Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.98 KB, 15 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>A – PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài</b>
Nền giáo dục Việt Nam hiện đang trải qua những chuyển biến quan trọngtheo định hướng đổi mới căn bản và tồn diện. Trong bối cảnh đó, vị thế, nộidung, chương trình, phương pháp dạy học mơn Lịch sử đặt ra khơng ít vấn đề cảvề lý luận và thực tiễn. Tham gia giải quyết những vấn đề này cũng là tráchnhiệm của tất cả giáo viên giảng dạy bộ mơn Lịch sử nói chung và giáo viên ởcác trường THPT chun trong cả nước nói riêng, địi hỏi mỗi giáo viên chúngta cần phải trau dồi hơn nữa về kiến thức, tự học, tự nghiên cứu, đổi mới phươngpháp giảng dạy để đạt được hiệu quả cao nhất trong q trình giảng dạy, ơnluyện phục vụ cho kì thi tốt nghiệp THPT và thi HSG các cấp.
Thực tế hiện nay cho thấy việc học tập, ơn thi ở trường THPT nói chung, bộmơn Lịch sử nói riêng cịn nặng tính thực dụng, nghĩa là “học để thi”.Việc “thigì học nấy” làm cho học sinh nắm kiến thức một cách rời rạc, không hiểu lịchsử, khơng rút ra được mối liên hệ, tính quy luật, tác động của sự phát triển xãhội... Học sinh tỏ ra lúng túng, bị động, khơng ứng phó được với các dạng đề thikhác nhau, đặc biệt là khi gặp phải những câu hỏi khó mang tích liên hệ, sosánh...
Đối với môn Lịch sử, do mang tính đặc thù bộ mơn và các yếu tố khách quanmà việc giảng dạy và bồi dưỡng HSG càng trở nên khó khăn và phức tạp. Trongnhững năm qua tổ Lịch sử của chúng tôi đã nỗ lực hết sức nhằm nâng cao sốlượng và chất lượng học đại trà và thi HSG các cấp. Những thành quả mà chúngtơi đạt được tuy cịn khiêm tốn song đã mang tính khả quan: Có nhiều HS làmbài trong kì thi THPT QG đạt điểm 9,10; thi HSG cấp tỉnh, cấp Quốc gia đạtnhiều giải cao, trong đó có giải nhất.
Trong q trình giảng dạy chuyên Sử và bồi dưỡng cho học sinh giỏi các cấp,tơi nhận thấy ngồi việc dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của các bài họctrong sách giáo khoa thì việc dạy - học theo các chuyên đề nhằm nâng cao chấtlượng dạy và học cũng đang là vấn đề rất cần thiết mà hiện nay các trườngTHPT đang tìm hướng giải quyết. Vì vậy, tơi đã mạnh dạn đưa ra một số giảipháp khi giảng dạy chuyên đề: Ngoại giao Hồ Chí Minh trong kháng chiếnchống Pháp (1945 – 1954) cho học sinh chuyên Sử nhằm đáp ứng u cầu đó.
<b>II. Mục đích của đề tài</b>
Với đề tài: Một số giải pháp khi giảng dạy chuyên đề: Ngoại giao Hồ ChíMinh trong kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) cho học sinh chuyên Sử, tôiđưa ra một số giải pháp trong việc lựa chọn nội dung giảng dạy làm sáng tỏ cơngtác Ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Pháp, đồngthời xây dựng hệ thống câu hỏi ôn tập để cung cấp cho học sinh những kiến thứcchuẩn, chuyên sâu, phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập nhằm gópphần nâng cao chất lượng bộ môn Lịch sử và trang bị kiến thức cần thiết chohọc sinh, hình thành cho học sinh niềm đam mê khi học Lịch sử. Từ đó, học sinhcó thể tự học, tự nghiên cứu, tìm hiểu một vấn đề lịch sử, phát huy tính năngđộng, sáng tạo của mình, đặc biệt là học sinh thi THPT QG và thi HSG các cấp.
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>III. Đối tượng nghiên cứu</b>
- Đề tài nêu một số giải pháp khi giảng dạy chuyên đề: Ngoại giao Hồ Chí Minhtrong kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) cho học sinh chuyên Sử, tập trungvào việc lựa chọn nội dung giảng dạy phù hớp với HS THPT để làm rõ đượccông tác ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Pháp từnăm 1945 đến năm 1954.
- Đối tượng được áp dụng chính trong đề tài là học sinh chuyên Sử song họcsinh thi tốt nghiệp THPT, học sinh trong đội tuyển thi học sinh giỏi các cấp cũngcó thể tham khảo và sử dụng.
