơi
trường bị huỷ hoại. Nhân cơng bị bóc lột nặng nề...
+ Công nghiệp điện lực.Ở miền Bắc,bên cạnh việc khai thác than, công nghiệp điện lực cũng ra đời
khá sớm (chỉ sau 2 thập kỷ so với sự ra đời của các nhà máy điện ở Bắc Mỹ và Tây Âu). Nhà máy điện được
xây dựng đầu tiên là Sông Cấm (Hải Phòng-1882). Từ 1884-1902 xây dựng các nhà máy điện một chiều ở
Hà Nội và Sài Gịn (cơng suất mỗi nhà máy 500kw). Năm 1924, Công ty nước và điện khí Đơng Dương xây
dựng tiếp các nhà máy điện xoay chiều ở Khánh Hội (Sài Gòn), Yên Phụ (Hà Nội), Cọc 5 (Hịn Gai), Nam
Định (cơng suất TB 22.500kw/1 nhà máy). Đường dây tải điện 3,5 kv được hình thành nối Hà Nội-Hải
Phịng; Hà Nội-Hưng n-Thái Bình-Nam Định đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt, thắp sáng công cộng ở các
công sở và các TTCN mới. Để phục vụ cho việc khai khoáng, một số trạm thuỷ điện nhỏ cũng được xây
dựng ở Tà Sa (825kw), Nà Ngần (750kw) thuộc Cao Bằng và Thạch Bàn (Thanh Hoá). Ở Miền Nam. Các
Công ty chè và cà phê của Pháp đã xây dựng trạm thuỷ điện Ankroet (Suối Vàng) công suất 500 kw, phục
vụ cho khu du lịch Đà Lạt và nhà máy chè Cầu Đất. Xây dựng trạm thuỷ điện Đrây-H’Linh (500kw) cho
vùng cà phê bao quanh Buôn Ma Thuột. Gần 1/2 thế kỷ phát triển, sản lượng điện năm cao nhất (1942) đạt
102 triệu kw/h, đến 1945 chỉ còn bằng 75% sản lượng điện năm 1942.
Nguyên nhân sự phát triển chậm chạp của ngành điện lực thời kỳ này: Trước hết, mục tiêu chủ yếu
là phục vụ cho các trung tâm hành chính, sinh hoạt của các quan chức thực dân và tay sai, ít chú ý đến sản
xuất (đặc biệt là những ngành CB' cần nhiều điện, có sức cạnh tranh với chính quốc), chỉ có duy nhất trạm
máy bơm nước Sơn Tây (10 KVA) là phục vụ cho nơng nghiệp. Thứ hai, tồn bộ cơ chế KT-XH phong
kiến vẫn được duy trì; bản thân nền kinh tế tự túc-tự cấp dựa trên cơ sở kỹ thuật cổ truyền, công cụ thô sơ và
sức lao động thủ công nên hầu như khơng có nhu cầu về động lực. Cuối cùng, những năm chiếm đóng lại
nước ta (1846-1954) Pháp chỉ kiểm sốt được các đơ thị xung yếu. Việc cung cấp than cho các nhà máy
nhiệt điện gặp nhiều khó khăn (chủ yếu dùng điện điêzen). Một số trạm thuỷ điện (Ankroet, Đ’rây-H’Linh)
đã nâng công suất từ 500kw lên 1.500kw, sản lượng điện tăng 4 lần so với 1930 (255,8 triệu kw/h), nhưng
cũng không cải thiện được bao nhiêu so với tình hình phát triển của cơng nghiệp điện lực.
▪ Từ 1955 - 1975
- Ở miền Bắc, Nhà nước có chủ trương phát triển CN điện lực, coi nó là động lực để khôi phục và
phát triển nền kinh tế.
+ CN khai thác than: Qua 20 năm cải tạo và xây dựng, cơng nghiệp khai thác than đã có những
chuyển biến vượt bậc; Việc tìm kiếm, thăm dị được đẩy mạnh, một số mỏ mới được đưa vào khai thác
Hồng Gai-Cẩm Phả (Quảng Ninh); Na Dương (Lạng Sơn) Phấn Mễ, Núi Hồng (Thái Nguyên) và một số mỏ
nhỏ ở địa phương như Đầm Đùn, Suối Hoa, Khe Bố, Mộc Châu... Kết cấu hạ tầng phục vụ cho ngành khai
thác than được tăng cường như hình thành các đường cung cấp điện, nước, thơng tin-bưu chính, các phương
tiện vận tải (xe tải có trọng tải lớn, băng chuyền...), các xí nghiệp sửa chữa, xưởng chế tạo ắc qui, mìn nổ,
băng chuyền, tuyển lựa than, phương tiện bốc xếp, bến cảng. Kết thúc KH 5 năm lần I (1965) sản lượng
than đã đạt 4,23 triệu tấn (gấp 2,2 lần so với 1930). Đã hình thành được một trục đơ thị dọc QL18 từ Đơng
Triều-Cửa Ơng. Trong chiến tranh phá hoại, vùng mỏ cũng bị đánh phá ác liệt, song sản lượng than vẫn đạt
2,6-3,4 triệu tấn/năm. Năm 1975 sản lượng đạt 5,2 triệu tấn (gấp 1,23 lần so với 1965).
+ CN điện lực: Dựa vào nguồn nguyên liệu sẵn có, ở giai đoạn đầu từ (1955-1960) hàng loạt các nhà
máy nhiệt điện có qui mơ vừa và lớn được xây dựng như Cao Ngạn (Thái Nguyên), Việt Trì (Phú Thọ), Lào
Cai, Vinh, Hàm Rồng (Thanh Hố); Cùng với nó là việc mở rộng và nâng cấp các nhà máy điện cũ (Hà Nội,
Hải Phịng, Nam Định). Sau 5 năm khơi phục và phát triển, sản lượng điện của miền Bắc năm 1960 đã đạt
255,8 triệu kwh.
Giai đoạn 1961-1965 và 1966 -1975, các nhà máy điện cỡ lớn được xây dựng như Uông Bí
(153MW), Ninh Bình (120MW), Thác Bà (108MW) đã nâng sản lượng điện năm 1965 lên 633,6 triệu kwh
(bằng 52% sản lượng điện của cả nước). Các nhà máy điện được liên kết với nhau bằng đường dây cao thế
35KV và 110KV phủ khắp đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Để phục vụ cho xây dựng hậu phương lớn lúc
đó, trong cơ cấu sử dụng điện ở M.Bắc, ngoài việc tập trung cho cơng nghiệp cịn dành một phần cho nông
nghiệp (đặc biệt là thủy lợi). Chúng ta đã XD gần 5.000km đường tải điện và gần 2.000 trạm biến thế với
tổng công suất 219.000KV, cũng trong thời kỳ này, Nhà nước đã thăm dò và chuẩn bị khai thác tổng thể
tiềm năng thuỷ điện trên hệ thống sông Hồng, hàng loạt các trạm thủy điện nhỏ được XD ở miền núi (riêng
ở Hịa Bình đã có 200 trạm). Đầu thập kỷ 60 và tiếp theo đến nửa đầu thập kỷ 70, thủy điện Thác Bà
(108MW) mới xây dựng đã thoát khỏi cuộc chiến tranh phá hoại và đưa nguồn điện vào mạng lưới điện
quốc gia. Đây là giai đoạn chuẩn bị cần thiết cho các ch/trình khai thác hệ thống S.Hồng sau này.
Bảng 3.4. Cơ cấu sử dụng điện ở miền Bắc thời kỳ 1966 - 1975
Cơ cấu phân phối và sử dụng điện năng (%)
Năm
Công nghiệp
Nông nghiệp
Các ngành khác
Sinh hoạt
1965
60,5
6,1
20,6
12,8
1975
63,2
12,8
8,0
16,0
- Ở miền Nam: Trong vòng 2 thập kỷ (1955-1975), công nghiệp điện lực chỉ phát triển mạnh khoảng
10 năm khi Mỹ đổ bộ quân vào. Do thiếu cơ sở nhiên liệu độc lập, nên ngành điện phụ thuộc hoàn toàn vào
nhiên liệu lỏng (nhập khẩu ~70 vạn tấn/năm). Ngoài một số nhà máy cũ (Khánh Hội, Chợ Quán, Đà Nẵng),
các trạm điêzen đã phát triển ở khắp các đô thị. Từ 1961-1965, xây dựng nhà máy thuỷ điện Đa Nhim do
Nhật Bản đầu tư thiết bị, kỹ thuật. Nhưng do chưa hoàn chỉnh đường dây tải điện 66KV, nên nhà máy chỉ
cung cấp điện cho Nha Trang, Phan Rang và căn cứ quân sự Cam Ranh. Đến 1975, sản lượng điện ở miền
Nam đạt trên 1.088 triệu kwh (bằng 44,8% cả nước). Như vậy, từ năm 1955-1965 về công suất tăng 2,7 lần,
sản lượng tăng trên 2,5 lần và từ 1965-1975 (3,8 lần & ~ 3,6 lần). Tuy nhiên, mục tiêu phát triển ngành này
khác hẳn so với miền Bắc chủ yếu phục vụ cho sinh hoạt ở đô thị và quân sự, khu vực nông thôn và nông
nghiệp không là đối tượng cung cấp điện.
▪ Từ 1975 đến nay. Các chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước và điều tra cơ bản được triển khai,
đã đi đến khẳng định tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho công nghiệp năng lượng ở nước ta tương đối
phong phú và đa dạng.
- Về than, nước ta có 4 loại than: Than antraxit (than gầy) là loại than có chất lượng tốt nhất, nhiệt
lượng cao (7.000-7.500 kcal/kg), phân bố chủ yếu ở Quảng Ninh, trữ lượng ~ 3,5 tỉ tấn (tính đến độ sâu
300m), ở < 300m chưa được nghiên cứu kỹ (trữ lượng ~ 6-7 tỉ tấn); Các mỏ quan trọng là ng Bí, Mạo
Khê, Đơng Triều, Hồng Gai (Hà Tu, Hà Lầm), Cẩm Phả (Cọc Sáu, Đèo Nai), Mông Dương, Cao Sơn, Khe
Sim... Than mỡ có một vài mỏ nhỏ ở Thái Nguyên (Làng Cẩm, Phấn Mễ ~ 4,2 triệu tấn, Núi Hồng ~ 5 triệu
tấn); đây là loại than cần thiết để luyện cốc dùng trong CN luyện kim, nhưng trữ lượng nhỏ. Than nâu tập
trung ở ĐB sông Hồng, trữ lượng dự báo ở độ sâu ~ 3.500m là 210 tỉ tấn, chưa có điều kiện khai thác. Than
bùn tập trung nhiều nhất ở ĐB sông Cửu Long (U Minh) vài trăm triệu tấn.
- Về dầu mỏ - khí đốt: đã được thăm dị từ cuối thập kỷ 60 đến nay, dầu - khí tập trung trong các bể
trầm tích ở vùng thềm lục địa (trong đó bể trầm tích Nam Cơn Sơn có trữ lượng lớn nhất). Trữ lượng dầu
mỏ khoảng 4 - 5 tỉ tấn dầu qui đổi, khí đốt ~ 250-300 tỉ m3.
- Về thuỷ điện: Theo đánh giá của ngành điện lực, trữ lượng kinh tế về thuỷ điện của 10 lưu vực sơng
chính và các lưu vực nhỏ khoảng 15,0 triệu kw và cho sản lượng điện ~ 82 tỉ kwh (riêng 10 lưu vực chiếm
86,55%). Tiềm năng lớn nhất là hệ thống sông Hồng – sông Đà (37%), sông Đồng Nai (19%), 5 lưu vực
sông ở ven biển Trung Bộ (sườn Đông Trường Sơn) chỉ chiếm ~ 17,7%. (Riêng hệ thống sông Hồng và
sông Đà chiếm 85,4% trữ lượng được đánh giá).
▪ Các nguồn dự trữ năng lượng chưa được đánh giá chính thức bao gồm
- Nguồn khoáng uranium với uran thiên nhiên, trữ lượng 18 vạn tấn, ở Lai Châu.
- Nguồn nhiệt suối khống (hay nguồn địa nhiệt) cũng có nhiều triển vọng, với 46 lỗ khoan của trên
400 nguồn suối khoáng thiên nhiên ở Tú Lệ, Bản Heo (Văn Chấn - Yên Bái), Kim Bơi (Hồ Bình), Quang
Hanh (Quảng Ninh), Lị Vơi (Lệ Thuỷ - Quảng Bình)... thì nhiệt độ nước trên mặt đạt 75 - 100 0C. Ngay ở
đồng bằng Bắc Bộ, nguồn nước khống có trong trầm tích Nêơgen dưới độ sâu 3.000 - 3.500m cũng có
nhiệt độ 1950C - 2000C.
- Nguồn năng lượng của sóng biển và thuỷ triều khá phong phú, ven biển cứ 10 km/1 cửa sông,
đường bờ biển dài 3260 km. Sóng biển và thủy triều là nguồn năng lượng đáng kể. Theo ước tính năng
lượng sóng triều ở Biển Đơng là 250kw (bán nhật triều) và 122kw (nhật triều).
- Năng lượng mặt trời và năng lượng của gió, nếu được sử dụng sẽ rất có lợi cho các vùng đảo xa và
các tỉnh cực Nam Trung Bộ, những vùng có chế độ gió và cường độ chiếu sáng mạnh của mặt trời ổn định
quanh năm.
▪ Tuy nhiên, nguồn năng lượng của nước ta phân bố không đều:Tập trung chủ yếu ở Bắc Bộ, đến
Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Các vùng ven biển Trung Bộ và Đồng bằng sơng Cửu Long có nhiều hạn
chế. Một sự phân hóa khác là các vùng nằm ở sườn Tây (dãy Hồng Liên Sơn, Trường Sơn Nam) có trữ
lượng thuỷ năng lớn. Ngược lại ở phía Đơng (kể cả đồng bằng, ven biển và thềm lục địa) lại có cơ sở nhiên
liệu phong phú (dầu - khí).
