Chương 9: Ứng dụng công nghệ tiên
tiến
Khoa học kỹ thuật là nhân tố làm biến đổi sâu sắc tính
chất của lao động, cơ cấu của nghề nghiệp, trình độ của lao
động, ảnh hưởng quyết đònh đến chất lượng và hiệu quả sản
xuất kinh doanh của toàn xã hội.
Trong thời đại ngày nay, lượng thông tin tăng nhanh chưa
từng có. Các nhà khoa học đã ước tính và dự đoán: hai phần ba
tri thức thông tin và lượng thông tin từ thời cổ đến giờ đang có ở
kỷ nguyên chúng ta; trong 30 năm gần đây, lượng kiến thức của
loài người thu được bằng 2.000 năm trước đây: Tính bình quân
cứ 1 phút có 1 công thức hóa học ra đời, 3 phút có một công
thức, đònh luật vật lý, 4 phút có một công trình khoa học mới về
viễn thông và công nghệ thông tin, 5 phút có 1 thành tựu mới về
y học…. Từ đây đến năm 2020 lượng kiến thức tăng gấp 3 đến 4
lần hiện nay.
Như thế với hàng trăm, hàng ngàn công nghệ mới, lựa
chọn công nghệ tiên tiến nào cho thích hợp với từng khu vực
trên mạng viễn thông không phải là vấn đề đơn giản. Thực tế
cho thấy đã có nhiều dự án triển khai công nghệ mới nhưng
không mang lại hiệu quả cao như công nghệ trong mạng nhắn
tin. Ở các nước phát triển khác như ở Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc,
dòch vụ nhắn tin rất được ưa chuộng nhưng tại Việt Nam thì đã
"bão hòa" với lượng thuê bao rất nhỏ trên tổng số thuê bao dòch
vụ viễn thông.
Vì vậy, các công nghệ hiện đại, tiên tiến được lựa chọn
cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia phải mang
tính đón đầu, tương thích, phù hợp với xu hướng hội tụ công
nghệ. Cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng các thành
tựu khoa học công nghệ trong tất cả các lónh vực: thiết bò, mạng
lưới, dòch vụ, công nghiệp, quản lý, nguồn nhân lực… Làm chủ
công nghệ, tiến tới sáng tạo ngày càng nhiều sản phẩm mang
công nghệ Việt nam.
Nghiên cứu các công trình thử nghiệm cho thấy một số
công nghệ tiên tiến chủ yếu phải đưa vào ứng dụng trên mạng
viễn thông Việt Nam là:
*Với tổng đài áp dụng các loại như sau:
- Chuyển mạch dòch vụ đa phương tiện: Các công nghệ
chuyển mạch phổ biến trước đây và hiện nay không thỏa mãn
được đa phng tiện, đa dòch vụ băng rộng tương lai (trong vài
năm tới). Thời gian sắp tới cần phải sử dụng công nghệ chuyển
mạch dòch vụ đa phương tiện như công nghệ ATM.
-Chuyển mạch quang: Các kết quả nghiên cứu ở mức thử
nghiệm đang hướng tới việc chế tạo các chuyển mạch quang.
Sắp tới sẽ có các chuyển mạch quang theo nguyên lý như sau:
chuyển mạch quang phân chia theo không gian, chuyển mạch
quang phân chia theo thời gian, chuyển mạch quang phân chia
theo độ dài bước sóng.
*Với mạng truyền dẫn ứng dụng:
- Từ năm 1990, hệ thống truyền dẫn cáp đồng tương tư đã
được thay thế bằng hệ thống truyền dẫn cáp quang và vi ba số.
Đến nay hệ thống vi ba đã được sử dụng hết dung lượng, hầu
như hệ thống vi ba không có khả năng mở rộng kênh dẫn đến
thiếu dung lượng. Thực tế cho thấy hệ thống SDH OFC (cáp sợi
quang) có đặc tính linh hoạt, tin cậy, chất lượng cao, giá thành
rẻ. Công nghệ SDH với OFC đang là xu hướng của thế giới.
Cho nên giải pháp trong mạng truyền dẫn là sẽ dần dần thay
thế hệ thống vi ba bằng SDH OFC
và SDH OFC sẽ đóng vai
trò chính trong mạng truyền dẫn.
- Triển khai công nghệ có dung lượng cao hơn: Truyền
dẫn quang ghép kênh theo bước sóng: Gần đây, công nghệ
WDM (Ghép kênh chia theo bước sóng) đã được triển khai chủ
yếu ở Mỹ. Hệ thống này cung cấp dung lượng trên một sợi cao
hơn, hiện tại, nó có thể truyền tải dung lượng lên tới 40Gbit/s
1
(STM - 16x16) và sẽ sớm đạt được dung lượng 400Gbit/s. Ưu
điểm của WDM là tăng dung lượng trên sợi cáp hiện có mà
không phải lắp đặt thêm tuyến cáp quang mới.
*Với hệ thống thông tin di động
- Hệ thống thông tin di động tương tự (A-AMPS) Callink ở
thành phố Hồ Chí Minh sẽ được thay thế bằng hệ thống
AMPS
kỹ thuật số
(D -AMPS).