<b>IV. Phương pháp nghiên cứu</b>
- Nghiên cứu tài liệu.- Phân tích, tổng hợp.
- Liên hệ, đối chiếu, so sánh.- Khảo sát thực tiễn.
<b>V. Điểm mới của SKKN</b>
Với đề tài: Một số giải pháp khi giảng dạy chuyên đề: Ngoại giao Hồ ChíMinh trong kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) cho học sinh chuyên Sửngoài việc nêu được cơ sở chủ yếu hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoạigiao cịn phải nêu được những nội dung cơ bản, phân tích vai trị và rút ra đượcbài học kinh nghiệm từ hoạt động ngoại giao Hồ Chí Minh thời kì 1945 – 1954để học sinh thấy được mối liên hệ chặt chẽ giữa cơng tác ngoại giao của Hồ ChíMinh với thực tiễn của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn này, tôi đưa ra một sốdạng câu hỏi để học sinh được rèn luyện thêm các dạng đề thi - phục vụ cho họcsinh chuyên Sử, học sinh lớp 12 ôn tập và luyện đề thi THPT Quốc gia, thi HSGcác cấp.
<b>B – PHẦN NỘI DUNG </b>
<b>I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm</b>
Hồ Chí Minh là một nhà ngoại giao kiệt xuất. Người là Chủ tịch nước kiêmBộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Là cha đẻcủa nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, Người trực tiếp soạn thảo đường lối đốingoại, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện các hoạt động đối ngoại, đưangoại giao trở thành một mặt trận, đóng góp to lớn vào thắng lợi của sự nghiệpgiải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Tìm hiểu về Ngoại giao Hồ Chí Minhlà một chủ đề lớn đã được Đảng, nhà nước nghiên cứu, học tập và phát huythơng qua nhiều hình thức khác nhau. Để phục vụ cho việc dạy – học chuyên đềchuyên sâu môn Lịch sử, bằng các phương pháp nghiên cứu lịch sử – logic vàphân tích, khảo cứu tư liệu, đề tài: Ngoại giao Hồ Chí Minh trong kháng chiến
<b>chống Pháp (1945 – 1954) cho học sinh chuyên Sử nhằm làm rõ chính sách</b>
ngoại giao khơn khéo, mềm dẻo, linh hoạt cũng như đường lối lãnh đạo đúngđắn, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hoạt động đối ngoại thời kì 1945- 1954.
<b>II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b> Ngoại giao Hồ Chí Minh là một vấn đề rất lớn, giới hạn trong một chuyên đề</b>
với thời gian nhất định sẽ không thể làm sáng tỏ được hết, chính vì vậy tronggiới hạn của đề tài: Một số giải pháp khi giảng dạy chuyên đề: Ngoại giao HồChí Minh trong kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) cho học sinh chuyên Sửtôi đã tập trung vào việc lựa chọn nội dung để giảng dạy đó là: Khái quát về tưtưởng ngoại giao Hồ Chí Minh; Hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh trongkháng chiến chống Pháp (1945 – 1954); Vai trò của hoạt động ngoại giao củaHồ Chí Minh trong kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) và bài học kinhnghiệm từ hoạt động ngoại giao Hồ Chí Minh góp phần xây dựng nền ngoại giaoViệt Nam trong thời kì hội nhập Quốc tế.
<b>III. Một số giải pháp khi giảng dạy chuyên đề: Ngoại giao Hồ Chí Minhtrong kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) cho học sinh chuyên Sử</b>
<b>1. Lựa chọn nội dung khi giảng dạy chuyên đề: Ngoại giao Hồ Chí Minhtrong kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) cho học sinh chuyên Sử.</b>
<b>1.1.Khái quát về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh</b>
Năm 1945, cùng với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, BộNgoại giao Việt Nam cũng được thành lập và vinh dự được Chủ tịch Hồ ChíMinh trực tiếp dẫn dắt và chỉ đạo trên cương vị Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên.Giữa bộn bề trăm cơng nghìn việc, Người vẫn dành sự quan tâm lớn nhất chocông tác ngoại giao, chèo lái đất nước vượt qua những khó khăn hiểm nghèo đểgiữ vững nền độc lập cho dân tộc. Ngoại giao trở thành cơng tác gắn bó suốt đờicủa Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực tế, Người đã hoạt động đối ngoại ngay từ lúc bắt đầu đi tìm đường cứunước. Những trải nghiệm bơn ba ở nước ngồi đã hun đúc những kinh nghiệm,định hình tư duy, tư tưởng cũng như phong cách ngoại giao của Hồ Chí Minh. Nhưng điều làm nên nhà ngoại giao Hồ Chí Minh và Tư tưởng ngoại giao HồChí Minh cịn có cội nguồn sâu xa hơn thế, đó là truyền thống văn hóa, đạo đứccủa dân tộc Việt Nam. Đó là tinh thần hiếu khách, bán anh em xa, mua lánggiềng gần, bao dung, độ lượng, đánh kẻ chạy đi, không đánh kẻ chạy lại… Tưtưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh cũng kế thừa truyền thống ngoại giao ViệtNam, luôn coi trọng quan hệ hịa hiếu, cơng tâm, để thu phục lịng người. Tưtưởng ngoại giao Hồ Chí Minh cịn tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, tinh thầnhướng thiện, khoan dung của Phật giáo, tư tưởng tự do, bác ái của cách mạngPháp và những quan điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin về sự bình đẳng giữa cácdân tộc.