▪ Chính sách của Nhà nước đối với ngành CNNL. Do sớm nhận thức được vai trò động lực của
ngành CNNL. Ngay từ khi miền Bắc được giải phóng, các kế hoạch khơi phục và phát triển kinh tế, cũng
như các kế hoặc 5 năm đều ưu tiên đầu tư cho ngành công nghiệp này. Vì thế, trong bất kỳ tình thế nào cơ
sở năng lượng vẫn đảm bảo, khi chuyển sang cơ chế thị trường, một số ngành công nghiệp mới cần sử dụng
nhiều điện năng, đòi hỏi kỹ thuật cao đã có điều kiện thuận lợi phát triển. Sự phát triển ngành CNNL theo
một chính sách năng lượng độc lập, chủ yếu dựa vào nội lực. Điều này được thể hiện ngay sau khi miền Bắc
được giải phóng, thơng qua việc hướng vào nguồn than và thủy năng. Khi đất nước thống nhất (1975), Nhà
nước đã mở rộng khơng gian tìm kiếm, thăm dò tài nguyên và phát triển CNNL trên phạm vi cả nước. Ba
nguồn lực lớn nhất (than, dầu khí, thủy năng) đã và đang được tiếp tục khai thác; đồng thời vẫn đẩy mạnh
việc chuẩn bị khai thác các nguồn khác (năng lượng hạt nhân, gió, mặt trời...). Tuy nhiên, hoạt động của CN
NL còn nặng về khai thác, chỉ có điện lực là CNCB’. Nguồn lực đưa vào CB’ thành điện năng chủ yếu
hướng vào thủy năng (chiếm 3/4 sản lượng), sau đó mới tới điện SX từ dầu các loại nhập khẩu, than và khí
tự nhiên.
c. Tình hình khai thác và sự phân bố ngành CNNL từ sau 1975
▪ Ngành khai thác than
Ngành công nghiệp khai thác than tập trung chủ yếu ở Quảng Ninh, rồi đến Na Dương (Lạng Sơn),
Đại Từ (Thái Nguyên) và Nơng Sơn (Quảng Nam) qui mơ nhỏ. Ngồi ra, cịn khai thác một số mỏ nhỏ ở các
địa phương.
Qui mô khai thác lớn nhất là Quảng Ninh. Tại đây có 3 trung tâm khai thác lớn nhất được xem là 3
tổng thể hồn chỉnh nhất là Cẩm Phả, Hịn Gai và ng Bí. Gắn với 3 trung tâm là hàng loạt các cơng ty và
các xí nghiệp bổ trợ. Trong vùng có 7 nhà máy sàng tuyển, 6 nhà máy cơ khí cùng các xí nghiệp bổ trợ khác
như (thăm dò, khảo sát, thiết kế, xây lắp, vật liệu mỏ, hố chất, vận tải) và có 3 cảng chun dụng (Cửa
Ơng, Hịn Gai, Điền Cơng). Về LLLĐ là 75,0 vạn. Trong đó, 3.500 cán bộ có trình độ đại học và trên đại
học; có 1 Viện nghiên cứu và đào tạo, 2 trường trung cấp mỏ và 8 trường đào tạo CNKT.
Về sản lượng: Từ 1955 - 2002 khai thác được 250 triệu tấn than sạch (chủ yếu từ sau 1975). Phần
lớn được tiêu thụ trong nước và 30% cho xuất khẩu. Năm 1995 xuất khẩu 2,82 triệu tấn (chiếm 33,6% sản
lượng), đến 1996 là (XK 3,65 triệu tấn và 37,2%), 2002 là (xuất khẩu 6,0 triệu tấn và 37,7%), 2005 (xuất
khẩu 17,98 triệu tấn và 52,76%)
Tình hình khai thác than từ sau 1975 ít nhiều có biến động. Thời kỳ 1975-1988 sản lượng tương đối
ổn định ở mức 6 triệu tấn; Thời kỳ từ 1989-1990 sản lượng giảm mạnh do chưa thích nghi với cơ chế thị
trường, từ 1995 trở đi, sản lượng than bắt đầu tăng mạnh. Đến năm 2008, sản lượng đã đạt 39,7 triệu tấn.
Hình thức khai thác lộ thiên chiếm 65% sản lượng, 35% là khai thác hầm lò. Các mỏ khai thác lộ thiên là Hà
Tu, Cao Sơn, Đèo Nai, Cọc Sáu, Núi Hồng, Na Dương, ưu điểm là năng suất cao, hạn chế là mơi trường bị
đảo lộn do phải bóc lớp đất đá thải ra gây ô nhiễm nguồn nước - không khí do bụi than. Các mỏ khai thác
hầm lị là Mông Dương, Hà Lầm, Mạo Khê, Vàng Danh, Tân Lập (trong đó, các giếng lị đứng là Mơng
Dương, các giếng lò nghiêng là Hà Lầm, Mạo Khê, còn lại là lò bằng, hạn chế lớn nhất là năng suất thấp do
chúng ta chưa có thiết bị hiện đại, vẫn là lao động thủ cơng, sử dụng nhiều gỗ chống lị (cứ khai thác được
1.000 tấn than cần 50 - 60m2 gỗ chống lò), tỉ lệ hao hụt còn rất lớn 40 - 50%.
Nhu cầu than cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện tăng nhanh (ví dụ, nhà máy nhiệt điện Phả Lại I,
ng Bí, Ninh Bình tiêu thụ 2,5 triệu tấn/năm), chưa tính hàng loạt các nhà máy nhiệt điện đang hoạt động
và xây dựng cùng với việc tăng nhanh của sản xuất xi măng, VLXD... cũng đòi hỏi nhiều về than. Với khả
năng khai thác như hiện nay thì ngành than cần phải tìm kiếm thị trường và nâng cao chất lượng sản phẩm,
hạ giá thành để đảm bảo cân đối giữa cung & cầu.
Bảng 3.5. Sản lượng than từ 1975 - 2008 (triệu tấn)
Năm
1975 1980 1985
Sản lượng
5,20
5,20
5,70
1990
4,60
1995
8,35
2000
11,6
2005
34,1
2008
39,7
▪ Ngành khai thác dầu mỏ - khí đốt.
+ CN khai thác dầu mỏ: Đây là ngành còn non trẻ. Năm 1986 khai thác tấn dầu đầu tiên, nhưng từ
đó đến nay ngành này đã trở thành ngành CNTĐ của đất nước. Q trình tìm kiếm dầu-khí được tiến hành
từ những năm 50 ở cả 2 miền. Theo dự báo thăm dị hiện nay, khu vực có trữ lượng lớn nhất là từ miền
Trung vào đến Nam Bộ trên vùng thềm lục địa. Trên diện tích ~ 318.000km 2 được điều tra bằng phương
pháp địa vật lý đã xác định được 9.000km 2 có triển vọng lớn, và khoảng 20 vạn km 2 có triển vọng vừa và
nhỏ. Bước đầu dự báo trữ lượng dầu mỏ có thể lên vài tỉ tấn và hàng trăm tỉ m3 khí đốt (Lê Quốc Sử, 1998).
Ở miền Bắc, từ 1954 Nhà nước đã quan tâm đặc biệt đến việc tìm kiếm dầu mỏ. Từ 1960-1975 đã
phát hiện mỏ khí đốt ở Tiền Hải (Thái Bình) tuy không lớn nhưng được coi là giai đoạn mở đầu cho ngành
dầu - khí nước ta. Ở miền Nam, trong giai đoạn này cũng có tiến hành thăm dị ở vùng biển Nam Trung Bộ
và Nam Bộ, nhưng chưa có kết quả cụ thể
Sau 1975, ngày 03/09/1975 Tổng cục dầu-khí được thành lập, sau đó Vietsopetro ra đời trên cơ sở
Hiệp định liên Chính phủ ký kết năm 1981 và đã phát hiện nhiều địa điểm có dầu khí như có mỏ Bạch Hổ,
Đại Hùng và Rồng, tấn dầu đầu tiên (1986) được khai thác tại Bạch Hổ.
Sau đổi mới (1986), chúng ta tiếp tục ký kết với nhiều Công ty nước ngồi trong việc thăm dị, khai
thác dầu-khí. Từ năm 1998 đến 1995, Tổng cơng ty dầu khí Việt Nam đã ký kết 29 hợp đồng với nhiều công
ty lớn trên thế giới với tổng số vốn đầu tư là 1,5 tỉ USD. Nhiều mỏ mới đã phát hiện nhiều nhất là vào 19941995 (năm 1994 phát hiện các mỏ Hồng Ngọc, Phi Mã, Lan Đỏ, Lan Tây, Hướng Dương Bắc, Hướng
Dương Nam, Rạng Đông; năm 1995 phát hiện mỏ Thanh Long và nhiều mỏ khác sau này). Mỏ Đại Hùng
khai thác 1994 sản lượng 16 vạn tấn/năm.
Đang khai thác các mỏ dầu-khí: Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Rạng Đông, Hồng Ngọc, Lan Đỏ, Lan
Tây, Nam Hồng Ngọc, Kewa và một số mỏ khí đốt ở bể trầm tích Thổ Chu-Mã Lai. Ngồi Vietsopetro thì
các Cơng ty dầu khí của Ôtxtrâylia, Malaixia, Pháp, Nhật cũng đã ký kết hợp tác và đang bước vào khai thác
dầu khí tại vùng thềm lục địa nước ta. Riêng tại Đồng bằng sông Hồng, Cơng ty dầu khí của Ơtxtrâylia đã
khoan 2 giếng và tìm thấy dầu thơ trong đá cácbơnat trước tuổi đệ tam ở vùng trũng Hà Nội. (Tháng
10/2004 chúng ta đã tìm thấy dầu mỏ ở vùng biển Bắc Bộ, trữ lượng xác định ~ 800 triệu tấn, chuẩn bị khai
thác). Trữ lượng dầu-khí theo dự báo khoảng 10 tỉ tấn, cho khai thác 4-5 tỉ tấn dầu (qui đổi) và 250-300 tỉ
m3 khí.
Sản lượng khai thác dầu của nước ta tăng nhanh, năm 1986 là 4,0 vạn tấn, đến 2008 tăng lên > 14,9
triệu tấn (xuất khẩu 13,75 triệu tấn), Việt Nam là 1/44 nước trên thế giới có khai thác dầu và đứng hàng thứ
4 ở ĐNÁ về sản lượng.
+ Về khí đốt: Năm 1992, Vietsopetro xây dựng đường ống dẫn khí từ mỏ Bạch Hổ vào Bà Rịa và tới
tận Thủ Đức, dài 122,5km (1995 hoàn thành) cung cấp cho nhà máy điện Phú Mĩ 1 là 80 vạn m 3 khí/năm (~
800 tấn dầu), đến năm 1996 lượng khí đã tăng gấp đơi (~ 160 vạn m 3). Tháng 11/2002, đã đưa vào hoạt
động đường ống dẫn khí từ 2 mỏ Lan Đỏ và Lan Tây (bể trầm tích Nam Cơn Sơn), đường ống có chiều dài
399 km, công suất thiết kế là 7 tỉ m 3/năm. Trước mắt đưa vào đất liền 2,7 tỉ m 3/năm, cung cấp khí đốt cho
nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 2, 3, 4.
Bảng 3.6. Sản lượng dầu thô của nước ta qua các năm 1986 - 2008 (đơn vị: 1.000 tấn)
Năm
1986
1990
1995
2000
2005
2008
Sản lượng
40,0
2700,0
7620,0 16291,0 18519,0 14904,0
+ Những hạn chế của ngành cơng nghiệp dầu - khí: Đây là ngành non trẻ cho nên mới dừng lại ở
việc xuất khẩu dầu thơ, chưa có một cơ sở lọc dầu lớn (trừ một số cơ sở nhỏ như Cát Lái ở ngoại ô TP HCM
công suất ~ 40.000tấn/năm). Một điều bất cập lớn là trong khi chúng ta nhập hầu như tất cả các sản phẩm về
xăng-dầu, nhưng lại xuất khẩu tồn bộ dầu thơ sản xuất ra, vì vậy cần xúc tiến xây dựng ngay các nhà máy
lọc dầu, để hạn chế việc nhập khẩu và tạo điều kiện phát triển ngành cơng nghiệp hố dầu. Tháng 01/1998,
chúng ta khởi công xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên ở Dung Quất, công suất 6,5 triệu tấn dầu thô (hoạt
động 02/2009, chậm 7 năm theo kế hoạch), dự kiến sẽ xây dựng ở Nghi Sơn và một vài nơi khác...
▪ Công nghiệp điện lực. Hệ thống các nhà máy điện bao gồm thủy điện và nhiệt điện với qui mô
khác nhau được phân bố tương đối rộng rãi ở những khu vực có nhiều tiềm năng. Sau 1975, ngành này phát
triển mạnh trên cơ sở mở rộng, nâng cấp các nhà máy hiện có và xây dựng mới hành loạt các nhà máy điện
với công suất lớn. Về sản lượng điện, năm 1975 chỉ mới đạt 2,4 tỉ kw/h, năm 2000 là 26,6 tỉ kw và đến năm
2008 đã lên trên 72,0 tỉ kw/h. Về cơ cấu: thuỷ điện (3/4), nhiệt điện (16,8%), tuốc bin khí (7,8%), điêzen
(2,7%), các nguồn khác (0.2%). Trong cơ cấu, thuỷ điện sẽ còn tiếp tục tăng lên trong những năm tiếp theo.
Bảng 3.7. Sản lượng điện phát ra của cả nước thời kỳ 1975 - 2005 (triệu KW/h)
Năm
1975
1980
1985
1990
1995
2000
Sản lượng 2428,0
3680,0
5230,0
8790,0
14655,0 26683,0
2005
52078,0
2008
72100,0
▪ Các nhà máy thuỷ điện
- Ở phía Bắc: Lớn nhất là nhà máy thuỷ điện Hồ Bình cơng suất 1.920MW (1979 - 1994), đây là
“Cơng trình thế kỷ”của nước ta, cơng trình này tạo một hồ chứa dài 200km. Nhà máy nằm ở TX Hịa Bình
trên sơng Đà, cách Hà Nội 70km. Thuỷ điện Thác Bà (110MW), trên sơng Chảy thuộc H.n Bình (n
Bái), XD 1962-1970, nhà máy có 3 tuốc bin (cơng suất mỗi tuốc bin 38.000KW), đã tạo ra một hồ chứa
nước có diện tích 23.400 ha (trong đó diện tích mặt nước 19.050 ha), phần cịn lại là diện tích của 1.331 đảo
lớn nhỏ với chiều dài 80km, rộng 8-12km, có nơi sâu tới 42 m, là hồ lớn thứ 3 (sau hồ Hồ Bình và Dầu
Tiếng). Đang XD thuỷ điện Na Hang (Tuyên Quang) 342 MW; Tạ Bú, Sơn La 2.400 MW, Bản Mai (Nghệ
An) 320MW
- Ở phía Nam: có thuỷ điện Trị An (400MW) trên sông Đồng Nai nơi hội lưu với sông Bé ngay
trong địa bàn chiến khu D trước đây. Đa Nhim (160MW) lấy nước ở hồ Đơn Dương gần thành phố Đà Lạt,
cơng trình này lợi dụng độ chênh của địa hình ở rìa cao nguyên. Hàm Thuận - Đa Mi (475MW) trên S.La
Ngà (Bình Thuận). Thác Mơ (150MW) trên S.Bé (Tây Ninh). Vĩnh Sơn trên S.Côn (66MW). Sông Hinh
trên sông Ba (70MW)...
