Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1007.06 KB, 17 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Hà nội 2020-2021
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">Trong lịch sử phát triển kinh tế, thế giới đã trải qua rất nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế.Nếu như nhìn vào đồ thị phát triển kinh tế thế giới bạn sẽ thấy đồ thị ấy hình sin, có những thờikì là đỉnh cao và trái lại cũng có những thời kì tụt dốc xuống vực đáy. Những vực đáy ấy đượcđánh dấu bằng những cuộc khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, những cuộc khủng hoảng kinh tếdiễn ra cũng đánh dấu cho những khởi đầu mới của lịch sử hay của kinh tế thế giới.
Khủng hoảng kinh tế có thể diễn ra trên phạm vi một quốc gia, có thể nổ ra trong phạm vicủa khu vực nhưng cũng có thể nổ ra trên toàn thế giới. Đương nhiên, kéo theo đó gần nhưkhơng một quốc gia nào có thể tránh khỏi cơn lốc khủng hoảng kinh tế này. Một sự thật rất thúvị đó là quốc gia càng phát triển thì khủng hoảng kinh tế càng có thể xảy ra và Nhật Bản cũngkhông phải là trường hợp ngoại lệ.
Khơng chỉ là nước có nền văn hố tiến bộ mà Nhật Bản cịn là một nước có nền kinh tếphát triển hàng đầu thế giới chỉ sau Mỹ. Có được những thành quả như vậy cũng bởi Nhật Bảnlà quốc đảo, bao bọc bởi vơ vàn hịn đảo lớn, nhỏ do vậy đã tạo cho con người Nhật Bản một ýchí rất ham học hỏi và muốn vươn lên. Tuy là một nước nghèo tài nguyên nhưng Nhật Bảnkhông phải dựa vào tài nguyên dồi dào như các nước khác để làm giàu mà Nhật Bản làm giàubằng chính bộ óc sáng tạo và đơi bàn tay cần cù của mình. Trong hai cuộc chiến tranh thế giớiNhật Bản là nước đi xâm chiếm thuộc địa, muốn thống trị và vơ vét của cải. Nhưng sau chiếntranh thế giới thứ hai thì Nhật Bản bị thiệt hại nặng nề, nhất là về kinh tế, nhưng sau đó NhậtBản đã nhanh chóng phục hồi nền kinh tế của mình và ngày càng phát triển với tốc độ tăngtrưởng thần kỳ. Nhưng đến thập niên 90 nền kinh tế của Nhật Bản bị suy thối trầm trọng, thậmchí khủng hoảng nặng nề.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Như đã biết, Nhật Bản đã phải trải qua một cuộc suy thoái kinh tế tồi tệ nhất kể khi kết thúc Thếchiến thứ hai. Từ năm 1988, tỉ lệ tăng trưởng hàng năm của quốc gia so với tổng sản phẩm quốcnội thực tế (GDP) đã sụt giảm mạnh. Năm 1993, GDP thực tế của Nhật Bản giảm 0,2%. Đây làtình tình hình tồi tệ nhất kể từ năm 1974 khi GDP giảm tới 0,6% do ảnh hưởng của Cuộc Khủnghoảng dầu lửa lần đầu tiên. Vậy nguyên nhân nào đã đẩy Nhật Bản rơi vào cuộc suy thối này vàchính phủ Nhật Bản đã đưa ra những giải pháp nào để giúp Nhật Bản thốt khỏi tình trạng này?Bài viết này sẽ tìm hiểu những nội dung đó.
Xét về bản chất, cuộc suy thối kinh tế mang tính cơ cấu hơn là tính chu kỳ. Theo nhiều nhàkinh tế là do một số nguyên nhân quan trọng sau:
<i><b>a. Sự xì hơi của nền kinh tế bong bóng</b></i>
Sự xẹp xuống của nền “kinh tế bong bóng” đầu năm 1990 đã tạo ra sức ép nghiêmtrọng lên các tổ chức tài chính Nhật Bản và làm giảm động lực chi tiêu của ngườitiêu dùng cũng như giảm đầu tư kinh doanh. Rất nhiều ngân hàng Nhật Bản phảiđối mặt với gánh nặng nợ nần. Trong khi đó, thị trường chứng khốn Tokyo suythối nhanh chóng về giá trị cổ phiếu. Tuy thế, Nhật Bản vẫn có thể loại bỏ đượctình hình thiếu vốn nghiêm trọng sâu sắc này do họ có nguồn tiền tiết kiệm lớn,đặc biệt là tỉ lệ đầu tư tương đối cao. Thực tế này được phản ánh trong các khoảnthặng dư lớn. Tuy nhiên, các hãng kinh doanh Nhật Bản dường như lại khơng cịnhứng thú tiếp cận với nguồn vốn có chi phí thấp, đem lại cho họ một lợi thế cạnhtranh trong quá khứ.