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm về chính trịquốc tế và hệ thống tư duy về mục tiêu, nguyên tắc, đường lối đối ngoại cũngnhư chiến lược, sách lược ngoại giao. Về mục tiêu đối ngoại, Người ln đặt lợiích quốc gia – dân tộc lên trên hết, thể hiện rõ qua khẩu hiệu nổi tiếng củaNgười: “Khơng có gì q hơn độc lập tự do”. Đó cịn là mục tiêu tồn vẹn lãnhthổ, thống nhất đất nước, khơng chấp nhận bất cứ sự chia cắt nào, như câu nóicủa Bác tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946 “Nam Bộ là máu của máu ViệtNam, là thịt của Việt Nam. Sơng có thể cạn, núi có thể mịn, song chân lý ấykhơng bao giờ thay đổi”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Trên nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tư tưởng ngoại giao Hồ ChíMinh đã soi sáng chính sách đối ngoại Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tưtưởng này đã góp phần tích cực vào việc mở ra các mối quan hệ hoà bình, hữuhảo giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Trong tư tưởng ngoại giaoHồ Chí Minh, nổi lên một số luận điểm cơ bản sau đây:
<i><b>- Độc lập, tự chủ, tự cường trong quan hệ với các nước: Theo Chủ tịch Hồ Chí</b></i>
Minh, trong quan hệ với các nước, Việt Nam cần phải độc lập, tự chủ, tự cường.Người đã từng khẳng định: “Không có gì q hơn độc lập, tự do”. Trải qua haicuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhân dân ViệtNam đã thể hiện quyết tâm sẵn sàng hy sinh để thực hiện mục tiêu và khát vọngcủa tồn dân tộc, đó là: độc lập, tự do, hịa bình và thống nhất đất nước. Trongtư tưởng ngoại giao của Người, độc lập, tự do là mục tiêu khơng thể thay đổi.Do đó, khi thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước, Chủ tịch Hồ Chí Minhln nhất qn giữ vững lập trường độc lập, tự do. Người cho rằng: “Có tự lậpmới độc lập, có tự cường mới tự do”; Độc lập có nghĩa là “điều khiển lấy mọicơng việc, khơng có sự can thiệp ở ngồi vào”.
<i><b>- Quan hệ về hồ bình và hợp tác hữu nghị với các nước trên thế giới: Trong</b></i>
ngoại giao với các nước, Hồ Chí Minh ln giương cao ngọn cờ hịa bình,thiện chí, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước với phương châm “thêm bạn, bớtthù”.
<i><b>- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của khối đạiđoàn kết toàn dân: Đây là những nhân tố đặc biệt quan trọng trong ngoại giao</b></i>
với các nước lớn, quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên,không phải bao giờ yếu tố ngoại lực và nội lực cũng được nhận thức một cáchđầy đủ. Sự sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức cũng dẫn đến sự trì trệ trong quátrình phát triển.
Phát huy sức mạnh nội lực trước hết là phát huy sức mạnh của tập thể, cộngđồng. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn lực nội sinh quantrọng, nó luôn được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối, chiến lược của Đảngtrong chiến tranh cũng như trong đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước. Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại đã trở thành quy luật của cách mạngViệt Nam, góp phần làm cho Việt Nam trở thành nước độc lập, thống nhất, xãhội chủ nghĩa. Ngày nay, sức mạnh thời đại cịn bao hàm cả hịa bình. Sức mạnhdân tộc và sức mạnh thời đại khi kết hợp sẽ tạo ra nguồn lực to lớn, góp phầnđưa cách mạng vượt qua khó khăn, thách thức.