- Ở Tây Nguyên, tiềm năng về thủy điện tập trung ở phía Tây 2 tỉnh Kon Tum và Gia Lai. Thượng
lưu sơng Xê Xan có đến 6 khu vực có khả năng thủy điện, trong đó lớn nhất là thuỷ điện Yaly (720MW),
khởi công xây dựng cuối 1995 trên sông Xê Xan, tổ máy số 1 phát điện cuối năm 1999. Ngồi ra, ở Tây
Ngun cịn có hàng loạt các nhà máy thuỷ điện khác như: Trên dịng Xê Xan: ngồi thuỷ điện Yali
(720MW), ở phía hạ lưu dịng Xê Xan có Xê Xan 3, Xê Xan 3A, Xê Xan 4, ở thượng lưu có Plây Krơng,
tổng cơng suất lên tới 1500MW. Trên dịng Srê Pơk có thuỷ điện Buôn Kuôp (280MW) khởi công 12/2003;
Buôn Tua Srah (85MW) khởi công cuối 2004; Xrê Pôk 3 (137MW), Srê Pôk 4 (33MW), Đức Xuyên
(58MW), Đ’rây H’linh mở rộng lên 28MW. Trên lưu vực sông Đồng Nai (ở Tây Nguyên) đang xây dựng
thuỷ điện Đại Ninh (300MW), Đồng Nai 3 (180MW), Đông Nai 4 (340MW), sẽ đi vào hoạt động từ 2008
đến 2010
Bảng 3.8. Một số nhà máy thuỷ điện hiện có (hoặc đang xây dựng) tính đến 2006.
Vùng
Tên nhà máy
Cơng suất(MW)
Địa điểm
Thác Bà
120
Sơng Chảy
MN’TD Hồ Bình
1920
Sơng Đà
Na Hang
342
Sơng Gâm
PB’
Tạ Bú
2400
Sơng Đà
Bản Vẽ
320
Sông Cả
Trung Vĩnh Sơn
66
Sông Côn
Sông Hinh
70
Sông Hinh
Bộ
Hàm Thuận - Đa Mi
475
Sông La Ngà
Nam
Thác Mơ
150
Sông Bé
Trị An
400
S.Đồng Nai
Bộ
Lưu
vực
Đa Nhim
160
S.ĐồngNai
Đại Ninh
300
Đồng Nai 3
180
Lưu vực
sông Đồng Nai
Đồng Nai 4
340
Yali
Xê Xan 3
Tây
Nguyên Xê Xan 3A
Xê Xan 4
Plây Krông
Buôn Kuôp
Buôn Tua Srah
Xrê Pôk 3
Xrê Pôk 4
Đức Xun
Đrây Hling
720
780
(tính cả Yali là
1500)
280
85
137
33
58
28
Sơng Xê Xan
Lưu vưc
Sơng XêXan
Lưu vực
Sông XrêPôk
Ghi chú
Hoạt động 1970
Hoạt động 1994
Đang xây dựng
Đang xây dựng
Hoạt động 1994
Hoạt động 1999
Hoạt động 2000
Hoạt động 1994
Hoạt động 1988
Hoạt động 1974
3 nhà máy này
đang XD, dự
kiến hoạt động
vào 2008-2010
Hoạt động 2002
Hoạt động 2006
Đang xây dựng
Đang xây dựng
▪ Các nhà máy nhiệt điện
Ở phía Bắc: Nhiệt điện Phả Lại 1 cơng suất 440MW (hồn thành 1986) và Phả Lại 2 công suất
600MW (2003), nằm gần khu mỏ Quảng Ninh nơi cung cấp nguồn nguyên liệu quan trọng, với TTCN Hà
Nội thuộc loại lớn nhất của cả nước có nhu cầu về điện năng cho sản xuất & sinh hoạt rất lớn. Nhà máy điện
ng Bí - Quảng Ninh (150MW), đã nâng cấp lên 300MW, nhà máy nằm trên thị xã cùng tên ở rìa đơng
bằng châu thổ S.Hồng, phục vụ chủ yếu cho KCN khai thác than và cảng Hải Phịng. Nhiệt điện Ninh Bình
(100MW) nằm ở khu vực núi Cánh Diều, phía Đơng Nam châu thổ S.Hồng, phục vụ cho KCN của các tỉnh
Hà Nam, Ninh Bình và nhu cầu tưới tiêu ở vùng trũng của đồng bằng. Nhiệt điện Cao Ngạn- Thái Nguyên
(116MW). Na Dương - Lạng Sơn (110MW). Trong kế hoạch sẽ xây dựng nhiệt điện Cẩm Phả (Quảng Ninh)
600MW; nhiệt điện Hà Tĩnh… Ngoài ra, cịn có hàng chục nhà máy nhiệt điện cơng suất từ 100–200MW
đang hoạt động ở nhiều tỉnh thuộc miền Bắc
Ở phía Nam. Các nhà máy điện phần lớn chạy bằng dầu FO tập trung xung quanh các TP lớn như
nhiệt điện. Thủ Đức (165MW), Hiệp Phước (375MW), Chợ Quán (53MW), Chợ Lớn (20MW)... đều ở
quanh TP HCM, Trà Nóc - Cần Thơ (35MW). Các nhà máy lớn chạy bằng khí như Bà Rịa (328MW), Phú
Mỹ 1, 2, 3, 4 (4164MW), Cà Mau (750MW) .
Ở Miền Trung: đang khởi công xây dựng nhiệt điện Hà Tĩnh (thuộc loại lớn hiện nay)
Bảng 3.9. Một số nhà máy nhiệt điện đã hoạt động và đang xây dựng
Tên nhà
Công suất
Địa điểm
Tên nhà máy
máy
(MW)
Phả lại 1
440
Hải Dương
Phú Mĩ 1,2, ,4
Phả Lại 2
600
Hải Dương
Bà Rịa
ng Bí
Na Dương
Cao Ngạn
Ninh Bình
Cẩm Phả
300
110
116
110
600
Q.Ninh
Cà Mau
Lạng Sơn
Th.Ngun
Ninh bình
(Dự kiến)
Thủ Đức
Hiệp Phước
Chợ Qn
Trà nóc
C.Suất
(MW)
4164
328
750
165
375
20
35
Địa điểm
BRịa-VT
BRịa-VT
Cà Mau đang
xây dựng
Tp HCM
Tp Cần Thơ
Đã hình thành ngành cơng nghiệp sản xuất thiết bị điện và tự giải quyết trang thiết bị, tuốc bin cho
các nhà máy thủy điện từ 0,4 - 250MW với áp lực cột nước từ 10 - 130m. Nhà máy công cụ số 1 Hà Nội đã
chế tạo thành công tuốc bin nước 1.000KW cho các trạm thủy điện vừa như Bản Hồng, Thơng Gót (Cao
Bằng); S.Cùng, Đại Quang, Duy Sơn 2, Phú Ninh (Quảng Nam); Hảo Sơn (Phú Yên); Ea Tiêu (Đắc Lắc)...
Đã chế tạo các loại biến áp từ 3.500 - 10.000KVA. Đã thiết kế và xây dựng qui hoạch điều phối điện trên
phạm vi cả nước, hình thành mạng lưới điện quốc gia thống nhất, khắc phục tình trạng mất cân đối về điện
năng giữa các vùng.
Về mạng lưới điện: chúng ta đã XD đường dây tải điện 500kv1 và 2. Đường dây tải điện 500kv I
Bắc - Nam dài 1.488km từ Hoà Bình – Plâycu - Đà Nẵng - Phú Lâm. Khởi công 5/4/1992 - 11/1994. Hàng
năm đã chuyển tải khoảng 3,0 - 4,0 tỉ kwh điện cho miền Trung - Tây Ngun và Nam Bộ. Đây là cơng
trình đồ sộ, với tổng số vốn 5.714 tỉ đồng, sử dụng 2,5 vạn lao động là kỹ sư, công nhân kĩ thuật (trong đó,
có trên 100 kỹ sư giỏi được đào tạo ở nước ngồi). Cơng trình này bao gồm 3 bộ phận: Bộ phận đường dây
đã sử dụng 2,6 vạn tấn dây điện; xây dựng 3.434 móng (~25 vạn m 3 bê tơng); dựng 3.434 cột (cột thấp nhất
18m, trung bình 42m, cột vượt cao 82m); sử dụng 6 vạn tấn thép. Bộ phận xây lắp đã xây 4 trạm biến thế
lớn, trạm nâng thế đầu tiên ở Hồ Bình (220/500kv - 900MVA); Đà Nẵng (220/500kv - 450MVA); Plâycu
(220/500kv - 450MVA) và cuối cùng là trạm hạ thế Phú Lâm (500KV/220KV - 900MVA). Bộ phận kéo
dây với chiều dài 1.488 km. Trong đó 300 km đi qua địa hình núi cao, 64 lần vượt sông.
Đường dây tải điện 500kv II (Plâycu - Phú Lâm) cũng đã đi vào hoạt động sau khi thuỷ điện Yaly đi
vào hoạt động ổn định tạo nên mạng lưới điện thống nhất trong cả nước, hỗ trợ đắc lực sản xuất và sinh hoạt
của xã hội.
d. Sự phân hố lãnh thổ cơng nghiệp năng lượng
▪ Vùng CNNL Bắc Bộ
- Phạm vi: bao gồm các tỉnh phía Bắc đến phía Nam tỉnh Thanh Hố. Cơ sở năng lượng của vùng
(trước mắt) có từ 2 nguồn (than đá và thuỷ năng). Là vùng tiêu thụ năng lượng lớn nhất của cả nước. Vùng
có 2 thế mạnh (tài nguyên và thị trường): Tài nguyên phục vụ cho ngành CNNL phong phú, dồi dào với
mức độ tập trung cao nhất trong cả nước (than Quảng Ninh, thủy năng trên hệ thống sơng Hồng), ngồi ra
vùng có tiềm năng về dầu-khí (Tiền Hải). Thị trường tiêu thụ năng lượng trong vùng rất lớn, nhất là trong cơ
chế thị trường. Các cơ sở sử dụng điện năng lớn như (công nghiệp khai thác than, apatit, luyện kim màu,
VLXD); Các TTCN lớn; Các thành phố lớn, các ngành du lịch, dịch vụ kèm theo nó là hàng loạt các
KCNTT, KCX, KCN kỹ thuật cao; Cùng với nó là các vùng sản xuất nơng nghiệp trong q trình CNH’ nhu
cầu điện cũng ngày càng nhiều. Ngoài ra, trong q trình CNH’, nhiều đơ thị cũ được mở rộng và nâng cấp,
một số đô thị mới ra đời,… nhu cầu về điện năng ngày càng tăng lên.
- Các trung tâm khai thác năng lượng lớn
Về khai thác than: Quảng Ninh-Phả Lại, tập trung trên 90% sản lượng than cả nước (trong số đó
30% dùng cho SX điện lực và xi măng như nhiệt điện ng Bí, Phả Lại I, II, Ninh Bình, Việt Trì, Cao
Ngạn...). Đang XD 3 nhà máy nhiệt điện mới là Hoành Bồ, Hồng Gai, Phả Lại.
Về thuỷ điện: Có thuỷ điện Hồ Bình (1920MW) với 8 tổ máy hoạt động, hàng năm sản xuất hơn
chục tỉ kw/h điện. Ngồi ra, cịn có thuỷ điện Thác Bà (120MW) và nhiều trạm thuỷ điện nhỏ như Tà Sa, Nà
Ngần, Thơng Gót, Bản Hồng, Suối Củn, Tràng Định (Cao Bằng); Vĩnh Tuy, Bắc Quang (Hà Giang) Khuổi
Sao (Lạng Sơn); Đầm Hà (Quảng Ninh); Sa Pa (Lao Cai); Phong Thổ, Thác Bay, Nậm Cẳn (Lai Châu)...
tương lai có thêm thủy điện Sơn La và Na Hang sẽ tạo thêm nguồn điện phục vụ sự nghiệp CNH’ và HĐH’
đất nước.
▪ Vùng CNNL Trung - Trung Bộ
Một dải từ Nghệ An đến Khánh Hồ và 5 tỉnh Tây Ngun đều có tiềm năng lớn về thuỷ điện, nhưng
mức độ khai thác lại khác nhau. Ở Tây Nguyên, tiềm năng khá lớn có thể cho cơng suất lắp đặt 2000MW.
Có đường dây 500kv chạy qua 3 sông là S.Xêsan, Xrêpốc, Aydun. Hiện tại cũng chỉ có Đ’rây-H’Linh
(12MW) đã mở rộng lên 28MW trên S.Ea Krông; Yaly (720MW) trên S.Xêsan... Các tỉnh miền Trung ở
sườn Đông Trường Sơn, sông ngắn, dốc nên chỉ khai thác được thuỷ điện vừa và nhỏ (10-500kw). Chỉ có
vài nơi có thể đặt máy từ 1.000-2.500 KW. Sự cực đoan của khí hậu (mùa khơ-mưa) đã hạn chế mực nước ở
các hồ chứa. Ngoài nguồn thủy năng trên, cơ sở nhiên liệu độc nhất hiện có là mỏ than Nông Sơn, nhưng
khả năng phục vụ liên vùng hạn chế. Việc thăm dị, tìm kiếm dầu-khí mới đang bắt đầu, chưa có kết quả cụ
thể. Hiện nay, trong vùng chỉ mới có một vài nhà máy nhiệt điện (25 - 30 MW) ở Đà Nẵng, Đông Hà, Nha
Trang, và chừng 200 tổ máy nhỏ chỉ đáp ứng 60 - 70% nhu cầu cho sản xuất. Để đảm bảo cho nhu cầu sản
xuất, vùng cần sự hỗ trợ lớn của mạng lưới điện quốc gia qua đường dây 500kv tải điện từ Hịa Bình, Yaly
và một số nhà máy mới như Xêsan 3 và Xêsan 4
▪ Vùng CNNL Nam Bộ
Thế mạnh của vùng là thuỷ điện trên hệ thống S.Đồng Nai và dầu khí ở vùng thềm lục địa. Đây là
vùng có thị trường tiêu thụ cực lớn, nhưng vùng đang gặp hạn chế lớn giữa cung - cầu. Đó là, trong vùng có
hàng loạt các ngành CNCB’sử dụng nhiều điện (CN hố chất, CBTP, cơ khí, SX HTD, khai thác và dịch vụ
dầu khí); Nhu cầu điện sinh hoạt (trong đó có TP HCM), dịch vụ, bưu chính viễn thơng,.v.v. Gần kề đó,
ĐBSCL là vùng cung cấp trên 1/2 SLLT và trên 80% sản phẩm gạo xuất khẩu nhu cầu về điện cũng rất lớn.