<i><b>b. Khả năng sản xuất dư thừa</b></i>
Nền kinh tế Nhật Bản đang phải gánh chịu tình trạng sản xuất dư thừa. Trong suốtnhững năm bùng nổ kinh tế của thập kỷ 1980, Nhật Bản đã đầu tư mạnh vào cácnhà máy và trang thiết bị mới. Ngày nay đứng trước tình trạng suy thối kinh tếtồn cầu, các cơng ty Nhật Bản gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc tìm đầu ra
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">cho khối lượng lớn các mặt hàng do họ sản xuất. Vì vậy, các cơng ty Nhật Bảnđang phải tiến hành thu hẹp quy mô sản xuất, giảm nguồn nhân lực và đươngnhiên họ phải đối mặt với các tổn thất tài chính đáng kể. Việc tuyển dụng lao độngkhông ổn định không những làm suy giảm lòng tin của người tiêu dùng mà cònlàm sâu sắc thêm q trình suy thối kinh tế nói chung.
<i><b>c. Sự tăng giá của đồng Yên</b></i>
Nhật Bản phải đối đầu với một môi trường kinh doanh giao dịch bất lợi. Sự tănggiá của đồng Yên đã làm giảm giá cạnh tranh của hàng hoá Nhật Bản trong mốitương quan với các hàng hoá được sản xuất bởi các hãng nước ngồi. Tính theosức mua (PPP), giá trị đồng n q cao so với giá trị thực tế. Theo tính tốn củaCơ quan Hoạch định Kinh tế Nhật Bản, định giá theo sức mua của đồng n là115¥ trên một đơ la đối với hàng hố giao dịch và 155¥ trên một đô la đối vớihàng tiêu dùng. Sự tăng giá quá cao này của đồng Yên được phản ánh trong của tàikhoản thặng dư khổng lồ. Năm 1992, số dư tài khoản hiện có bằng đồng đơla Mỹđã đạt kỉ lục là 130 tỉ đôla. Khoản thặng dư này phản ánh tỉ lệ tiết kiệm rất cao củaquốc gia, tuy nhiên lại không cần thiết cho việc tạo nên một đồng Yên có giá quácao như vậy. Nếu Nhật Bản có thể nhanh chóng xoay vịng khoản thặng dư nướcngồi bằng đồng đôla đã thu được thông qua giao dịch quốc tế thì áp lực lên đồngn sẽ khơng lớn. Khơng may là ngành tài chính Nhật Bản đã siết chặt chu trìnhxoay vịng này. Hơn thế, cùng với sự suy giảm lợi nhuận và khơng ngừng tăng cácchi phí tái cơ cấu, các tập đoàn đa quốc gia của Nhật Bản có thiên hướng nghiêngvề việc chuyển đổi giá trị thu nhập từ đồng đôla sang đồng Yên. Động thái này lạitiếp tục kích thích sự tăng giá của đồng Yên.
Sự phục hồi kinh tế yếu ớt của nền kinh tế Mỹ và Tây Âu cũng đã khiến Nhật Bảnkhó khăn hơn trong việc “chuyển” tình hình suy thối nội bộ của mình ra bênngồi nền kinh tế như đã từng thực hiện trong quá khứ. Nguy cơ của các căngthẳng kinh tế ngày càng trầm trọng đã cướp đi khả năng thâm nhập của Nhật Bảnvào các thị trường Mỹ và Châu Âu. Thực tế là các áp lực chính trị ở Mỹ đang tănglên, buộc Nhật Bản phải giảm thặng dư thương mại song phương cũng như tự do
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">hoá thị trường nội địa. Nhật Bản tỏ ra bất lực trong việc theo đuổi chiến lược hồiphục kinh tế theo hướng xuất khẩu và khả năng cạnh tranh trong kinh tế quốc tếcũng đang trở nên kém hơn trước các quốc gia công nghiệp phát triển.