<b>1.2.Hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Pháp(1945 – 1954)</b>
<b>1.2.1. Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian từtháng 8 năm 1945 đến tháng 12 năm 1946.</b>
Cách mạng Tháng Tám thành công tại một nước thuộc địa của chủ nghĩa đếquốc, thực dân ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc và phát xítNhật đã phải tuyên bố đầu hàng Đồng minh, thách thức lớn nhất đối với sựnghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ là phải đối phó vớinhiều thế lực quân sự thù địch kéo vào Đông Dương để thực thi quyết định của
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Hội nghị Pôtxđam và nguy cơ trực tiếp là thực dân Pháp quay trở lại đánh chiếmĐông Dương. Trong hồn cảnh chính quyền cách mạng Việt Nam mới hìnhthành, nạn đói kém đang hồnh hành và lực lượng vũ trang của ta còn non trẻ. Trong tình thế hiểm nghèo đó, Hồ Chí Minh xuất hiện như một nhà chiếnlược thiên tài, đặc biệt có vai trị nổi bật trên mặt trận đấu tranh đối ngoại, đốiphó có hiệu quả với mưu đồ gây chiến, lật đổ, "diệt cộng cầm Hồ" - những hiểmhoạ lớn nhất đối với sự tồn vong của dân tộc Việt Nam sau Cách mạng Tháng
Ngay sau Tuyên ngôn độc lập, với cương vị Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộtrưởng Ngoại giao do Đại hội quốc dân Tân Trào nhất trí cử ra, Chủ tịch Hồ ChíMinh cùng bộ tham mưu cách mạng đã sớm đề ra đường lối đối ngoại của chínhquyền cách mạng. Vǎn kiện nhà nước "Chính sách ngoại giao của Cộng hồ dânchủ Việt Nam" được cơng bố vào ngày 3/10/1945 đã khẳng định mục tiêu,những nguyên tắc và hệ thống sách lược trong quan hệ quốc tế của Việt Nam. Trước những chuyển biến tình hình bên trong và bên ngồi, nhất là sự thayđổi trong chính sách của các nước lớn và trong nền chính trị nước Pháp, thấyđược tính chất nguy hiểm của Thoả hiệp Hoa - Pháp trong vấn đề Đơng Dương,Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Thường vụ Trung ương Đảng đề ra chủ trương"Hoà để tiến", tiến hành hồ hỗn tạm thời với Pháp để đẩy mấy chục vạn quânTưởng về nước, củng cố thế và lực để đối phó với Pháp. Người đã trực tiếp chỉđạo các bước đấu tranh buộc Tưởng và Pháp phải đi vào thương lượng với ViệtNam dân chủ cộng hoà, đồng thời tham gia trực tiếp vào các cuộc đàm phán tayđôi với các bên và ký kết những thoả thuận then chốt nhất (Hiệp nghị sơ bộ 6-3và Tạm ước 14-9-1946) nhằm tạo ra một thời gian hồ hỗn trong cả nước để tacó thì giờ chuẩn bị cuộc kháng chiến, điều đó đã góp phần làm thay đổi cục diệnvà tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng Việt Nam.
Có thể nói trong bối cảnh hết sức phức tạp, chỉ trong vịng 14 tháng sauTun ngơn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng tài nǎng và trí tuệ của mình đãgóp phần to lớn vào việc xây dựng bộ máy ngoại giao của một nhà nước mới vềtư tưởng, cơ cấu tổ chức, chính sách, nghệ thuật và tổ chức triển khai hoạt độngtrong thực tiễn. Dưới sự dìu dắt của Người, nền ngoại giao mới theo định hướngđộc lập, tự chủ đã tham gia nǎng động vào sự nghiệp bảo vệ thành quả của cáchmạng, chống trả thành công trước sức ép và mưu đồ câu kết để thơn tính, lật đổcủa thế lực nước lớn và phản động bên ngồi. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính làngười đặt nền móng ban đầu xây dựng nền ngoại giao Việt Nam hiện đại.