Như vậy, nhu cầu về điện còn quá thiếu để thực hiện CNH’. Trong khi đó, từ năm 1986 bắt đầu khai thác
dầu thơ, tuy tốc độ ngày càng tăng, nhưng chưa có cơ sở lọc dầu lớn để bổ sung cho nhu cầu. Việc khai thác
thuỷ năng trên sông Đồng Nai chủ yếu của các nhà máy thuỷ điện Đa Nhim, Trị An, Thác Mơ, Hàm Thuận Đa Mi (riêng thuỷ điện Trị An đôi khi không đủ nước do rừng đầu nguồn bị tàn phá mạnh). Việc khai thác
khí đồng hành từ các mỏ ngoài thềm lục địa vào Bà Rịa và Thủ Đức cung cấp cho các nhà máy điện tuốc
bin khí (Phú Mĩ, Bà Rịa, Thủ Đức) cũng chỉ khai thác vài tỉ kwh. Trước tình hình trên, vùng vẫn phải sử
dụng nguồn năng lượng từ Hồ Bình tải vào và tiếp tục xây dựng thêm nhiều nhà máy mới và hoàn thiện
các đường dây tải điện đến các vùng.
2. CÔNG NGHIỆP LUYỆN KIM VÀ CHẾ BIẾN KIM LOẠI (CNLK)
a. Vai trò: Đây là ngành được coi là “bánh mì của cơng nghiệp”, ngành này phát triển khá sớm (từ
sau CM công nghiệp ở châu Âu). Hiện nay, do trình độ phát triển của KH-KT-CN, một số vật liệu mới xuất
hiện có nhiều ưu thế hơn kim loại, giá thành hạ. Song, sắt, thép và các kim loại khác khơng dễ gì thay thế
được, kim loại vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong các ngành chế tạo cơng cụ, máy móc, tàu thuỷ, máy bay, xe hơi,
vật liệu xây dựng... Ở nước ta, nhu cầu về kim loại trong xây dựng cơ bản rất lớn, đây chính là thị trường
tiêu thụ để cho ngành phát triển.
b. Sự phát triển và phân bố công nghiệp luyện kim - chế biến kim loại
▪ Về cơ sở nguyên liệu. Ngành này bao gồm 2 bộ phận: Khai thác mỏ kim loại, luyện kim sản xuất
gang-thép (luyện kim đen) và các kim loại khơng có sắt như thiếc, đồng, chì, kẽm, nhơm, vàng (luyện kim
màu). Các mỏ của nước ta khá phong phú, song trữ lượng không đều.
+ Về kim loại đen: Lớn nhất là mỏ sắt Thạch Khê (554 triệu tấn, tính đến độ sâu 750 m), hàm lượng
sắt TB 60%, nhưng vỉa quặng lại nằm khá sâu (-160m), nằm sát biển khai thác KK. Các mỏ sắt ở Bắc Hà,
Nga Mi (ở Tây Bắc) và Tòng Bá (Hà Giang), trữ lượng 120-140 triệu tấn, phần lớn các mỏ nằm ở lưng
chừng núi cao, rất KK cho việc thiết kế khai thác. Các mỏ ở Thái Nguyên (Trại Cau, Linh Nham, Cù Vân),
trữ lượng hạn chế (20-50 triệu tấn) đã khai thác từ 1962. Các mỏ mangan ở Cao Bằng (1,5 triệu tấn) và
Chiêm Hoá (Tuyên Quang) cùng với mỏ Núi Thành (Nghệ An) trữ lượng rất nhỏ. Crơm ở Cổ Định-Thanh
Hố là mỏ duy nhất có ở nước ta, trữ lượng 20,8 triệu tấn, quặng ở dạng sa khống trong lớp bồi tích ở chân
núi Nưa, dễ khai thác.
+ Về kim loại màu.Bơxít, tập trung chủ yếu ở Bắc Bộ và nhiều nhất ở Tây Nguyên. Bắc Bộ có ở Hà
Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn trên vùng núi đá vơi dưới dạng trầm tích, khai thác khó khăn, trữ lượng 50,0
triệu tấn. Ở Tây Nguyên, trữ lượng khá lớn khoảng vài tỉ tấn (Lâm Đồng, Đắc Nông), hàm lượng nhôm từ
38 - 45%.Thiếc-Vonfram ở Tĩnh Túc (Cao Bằng), Sơn Dương (Tuyên Quang), Quỳ Hợp (Nghệ An) và Nam
Trung Bộ, trữ lượng khoảng 16,0 vạn tấn. Đồng-Ni ken ở Bản Sang, Bản Phúc (Sơn La), lớn nhất là mỏ
Sinh Quyền (Lào Cai) 60,0-70,0 vạn tấn. Kẽm-Chì ở Chợ Điền, Chợ Đồn (Bắc Cạn). Vàng Bồng Miêu
(Quảng Nam).
▪ Tình hình phát triển và phân bố
- Ở nước ta, ngành khai thác và luyện kim đã xuất hiện từ rất sớm. Nghề luyện đồng có từ trước
cơng ngun. Nghề luyện sắt có cách đây 2.000 năm, cư dân thời Hùng Vương là người đầu tiên khai thác
các mỏ này (các di tích khảo cổ cịn để lại qua 4 giai đoạn đó là Phùng Ngun, Đồng Đậu, Gị Mun và
Đơng Sơn). Thời Hùng Vương có những bước tiến mới về kỹ thuật đúc đồng, sắt (di sản để lại là các loại
trống đồng Ngọc Lũ). Thời An Dương Vương (từ nửa sau TK III trước Công nguyên) là thời đại đồ sắt bên
cạnh những cơng cụ, vũ khí bằng đồng, vũ khí nỏ thần đã đi vào truyền thuyết và trên thực tế cũng đã tìm
thấy một số kho vũ khí mũi tên làm bằng đồng hàng vạn chiếc ở cầu Vực, P.Nam thành Cổ Loa vào năm
1959 (Lê Quốc Sử, 1998). Thời kỳ phong kiến, nghề này tiếp tục phát triển phục vụ cho xây dựng & bảo vệ
tổ quốc.
- Thời Pháp thuộc, các mỏ quặng được khai thác mạnh hơn, quặng sau khi khai thác chỉ qua 2 khâu
làm giàu và sơ chế rồi đem xuất. Năm 1903, Pháp tiến hành khai thác hàng loạt các mỏ (thiếc Tĩnh Túc, bạc
ở Ngân Sơn, đồng ở Vạn Sài, sắt ở Linh Nham, Cù Vân, vàng ở Bảo Lạc, Bồng Miêu,...). Riêng mỏ vàng ở
Bồng Miêu từ 1895-1914, mỗi năm Pháp đã lấy khoảng 100 kg. Một khối lượng tài nguyên lớn của nước ta
đã bị thực dân Pháp vơ vét (chỉ riêng năm 1911, Pháp đã lấy từ trong lòng đất khoảng 28.314 tấn quặng
kẽm, 199 tấn quặng thiếc, 100 tấn đồng, 112,5 tấn vàng và 42,2 tấn bạc ...)
- Sau 1954, cơng nghiệp khai thác và luyện kim có điều kiện để phát triển. Một số mỏ kim loại đen
được khôi phục và mở rộng việc khai thác. Để đáp ứng cho nhu cầu về gang và thép, chúng ta xây dựng một
số lò luyện gang và thép nhỏ ở Hà Nội, Hải Phịng, Hàm Rồng. Bên cạnh đó, về khai thác thiếc cũng được
mở rộng và hiện đại hoá, với sản lượng ~ 400 tấn thiếc/năm... CNLK chỉ thực sự ra đời khi chúng ta xây
dựng khu LH gang thép Thái Nguyên vào năm 1962. Công suất thiết kế ban đầu là 20 vạn tấn gang, 10 vạn
tấn thép. Hỗ trợ cho việc luyện gang-thép là các xí nghiệp khai thác than Phấn Mễ, Làng Cẩm, Quán Triều,
Trại Cau; Điện Cao Ngạn, cơ khí Bắc Thái, VLXD, hóa chất... Sau 1970, khu cán thép Gia Sàng và cơ khí
nơng nghiệp Sơng Cơng đã hồ nhập vào lãnh thổ này.
- Ở miền Nam, do thiếu cơ sở nguyên liệu, vì vậy ngành này chủ yếu dựa vào nguồn nguyên liệu
nhập, hoặc sắt phế thải trong chiến tranh, hàng năm đã sản xuất ~ 5 vạn tấn thép thép các loại. Trong đó
đáng kể nhất là 3 hãng: Vietnam Steel (1,0vạn tấn/năm), Công ty Visaca (2,5 vạn tấn/năm) và hãng Đông
Nam Á (1,2 vạn tấn/năm). Xuất hiện một số xưởng cán đồng từ nguyên liệu nhập, sản xuất tôn tráng kẽm
qui mô nhỏ...
- Sau 1975, đặc biệt là từ sau công cuộc đổi mới, ngành này được quan tâm và chú trọng phát triển.
Việc phát triển tập trung vào một vài hướng chính: Thăm dị, đánh giá trữ lượng, đưa vào khai thác các mỏ
mới; mở rộng, hiện đại các mỏ cũ (như thiếc, crơm, bơxít, titan sa khống...). Trang bị công nghệ, kĩ thuật
tiên tiến thông qua việc chuyển giao kĩ thuật, hợp tác đầu tư với nước ngoài trong các lĩnh vực có liên quan
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng ở trong nước, hạn chế nhập khẩu. Sắp xếp lại tổ chức, quản lý nhằm
thích ứng với các hoạt động đầu tư trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Kết quả là nhiều
nguồn tài nguyên khoáng sản được khảo sát chi tiết hơn, sản lượng và sản phẩm tăng lên. Đã thăm dò và
chuẩn bị đưa vào khai thác bơxít (ở Lâm Đồng), sa khống ti tan (Bình Định và Hà Tĩnh), khai thác sắt
Thạch Khê; mở rộng địa bàn khai thác thiếc... Nhiều cơ sở luyện thép, cán thép được nâng cấp hoặc XD
mới.
Bảng 3.10. Tình hình sản xuất một số sản phẩm khai khoáng và luyện kim 1976 - 2008.
Sản phẩm
Thép cán (1000 tấn)
1976
63,8
1985
61,6
1990
101,4
1995
470,0
2000
1583,0
2005
3403,3
2008
5037,0
Quặng Crôm khô (1000 tấn)
Thiếc thỏi (tấn)
11,4
288,0
4,1
501,0
4,6
1774,0
25,0
1862,0
76,3
1803,0
5,7
1766,0
2,8
3566,0
c. Định hướng phát triển: Theo Qui hoạch tổng thể phát triển KT-XH VN đến năm 2010, định
hướng phát triển ngành công nghiệp này như sau:
▪ Đối với công nghiệp luyện kim đen (chủ yếu là thép): Cải tạo và xây dựng một số cơ sở luyện-cán
thép với qui mô vừa và nhỏ. Tiến hành khai thác mỏ sắt Thạch Khê (công suất dự kiến 10 triệu tấn
quặng/năm). Xây dựng tổ hợp luyện - cán thép ở miền Trung công suất 2 triệu tấn/năm (gắn với cảng nước
sâu thuận lợi cho vận tải qui mô lớn). Phấn đấu đến 2010, sản lượng thép đạt 7 - 8 triệu tấn. Liên doanh với
nước ngoài trong việc xây dựng các cơ sở luyện thép vụn và cán thép tại các vùng có điều kiện thuận lợi về
cảng, GT như: Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Quãng Ngãi, Biên Hịa,.v.v. Ngồi thép xây dựng, cần
chú trọng sản xuất các loại thép chế tạo, nhất là thép hợp kim phục vụ cơng nghiệp dân sinh và quốc phịng.
▪ Đối với cơng nghiệp luyện kim màu: khai thác bơxít ở Lâm Đồng, XD nhà máy luyện nhôm công
suất 15-20 vạn tấn/năm và một số nhà máy luyện nhôm (5,0-7,0 vạn tấn/năm) ở một số nơi thích hợp (gần
nguồn nguyên liệu, nguồn điện và nguồn nước). Có thể XD một tổ hợp, bao gồm thuỷ điện - khai thác bôxit
- luyện nhôm, để hỗ trợ nhau và đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.
▪ Về phân bố, CN LK và CB' kim loại phụ thuộc chủ yếu vào 2 yếu tố (nguyên liệu, nhiên liệu, động
lực) và thị trường tiêu thụ. Ở nước ta, các XN thường phân bố theo 2 hướng:
- Phân bố ngay trong vùng có tài nguyên. Đó là trường hợp khai thác và CB’ kim loại màu như thiếc
(Tĩnh Túc), Sơn Dương (Cao Bằng), Quỳ Hợp (Nghệ An).
- Phân bố gần thị trường có nhu cầu sử dụng kim loại. Đó là, việc xây dựng các nhà máy cán thép ở
Hải Phòng, Đà Nẵng, Bà Rịa, Biên Hồ, Cần Thơ, TP HCM. Cơng suất mỗi nhà máy từ 12,0-20,0 vạn
tấn/năm). Ngoài ra, KCN gang thép Thái Nguyên, Gia Sàng cũng được nâng công suất từ 10,0 vạn tấn lên
20,0 vạn tấn thép/năm. Sự phân bố tổng hợp theo hướng thứ 2 đã tạo ra mạng lưới CB' thép rộng khắp cả
nước.
3. CƠNG NGHIỆP CƠ KHÍ
a. Vai trị. Cơng nghiệp cơ khí có nhiệm vụ cung cấp toàn bộ trang - thiết bị phục vụ cho nền
KTQD, AN-QP và đời sống nhân dân. Nó đảm bảo việc SX công cụ, thiết bị, máy động lực cho tất cả các
ngành sản xuất, kể cả sản xuất HTD cho nhu cầu của xã hội. Vì vậy, cùng với ngành cơng nghiệp luyện kim,
cơng nghiệp cơ khí được coi là ngành trung tâm-chủ đạo-then chốt trong ngành công nghiệp, là “Máy cái
của nền sản xuất xã hội”. Với nước ta, trước yêu cầu của sự nghiệp CNH và HĐH, công nghiệp cơ khí phải
đủ mạnh để thực hiện các nội dung của cuộc cách mạng công nghiệp, phải từng bước trang bị kỹ thuật tiên
tiến, hiện đại, tăng nhanh NSLĐ, để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nền kinh tế.
b. Tình hình phát triển và phân bố
▪ Sự phát triển.
