Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

tiểu luận tôn giáo học đề tài phân tích đặc điểm tôn giáo ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 28 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

II. NỘI DUNG………..4

 Chương 1: Lý luận chung về tôn giáo………...………..….4

 Chương 2: Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay………10

 Chương 3: Những nguyên nhân chủ yếu cho sự tồn tại các tôn giáo ở nước

Vấn đề tôn giáo từ lâu là một vấn đề nhạy cảm không chỉ đối với Việt Nam mà còn với nhiều nước trên thế giới. Hiện nay, tôn giáo ngày càng can thiệp sâu hơn vào đời sống chính trị với nhiều hình thức khác nhau, vì thế ln cần có hiểu biết thấu đáo trước khi giải quyết cái vấn đề.

Tôn giáo là một vấn đề chưa bao giờ là cũ. Cũng bởi vậy tôn giáo cũng nằm trong một bộ phận cấu thành nên xã hội nên cùng với sự phát triẻn và thay đổi của loài người mà tơn giáo cũng có sự biến đổi. Tơn giáo – một hiện tượng xã hội phức tạp, chỉ có thể giải thích một cách khác quan khoa học dựa trên quan niệm của nền tảng Triết học duy vật về lịch sử. Tơn giáo là một hình thức phản ánh hư ảo, xuyên tạc đời sống hiện thực và đã ra đời rất lâu về trước đây cùng với sự phát triển mạnh mẽ. Vì vậy dường như khơng thể giải quyết vấn đề tôn giáo một cách đơn thuần.

Việt Nam là một quốc gia tồn tại nhiều tôn giáo khác nhau và có sự đa dạng về chiều hướng phát triển trên phạm vi cả nước. Nhìn chung giáo lý của các tôn giáo đều mang ý nghĩa nhân văn. Những triết lý ấy có thể giúp con người sống chan hồ với

2

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

nhau, có trách nhiệm hơn với bản thân mìn, có ý thức cộng đồng và sự nghiệp phát triển chung của toàn xã hội. Tơn giáo cịn là sự tự do tín ngưỡng của mỗi công dân và với sự suy nghĩ riêng biệt mà mỗi cơng dân sẽ tìm thấy một tơn giáo phù hợp với bản thân. Ngoài ra, ở Việt Nam cịn có những cái riêng biệt về tơn giáo và sẽ những tôn giá thật sự lớn mạnh ở Việt Nam đang tồn tại và có thể phát triển mạnh hơn trong tương lai.

<b>2. Mục đích </b>

Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội ra đời và biến đổi theo thời gian. Và không phải tôn giáo nào cũng được nhiều người biết đến và hoạt động mạnh mẽ, mỗi quốc gia sẽ có một tơn giáo phổ biến và có một sự phát triển nhất định. Ở Việt Nam cũng khơng ngoại lệ sẽ có sự riêng biệt khác so với những nước khác, sẽ có những đặc điểm nổi bật và thế mạnh riêng. Từ đó, ta sẽ “Tìm hiểu và phân tích những đặc điểm tơn giáo ở Việt Nam “

Nội dung chính của bài được triển khai ở ba chương:

<i><b>Chương 1: Lý luận chung về tôn giáo Chương 2: Vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay</b></i>

<i><b>Chương 3:</b></i>Những nguyên nhân chủ yếu cho sự tồn tại các tôn giáo ở nước ta

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>II.NỘI DUNGCHƯƠNG 1</b>

<b> LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƠN GIÁO1.1.Khái niệm về tơn giáo</b>

Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và hư ảo hiện thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí.

Tơn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội. ở một mức độ nhất định tơn giáo có vai trị tích cực trong văn hố, đạo đức xã hội như: đoàn kết, hướng thiện, quan tâm đến con người… Tôn giáo là niềm an ủi, chỗ dựa tinh thần của quần chúng lao động.

Về phương diện thế giới quan, thế giới quan tôn giáo là duy tâm, hoàn toàn đối lập với hệ tư tưởng và thế giới quan Mác - Lênin khoa học và cách mạng. Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và thiên đường mà các tôn giáo thường hướng tới là ở chỗ trong quan niệm tôn giáo thiên đường không phải là hiện thực mà là ở thế giới bên kia. Còn những người cộng sản chủ trương và hướng con người vào xã hội văn minh, hành phúc ngay ở thế giới hiện thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người.

Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng: tất cả mọi tôn giáo chẳng qua là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc của con người – những lực lượng ở bên ngồi chi phối cuộc sống hằng ngày của họ; tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hiện thực khách quan, thông qua sự phản ánh đó, lực lượng tự nhiên trở thành siêu nhiên huyền bí…

Tơn giáo cịn được hiểu là một thực thể xã hội– các tôn giáo cụ thể, với các tiêu chí cơ bản sau: có niềm tin sâu sắc vào đấng siêu nhiên, đấng tối cao, thần linh để tôn thờ (niềm tin tơn giáo); có hệ thống giáo thuyết (giáo lý, giáo luật, lễ nghi) phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan, đạo đức, lễ nghi của tôn giáo, có hệ thống cơ sở thờ tự; có tổ chức nhân sự, quản lý điều hành việc đạo (người hoạt động tôn giáo chuyên

4

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

nghiệp hay khơng chun nghiệp); có hệ thống tín đồ đơng đảo, những người tự nguyện tin theo một tơn giáo nào đó, và được tôn giáo thừa nhận

<b>1.2. Bản chất của tôn giáo </b>

Chủ nghĩa Mác - Lênin coi tín ngưỡng, tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua hình thức phản ánh của tơn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí. C. Mác và Ph. Ăngghen cịn cho rằng, tơn giáo là một hiện tượng xã hội, văn hóa, lịch sử; một lực lượng xã hội trần thế. Giữa tín ngưỡng và tơn giáo có sự khác nhau, song lại có quan hệ chặt chẽ mà ranh giới để phân biệt chúng chỉ là tương đối. Tín ngưỡng là một khái niệm rộng hơn tơn giáo. ở đây chúng ta chỉ đề cập một dạng tín ngưỡng - đó là tín ngưỡng tơn giáo (gọi tắt là tơn giáo).

Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng, một lực lượng siêu nhiên, tơn sùng vào một điều gì đó pha chút thần bí, hư ảo, vơ hình tác động mạnh đến tâm linh con người, trong đó bao hàm cả niềm tin tơn giáo. Cịn tơn giáo thường được hiểu là một hiện tượng xã hội bao gồm có ý thức tôn giáo lấy niềm tin tôn giáo làm cơ sở, hành vi và các tổ chức hoạt động tín ngưỡng tơn giáo - nghĩa là, tơn giáo thường có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và các tổ chức giáo hội. Mê tín dị đoan là một hiện tượng xã hội tiêu cực đã xuất hiện từ lâu và vẫn tồn tại ở thời đại chúng ta. Trên thực tế, mê tín dị đoan thường xen vào các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng tơn giáo. Việc xác định hiện tượng mê tín dị đoan chủ yếu dựa vào biểu hiện và hậu quả tiêu cực của nó. Mê tín dị đoan là niềm tin cuồng vọng của con người vào các lực lượng siêu nhiên đến mức độ mê muội với những hành vi cực đoan, thái q, phi nhân tính, phản văn hóa của một số người gọi chung là cuồng tín. Hiện tượng mê tín dị đoan thường gắn chặt và lợi dụng các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo để hành nghề. Vì vậy, cùng với việc tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân thì chúng ta phải loại bỏ dần mê tín dị đoan nhằm làm lành mạnh hoá đời sống tinh thần xã hội

Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội ... Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số giá trị văn hoá, phù hợp với đạo đức, đạo lý của xã

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

hội. Về phương diện thế giới quan, thế giới quan duy vật mácxít và thế giới quan tơn giáo là đối lập nhau. Tuy vậy, trong thực tiễn, những người cộng sản có lập trường mácxít khơng bao giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo hợp pháp của nhân dân. Ngược lại, chủ nghĩa Mác-Lênin và những người cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân.

Sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội hiện thực và "thiên đường" mà các tôn giáo thường hướng tới là ở chỗ trong quan niệm tôn giáo, "thiên đường" không phải là hiện thực xã hội mà là ở "thế giới bên kia", trên "thượng giới" (tức là cái hư ảo). Còn những người cộng sản hiện thực, do mọi người xây dựng và cũng vì mọi người.

<b>1.3. Nguồn gốc tôn giáo</b>

Tôn giáo xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử xã hội loài người, hoàn thiện và biến đổi cùng sự phát triển của các mối quan hệ kinh tế, chính trị và cả xã hội. Sự xuất hiện và biến đổi đó gắn liền với các nguồn gốc sau:

- Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo

Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy, họ đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hố những sức mạnh đó. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tơn giáo.

Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu đuối trước sức mạnh của tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước những sức mạnh tự phát hoặc của thế lực nào đó của xã hội. Khơng giải thích được nguồn gốc của sự phân hố giai cấp và áp bức bóc lột, tội ác, v.v., và của những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, con người thường hướng niềm tin ảo tưởng vào "thế giới bên kia" dưới hình thức các tơn giáo.