<b>1.2.2. Hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chốngPháp (1947-1954) </b>
Trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm trước tiênđến việc định ra chính sách đối ngoại thời chiến phù hợp với tình hình và có khảnǎng cải thiện được điều kiện quốc tế có lợi cho cuộc kháng chiến, góp phầnkiềm chế mưu đồ "đánh mau thắng mau" của thực dân xâm lược, tranh thủ sựđồng tình, ủng hộ của các nước, các dân tộc gần xa đối với cuộc kháng chiếntrên cơ sở phương châm như Người đã nêu: Việt Nam muốn "Làm bạn với tất cảmọi nước dân chủ và khơng gây thù ốn với một ai". Việc cần trước mắt là phá
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">âm mưu cô lập ta của kẻ thù, gắn cuộc kháng chiến của ta với cuộc đấu tranhcủa nhân dân thế giới vì hồ bình, tự do và dân sinh, dân chủ, tạo thế liên hồncó lợi cho ta. Qua cơ quan đại diện của Chính phủ ta đặt tại Bǎng Cốc (1946-1951), Người đã nhiều lần gửi đặc phái viên của Chính phủ đi thǎm viếng vàtiếp xúc với giới lãnh đạo một số nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á, và cửnhiều cán bộ ra hoạt động quốc tế, đi Đông Âu, tiếp xúc với Liên Xô và đi DiênAn tiếp xúc với lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Cuối nǎm 1949, đầunǎm 1950, khi điều kiện bên trong và bên ngoài thuận tiện, Người đã kịp thờiviếng thǎm nước Trung Hoa mới được giải phóng và Liên bang Xô viết, đưa đếnsự công nhận về ngoại giao lẫn nhau giữa ta với Liên Xô, Trung Quốc và cácnước dân chủ nhân dân ở châu Âu và châu Á. Tháng 10-1952, Chủ tịch Hồ ChíMinh tham dự Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XIX, có dịp gặp gỡ lãnhđạo Liên Xơ và các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng anh em và đại biểu phongtrào các nước đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân vìhồ bình, dân chủ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Những hoạt động nóitrên của Người chẳng những đã góp phần tích cực phá vỡ vịng vây của thế lựcthù địch mà cịn tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, kể cảnhân dân Pháp và sự chi viện vật chất rất cần thiết của các nước anh em chocuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của ta đang chuyển sang giai đoạn quyếtđịnh. Đón trước thời cơ thực dân Pháp sắp thất bại lớn trên chiến trường, phongtrào đấu tranh của nhân dân Pháp lên mạnh, làm tình hình chính trị nước Phápmất ổn định và các nước lớn cũng muốn đi vào hồ hỗn, bắt đầu từ việc cùngnhau giải quyết những điểm nóng như vấn đề Đức, hoà ước với nước áo, chấmdứt các cuộc chiến tranh ở châu Á..., ngày 26-11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minhtun bố với báo chí nước ngồi: "nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trongcuộc chiến tranh mấy nǎm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cáchthương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hồ bình, thì nhân dân vàChính phủ Việt Nam dân chủ cộng hồ sẵn sàng tiếp ý muốn đó". Đồng thời,Người cũng đưa ra cơ sở và hình thức đàm phán thích hợp: "Việc thương lượngđình chiến chủ yếu là một việc giữa Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hồ vớiChính phủ Pháp". Tun bố trên của Người đã có tác dụng phân hố hàng ngũthế lực thực dân, thúc đẩy phong trào đấu tranh cho hồ bình ở Việt Nam, nhấtlà trên đất Pháp, và góp phần tạo thêm sức ép với thực dân xâm lược vàmở ra cục diện vừa đánh vừa đàm có lợi cho ta. Việc kí Hiệp định Giơnevơvới nội dung như đã đạt được trước hết khẳng định sự thất bại hoàn toàn cuộcchiến tranh xâm lược của một nước lớn chống lại nguyện vọng độc lập tự do củamột nước nhỏ, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân, đưa ra được một giảipháp chính trị để kết thúc cuộc chiến tranh trên cơ sở thừa nhận quyền độclập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ cũng như quyền dân tộc tự quyết của ViệtNam.
<b>1.3. Vai trị của Hồ Chí Minh trong hoạt động ngoại giao đối với cuộckháng chiến chống Pháp (1945 – 1954)</b>
Tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định sự lãnh đạo của ĐảngCộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc. Trong đó, vai trịcủa Hồ Chí Minh là vơ cùng to lớn.
Cùng với Trung ương Đảng, Người đã hoạch định, tổ chức và lãnh đạo quândân ta thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến chống Pháp. Đường lối đóđược xác định với nội dung cơ bản : “Kháng chiến, kiến quốc”, “Toàn dân, toàndiện, trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế…".
Với một dân tộc vùng lên thoát khỏi ách thống trị của thực dân, mục tiêu đốingoại vì độc lập dân tộc chính là kết tinh của các giá trị văn hóa. Mục tiêu đốingoại vì độc lập dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh theo đuổi suốt cuộc đời cũnglà kế thừa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bài hịch của Vua Quang Trungnăm 1789 đã nói rõ một trong các mục đích đánh giặc Thanh là: “đánh cho đểdài tóc, đánh cho để răng đen”. Bảo vệ độc lập dân tộc cũng chính là để bảo vệnền văn hóa dân tộc, chỉ trong điều kiện có độc lập, những truyền thống và tinhhoa văn hóa dân tộc mới được gìn giữ và phát huy.