- Tiền thân của ngành cơng nghiệp cơ khí là các nghề thủ cơng tạo ra cơng cụ sản xuất, các binh
khí... phục vụ công cuộc dựng nước và giữ nước. Nếu hiểu theo cách này, thì nghề rèn, đúc đã xuất hiện từ
rất lâu đời, dưới thời Hùng Vương. Đây là thời “Văn minh sông Hồng” của nước Văn Lang. Mở đầu là thời
kỳ này là giai đoạn Phùng Nguyên (cách đây 4.000 năm). Tiếp theo là giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun, Đơng
Sơn (cách đây gần 3.000 năm). Đặc trưng của nó là chuyển từ thời kỳ đồ đá sang sơ kỳ đồng thau, rồi trung
kỳ và hậu kỳ đồng thau phát triển rực rỡ với đỉnh cao là văn hóa Đơng Sơn (tiêu biểu là trống đồng Ngọc
Lũ). Các công cụ bằng đá nhường chỗ cho đồng thau, dẫn đến những biến đổi sâu sắc về sản xuất, xã hội,
chấm dứt thời kỳ nguyên thủy và bước sang thời kỳ có giai cấp và nhà nước.
- Dưới thời Pháp thuộc. Mặc dù trong suốt quá trình lịch sử lâu dài, tuy các nghề này được phát
triển, nhưng chưa thể tạo ra được ngành cơ khí (theo đúng nghĩa của nó). Cũng trong thời Pháp thuộc, khi
mà ngành cơng nghiệp cơ khí trên TG đã phát triển ở trình độ cao, thì ở nước ta do chính sách đơ hộ của
thực dân, ngành cơ khí rất nhỏ bé, chưa có chức năng chế tạo máy móc, thiết bị; chỉ đóng khung ở mức độ
sửa chữa, lắp ráp một số phương tiện nhỏ như nhà máy xe lửa Gia Lâm (Hà Nội), Tràng Thi (Nghệ An), Dĩ
An (phụ cận Sài Gòn), sửa chữa tàu biển ở Ba Son (Sài Gòn). Lớn nhất là xưởng Ba Son với trang thiết bị
tương đối khá và đội ngũ công nhân tương đối lành nghề.
- Sau 1954, ở miền Bắc: Dựa vào cơ sở cơ khí từ căn cứ kháng chiến chuyển về, được sự giúp đỡ
của Liên Xô (cũ), năm 1958 chúng ta xây dựng ở Hà Nội nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo (chuyên sản xuất
động cơ các loại), sau đó là nhà máy cơ khí cơng cụ số 1 (chun sản xuất các máy công cụ hạng nhẹ và
hạng nặng), nhà máy này được coi là đứa con đầu lịng của ngành cơng nghiệp cơ khí ở miền Bắc lúc bấy
giờ. Tiếp theo, một số nhà máy cơ khí chuyên ngành cũng ra đời (cơ khí thiết bị mỏ, cơ khí lâm nghiệp, cơ
khí nơng nghiệp, cơ khí dệt...). Như vậy, từ chỗ hầu như với 2 bàn tay trắng (ngoại trừ xưởng sửa chữa xe
lửa Gia Lâm, Tràng Thi và xưởng sửa chữa tàu thủy ở Hải Phòng), sau một thời gian ngắn đã phát triển
thành một ngành với cơ cấu đa dạng từ chế tạo-sửa chữa; từ lắp ráp-sản xuất hoàn chỉnh các máy công cụ,
phương tiện vận tải; từ sản xuất đơn lẻ đến thiết bị toàn bộ. Một số xí nghiệp quan trọng hàng đầu đã và
đang phát huy tác dụng trong sản xuất và QP gồm: (1) Nhà máy công cụ số 1 Hà Nội, chuyên SX máy cơng
cụ. (2) Nhà máy cơ khí trung tâm Cẩm Phả-Quảng Ninh, chuyên sản xuất phương tiện và thiết bị khai thác
mỏ. (3) Nhà máy đóng tàu Hạ Long (Quảng Ninh) chuyên đóng tàu trọng tải 3.000tấn. (4) Nhà máy sửa
chữa tàu viễn dương Phà Rừng - Quảng Ninh. (5) Nhà máy cơ khí Sơng Cơng (Thái Ngun) sản xt động
cơ điêzen và hàng loạt các nhà máy khác như nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo (Hà Nội), nhà máy biến thế,
thiết bị lạnh (Hà Nội), nhà máy sản xuất máy bơm nước Hải Dương.v.v. Ở miền Nam, ngành này chủ yếu là
gia công, sửa chữa, lắp ráp các thiết bị lẻ phục vụ đời sống như xe máy, máy khâu, tủ lạnh, máy thu thanh...
Cơ khí chế tạo hầu như vắng mặt.
- Từ sau 1975 đến nay. Tuy có những bước thăng trầm, nhưng ngành này đã phát triển tương đối
tồn diện, có sự CMH’ theo một số ngành cần thiết. Từ chỗ nặng về sửa chữa, đến nay chúng ta đã có ngành
cơ khí chế tạo với trình độ phức tạp như SX máy cơng cụ chính xác, cơ khí điện tử... Chúng ta đã có thể tự
chế tạo được nhiều loại máy công cụ loại vừa và nhỏ cùng các thiết bị chuyên ngành (thiết bị điện, máy bơm
các loại, máy kéo ...). Bên cạnh đó, đội ngũ thợ lắp ráp lành nghề đạt trình độ cao, đủ sức lắp ráp các máy
móc, thiết bị kỹ thuật hiện đại như (thiết bị thuỷ điện-nhiệt điện, thiết bị cho các nhà máy xi măng, dàn
khoan dầu khí, lắp ráp xe hơi, các thiết bị điện tử vi mạch phức tạp). Cùng với việc xây mới, chúng ta tiếp
tục cải tạo, củng cố và bổ sung thiết bị nhằm nâng cao năng lực của ngành. Ở miền Nam, có 4 trung tâm cơ
khí lần lượt được nâng cấp với trang thiết bị kĩ thuật tiên tiên là TP HCM, Biên Hịa, Đà Nẵng và Cần Thơ.
Bảng 3.11. Tình hình sản xuất một số sản phẩm của ngành cơng nghiệp cơ khí từ 1995 - 2008.
Sản phẩm
ĐV tính
1995
2000
2005
2008
Máy kéo và xe v/chuyển
Cái
2709
1932
10223
3325
Máy tuốt lúa có động cơ
Cái
1482
11877
19529
18230
Máy tuốt lúa khơng có đ/cơ
Cái
34916
7061
6993
3161
Máy bơm nơng nghiệp
Cái
547
3496
8298
2196
Nơng cụ cầm tay
Cái
1358
4121
3839
21197
Động cơ điêzen
Cái
4217
30329 201593 275236
Máy nơng cụ
Cái
1358
4121
3839
3045
Máy xay xát
Cái
2043
12484
2734
5685
Máy biến thế
Cái
6186
13535
45540
46915
Quạt điện
Nghìn cái
369,2
328,4 1751,7 3609,0
Ơ tơ lắp ráp
Cái
3524
13547
59152 100076
Xe máy lắp ráp
Nghìn cái
62,0
463,4 1982,1 2880,2
Ti vi lắp ráp
Nghìn cái
770,0 1013,1 2515,3
366,7
Radio lắp ráp
Nghìn cái
111,0
144,7
24,9
40
Tuy nhiên, trong những năm đầu đổi mới, ngành gặp nhiều KK do chưa thích nghi được với cơ chế
thị trường, SX có chiều hướng giảm sút, một số SP không tiêu thụ được (do chất lượng kém và khơng đủ
sức cạnh tranh với hàng nước ngồi), SP làm ra chỉ phục vụ thị trường trong nước. Nguyên nhân chính là do
chúng ta cịn chậm đổi mới trong cơng nghệ, máy móc thiết bị cũ, sản phẩm làm ra từ cơ chế bao cấp, khơng
kích thích sự sáng tạo, chưa quan tâm đến nhu cầu tiêu thụ từ thị trường trong và ngồi nước, chương trình
đào tạo và đào tạo lại đã xơ cứng, khơng thích hợp với nhu cầu và sự phát triển của kỹ thuật, chính sách phát
triển chưa phù hợp, thiếu cụ thể. Nhưng với sự mở cửa của cơ chế thị trường, ngành cơ khí đã dần dần thích
nghi và tận dụng được những thế mạnh vốn có của mình. Một trong những lợi thế đó là LLLĐ có tay nghề
và giá lao động tương đối rẻ. Đội ngũ cán bộ kĩ sư và công nhân kỹ thuật trong ngành đã được nâng cao về
trình độ đã qua thử thách trong chiến tranh và trong thực tiễn XD đất nước. Mặt khác, ngành cũng đã liên
doanh với nước ngoài trong các lĩnh vực lắp ráp máy điện tử phục vụ nhu cầu truyền thông cho nhân dân,
SX máy động lực, máy nông nghiệp, lắp ráp xe hơi, xe máy, các loại máy dân dụng,... Tuy vậy, cho đến nay
việc phát triển của ngành này vẫn chưa tương xứng với vai trị của nó trong nền kinh tế quốc dân, mặc dù có
sự gia tăng về GTSL, nhưng vị trí của ngành trong cơ cấu CN có chiều giảm sút.
▪ Sự phân bố. Nhìn chung, sự phân bố của ngành cơng nghiệp cơ khí đã có nhiều chuyển biến và có
xu hướng hợp lý hơn. Quá trình phát triển của ngành đã để lại một mạng lưới xí nghiệp được phân bố theo 2
xu hướng:
- Xu hướng (1) XD những trung tâm cơ khí mạnh, đóng vai trò hạt nhân trang bị KT cho một lãnh
thổ nhất định, giữa các trung tâm này đã hình thành các mối liên hệ về sản xuất. Cụ thể:
+ Hà Nội và TP HCM là 2 trung tâm chế tạo máy móc, cơng cụ sản xuất lớn nhất cả nước. Đây cũng
là 2 trung tâm nghiên cứu KH - KT, có 2 trường Đại học bách khoa và các Viện nghiên cứu chuyên ngành,
sản phẩm làm ra có ý nghĩa tồn quốc.
+ Các Tp cơng nghiệp (Thái Ngun, Hạ Long-Cẩm Phả, Hải Phịng, Đà Nẵng, Biên Hồ, Cần Thơ,
Thanh Hoá, Nam Định, Vinh...) là các trung tâm thường chỉ có 1-2 chức năng về cơ khí hoặc CMH’ sâu
trong sản xuất dựa vào thế mạnh của vùng (ví dụ: Hải Phịng với cảng biển, cơ khí đóng và sửa chữa tàu. Hạ
Long-Cẩm Phả là than, cơ khí và vận tải mỏ...)
- Xu hướng (2) là xu hướng phát triển trải rộng đều khắp các tỉnh để phục vụ nhu cầu tại chỗ với các
ngành cơ khí nơng nghiệp (sản xuất thiết bị, sửa chữa); cơ khí sửa chữa phương tiện vận tải (ô tô, tàu sông)
và tham gia vào sản xuất HTD.
c. Định hướng phát triển. Trong tương lai cần chú trọng đến cơng nghiệp cơ khí chế tạo:
- Chế tạo các dây truyền thiết bị đồng bộ như máy xát gạo; sản xuất bột mì và mì ăn liền; chế biến
đường, chè, cà phê, rau quả, nước giải khát, sản xuất xi măng, gạch ngói. Phát triển cơ khí tiêu dùng; cơ khí
nặng và cơ khí chính xác. Đẩy mạnh sản xuất các loại động cơ và thiết bị điện, tiến tới xuất khẩu một số
thiết bị và sản xuất phẩm của cơ khí chế tạo.
- Phát triển mạnh cơ khí đóng tàu và sửa chữa tàu lớn (cả tàu biển và quốc phòng); Cải tạo, mở rộng
các cơ sở đóng và sửa chữa tàu ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, TP HCM, Vũng Tàu; XD mới cảng
Dung Quất, Cam Ranh. Chọn 1-2 địa điểm liên doanh với nước ngồi để XD cơ sở đóng tàu biển có trọng
tải lớn.
- Bố trí lại các cơ sở CN cơ khí quan trọng ở đơ thị lớn (Hà Nội, Hải Phịng, TP HCM, Biên Hồ).
Các trung tâm khác ở Buôn Ma Thuột; Sơn La, Lai Châu; Thái Nguyên, Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang; Vinh,
Huế ; Cần Thơ... Có thể bố trí cơ khí vừa và nhỏ để phục vụ nhu cầu của các ngành chủ yếu là N – L - N và
đời sống của nhân dân.
4. CƠNG NGHIỆP HĨA CHẤT
a. Vai trị. Đây là ngành sử dụng tổng hợp các nguồn nguyên, vật liệu tự nhiên; các phế liệu; chất
thải của các ngành SX và đời sống để tạo ra nhiều sản phẩm mới mà các đặc tính của chúng nhiều khi khơng
có trong tự nhiên. Vai trị của nó được thể hiện: Cung cấp ngun liệu ban đầu hoặc bán thành phẩm cho
các ngành công nghiệp (đặc biệt là CN nhẹ). Với nông nghiệp, công nghiệp hố chất là địn bẩy để thực hiện
q trình hố học hố góp phần đưa nơng nghiệp phát triển với NS cao, chất lượng sản phẩm tốt hơn; về mặt
này, nó cung cấp những vật tư chiến lược như (thuốc trừ sâu, phân hố học, thuốc kích thích tăng trưởng
cho cây trồng-vật nuôi).
b. Tình hình phát triển và phân bố
▪ Về nguồn nguyên liệu, bao gồm cả nguồn nguyên liệu cơ vô cơ & hữu cơ. Nguồn nguyên liệu từ
nguồn gốc vô cơ, đó là các loại khống sản và ngun liệu có trên đất liền, thềm lục địa như Apatit, có ở
Cam Đường (Lào Cai), là mỏ có trữ lượng lớn, kéo dài trên 100km, hàm lượng P 2O5 cao, dễ khai thác. Các
mỏ phốt phát có ở Vĩnh Thịnh (Lạng Sơn), Núi Vân (Thái Nguyên), Ngân Sơn (Nghệ An), tuy trữ lượng
nhỏ, nhưng cũng là nguyên liệu tốt để sản xuất phân bón. Pyrit, là nguyên liệu để sản xuất H 2SO4, rất cần
thiết cho cơng nghiệp hố chất, ở miền núi phía Bắc có khá nhiều mỏ nhưng hạn chế về trữ lượng như Quản
Bạ (Hà Giang), Bình Nhai, Lũng Hồi (Thái Ngun), Bó Sinh (Sơn La), Nà Phèo (Lai Châu), Kim Bơi
(Hồ Bình), Giáp Lai (Phú Thọ). Muối biển ở miền Trung có tiềm năng rất lớn, hạt to, độ tinh khiết cao là
nguyên liệu cơ bản để sản xuất clo... Nguồn nguyên liệu từ nguồn gốc hữu cơ: Dầu khí là cơ sở cho cơng
nghiệp năng lượng, đồng thời nó là tiền đề để phát triển ngành hoá dầu. Thảm thực vật phong phú là điều
kiện để hình thành ngành hố chất hữu cơ và dược liệu nhiệt đới.