Như vậy, sự yếu kém của trình độ phát triển lực lượng sản xuất, sự bần cùng về kinh tế, áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước những bất công xã hội là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo

- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo

6

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Các nhà duy vật trước C. Mác thường nhấn mạnh về nguồn gốc nhận thức của tơn giáo. Cịn các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, lại quan tâm trước hết đến nguồn gốc kinh tế - xã hội của tôn giáo. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác-Lênin không phủ nhận nguồn gốc nhận thức của tơn giáo mà cịn làm sáng tỏ một cách có cơ sở khoa học nguồn gốc đó.

Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và bản thân mình là có giới hạn. Khoa học có nhiệm vụ từng bước khám phá những điều chưa biết. Song, khoảng cách giữa biết và chưa biết luôn luôn tồn tại; điều gì mà khoa học chưa giải thích được thì điều đó dễ bị tơn giáo thay thế.

Sự xuất hiện và tồn tại của tơn giáo cịn gắn liền với đặc điểm nhận thức của con người. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế giới khách quan, khái quát hoá thành các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng càng khái quát hoá, trừu tượng hố đến mức hư ảo thì sự vật, hiện tượng được con người nhận thức càng có khả năng xa rời hiện thực và dễ phản ánh sai lệch hiện thực. Sự nhận thức bị tuyệt đối hoá, cường điệu hoá của chủ thể nhận thức sẽ dẫn đến thiếu khách quan, mất dần cơ sở hiện thực, dễ rơi vào ảo tưởng, thần thánh hoá đối tượng

- Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo

Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm "sự sợ hãi sinh ra thần linh". V.I. Lênin tán thành và phân tích thêm: sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản..., sự phá sản "đột ngột", "bất ngờ", "ngẫu nhiên", làm họ bị diệt vong..., dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tơn giáo hiện đại.

Ngồi sự sợ hãi trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo làm nảy sinh những tình cảm như lịng biết ơn, sự kính trọng, tình u trong quan hệ giữa con người với tự nhiên và con người với con người. Đó là những giá trị tích cực của tín ngưỡng, tơn giáo.

Tín ngưỡng, tơn giáo đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, góp phần bù đắp những hụt hẫng trong cuộc sống, nỗi trống vắng trong tâm hồn, an ủi, vỗ về, xoa dịu cho các số phận lúc sa cơ lỡ vận. Vì thế, dù chỉ là hạnh phúc hư ảo, nhưng nhiều người vẫn tin, vẫn bám víu vào. C. Mác đã nói, tơn giáo là trái tim của

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

thế giới khơng có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trạng thái xã hội khơng có tinh thần.

<b>1.4. Tính chất của tơn giáo</b>

-Tính lịch sử của tôn giáo

Con người sáng tạo ra tôn giáo. Mặc dù tơn giáo cịn tồn tại lâu dài, nhưng nó chỉ là một phạm trù lịch sử. Tơn giáo không phải xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người. Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng của con người đạt tới một mức độ 5 nhất định. Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng thời kỳ của lịch sử, tơn giáo có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Thời đại thay đổi, tơn giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo. Đến một giai đoạn lịch sử, khi những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo bị loại bỏ, khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất các hiện tượng tự nhiên và xã hội thì tơn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi con người. Đương nhiên, để đi đến trình độ đó sẽ cịn là một quá trình phát triển rất lâu dài của xã hội lồi người.

-Tính quần chúng của tơn giáo

Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ các tơn giáo. Hiện nay tín đồ của các tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số thế giới (nếu chỉ tính các tơn giáo lớn, đã có tới từ 1/3 đến 1/2 dân số thế giới chịu ảnh hưởng của tôn giáo). Mặt khác, tính quần chúng của tơn giáo cịn thể hiện ở chỗ các tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một số bộ phận quần chúng nhân dân lao động. Dù tôn giáo hướng con người niềm tin vào hạnh phúc hư ảo của thế giới bên kia, song nó ln ln phản ánh khát vọng của những người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái... Bởi vì, tơn giáo thường có tính nhân văn, nhân đạo và hướng thiện. Vì vậy, cịn nhiều người ở trong các tầng lớp khác nhau của xã hội tin theo.