Đối với nhân dân các dân tộc bị áp bức trên thế giới, mục tiêu và sự nghiệpgiành độc lập dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời phấn đấu là tấm gươngsáng, là nguồn cảm hứng để họ đứng lên giành và giữ vững nền độc lập củachính mình. Ở các nước thuộc địa, chế độ nơ dịch trong đó có nơ dịch về vănhóa chính là thách thức lớn nhất đối với các giá trị nhân văn của nhân loại. Chủtịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy khát vọng giải phóng cho tất cả các dân tộc thuộcđịa. Tư tưởng nhân văn của Người đã được mở rộng ra phạm vi toàn nhân loại.Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đứng lênđương đầu với các thế lực đế quốc thực dân là nguồn cảm hứng cho phong tràođấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới. Cũngnhư vậy, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam đã đónggóp tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì các quyền cơ bản củacon người. Trong tư tưởng và trong hoạt động thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minhln quan tâm và đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân các dân tộcbị áp bức trên thế giới. Năm 1921, Người cùng các nhà cách mạng từ các thuộcđịa của Pháp lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Năm 1925, Người tham gia sáng lậpLiên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông. Từ khi Đảng ta ra đời và nhất là từkhi đất nước ta giành được độc lập, dưới sự lãnh đạo của Người, Việt Nam đã cóđóng góp ngày càng lớn vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân các dân tộc vìđộc lập, hịa bình và tiến bộ trên phạm vi toàn thế giới.
Hịa hiếu ln là phương châm nhất quán của Người trong hoạt động đốingoại. Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người,Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụngmọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hịa bình. Trong những năm1945-1946 đất nước đứng trước nhiều kẻ thù nguy hiểm, cách mạng Việt Namtrong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chủ trươngđối thoại: Người thực hiện “Hoa - Việt thân thiện” vừa nhằm hòa với Tưởng,hạn chế hành động chống phá cách mạng Việt Nam của chúng vừa để rảnh tayđối phó với thực dân Pháp. Người thực hiện “hòa để tiến”, nhân nhượng vớiPháp để đuổi nhanh quân Tưởng về nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">sang Pháp bốn tháng để đối thoại (từ tháng 5 đến tháng 10-1946). Hiệp định sơbộ 06/3/1946 cũng là một ví dụ điển hình của chủ trương ưu tiên đối thoại nhằmkéo dài hịa bình để tăng cường lực lượng chuẩn bị cho toàn quốc kháng chiến. Theo đúng phương châm hòa hiếu, đối với Người việc tiến hành chiến tranhchỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Ngay cả khi bắt buộc phải tiến hành chiếntranh để bảo vệ đất nước, Người vẫn tìm mọi cách nhằm cứu vãn hịa bình.Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh nhiều lần gửi thư cho Chính phủvà nhân dân Pháp, cho tướng lĩnh, binh sĩ quân đội Pháp và những kiều dânPháp ở Việt Nam, cho các chính phủ, các nhà hoạt động chính trị, văn hóa vànhân dân các nước, vừa tố cáo cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp,vừa kêu gọi đàm phán hịa bình. Ngày 31-5-1946, Người lên đường thăm nướcPháp, với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp. Trong thời gian ở Pháp,Người đã tuyên truyền làm sáng tỏ cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dânta, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân Pháp, nâng cao uy tín của nướcViệt Nam Dân chủ Cộng hồ trên trường quốc tế. Chính dịp này, một số trí thức,nhà khoa học Việt kiều được Người vận động, thuyết phục và cảm hố đã tìnhnguyện theo Bác về nước cống hiến tài năng, trí tuệ cho cách mạng, cho sựnghiệp kháng chiến, như: kỹ sư Phạm Quang Lễ, Võ Quý Huân; bác sĩ TrầnHữu Tước...Trong Lời kêu gọi Chính phủ và nhân dân Pháp (10/1/1947), Ngườiviết: “Chúng tơi muốn hịa bình ngay để máu người Pháp và Việt ngừng chảy.Những dịng máu đó chúng tơi đều q như nhau”.