▪ Tình hình phát triển.
- Thời Pháp thuộc: ngành này chậm phát triển, chỉ có một vài xưởng ơxy và hàn hơi (Hải Phịng).
Sau đó là xưởng sản xuất đất đèn ở Lạng Sơn (1940), xưởng SX thuốc nổ (1941). Năm 1945 xây dựng
xưởng SX clorat pôtát và điều chế axit axêtic (từ gỗ), xilicat alumin (từ cao lanh) phục vụ cho công nghiệp
dược phẩm, đồng thời bắt đầu SX hoá chất cơ bản như NAOH (xút) và clo ở Hải Phịng. Ngồi ra có 2 nhà
máy nghiền phốt phát tự nhiên ở Hải Phòng và Mỹ Tho.
- Sau 1954: Ở miền Bắc: ngành này phát triển khá nhanh dựa trên cơ sở nguồn nguyên liệu tại chỗ
và nhu cầu to lớn trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Hàng loạt các nhà máy được xây dựng như về hóa
chất cơ bản có nhà máy hố chất Việt Trì, sản xuất NaOH, CL, HCL, thuốc trừ sâu, bột PVC; Thành phố
ngã ba sơng trở thành TTCN hóa chất quan trọng nhất ở miền Bắc. Một số XN dược phẩm hiện đại đã ra đời
ở Hà Nội cùng với các XN dược phẩm của quân đội và các địa phương. Để đẩy mạnh SXNN, nhiều nhà
máy SX phân hoá học được XD như: phốt phát ở Vĩnh Thịnh (Lạng Sơn), Hàm Rồng (Thanh Hoá), phân lân
nung chảy Văn Điển (Hà Nội), phân đạm (Bắc Giang), supe phốt phát Lâm Thao (Phú Thọ)... Ngồi ra cịn
có một số cơ sở SX qui mô nhỏ ở các tỉnh và các xưởng SX axit, bột, sơn, tinh dầu nhằm tận dụng nguồn
nguyên liệu tại chỗ và nguồn nhân lực sẵn của địa phương. Ở miền Nam, ngành này tương đối phát triển, có
nhiều cơ sở SX hố chất cơ bản, chất dẻo, xà phịng, dược phẩm, phân bón qui mơ vừa và nhỏ phân bố tập
trung ở Sài Gịn, Biên Hồ - phụ cận. Đáng chú ý là việc SX chất dẻo với ngun liệu nhập (có tới 30 xí
nghiệp), SX xà phịng và bào chế dược liệu (có 15 xí nghiệp lớn).
- Sau 1975 đến nay: ngành đã được tổ chức lại và đầu tư theo chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ,
xây dựng thêm một số cơ sở sản xuất mới. Nguồn nguyên liệu trong nước được sử dụng nhiều hơn. Hướng
sản xuất của ngành vẫn tập trung vào hoá chất cơ bản, phân hoá học, hoá chất tiêu dùng. Nhìn chung, sản
phẩm tăng khá nhanh đặc biệt từ sau 1990.
▪ Về phân bố: Ở phía Bắc, các cơ sở cơng nghiệp hố chất tập trung ở ĐB sơng Hồng với 2 trung
tâm lớn: Hà Nội và Việt Trì. Ở phía Nam có 2 trung tâm lớn là TP HCM và Biên Hoà. Ở miền Trung, tuy
nguồn nguyên liệu phong phú, song cơng nghiệp hố chất chưa phát triển.
Bảng 3.12. Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp hố chất từ 1995 - 2008.
ĐV tính
1995
2000
2005
2008
A xít H2SO4
Tấn
9768,0
36562
Xút NaOH
Tấn
7307,0
59097
Thuốc trừ sâu
Phân hóa học
Tấn
Nghìn tấn
15566,0
931,0
20948
12095
Sơn hóa học
Tấn
21081,0
54393
56067,0
107471,
0
45877,0
2189,5
206177,
0
64.966
76.895
65.433
2524,0
200.491
c. Định hướng phát triển
▪ Về phân bón: Tăng cường SX phân đạm từ khí thiên nhiên (đến 2010 phải đạt 1,5 triệu tấn urê).
Mở rộng nhà máy phân đạm Bắc Giang lên 35 vạn tấn/năm. XD nhà máy SX phân đạm từ khí thiên nhiên ở
Bà Rịa-Vũng Tàu cơng suất 60 vạn tấn/năm. Xây mới 1-2 nhà máy phân lân.
▪ Về hoá chất: Dự kiến xây dựng nhà máy SX sơđa cơng suất 8,0 vạn tấn/năm liên doanh với
Ơxtrâylia ở KCN Tuy Hạ. Sau năm 2000 sẽ xây dựng nhà máy SX xút (NaOH) công suất 4 vạn tấn/năm,
XD nhà máy lọc dầu gắn với hoá dầu. Các hoá chất cơ bản (xút, sôđa, các loại axit...) sẽ tập trung ở các
KCN đã có như (Việt Trì, Lâm Thao, Bãi Bằng), hoặc gần nguồn nguyên liệu đá vôi (Tràng Kênh), khơng
đưa các nhà máy vào các TP và có biện pháp chống gây ô nhiễm môi trường. Đẩy mạnh sản xuất hố chất
tiêu dùng (xà phịng, bột giặt, chế biến cao su, săm lốp xe đạp, xe máy, sơn...) ở từng vùng tiêu thụ. Tiến tới
sản xuất các loại hố chất phục vụ cơng nghiệp quốc phịng (thuốc nổ, thuốc phóng, cao su kỹ thuật và các
loại nhựa chuyên dụng).
5. CÔNG NGHIỆP SẢN XUẤT VẬT LIỆU XÂY DỰNG (CN VLXD)
a. Vai trị. Trong tồn bộ lĩnh vực XD kết cấu hạ tầng, thì VLXD có vai trị quan trọng hàng đầu.
Đây cũng là lĩnh vực mà từ bao đời nay, con người ln nghiên cứu, tìm tịi, sản xuất để tạo ra các vật liệu
bền, chắc đẹp trong xây dựng. Nước ta đang trong quá trình CNH’- HĐH, việc mở rộng các TTCN, các
KCX, hiện đại hoá kết cấu hạ tầng (đường sá, cầu cống, đê điều, đập nước, kho tàng, nhu cầu dân dụng
thành thị-nơng thơn)... Vì vậy nhu cầu về VLXD là rất lớn.
b. Tình hình phát triển và phân bố
▪ Nguồn nguyên liệu
CNSX VLXD bao gồm ngành SX xi măng, gạch ngói, vơi, thuỷ tinh, gốm, sứ, khai thác đá các loại,
cát, sỏi,... Nhìn chung đều có ở các địa phương.
Đá vơi để sản xuất xi măng có nhiều ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, diện tích ~ 6 vạn km 2, ở miền Nam có
ở một số nơi trữ lượng hạn chế. Các khu vực tập trung đá vôi với đất sét nguyên liệu là cơ sở cho việc hình
thành các nhà máy xi măng lớn như Hải Phịng-Quảng Ninh (đá vơi Tràng Kênh), khu vực phía nam Đồng
bằng sơng Hồng và Bắc trung Bộ, khu vực Đông Bắc, Tây Bắc với những khối đá vôi cánh cung đồ sộ, khu
vực đá vôi Hà Tiên. Sét để sản xuất gạch ngói có ở hầu khắp từ Bắc vào Nam. Loại có chất lượng cao thuộc
trầm tích Nêơgen (Giếng Đáy, Xích Thổ - Quảng Ninh), hay thuộc kỷ Đệ Tứ phổ biến ở đồng bằng, đây là
điều kiện thuận lợi để mở rộng sản xuất, kết hợp với nhu cầu của từng địa phương. Cao lanh là nguyên liệu
gốm sứ cao cấp, phân bố nhiều ở tả ngạn sông Hồng, Quảng Ninh, Hải Dương, Nghệ - Tĩnh, Quảng Bình,
Biên Hồ... Cát, sỏi có ở hầu khắp các vùng trung du, ven sông, ven biển. Riêng cát thuỷ tinh có hàm lượng
SiO2 trên 75%, tập trung ở Vân Hải (Quảng Ninh), Ba Đồn (Quảng Bình), Nam Ơ (Đà Nẵng), Thuỷ Triều
(Khánh Hoà). Nguồn nguyên liệu cho xây dựng từ lâm sản (gỗ, tre, nứa...) rất phong phú, đảm bảo cả chất
lượng, độ bền và có giá trị về mỹ thuật.
▪ Tình hình phát triển
Ngành này xuất hiện ở nước ta từ rất sớm, các di tích cịn để lại cách đây hàng ngàn năm; đó là các
lăng tẩm, thành quách, lâu đài cịn được bảo tồn như kinh đơ Phong Châu, Cố Loa, Hoa Lư, cho đến Thăng
Long, Huế... Dưới triều đại phong kiến: gạch nung đã ra đời thời nhà Lý (thế kỷ X-XII) di tích để lại ở
Trường Yên, Ninh Bình với hàng chữ khắc trên gạch nung “ Đại Việt quốc quân thành” và ở nhiều nơi
khác như chùa Phật Tích (1057)... Thời Pháp thuộc, một số các cơ sở SX VLXD đã ra đời, đáng kể nhất là
nhà máy xi măng Hải Phịng (1899) cơng suất 30 vạn tấn/năm. Ngồi ra, cịn một vài nhà máy gạch, ngói ở
ở Hà Nội, Đáp Cầu, Sài Gịn, vơi Long Thọ (Huế). Thời kỳ 1954-1975 và hiện nay, tuy mức độ phát triển có
khác nhau giữa 2 miền Nam-Bắc, song một số nhà máy cũng đã được XD ở nhiều nơi. Công nghiệp SX
VLXD đặc biệt khởi sắc từ sau đổi mới, nó được phát triển với nhịp độ nhanh vào nửa đầu thập kỷ 90, khi
nhu cầu về XD cơ bản tăng nhanh. Tốc độ tăng TB/năm 15% (gạch men sứ tăng 40%, xi măng tăng 24%).
▪ Các ngành sản xuất
- Ngành SX xi măng: năm 1985 sản lượng 1,5 triệu tấn, thì đến 1995 tăng lên 5,8 triệu tấn, năm 2008
là trên 40,0 triệu tấn. Nếu kể cả các nhà máy lị đứng ở các địa phương thì sản lượng còn cao hơn. Các nhà
máy lớn là: Xi măng Hải Phịng (XD từ cuối TK XIX), có thể coi đây là nhà máy xi măng đầu tiên của nước
ta, có nhiều đóng góp cho xây dựng đất nước; Xi măng Hà Tiên (1963), bao gồm 2 cơ sở phù hợp với 2
công đoạn: SX clanhke ở Kiên Lương (Kiên Giang) và nghiền clanhke chế thành xi măng thành phẩm ở Thủ
Đức (TP HCM), hiện nay nhà máy được nâng cấp và mở rộng. Ngoài 2 nhà máy ra đời sớm nhất (trên),
hàng loạt các nhà máy mới được xây dựng sau này như Bỉm Sơn (Thanh Hóa) do Liên Xô giúp đỡ nằm giữa
vùng nguyên liệu trù phú của dãy núi Tam Điệp và trên tuyến giao thông xuyên Việt, Hoàng Thạch do Đan
Mạch giúp đỡ nằm ở khu vực đá vôi Đông Triều, rất gần cảng Hải Phòng, tiếp theo lần lượt các nhà máy xi
măng cỡ lớn ra đời như Chinh Fong (Hải Phòng), Bút Sơn (Hà Nam), Sao Mai (Kiên Giang).v.v.
- Ngành sản xuất kính cũng phát triển mạnh dựa vào nguồn nguyên liệu dồi dào. Các xí nghiệp kính
phân bố ở Hải Phịng, Hải Dương, Đáp Cầu (lớn nhất là nhà máy kính Đáp Cầu). Ở miền Nam có ở Biên
Hồ và TP HCM.
- Ngành gốm-sành-sứ, là ngành truyền thống được phát triển khá sớm. Trong cơ chế thị trường
ngành gốm-sành-sứ xây dựng và trang trí phát triển khá nhanh. Các cơ sở phân bố chủ yếu ở Bát Tràng (Hà
Nội), Hải Dương, Móng Cái, Đồng Nai, Sông Bé (cũ).
- Gạch chịu lửa (là loại vật liệu mới) có ở Cầu Đuống, Tuyên Quang, Quảng Ninh). Bê tơng đúc sẵn
ở Xn Mai, Việt Trì và nhiều loại gạch men, đá ốp lát, tấm lợp ở nhiều nơi.
Bảng 3.13. Tình hình sản xuất một số sản phẩm của ngành công nghiệp VLXD từ 1995 - 2008.