-Tính chính trị của tơn giáo

Trong xã hội khơng có giai cấp, tơn giáo chưa mang tính chính trị. Tính chất chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt về lợi ích, các giai cấp thống trị đã lợi dụng tơn giáo để phục vụ lợi ích của mình. Những cuộc chiến tranh tôn giáo trong lịch sử và hiện tại, như các cuộc thập tự chinh thời

8

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

trung cổ ở châu Âu hay xung đột tôn giáo ở bán đảo Ban Căng, ở Pakixtan, ấn Độ, Angiêri, Bắc Ailen, Bắc Capcadơ (thuộc Nga) ... đều xuất phát từ những ý đồ của những thế lực khác nhau trong xã hội, lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Trong nội bộ các tơn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dịng, hệ, phái... nhiều khi cũng mang tính chính trị. Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ, thì tơn giáo thường là một bộ phận của đấu tranh giai cấp.Ngày nay, tơn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng, phức tạp khơng chỉ thể hiện tính tự phát trong nhân dân, mỗi địa phương, mỗi quốc gia... mà còn có tổ chức ngày càng chặt chẽ, rộng lớn ngồi phạm vi địa phương, quốc gia - đó là nhiều tổ chức quốc tế của các tôn giáo với vai trị, thế lực khơng nhỏ trên tồn cầu và với những trang bị hiện đại tác động không chỉ trong lĩnh vực tư tưởng, tâm lý... mà cả trong chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì vậy, cần nhận rõ rằng: đa số quần chúng tín đồ đến với tôn giáo nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần; song, trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các thế lực chính trị - xã hội lợi dụng cho thực hiện mục đích ngồi tơn giáo của họ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>CHƯƠNG 2</b>

<b>TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY</b>

<b> 2.1. Các tôn giáo phổ biến ở Việt Nam</b>

Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngữơng phẩi tơn giáo. Với vị trí địa lý nằm ở khu vực Đơng Nam Á có 3 mặt tap biến pháy Việt Nam rất thuận lợi trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập các luồng văn hóa, các tôn giáo trên thế giới.

Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em. Mỗi dân tộc , kể cả người kinh đều lưu giữ những hình thức tín ngữơng tơn giáo riêng của mình. Người việt có các hình thức tín ngữơng dân gian như thờ cúng ơng bà tổ tiên thờ thành hồng thờ những người có cơng với+ đồng dân tộc thờ thần thờ thánh nhất là thờ mẫu của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín ngữa nguyên thủy như tô tem giáo bái vật giáo sa mạc giáo

Ở Việt Nam do đặc điểm lịch sử liên tục bị xâm lược từ ngoài nên việc lão giáo nho giáo– những tơn giáo có nguồn gốc ở phía bắc thâm nhập; công giáo– một tôn giáo gắn với văn minh châu âu vào truyền đạo và sau này đạo tin lành đã khai thác điều kiện chiến tranh ở miền nam để truyền giáo thu hút theo đạo là điều dễ hiểu.

Ở Việt Nam những tôn giáo có nguồn gốc từ phương đơng như là phật giáo, lão giáo, ở nho giáo; có nguồn gốc từ phương tây như là thiên chúa giáo, tin lành,; Có tơn giáo được sinh ra tại Việt Nam như cao đài, phật giáo, hịa hảo, có tơn giáo hồn chỉnh , có những hình thức tơn giáo sơ khai. Có những tô giáo đã phát triển và hoạt động ổn định, những tôn giáo chưa ổn định vậy đang trong quá trình tìm kiếm đường hướng mới cho phù hợp.

Ước tính, ấy hiện nay ở Việt Nam có quá 80% dân số có đời sống tín ngữơng phẩi tơn giáo, trong đó có qng 20 triệu tín đồ sộ của 6 tơn giáo đang hoạt động bình thường, để ổn định, đó chiếm 25% dân số. Cụ thể :

10

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>a) Đạo Phật </b>

Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ thứ VI, đến đời Lý (thế kỷ thứ XI) Phật giáo ở vào giai đoạn cực thịnh và được coi là hệ tư tưởng chính thống. Phật giáo được truyền bá rộng rãi trong nhân dân và có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống xã hội, để lại nhiều dấu ấn trong lĩnh vực văn hoá, kiến trúc. Nhiều chùa, tháp được xây dựng trong thời kỳ này. Nhà nho Lê Quát học trò Chu Văn An đã lấy làm khó chịu khi tồn dân theo Phật: “Phật chỉ lấy điều họa phúc mà động lòng người, sao mà sâu xa và bền chắc đến như vậy? Trên từ vương công, dưới đến thứ dân, hễ làm cái gì thuộc về Phật, thì hết cả gia tài cũng không tiếc…’’

Phật giáo Việt Nam kết hợp chặt chẽ việc đạo với việc đời. Vốn là một tôn giáo xuất thế, nhưng vào Việt Nam Phật giáo trở lên rất nhập thế: các cao tăng được nhà nước mời tham chính trong những việc hệ trọng. Phật tử Việt Nam hăng hái tham gia vào các hoạt động xã hội, các phong trào đấu tranh địi hịa bình và độc lâp dân tộc, đỉnh cao là sự kiện hịa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vào mùa hè năm 1963. Với tín điều giáo lý đạo Phật luôn răn dạy người ta sống làm việc thiện, tránh xa cái ác.