- Các hệ thống di động tế bào hiện có (GSM) còn được sử
dụng lâu dài vì nó là loại chiếm đa số trên thế giới, sẽ được mở
rộng phù hợp với nhu cầu.
- Hệ thống CDMA là một hệ thống tiên tiến có độ bảo mật
cao, giá cước thông tin rẻ, nhưng do chúng ta đã xây dựng mạng
GSM rộng lớn, hơn nữa mạng CDMA tuy có nhiều ưu điểm
nhưng nó chưa được chuẩn hoá trên quốc tế, chưa thể chuyển
vùng quốc tế nên chúng ta không thể thay hẳn hệ thống GMS
bằng CDMA được. Hệ thống PCS - CDMA sẽ được các đối thủ
cạnh tranh với chúng ta sử dụng đó là các Công ty cổ phần viễn
thông Hà nội, Sài gòn Postel, Vishipel, ETC…
Biện pháp để
giành lại thò phần ở dòch vụ này chúng ta sử dụng công nghệ
PHS - CDMA song song, nhằm bổ sung cho hệ thống GSM
.
Công nghệ PHS rất hữu dụng ở các vùng riêng biệt như các
vùng thành phố.
1
Gbit/s: Ghiga bit trên giây (bit là đơn vò ghi thông tin nhỏ nhất, 1Gbit = 2
30
bit)
- Cần triển khai thêm thông tin di động thế hệ mới
GPRS để lên 3G
2
* Với các dòch vụ gia tăng triển khai:
- Thương mại điện tử.
- Các dòch vụ gia tăng trên IP.
- Dòch vụ VOIP (đã triển khai trên 41 tỉnh thành phố của
Việt Nam nhưng số kênh đi vào hoạt động còn hạn chế)
*Với công nghệ phần mềm:
- Phát triển công nghệ phần mềm trên cơ sở phần cứng
ngoại nhập để phục vụ sản xuất kinh doanh, trong tương lai sẽ
sản xuất cả các thiết bò phần cứng
3.2.1.3. Ứng dụng tin học phục vụ quản lý phát triển sản xuất
kinh doanh.
Thời gian qua đã có nhiều đề tài
3
được ứng dụng vào thực
tế, góp phần đáng kể nâng cao hiệu quả công tác quản lý, điều
hành sản xuất kinh doanh. Có thể kể một số đề tài quan trọng
như: Phần mềm quy hoạch mạng viễn thông; Hệ thống tính
cước, chăm sóc khách hàng; Hệ thống khai thác và bảo dưỡng
mạng viễn thông. . . Các sản phẩm nói trên đã được VNPT cho
phép áp dụng tại tất cả các Bưu điện tỉnh, thành. Bên cạnh các
đề tài cấp Nhà nước, còn nhiều đề tài nhỏ. "Nhỏ" về mục tiêu,
yêu cầu và nội dung nên kinh phí cũng "nhỏ". Điều này dẫn
đến:
2
Xem phụ lục 3.1 ở trang số 69 về điện thoại di động thế hệ 3G, GPRS.
3
bình quân mỗi năm có khoảng 130 đề tài, chưa kể đề tài nghiên cứu của sinh viên. Phần lớn là kết
quả nghiên cứu của cán bộ PTIT gồm: Viện Kỹ thuật Bưu điện, Viện Kinh tế Bưu điện, Học viện cơ sở
đào tạo tại Hà Đông và thành phố Hồ Chí Minh.
- Chưa có chương trình - mục tiêu sản phẩm nghiên cứu
lớn, nhằm có sản phẩm cuối cùng hoàn thiện, có giá trò để có
thể chuyển giao hoặc thương mại hóa.
- Các đề tài nhỏ đặt ra mục tiêu bé, giải quyết một mặt,
một khiá cạnh… trở thành rời rạc, không gắn kết, không có cách
nhìn và sự quản lý tổng quát, hệ thống… chưa đạt được mục tiêu,
yêu cầu của sản xuất kinh doanh.
- Hoặc có một số đề tài, cụ thể là những phần mềm quản
lý một số nghiệp vụ viễn thông đã đạt được hiệu quả phục vụ
cho đơn vò hiện tại, nhưng cùng một loại nghiệp vụ, đã được
VNPT ban hành thể lệ thủ tục - qui trình khai thác thống nhất
trên cả nước nhưng chương trình quản lý bằng tin học ở mỗi bưu
điện tỉnh viết theo mỗi kiểu khác nhau. Sau này nếu nối mạng,
gắn kết lại gặp nhiều phiền toái.
Giải pháp khắc phục vấn đề này được đề xuất như sau:
- Đổi mới tư duy nghiên cứu, lấy phục vụ hiệu quả sản xuất kinh
doanh và hiện đại hoá mạng lưới của VNPT làm mục tiêu chính
để xây dựng các đề tài nghiên cứu.
- Đổi mới quan điểm nghiên cứu: Không nghiên cứu nhỏ, lẻ và
rời rạc. Tập trung nghiên cứu tạo ra những sản phẩm hoàn
chỉnh, mang lại hiệu quả cao cho sản xuất kinh doanh của
VNPT.
- Tổ chức các kỳ thi viết phần mềm cho từng loại nghiệp vụ.
Sản phẩm đoạt giải nhất sẽ được áp dụng thống nhất cho tất cả
các bưu điện tỉnh , thành.