Trong kháng chiến chống Pháp, Người đã nêu cao ý chí tự lực tự cường,đồng thời khi có điều kiện, làm mọi việc để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ củachính phủ và nhân dân các nước anh em, của nhân loại tiến bộ, kể cả nhân dânPháp. Tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế nhưng không ỷ lại, không để ảnh hưởng đếntinh thần độc lập tự chủ của đất nước. Trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàndiện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh như một người cầmlái bình tĩnh, sáng suốt, mưu trí, dũng cảm và dày dạn kinh nghiệm, đã đưa conthuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi thác ghềnh nguy hiểm. Với đường lốichính trị đúng đắn, biết phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, cứng rắnvề nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược đối với kẻ thù, Hồ Chí Minh chính là “linhhồn” của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Khơng những thế, Ngườicịn là vị tư lệnh tối cao của lực lượng vũ trang, và vai trò của Người được thểhiện nổi bật trong các chiến dịch lớn. Những quan điểm, tư tưởng chiến lượcquân sự của Người được quán triệt, thực hiện sáng tạo trong những điều kiện,hoàn cảnh cụ thể để lại dấu ấn sâu sắc, đậm nét trong lịch sử chiến đấu và chiếnthắng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Trong hoạt động đối ngoại, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln qn triệt quan điểmchỉ đạo là “phải nhìn cho rộng, phải suy cho kỹ” để biết người, biết mình, lnlàm chủ tình thế. Hiểu rõ vị trí chiến lược của Việt Nam trong mối quan hệ giữacác nước lớn và trong sự dính líu trực tiếp của tất cả các nước lớn ở bán đảoĐông Dương trong và sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Chủ tịch Hồ ChíMinh ln đặc biệt coi trọng việc xử lý quan hệ với các nước lớn. Người nhận rarằng, để đương đầu với các nước lớn hơn ta về nhiều mặt, ngoại giao đóng một
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">vai trò rất quan trọng. Trong quan hệ với các nước lớn, Người chủ trương phảihiểu được các nước lớn, dù là đồng minh hay đối thủ, biết được mối quan tâm vàchiến lược cơ bản của họ, hiểu bản chất và vận hành nội trị và ngoại giao từngnước lớn, quan hệ hợp tác và đấu tranh giữa các nước lớn cùng những giới hạncủa các mối quan hệ đó. Chỉ khi “biết người” như vậy thì ngoại giao Việt Nammới có thể độc lập tự chủ, nhưng vẫn mềm dẻo linh hoạt, mới có thể thực hiệnnhững nhân nhượng có nguyên tắc và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đốiphương. Người luôn chủ trương tôn trọng và giữ thể diện cho nước lớn, đặc biệtlà khi họ là nước bại trận.
Ngày nay, chúng ta đang ra sức thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựngđất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong điều kiện mới. Đó là, ViệtNam là thành viên chính thức của WTO, đã và đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tăng cườnghợp tác, hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế tồn cầu, có cả thời cơ, vận hội vàkhó khăn, thách thức đan xen. Hơn thế, lại trong tình hình các thế lực thù địchđang tăng cường các hoạt động chống phá bằng chiến lược “diễn biến hịa bình”,bạo loạn, lật đổ. Xây dựng, phát triển đất nước là nhiệm vụ trọng tâm, là yêu cầubức thiết nhưng phải gắn chặt với bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN. Trong quátrình hợp tác, hội nhập, phát triển, nhất là trong lộ trình thực hiện cam kết vớiWTO cần thấu suốt quan điểm của Đảng, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc vàCNXH, phát huy nội lực là chính, đồng thời tranh thủ ngoại lực và thơng quahợp tác, hội nhập để biến ngoại lực thành nội lực, không ngừng tạo thế và lựcmới của đất nước. Thiết nghĩ, đó cũng là q trình vận dụng sáng tạo quan điểm,đường lối của Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “kháng chiến, kiếnquốc”,