Như vậy, trong suốt thập kỷ 1990, Nhật Bản phải đối mặt với các thử thách vô cùng ghê gớmkhi phải nhập khẩu thêm hàng hố nước ngồi trong khi các ngành sản xuất kinh doanh trongnước đang phải vật lộn để điều chỉnh lại cơ cấu.
<i><b>Năng suất lao động giảm</b></i>
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của GDP trên đầu người của Nhật Bảngiảm xuống mức thấp trong những năm 1990 có thể là do mức tăng của năng suất tổngnhân tố (TFP) giảm. Sở dĩ mức tăng của TFP ở Nhật Bản thời kỳ 1991-2000 lại giảmmạnh là do chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động thiếu hiệu quả. Năng suất laođộng giảm cịn có thể do phân bổ nguồn lực giữa các ngành thiếu hợp lý - nghĩa là các
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">ngành có tiềm năng tăng trưởng mạnh lại không được đầu tư đúng mức.
<i>Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân hàng năm của Nhật Bản trong thậpniên mất mát so với các thời kỳ trước</i>
<i><b>Giảm số giờ lao động</b></i>
Số giờ lao động trong một tuần của một người lao động Nhật Bản giảm đi cũng cóthể là một nhân tố khiến mức tăng GDP bình quân đầu người của nền kinh tế này giảmsút. Khi Luật Tiêu chuẩn Lao động của Nhật Bản bắt đầu có hiệu lực từ năm tài chính1988, số giờ lao động trung bình một tuần của một lao động Nhật Bản đã giảm từ 44 (5ngày rưỡi) năm 1988 xuống 40 (đúng 5 ngày) năm 1993.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"> <i><b>Đầu tư tư nhân giảm</b></i>
Nhu cầu đầu tư tư nhân giảm làm tổng cầu giảm có thể là nguyên nhân kinh tế suygiảm. Còn nguyên nhân khiến nhu cầu đầu tư tư nhân giảm là tình trạng đói tín dụng. Nợxấu khiến cho các ngân hàng ngần ngại cho vay; và điều này ảnh hưởng đến đầu tư. Cácxí nghiệp nhỏ, nhất là trong ngành chế tạo, phải đối mặt với tình trạng này nhiều hơn.
<i><b>Áp dụng mơ hình tổng cầu – tổng cung</b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"> Giả sử nền kinh tế ban đầu cân bằng tại Y*. Nếu đầu tư và tiêu dùng giảmthì đường tổng cầu dịch chuyển sang trái từ AD1 đến AD2
Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc từ A đến B theo đường tổngcung ngắn hạn AS1. Sản lượng giảm từ Y* đến Y2 và mức giá giảm từ P1đến P2
Sự suy giảm sản lượng cho thấy nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thối
<i><b>Kích cầu kém</b></i>
Trong thập niên 1990, trước thực tế nền kinh tế trì trệ triền miên, một số biện phápkích cầu đã được thực hiện nhằm vực dậy nền kinh tế Nhật Bản. Nhưng, nền kinh tế vẫntiếp tục trì trệ. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy chính sách kích cầu của Nhật Bản có pháthuy tác dụng, nhưng mức độ hiệu quả lại thấp.
<i><b>Chính sách tiền tệ thiếu hợp lý</b></i>
Nhiều nhà nghiên cứu phê phán Ngân hàng Nhật Bản đã khơng thực hiện chínhsách tiền tệ hợp lý và đó là một trong những nguyên nhân gây ra thập niên mất mát củanước này. Từ năm 1998, nền kinh tế chính thức rơi vào trạng thái giảm phát. Khu vực tưnhân bắt đầu hình thành dự tính rằng xu hướng giảm phát sẽ tiếp tục (tức là dự tính lạm
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">phát mang dấu âm). Giảm phát càng nghiêm trọng hơn, và đây chính là "bẫy giảm phát"mà Nhật Bản mắc phải. Giảm phát làm cho gánh nặng nợ của xí nghiệp lớn thêm vì nợq hạn gia tăng, làm cho lợi nhuận của xí nghiệp giảm vì lãi suất thực tế và tiền cơngthực tế trở nên cao hơn. Do đó, xí nghiệp trở nên dè dặt trong đầu tư thiết bị khiến chonhu cầu đầu tư tư nhân giảm làm tổng cầu giảm theo.