ĐV tính
1995
2000
2005
2008
Thủy tinh
Nghìn tấn
77,0
113,1
163,1
257,5
Sứ dân dụng
Triệu cái
187,0
247,1
513,6
418,1
Sứ cơng nghiệp
Nghìn cái
6000,0 6000,0
3581,0
4946,0
Gạch nung
Triệu viên 6892,0 6892,0 16530,0 18278,0
Ngói nung
Triệu viên
561,0
561,0
526,6
480,9
Xi măng
Nghìn tấn
Tấm lợp
Kính xây dựng
Đá khai thác
Nghìn m2
Nghìn m2
Nghìn m3
Vơi
Cát, sỏi
Nghìn tấn
Nghìn m3
5828,0
14791,
0
4751,0
10657,
0
1041,0
14363,
0
5828,0
14791,
0
4751,0
10657,
0
1041,0
14363,
0
30808,0 40047,0
203411,
0 92830,0
74767,0 74977,0
70836,0 101606,0
1737,3
66444,0
1679,4
66822,0
▪ Ngun nhân dẫn tới sự phát triển nhanh của ngành SXVLXD: Đó là do sự chú ý đầu tư về vốn-kỹ
thuật từ trong nước và sự hợp tác liên doanh với nước ngồi có hiệu quả, đã khắc phục được tình trạng lạc
hậu về kỹ thuật. Hệ thống chính sách đối với việc sản xuất VLXD hợp lý, kịp thời, tạo điều kiện mở ra
nhiều loại hình sản xuất với qui mơ khác nhau có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển.Thị trường tiêu thụ
rộng lớn. Chính yếu tố thị trường đã tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến qui mô và tốc độ của ngành công
nghiệp sản xuất VLXD.
c. Các vùng sản xuất vật liệu xây dựng
▪ Vùng SXVLXD Bắc Bộ (từ Thanh Hoá trở ra): vùng này tập trung hàng loạt các nhà máy xi măng,
gạch công nghiệp, gốm ceramic và sứ vệ sinh dựa vào nguồn nguyên liệu tại chỗ phong phú và thị trường
tiêu thụ rộng, đồng thời là vùng sản xuất VLXD lớn nhất cả nước. Vùng vùng tập trung 11 nhà máy, gồm
Hải Phòng 0,4 triệu tấn/năm; Tràng Kênh - Chinh Fong (Hải Phòng) 1,4 triệu tấn/năm; Hoàng Thạch (I, II)
2,3 triệu tấn; Phúc Sơn 1,8 triệu tấn; 3 nhà máy của Quảng Ninh (Lang Bang A, B và Hạ Long) 4,5 triệu tấn;
Bút Sơn I, II (Hà Nam) 2,8 triệu tấn; Tam Điệp (Ninh Bình) 1,2 triệu tấn; Bỉm Sơn I, II, III (Thanh Hoá) 2,3
triệu tấn; Nghi Sơn (Thanh Hoá) 2,3 triệu tấn. Các loại vật liệu khác như gạch, gốm ceramic, sứ vệ sinh,
kính XD ở Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Ngun, Hải Dương, Thái Bình; Trong số này có 3 xí nghiệp sứ vệ sinh
(30 - 50 vạn sản phẩm/năm), 5 xí nghiệp gạch gốm (TB/nhà máy > 1,0 triệu m 2). Riêng nhà máy gạch Giếng
Đáy (Quảng Ninh) 3,0 - 4,5 tỉ viên/năm và xí nghiệp kính Đáp Cầu 28 triệu m2/năm.
▪ Vùng SXVLXD Trung Bộ (Nghệ An – Bình Thuận): Về nguồn ngun liệu vùng có thế mạnh lớn
về cát thuỷ tinh. Về sản xuất xi măng, hiện nay mới chỉ có xi măng Hồng Mai (Nghệ An), là lớn nhất, tiếp
đến là Thành Mỹ (Đà Nẵng) 1,5 triệu tấn/năm và Vân Xa (T-T- Huế) 0,5 triệu tấn/năm. Số cịn lại là 5 trạm
nghiền clanhke, qui mơ nhỏ, có ý nghĩa địa phương. Gạch men ceramic và sứ vệ sinh có ở Đà Nẵng, Huế.
Trong đó, gạch gốm-sứ (công suất ~3 triệu m2/năm). Sứ vệ sinh (~30 vạn sản phẩm).
▪ Vùng SXVLXD Nam Bộ. Về xi măng: Từ 2 cơ sở cũ SX clanhke và nghiền xi măng ở cách xa
nhau, từ Hà Tiên (Kiên Giang) về Thủ Đức (TP HCM), vùng đang nâng cấp các nhà máy cũ và XD thêm
một số nhà máy mới: Kiên Lương 1 (từ 1,0 triệu tấn lên 1,3 triệu tấn/năm) và XD mới nhà máy xi măng Sao
Mai (Kiên Giang) công suất 1,76 triệu tấn/năm (liên doanh với Thuỵ Sĩ), một phần clanhke được đưa về
nghiền ở Vĩnh Long (0,1 triệu tấn), Cần Thơ (0,2 triệu tấn), Phước Thắng (Vũng Tàu) 0,5 triệu tấn, Thủ Đức
1,2 triệu tấn, Bình Diễn (TP HCM) 0,2 triệu tấn. Hạn chế lớn nhất của vùng là nguồn ngun liệu (đá vơi)
rất ít, chỉ có ở Hà Tiên. Sản xuất gạch, gốm, sứ vệ sinh, dựa vào nguồn nguyên liệu tại chỗ, kết hợp với việc
du nhập kĩ thuật, trong vùng có một số cơ sở SX gạch gốm, sứ vệ sinh và phân bố chủ yếu ở TP HCM, Bình
Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Long An, Cần Thơ (mỗi tỉnh có 1 xí nghiệp).
d. Định hướng phát triển. Theo Qui hoạch tổng thể phát triển KT-XH đến 2010, ngành sản xuất
VLXD cần tập trung vào một số điểm sau
- Phát triển rộng rãi các VLXD thông thường ở các địa phương và tiến tới SX các VLXD cao cấp.
Xây dựng mới một số nhà máy xi măng ở những nơi có điều kiện thuận lợi, nâng sản lượng (2010) lên 30
triệu tấn/năm (chú ý đến nhu cầu của thị trường và chất lượng sản phẩm).
- Về phân bố: công nghiệp SX xi măng đòi hỏi khối lượng nguyên liệu lớn (gấp 1,8-2,0 lần sản
phẩm). Vì thế, các nhà máy có cơng suất từ ≥ 1,0 tr.tấn phải bố trí gần vùng nguyên liệu (từ Quảng Bình trở
ra Bắc: Hồng Mai, Nghi Sơn, Bỉm Sơn, Tam Điệp, Bút Sơn, Tràng Kênh, Hoành Bồ, Hoàng Thạch...). Ở
miền Nam tập trung ở khu vực Kiên Lương-Ba Hịn (K.Giang).
6. CƠNG NGHIỆP CHẾ BIẾN LƯƠNG THỰC – THỰC PHẨM (CNCB’ LT-TP)
a. Vai trò. CNCB’LT-TP dựa chủ yếu vào nguồn nguyên liệu từ ngành trồng trọt-chăn nuôi-thuỷ hải
sản nhằm đáp ứng nhu cầu ăn uống của xã hội. Trong xã hội, cái ăn của con người có tầm quan trọng đặc
biệt, con người cần dinh dưỡng cho sức khoẻ. Ngồi ra, nó cịn giải phóng cho con những người nội trợ
thoát khỏi cảnh phụ thuộc vào bếp núc cổ truyền; Thơng qua qui trình cơng nghệ, ngành CNCB’ sẽ đảm
nhận nhiệm vụ CB’ LT-TP nhờ đó mà sản phẩm thêm hấp dẫn, chất lượng tốt hơn và rất thuận tiện cho bảo
quản vận chuyển trên thị trường cả trong và ngoài nước. Xét về mặt kinh tế, ngành này cần ít vốn đầu tư,
quay vịng vốn nhanh, tăng tốc độ tích luỹ cho nền kinh tế. Mặt khác, nếu chế biến tốt, sản phẩm đa dạng sẽ
là nguồn hàng xuất khẩu có giá trị. Đây cũng là một trong những ngành CNTĐ của nhà nước. Tuy nhiên, do
sự khó khăn trong chế biến, ngành mới chiếm 30% - 36% GTSLCN và 60% giá trị kim ngạch xuất khẩu.
b. Tình hình phát triển và phân bố ngành CNCB LT - TP
▪ Tình hình phát triển. Sự hình thành và phát triển ngành này dựa vào 2 yếu tố: nguồn nguyên liệu
và thị trường tiêu thụ. Về nguồn nguyên liệu, nước ta rất phong phú từ nông - lâm (các vùng chuyên canh
lúa, gạo, cây CN, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc trên qui mô lớn). Về thị trường, dân số nước ta đông, nhu
cầu về sản phẩm đa dạng; nhu cầu trên thế giới cũng rất lớn.
- Thời Pháp thuộc, đã xuất hiện một số cơ sở CB’ thủ công, qui mô nhỏ như các XN xay xát ở Chợ
Lớn - Sài Gịn ngun liệu từ Đồng bằng sơng Cửu Long. Công nghiệp rượu bia cũng phát triển ở một số
thành phố lớn nằm giữa vùng lúa như Hà Nội và Sài Gòn
- Từ 1954 - 1975, cả 2 miền đều tập trung vào xây dựng và phát triển ngành này dựa vào nguồn
nguyên liệu sẵn có.
Ở miền Nam đã xây dựng hàng loạt các XNCB' biến đường, hoa quả, đồ hộp, thuốc lá, sữa hộp phục
vụ cho quân Mỹ và chư hầu thời đó. Tuy nhiên, chiến tranh càng ác liệt, bom đạn, chất độc hoá học đã làm
cho các vùng nguyên liệu bị thu hẹp, vì vậy các cơ sở CNCB’ lại dựa chủ yếu vào nguồn nguyên liệu nhập
(đường thô, sữa thô).
Ở miền Bắc, để đảm bảo đủ nguồn nguyên liệu cho CNCB’. Chúng ta đã hình thành một số vùng
nguyên liệu như gắn với CNCB’ như: Các vùng mía Phú Xuyên (Hà Tây); Vĩnh Lạc-Lâm Thao (Vĩnh Phú);
Thanh Chương, Đô Lương (Nghệ An); Thọ Xuân (Thanh Hoá). Các vùng chè ở Yên Bái, Phú Thọ, Thái
Nguyên, Mộc Châu (Sơn La), Hà Giang, Tuyên Quang, và tây Thanh Hoá-tây Nghệ An. Các vùng lạc ở
Nghệ An, Hà Bắc. Các vùng thuốc lá ở Thanh Hố, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Bắc. Các xí nghiệp chăn nuôi
kiểu công nghiệp cũng ra đời chủ yếu ở xung quanh các thành phố lớn như Đông Anh, Cầu Diễn, Từ Liêm
cùng với các khu vực trồng rau-hoa-cây ăn quả tại vùng này, ít nhiều đã tạo ra các vành đai thực phẩm ngoại
thành.
- Từ 1975 - nay, đặc biệt là từ sau đổi mới, các vùng chuyên canh, các ngành chăn nuôi gia súc, gia
cầm, thuỷ hải sản phát triển mạnh, đạt hiệu quả kinh tế cao, phân bố rộng khắp các vùng lãnh thổ. Chất
lượng các mặt hàng đã được nâng cao, cùng với mạng lưới các xí nghiệp CB’ LT-TP từ trồng trọt, chăn ni
và thủy sản được hình thành. Sự phân bố đã trải rộng ra nhiều khu vực khác gắn với vùng nguyên liệu và thị
trường tiêu thụ.
Nhìn chung, sản phẩm của ngành tuy có tăng nhưng mức độ tăng có khác nhau. Ngành CNCB’ phát
triển vẫn chưa tương xứng với việc mở rộng các vùng nguyên liệu. Cơ cấu ngành vẫn tập trung chủ yếu
trong các ngành truyền thống, kỹ thuật chưa thật sự đổi mới.
▪ Về phân bố: Ngành này được phân bố mang tính qui luật nhưng việc phân bố cũng tương đối linh
hoạt tùy thuộc vào tính chất của nguồn nguyên liệu (nhất là nguyên liệu tươi sống, dễ hư hỏng). Vì thế, số
đơng các xí nghiệp sơ chế đều bám vào vùng ngun liệu; Trong khi đó, các xí nghiệp chế biến thành phẩm
lại có xu hướng phân bố ngay trong vùng tiêu thụ (kể cả những ngành dựa vào nguồn nguyên liệu nhập). Về
phương diện tổ chức lãnh thổ, thì chất lượng của sản phẩm CB' là tiêu chuẩn để đặt hàng với bên SX nguyên
liệu.; hiện nay các hình thức liên kết nơng-cơng nghiệp (giữa một bên sản xuất nguyên liệu với một bên là
các XNCB') ngày càng phát triển đã đảm bảo chất lượng cao của sản phẩm. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa
vùng nguyên liệu và nơi chế biến là tương đối linh hoạt, có thể ở ngay vùng nguyên liệu, hoặc chỉ sơ chế ở
vùng nguyên liệu, còn chế biến thành phẩm cuối cùng ở ngoài vùng nguyên liệu.
c. Các ngành CNCB’LT -TP
- CNCB’ sản phẩm trồng trọt: Bao gồm các ngành xay xát gạo và chế biến các loại nguyên liệu
khác thành đường, bánh kẹo, rượu bia, nước giải khát, chè, thuốc lá, trong đó ngành xay xát gạo có qui mơ
lớn và phân bố rộng khắp.
+ Ngành công nghiệp xay xát phát triển mạnh mẽ và có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh. Năm
1985, sản lượng gạo, ngô xay xát chỉ đạt 6,3 triệu tấn, thì đến 1990 đã tăng lên 8,0 triệu tấn, năm 1995 là
15,6 triệu tấn và năm 2005 tăng lên 29,62 triệu tấn. Hiện nay cả nước có trên 30 xí nghiệp xay xát quốc
doanh qui mơ lớn (không kể các trạm xay xát nhỏ). Ở miền Nam, các cơ sở này phân bố rộng khắp, song
những xí nghiệp hiện đại tập trung ở TP HCM, Cần Thơ, Đồng Tháp... Ở miền Bắc, lớn hơn cả là các nhà
máy xay xát ở Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hàm Rồng (Thanh Hố).
+ Cơng nghiệp đường mía cũng đã hình thành từ lâu với nguồn nguyên liệu dồi dào tại chỗ. Năm
1995 cả nước có 22,48 vạn ha trồng mía, sản lượng mía cây 10,7 triệu tấn. Đến năm 2005, diện tích 28,8
vạn ha, sản lượng 16,7 triệu tấn mía cây. Các vùng nguyên liệu tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long,
Đông Nam Bộ và DH Nam Trung Bộ. Sản lượng đường (đường kính) năm 1985 là 46,6 ngàn tấn, đến 1995
tăng lên 93,0 ngàn tấn, năm 1999 là 208,4 ngàn tấn và năm 2005 là 1032,0 ngàn tấn. Vào đầu thế kỷ XXI
này cả nước có 41 nhà máy đường, mạng lưới các nhà máy đường được phân bố rộng khắp từ Bắc-Nam
(Việt Trì, Vạn Điểm, Sao Vàng, Sơng Lam và nhiều nhà máy đường ở các tỉnh P.Nam). Vấn đề đặt ra đối
với ngành mía đường hiện nay là đảm bảo cân đối giữa vùng nguyên liệu với CSCB’ để đảm bảo hiệu quả
kinh tế cao.