“ tồn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính” trong khángchiến chống Pháp vào điều kiện lịch sử hiện nay nhằm phát huy nội lực, tranhthủ thời cơ quốc tế thuận lợi thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Cũng vì thế, việc tiếp tục nghiên cứu,thấu hiểu vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với cương vị lãnh tụ của cáchmạng, của dân tộc trong kháng chiến chống Pháp nói riêng, trong sự nghiệp giữnước nói chung, khơng chỉ có ý nghĩa về mặt phương pháp luận mà cịn có ýnghĩa thực tiễn sâu sắc. Tư tưởng của Người luôn là kim chỉ nam của nhữngquan điểm, đường lối của Đảng trong mỗi thời kỳ cách mạng. Theo đó, trongtình hình hiện nay, chúng ta phải giữ vững ổn định chính trị, xây dựng, củng cốkhối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng vững chắc. Đồng thời, kiện toàn, củngcố, nâng cao hiệu lực quản lý của các cấp chính quyền; cảnh giác với nhữngphương thức, thủ đoạn mới trong chiến lược “diễn biến hịa bình “ của địch,quyết khơng dành cho chúng một sơ hở nhỏ nào để thực hiện âm mưu kíchđộng, chia rẽ sự đồn kết thống nhất dân tộc, sự toàn vẹn lãnh thổ. Mặt khác,chúng ta phải tích cực đấu tranh, khắc phục những thiếu sót trong quản lý, xâydựng đất nước, những sơ hở, sai lầm trong việc thực hiện các chủ trương, chínhsách, nhất là chính sách về dân tộc, tơn giáo; đấu tranh một cách kiên quyết, cóhiệu quả với tệ nạn quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy điều hành các
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">cấp; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, động viên toàn dân tham gia xâydựng, củng cố nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân ngày càng vững chắc.Khơng vì hội nhập kinh tế quốc tế mà lơi lỏng trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
<b>1.4. Những bài học kinh nghiệm từ hoạt động ngoại giao Hồ Chí Minh.</b>
Những định hướng đối ngoại cơ bản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra từlâu, đến nay vẫn cịn ngun giá trị. Đó là đường lối mở rộng quan hệ với tất cảcác nước, không gây thù chuốc ốn với ai. Đó là chủ trương ưu tiên quan hệ vớiláng giềng, đồng thời phải coi trọng quan hệ với các nước lớn, đơn giản vì đó lànhững nước ln có ảnh hưởng quyết định đến chiều hướng quan hệ quốc tế.Người chủ trương giữ thể diện, không đối đầu, biết giữ cân bằng trong quan hệnhưng đồng thời phải biết tranh thủ mâu thuẫn, phân hóa giữa các nước lớn. Người cũng dặn dị ngoại giao phải ln thực hiện các phương châm lớn làđộc lập tự chủ gắn liền với đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sứcmạnh thời đại, phải dựa vào thực lực để làm ngoại giao. Người ví thực lực nhưcái chiêng, ngoại giao như cái tiếng và “chiêng có to, tiếng mới lớn”.
Người cũng để lại nhiều bài học về sách lược ngoại giao, trong đó bài học lớn
<i>nhất là “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, nhân nhượng thỏa hiệp đúng lúc, đúng</i>
nguyên tắc. Người còn dạy phải biết giành thắng lợi từng bước, bằng những lờithơ giản dị mà ý nghĩa trong kháng chiến chống Mỹ “Đánh cho Mỹ cút đánh chongụy nhào”.
Các sách lược “hòa để tiến” trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Phápvà “vừa đánh vừa đàm” trong kháng chiến chống Mỹ là những bài học vô giáđối với các thế hệ ngoại giao hiện nay cũng như mai sau. Người cũng dạy phảibiết lấy nhu thắng cương, biết “biến đại sự thành trung sự, trung sự thành tiểu sựvà tiểu sự thành vô sự”.
Người dạy cán bộ ngoại giao phải vận dụng ngũ tri: biết mình, biết người,biết thời thế, biết dừng, biết biến. Câu thơ nổi tiếng của Người “Được thời mộttốt cũng thành công” đem lại bài học rất giá trị về dự báo thời cơ, nắm thời cơ vàtạo thời cơ, thời thế, để có thể lấy yếu thắng mạnh.
Cùng với những tư tưởng chỉ đạo đường lối ngoại giao nói trên, Chủ tịch HồChí Minh để lại nhiều bài học về cơng tác ngoại giao và xây dựng ngành ngoạigiao. Trong một hội nghị ngoại giao những năm 60 của thế kỷ trước, Ngườinhắc nhở nhiệm vụ của ngoại giao là thực hiện chính sách đối ngoại, “góp phầnxây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh của đồng bào miền Nam thốngnhất đất nước, thực hiện các nhiệm vụ quốc tế của Đảng và Nhà nước, tăngcường tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước”.
Trong một hội nghị khác, Người dặn dò, đã là cán bộ ngoại giao dù vị trí nàocũng là đại diện cho dân tộc, cho Đảng và Nhà nước, phải biết bảo vệ lợi ích dântộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, “phải giữ gìn danh dự và quyền lợi của Tổquốc, nâng cao địa vị và uy tín của nước mình”. Cùng với việc giữ thể diện quốcgia, Người nhấn mạnh phải coi trọng công tác tuyên truyền đối ngoại, căn dặnphải coi ngoại giao là một mặt trận và hết sức coi trọng ngoại giao nhân dân.
</div>