<i>Thiểu phát và giảm phát trong thập niên mất mát</i>
Thứ nhất, tích cực nới lỏng chính sách tiền tệ. Ưu tiên hàng đầu của Chính phủ
Nhật Bản là chính sách tiền tệ “siêu nới lỏng” và chi tiêu tài chính. Chỉ số giá tiêu dùng giảm buộc BOJ tiếp tục thực thi chính sách nới lỏng tiền tệ mạnh hơn nữa nhằm đưa giá cả tăng trở lại và bảo vệ nền kinh tế do tác hại từ chính sách đồng Yên mạnh.
Thứ hai, tập trung đầu tư cho khu vực tư nhân. Chính phủ Nhật Bản cam kết sẽ nỗ lực thúc đẩy đầu tư cho lĩnh vực tư nhân và hoạt động của khối DN nhằm chấm dứt tình trạng giảm phát kéo dài gần hai thập kỷ qua tại nền kinh tế lớn thứ ba thế giới.
Thứ ba, thúc đẩy hoạt động của khối DN. Mục tiêu của Nhật Bản là tăng tổng vốn đầu tư cho DN thêm 10%, lên mức khoảng 70.000 tỷ Yên trong giai đoạn (2013 – 2015); tăng tổng thu nhập bình quân đầu người (hiện ở mức 3,84 triệu Yên trong tài khóa 2012) thêm hơn 1,5 triệu Yên trong giai đoạn (2013 - 2023). Nhật Bản cũng nỗ lực thúc đẩy cải cách phát triển kinh tế với các chính sách phù hợp để tiếp thêm sinh lực cho hoạt động của các DN như giảm mạnh thuế thu nhập DN...; Thiết lập các đặc khu kinh tế và nhấn mạnh tới vai trò của lĩnh vực kinh tế tư nhân trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung.
Thứ tư, tăng mạnh chi tiêu cơng. Khi nghiên cứu về tình trạng giảm phát ở Nhật Bản, các nhà kinh tế hàng đầu của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã chỉ ra rằng, cách tốt nhất để chống lại giảm phát là bắt đầu một gói kích thích cực lớn và nhanh chóng. Gói kích thích kinh tế này góp phần gia tăng áp lực đối với BOJ để nới lỏng
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">tiền tệ, ngăn chặn sự tăng giá của đồng Yên khiến các nhà xuất khẩu Nhật Bản gặp nhiều khó khăn do hàng hóa giảm sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tháng 2/2013, Nhật Bản thông qua dự thảo ngân sách bổ sung 13.100 tỷ Yên (khoảng 140,7 tỷ USD) nhằm kéo nền kinh tế thoát khỏi suy thoái do giảm phát. Việc ngân sách bổ sung sẽ giúp Nhật Bản thêm nguồn lực để chấm dứt tình trạng giảm phát và giúp tạo ra ít nhất 600.000 việc làm mới. Khoản ngân sách bổ sung này bao gồm chi tiêu cho các dự án công để sửa chữa cơ sở hạ tầng giao thông: các đường hầm và các cây cầu; Hỗ trợ các công ty sử dụng phương tiện tiết kiệm năng lượng và thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng các nhà máy; Cho phép Chính phủ tiếp tục khoản chi tiêu để trả lương hưu cơ bản.
Thứ năm, tăng thuế doanh thu. Hiện tại thuế doanh thu của Nhật Bản ở mức 5% (thấp nhất trong số các nước cơng nghiệp hóa). Trong khi ở châu Âu, khoản thuế này lên tới gần 20%. Tăng thuế sẽ giúp sửa chữa thiếu sót hiện tại của Nhật Bản bởi doanh thu thuế của Nhật Bản hiện chỉ đạt 17% GDP- mức thấp nhất trong các thành viên thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Mục tiêu của Nhật Bản là tăng gấp đôi thuế tiêu dùng (hiện là 5%) và xây dựng lại hệ thống an sinh xã hội để cắt giảm chi tiêu công trong bối cảnh dân số lão hoá ngày càng nhanh. Trong bối cảnh khủng hoảng nợ leo thang, dân số ngày càng già hóa và chi phí an sinh xã hội tăng cao, việc tăng thuế tiêu dùng sẽ cho phép Nhật Bản có cơ hội giữ được tốc độ tăng trưởng và cắt giảm được mức thâm hụt ngân sách.
<i><b>Áp dụng mơ hình IS – LM (Tác động của chính sách tiền tệ mở rộng)</b></i>
Trong nền kinh tế đóng, Chính phủ sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng, bằng việctiếp tục nới lỏng tiền tệ về số lượng và chất lượng, mua trái phiếu chính phủ, cung
</div>