+ Công nghiệp rượu, bia, nước ngọt phát triển với tốc độ nhanh do nhu cầu ngày càng tăng của nhân
dân. Về sản xuất bia, năm 1985 mới có ~ 86,6 ngàn lít, thì 10 năm sau (1995) sản lượng đã tăng lên 465,0
ngàn lít và năm 2005 là 1,46 triệu lít. Về sản xuất rượu: sản lượng rượu (rượu trắng, rượu mùi) năm 1985 là
35,3 triệu lít, năm 1995 là 51,37 triệu lít và năm 2005 là 221,09 triệu lít. Từ 2 trung tâm là Hà Nội và Sài
Gòn trước đây, ngành rượu-bia-nước giải khát đã mở rộng sang các trung tâm khác như Thái Nguyên, Hạ
Long, Hải Phịng, Hải Dương, Thanh Hóa, Vinh, Huế, Đà Nẵng...hầu như tỉnh nào cũng có.
+ CNCB’ chè. Ngành chế biến chè tập trung chủ yếu ở TDMN’PB’. Ở miền Nam chỉ tập trung ở 2
tỉnh là Gia Lai (với các XNCB' Bàu Cạn, Đắc Doa, Biển Hồ) và ở Lâm Đồng (Cầu Đất, Bảo Lộc). Sản
lượng chè tăng khá nhanh, nhất là những năm gần đây. Năm 1985 (20.500 tấn), 1995 (24.239 tấn), năm
1999 (63.697 tấn), năm 2005 là (127.236 tấn), năm 2008 (200.147 tấn)
+ SX thuốc lá tập trung chủ yếu ở các TP lớn: Hà Nội, TP HCM và các Tp khác (Hải Phịng, Thanh
Hóa, Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt). Sản lượng có sự dao động, nhưng nhìn chung vẫn có xu hướng tăng,
năm 1995 (2.147 tr.bao), 2005 (4.484,7 tr.bao), 2008 (4412,6 triệu bao)
+ Ngành CB' dầu thực vật gắn với cơ sở nguyên liệu từ sản phẩm của các cây có dầu như lạc, vừng,
hồi, bạc hà, tập trung ở TP HCM, Bến Tre, Vinh, Lạng Sơn,.v.v. Sản phẩm của ngành ngày nay đa dạng
hơn, đã đứng vững trên thị trường nội địa. Sản lượng dầu thực phẩm tăng nhanh, năm 1985 (19.125 tấn,
năm 2005 (371.500 tấn), 2008 (642.500 tấn)
+ CB’ sản phẩm đồ hộp, rau quả phát triển mạnh ở các TP gần vùng nguyên liệu, phục vụ nhu cầu
trong nước và xuất khẩu. Sản lượng khơng thật ổn định (tuy có tăng), năm 1985 (12.800 tấn), 1995 (12.784
tấn), 1999 (13.868 tấn), năm 2005 (72.789 tấn), năm 2008 (89.298 tấn)
- CNCB’ sản phẩm chăn ni. Đây là ngành chưa được phát triển, nó vẫn là ngành thứ yếu so với
ngành trồng trọt trong cả nước hiện nay. CNCB’ sản phẩm của ngành chăn nuôi kém hơn về sự đa dạng của
các loại sản phẩm cuối cùng và mức độ phát triển. Hiện nay đã có các xí nghiệp CB' thịt hộp ở Hà Nội và
TP HCM. Các xí nghiệp CB' sữa tập trung ở một số khu vực như Mộc Châu, Ba Vì... (nơi có cơ sở chăn
ni bị sữa). Sản lượng sữa hộp năm 1985 (24 triệu hộp), 1990 (58,2 triệu), năm 1995 (173 triệu), 1999
(207 triệu), 2005 (364,1 triệu), năm 2008 (388,4 triệu hộp). Ngồi ra, cịn có các cơ sở nhỏ CB' các SP từ
thịt (lạp sườn, dăm bơng, bít tết...).
- CNCB’ thủy, hải sản. Đây là ngành truyền thống đã có từ lâu đời nhằm cung cấp nguồn đạm động
vật từ sông biển. Cơ sở nguyên liệu của ngành dựa vào nghề đánh bắt - nuôi trồng thủy hải sản. Sản lượng
thủy sản các loại tăng rất nhanh: năm 1995, sản lượng thuỷ sản là 1584,3 ngàn tấn (cá biển đạt 722,1 ngàn
tấn, tôm nuôi 55,3 ngàn tấn, cá nuôi 209,1 ngàn tấn), năm 2005 sản lượng tương ứng là: 3.465,9 ngàn tấn
(1.367,5 ngàn tấn - 327,2 ngàn tấn - 971,1 ngàn tấn), năm 2008: 4,6 triệu tấn (1,47 triệu tấn - 388,4 ngàn tấn
- 1,86 triệu tấn), đây chính là nguồn nguyên liệu đủ để cung cấp cho ngành CNCB’ phát triển. Trước đây
ngành này chỉ xoay quanh việc SX nước mắm, cá khô, tôm, cá mắm; nay đã phát triển thêm nhiều loại hình
sơ chế và CB’ thủy sản theo phương pháp công nghiệp như cá hộp, sản phẩm đông lạnh, bột cá.
Nghề làm nước mắm và mắm các loại, sản phẩm đặc trưng của Việt Nam, phổ biến từ Bắc-Nam.
Hầu hết những vùng đánh cá, có nghề muối đều sản xuất nước mắm. Những vùng sản xuất mắm ngon nổi
tiếng trên thị trường nội địa và quốc tế như Cát Hải (Hải Phịng), Phan Thiết (Bình Thuận) và Phú Quốc
(Kiên Giang). Sản lượng (2008) 212,5 triệu lít, một phần đã được xuất khẩu (nhất là thị trường Tây Âu với
nước mắm cá cơm). Ngành CB’ tôm đông lạnh và các đặc sản biển khác (bào ngư, hải sâm, sò huyết...) mới
phát triển, nhưng có tốc độ nhanh nhờ khai thác được thị trường trong và ngoài nước. Hiện nay cả nước có
vài chục xí nghiệp đơng lạnh trải dọc vùng duyên hải suốt từ Bắc vào Nam. Nghề làm muối, có ở hầu hết
các tỉnh ven biển. Các cơ sở lớn Cà Ná (Ninh Thuận), Văn Lý (Nam Hà) Sa Huỳnh (Quảng Ngãi); sản
lượng lên - xuống thất thường, cao nhất năm 1988 (85,0 vạn tấn), thấp nhất năm 2000 (59,0 vạn tấn), gần
đây dao động ở mức gần 90,0 vạn tấn/năm
Bảng 3.14. Sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp chế biến lương thực – thực phẩm
Đơn vị tính
1995
2000
2005
2008
Bia
Triệu lít
465,0
779,1
1460,6
1849,9
Bột ngọt (ĐTNN)
Nghìn tấn
65,0
454,4
244,7
285,8
127236,
Chè chế biến
Tấn
24239,0 70129,0
200147
0
Đậu phụ (Ngồi NN)
Nghìn tấn
24,0
80,3
126,2
185,6
Dầu thực phẩm
Nghìn tấn
38,6
280,1
397,2
642,5
Dầu thực vật tinh luyện
Nghìn tấn
38,6
280,1
397,2
642,5
Đường kính
Nghìn tấn
93,0
790,3
1102,3
1416,7
Đường, mật
Nghìn tấn
517,0
1208,7
1174,6
1636,1
Gạo, ngơ xay xát
Nghìn tấn
15582,0 22225,0 39429,0
31530
Muối
Nghìn tấn
689,0
590,0
898,0
847,0
Nước mắm
Triệu lít
149,0
167,1
191,5
212,5
Rau quả hộp
Tấn -Ton
12784
11438
72789
89298
Rượu (mùi,trắng)
Nghìn lít
51379,0 124166 221096,0
400583
Sữa hộp đặc
Triệu hộp
173,0
227,2
364,1
388,4
Sữa hộp đặc có đường
Triệu hộp
173,0
227,2
364,1
388,4
Thuốc lá
Triệu bao
2147,0
2835,8
4484,7
4412,6
Thủy sản đóng hộp
Tấn
7381
37469
81840
Thủy sản ướp đơng
Nghìn tấn
177,7
681,7
848,5
d. Định hướng phát triển ngành CNCB’ LT - TP
- Đây là một trong những ngành CNTĐ của nước ta. Theo Qui hoạch tổng thể phát triển KT-XH đến
năm 2010 và 2020, định hướng phát triển của ngành như sau: Đẩy mạnh việc CB’, bảo quản và nâng cao
chất lượng gạo XK để đạt tiêu chuẩn quốc tế. Liên doanh XD các nhà máy đường có cơng suất lớn với các
nhà máy có qui mô nhỏ ở các vùng nguyên liệu phân tán. Đổi mới công nghệ chế biến chè xuất khẩu cho
phù hợp với nhu cầu của thị trường. Đa dạng hóa các sản phẩm để nâng cao giá trị của cà phê xuất khẩu và
tiêu dùng. Tăng cường phát triển các cơ sở đông lạnh và CB' thủy hải sản chất lượng cao. Đẩy mạnh CNCB’
thịt sữa, rau quả với nhiều qui mơ, cải tạo cơ sở hiện có và xây dựng các cơ sở mới hiện đại, nhất là phục vụ
cho xuất khẩu.
- Do nguồn nguyên liệu có mặt ở hầu khắp, nên có thể phân bố các xí nghiệp ở hầu khắp các vùng,
gắn chúng với vùng nguyên liệu tập trung; Ưu tiên phát triển CNCB’ ở các tỉnh còn ít cơng nghiệp. Hình
thành các điểm cơng nghiệp sơ chế ở nông thôn để cung cấp bán thành phẩm cho công nghiệp tinh chế ở các
đô thị vừa và lớn. Chọn 1 - 2 địa điểm có thể phát triển CNCB’ hải sản qui mơ lớn để liên doanh với nước
ngồi.
7. CƠNG NGHIỆP SẢN XUẤT HÀNG TIÊU DÙNG (CN SXHTD)
a. Ưu thế của ngành. Công nghiệp sản xuất HTD được coi là ngành CNTĐ của nước ta với 2 thế
mạnh chủ yếu là lao động và thị trường tiêu thụ rộng lớn cả trong và ngoài nước. Ngành này được phát triển
trên cơ sở phát huy mọi khả năng của các thành phần kinh tế, với nhiều hình thức, qui mơ và cơng nghệ
thích hợp, gắn một phần với nguồn nguyên liệu tại chỗ, nhằm thỏa mãn nhu cầu về các loại hàng hóa thơng
thường, thay thế các mặt hàng nhập nội, góp phần thúc đẩy xuất khẩu. Tên gọi của ngành đã chỉ rõ, CNSX
HTD làm ra nhiều loại hàng hóa thơng dụng trước hết phục vụ cho cuộc sống thường nhật của mọi tầng lớp
nhân dân. Đây là ngành quan trọng, không thể thiếu được trong hệ thống các ngành công nghiệp ở nước ta.
Khi chúng ta xóa bỏ cơ chế cũ, thì nhu cầu của nhân dân tăng lên rõ rệt cả về số lượng và chất lượng (mẫu
mã, chủng loại). Điều này càng làm tăng thêm vai trò của ngành đối với thị trường tiêu thụ trong nước.
Trong một chừng mực nhất định, cơng nghiệp sản xuất HTD cịn có giá trị xuất khẩu (nếu như sản phẩm của
nó thỏa mãn nhu cầu của thị trường nước ngoài). Trong số các sản phẩm của ngành cơng nghiệp sản xuất
HTD, thì dệt, may đã có mặt trên thị trường nhiều nước và đóng góp cho xuất khẩu lớn (chiếm 16,4% tổng
giá trị xuất khẩu của cả nước).
b. Tình hình phát triển và phân bố
▪ Tình hình phát triển
Ngành này ra đời từ rất sớm nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Ngay từ thời xa xưa cư dân Văn
Lang đã làm ra nhiều loại vải được dệt từ sợi gai, đay, bơng, tơ tằm (di tích cịn để lại là những hình người
với trang phục độc đáo (áo, váy, khố) trên trống đồng Đông Sơn), rồi đến thời Bắc thuộc, vải “cát bá” rất
được ưa chuộng đã có từ lâu trên đất Giao Chỉ. Dưới thời phong kiến, nghề dệt khá phát đạt với nhiều loại
lụa-gấm-đoạn nhiều màu sắc. Năm 1040 Lý Thái Tơng đã quyết định khơng mua gấm vóc của nước ngoài
mà sử dụng hàng trong nước để may lễ phục cho quan lại. Một nghề khác như thuộc da, đóng giày, làm
giấy,... cũng được phát triển ở nhiều nơi.
Dưới thời Pháp thuộc, các xí nghiệp sản xuất HTD ra đời với qui mơ nhỏ. Cùng với nó là xuất hiện
một số làng nghề thủ công truyền thống phục vụ cho cuộc sống của nhân dân.
Giai đoạn sau 1954 đến nay, ngành này đã có nhiều chuyển biến, đặc biệt là từ sau đổi mới. Nhưng
nó cũng trải qua nhiều bước thăng trầm, sản lượng lên xuống thất thường.
▪ Phân bố. cơng nghiệp sản xuất HTD có những đặc điểm (rất riêng) ảnh hưởng đến phân bố các nhà
máy, xí nghiệp. Đó là, ngành sử dụng nhiều lao động nữ, yêu cầu cần cù, chăm chỉ, khéo tay, ít gây ô nhiễm
môi trường (trừ sản xuất giấy, thuộc da), sử dụng điện năng ở mức độ vừa phải. Chính vì vậy, thường phân
bố xung quanh các TP lớn, có nhiều lao động và thị trường.
c. Các ngành chủ yếu
- Công nghiệp dệt: Là ngành phát triển lâu đời nhất trên cơ sở từ ngành dệt vải lụa cổ truyền. Trước
đây Việt Nam đã có những sản phẩm dệt nổi tiếng đẹp, tinh xảo như lụa, đũi, the, gấm... Nghề dệt vải kéo