<b>b) Đạo Thiên Chúa </b>

Vào thế kỷ XVI, Công giáo (Thiên chúa giáo) truyền vào Việt Nam do các giáo sĩ Bồ đào nha, Tây ban nha và sau là Pháp. Sự truyền đạo giai đoạn đầu ít gặp trở ngại do tính khoan dung của người Việt Nam và tính không đối dầu của tôn giáo bản địa nhưng sự truyền đạo đạt kết quả khơng cao. Sau đó Pháp vận động Giáo Hoàng cho phép độc quyền truyền đạo tại Việt Nam. Hội truyền giáo Pa-ri được thành lập năm 1660 cùng nhà nước Pháp tuyển chọn, đào tạo giáo sĩ, cử sang hoạt động ở Việt Nam và một số nước khác.

Trong những năm gần đây Cơng giáo nước ta có chiều hướng phát triển. Số lượng tín đồ tăng do sự gia tăng dân số tự nhiên và một số tín đồ khô đạo, nhạt đạo trở lại sinh hoạt. Số tín đồ Cơng giáo nước ta hiện nay khoảng 5 triệu, hiện nay đang có cuộc sống ổn định và phấn khởi trước cuộc đổi mới và chính sách tôn giáo của Đảng đang chăm lo cải thiện đời sống và tham gia vào các hoạt động xã hội nhân đạo, an ninh trật tự, phòng chống các tệ nạn xã hội và thể hiện cuộc sống theo phương châm “tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa yêu nước”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<b>c) Đạo Tin Lành </b>

Đạo Tin Lành du nhập vào Việt Nam khoảng cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX do tổ chức Tin lành “Liên hiệp phúc âm truyền giáo” (CMA) truyền vào. Năm 1911 tổ chức này đã xây dựng được cơ sở đầu tiên ở Đà Nẵng. Các Hội thánh tin lành được lần lượt được xây dựng tại các địa phương. Năm 1927, Tổng Hội thánh Tin lành Việt Nam được thành lập. Đến năm 1930, một tổ chức thứ hai là Giáo hội Cơ đốc Phục lâm được truyền vào nước ta.

Trong thời gian gần đây, cùng với trào lưu đổi mới Tổng Liên hội Tin lành đã hoạt động trở lại. Đặc biệt đạo Tin lành chú trọng phục hồi và phát triển ở Tây nguyên, truyền đạo ở các vùng núi phía Bắc trong các đồng bào dân tộc thiểu số với phương pháp truyền đạo khá đa dạng và linh hoạt. Ngoài việc truyền đạo trực tiếp, các Giáo hội Tin lành thường thơng qua các hoạt động khoa học, văn hóa - xã hội, giáo dục, y tế, đầu tư kinh doanh… tranh thủ cảm tình của quần chúng để truyền đạo. Hiện nay một số thế lực phản động trong và ngoài nước đã bịa đặt ra cái gọi là Nhà nước Đềga độc lập và Tin Lành Đềga ở Tây Nguyên nhằm tuyên truyền, kích động cho sự chia rẽ, ly khai... Nhà nước Việt Nam đã kiên quyết bác bỏ cái gọi là “Nhà nước Đềga độc lập”, coi đây là âm mưu chia rẽ sự toàn vẹn lãnh thổ và gây mất an ninh trật tự của đất nước và khẳng định ở Việt Nam khơng có cái gọi là đạo Tin Lành ngoài đạo Tin Lành đã tồn tại ở nước ta trong nhiều năm qua.

<b>d) Đạo Hồi </b>

Người theo đạo Hồi ở Việt Nam hầu hết là người dân tộc Chăm. Đạo Hồi du nhập vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ X – XIV bằng con đường hịa bình cùng với q trình tan rã của quốc gia Chiêm Thành (Chămpa) và sự suy giảm dần của đạo Hinđu - tơn giáo chính thống của người Chăm.

12

</div>

×