Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học: Ly hôn - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.16 MB, 80 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

<small>CAO MAI HOA</small>

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sw Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HUONG DAN KHOA HỌC: TIEN SĨ NGUYEN THỊ LAN

HÀ NỘI - 2014

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Nhà trường, các thầy cô giáo

<small>Khoa Sau Đại học Trường Đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và</small>

giúp đỡ em trong suốt thời gian quan. Xin cảm ơn gia đình, Ban Giám đốc, các đồng nghiệp Công ty TNHH BCA — Thăng Long, Tổng cục hậu cần — Kỹ thuật, Bộ Công an đã tao mọi điều kiện đề tơi hồn thành khóa học. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Nguyễn Thị Lan — người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hồn thành luận văn này.

<small>Tác gia</small>

<small>Cao Mai Hoa</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<small>MỞ ĐẦU</small>

<small>CHUONG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VE LY HON</small>

1.1. Một số khái niệm

<small>1.1.1. Khái niệm ly hôn</small>

1.1.2. Quan điểm về ly hôn 1.1.3. Khái niệm quyên ly hôn

<small>1.1.4. Khai niệm căn cứ ly hôn</small>

1.2. Sơ lược pháp luật Việt Nam về ly hôn 1.2.1. Quyền yêu cầu ly hôn

1.2.2. Điều kiện hạn chế ly hôn

<small>1.2.3. Căn cứ ly hôn</small>

<small>1.2.4. Hậu quả pháp lý của ly hôn</small>

1.3. Chế định ly hôn theo quy định của một số quốc gia 1.3.1. Chế định ly hôn theo pháp luật của Pháp

1.3.2. Chế định ly hôn theo pháp luật của Thái Lan

<small>CHƯƠNG 2. LY HÔN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH</small>

2.1. Quyền yêu cầu ly hôn và hạn chế quyền yêu cầu ly hôn 2.1.1. Quyền yêu cầu ly hôn của vợ chồng

2.1.2. Điều kiện hạn chế quyền yêu cầu ly hôn đối với người chồng

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<small>đích của hơn nhân khơng đạt được</small>

2.2.2. Khi vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố mat tích

<small>2.3. Các trường hợp ly hơn2.3.1. Thuận tình ly hơn</small>

2.3.2. Ly hôn do một bên yêu cầu

<small>2.4. Hậu quả pháp của ly hôn</small>

2.4.1. Quan hệ nhân nhân thân giữa vợ và chồng

2.4.2. Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng

2.4.3. Quan hệ đối với con cái khi cha mẹ ly hôn

<small>CHƯƠNG 3. THỰC TIEN GIẢI QUYẾT LY HON TẠI VIỆT NAM VAMOT SO GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUAT VE LY HON</small>

3.1.Thực tiễn giải quyết ly hôn

<small>3.1.1. Nhận xét chung</small>

3.1.2. Một số vụ án điển hình

3.2. Phương hướng và một số giải pháp hồn thiện pháp luật về

<small>ly hơn</small>

3.2.1. Phương hướng hồn thiện pháp luật về ly hơn 3.2.2. Một số giải pháp hồn thiện pháp luật về ly hơn

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

MO DAU

1. Tinh cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, các mối quan hệ trong đời song xã hội cũng có sự thay đổi và phát triển, quan hệ hơn nhân và gia đình cũng nằm trong số đó. Báo cáo kết quả cơng tác năm 2012 và nhiệm vụ cơng tác năm 2013 của Tịa án nhân dân thành phố Hà Nội tại kỳ họp thứ 6 Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (khóa XIV) đã nêu rõ: Trong năm 2012 ngành Tịa án phải thụ lý giải quyết 23.521 vụ án các loại, trong đó án hơn nhân và gia đình là 10.068 vụ, tăng 518 vụ so với năm 2011, chủ yếu là ly hôn và

tranh chấp tài sản.

Trong xã hội hiện nay, ly hơn đã được nhìn nhận đúng với bản chất tích cực và tiễn bộ của nó, dưới góc độ pháp lý, ly hơn được ghi nhận là một chế

<small>định độc lập của Luật Hôn nhân và gia đình, là cơ sở cho Tịa án và các bên</small>

đương sự giải quyết vấn đề ly hôn một cách hợp tình, hợp lý, góp phần giải phóng con người khỏi sự ràng buộc khơng cần thiết khi tình cảm vợ chồng

khơng cịn. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt và ngược lại, xã hội tốt là điều kiện

thúc day gia đình tiến bộ, khi gia đình lâm vào tình trạng tram trọng khơng thé duy trì hạnh phúc thì ly hôn là giải pháp hữu hiệu và cần thiết. Nhà nước ta đã đặt ra nguyên tắc: Hôn nhân tự nguyện, bình dang, tiễn bộ, nhằm xây dung gia đình dân chủ, hịa thuận, bền vững ngay cả khi gia đình tan vỡ thì sự bình đăng về quyên, lợi ích giữa vợ va chồng vẫn được đảm bảo, đó là quyền tự do ly hơn của vợ và chồng.

Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 ra đời đã bảo vệ quyền lợi của mọi

<small>thành viên trong gia đình và hướng tới xây dựng gia đình hạnh phúc, mơ hìnhgia đình xã hội chủ nghĩa, là cơ sở pháp lý của mọi công dân Việt Nam khi</small>

thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình trong quan hệ hơn nhân và gia đình, là căn cứ để Tịa án các cấp giải quyết các vụ việc hôn nhân gia đình một cách

thấu tình, đạt lý. Tuy nhiên, qua hơn một thập kỷ triển khai thực hiện, với sự

phát triển nhanh chóng của nền kinh tế đất nước, nhiều quy định đã khơng cịn

phù hợp với thực tiễn như việc xác định các căn cứ ly hôn, hậu quả pháp lý

của ly hôn...nhiều vụ việc đã phải trải qua nhiều cấp xét xử do có kháng cáo và kháng nghị. Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề ly hơn theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 đã góp phần cho thấy những bất cập của hệ thống

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

pháp luật hiện hành và đưa ra những giải pháp hồn thiện pháp luật về ly hơn, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang lấy ý kiến hoàn thiện dự thảo sửa đổi, bố sung Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000, đây cũng chính là lý do mà tơi chon dé tài “Ly hôn - một số van đề lý luận và thực tiễn” để

<small>nghiên cứu.</small>

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Van đề ly hôn của vợ chồng là một nội dung quan trọng trong pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới, nó liên quan đến sự ồn định và phát triển của xã hội. Đồng thời, nó cịn liên quan đến quyền con người: quyền được tự do ly hơn, quyền được mưu cau hạnh phúc, qun trẻ em....chính vì vậy, ly hơn là một chủ đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý cũng như các nhà thực tiễn áp dụng pháp luật, thê hiện ở nhiều góc độ khác nhau:

<small>Nhóm giáo trình, sách bình luận chuyên sâu:</small>

- Bình luận một số án Dân sự và Hơn nhân và gia đình, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 2001 của Tưởng Duy Lượng:

<small>- Bình luận khoa học Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam, tập I, Nxb</small>

trẻ Tp.Hồ Chí Minh 2002 của Nguyễn Ngọc Điện;

- Một số van dé lý luận và thực tiễn về Luật Hơn nhân và gia đình năm

2000 của Luật sư - Thạc sỹ Nguyễn Văn Cừ; Thạc sỹ Ngơ Thị Hường, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà nội 2002;

<small>- Bình luận khoa học Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Chính</small>

trị, Quốc gia, Hà Nội 2006 của Đinh Thị Mai Phương:

<small>- Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Cơng an nhân dân.</small>

- Các bài viết, bài báo đăng trên các tap chí pháp luật, tap chí luật hoc.... Nhóm luận văn, luận án chun ngành luật: Một SỐ cơng trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu như:

- Chế độ tài sản của vợ, chồng theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Nguyễn Văn Cừ 2004, Trường Đại học Luật

<small>Hà Nội;</small>

- Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật Hơn

<small>nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, luận văn Thạc sĩ Luật học, Phạm Thị</small>

Ngọc Lan, Khoa Luật Đại học Quốc gia, 2008;

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<small>- Hau quả pháp lý cua ly hôn theo Luât Hôn nhân va gia đình Việt Nam</small>

năm 2000, luận văn Thạc sĩ Luật học, Nguyễn Viết Thái, Đại học Luật Hà Nội, 2013...

Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu trên chỉ đề cập đến một khía cạnh cụ thể của ly hơn, với việc nghiên cứu tất cả các quy định trong chế định ly hôn, luận văn đã tong hợp, khái quát và phân tích kỹ những điểm tích cực và hạn chế đề có những đề xuất kịp thời, đúng đắn về chế định ly hôn.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản pháp luật có liên quan đến vấn đề ly hôn. Với việc đi sâu nghiên cứu các quy định về ly hôn của một số nước như Pháp, Thái Lan; Ly hôn theo pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ và những quy định hiện hành về ly hôn, thực tế giải quyết các vụ án về ly hôn dé cho thay sự kế thừa, phát triển cũng như những bat cập của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 dé từ đó có

những giải pháp và kiến nghị phù hợp, nhằm đóng góp ý kiến vào dự thảo sửa

đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là vấn đề ly hôn theo pháp luật Việt Nam, dé tài không bao gồm giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước ngồi và khơng nghiên cứu trình tự, thủ tục tố tụng về ly hôn.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài

Đề tài khoa học được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mac - Lê nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; Tư

tưởng Hồ Chi Minh về gia đình và đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà

nước. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài khoa học cũng sử dụng các phương

pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: lịch sử, phân tích, tổng hợp, so

sánh, dé làm sáng tỏ van đề cần nghiên cứu.

5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là dựa trên cơ sở các quy định của

Luật Hơn nhân và gia đình về ly hơn, có sự kết hợp với thủ tục giải quyết các

vụ việc ly hơn dé phân tích, đánh giá, từ đó kiến nghị nhằm hồn thiện van dé

<small>ly hơn theo Luật Hơn nhân va gia đình Việt Nam.</small>

<small>Với mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau đây:</small>

- Nghiên cứu những vấn đề khái quát chung về ly hôn như: khái niệm ly hơn, căn cứ ly hơn, tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống về chế định ly hôn

trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn phát triển.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

- So sánh với pháp luật một số nước trên thế giới để thấy rõ những điểm

thành công và hạn chế của pháp luật Việt Nam trong van dé ly hơn.

- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về ly hôn thông qua hoạt động xét xử của Tịa án, qua đó đánh giá về những thành công và hạn chế của việc áp dụng pháp luật về ly hôn, nêu lên một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp

luật về ly hơn.

6. Cơ cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:

Chương I: Khái quát chung về ly hôn

<small>Chương IT: Ly hôn theo pháp luật hiện hành</small>

Chương III: Thực tiễn giải quyết ly hơn và một số giải pháp hồn thiện pháp luật về ly hôn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small>Chương 1</small>

KHÁI QUAT CHUNG VE LY HON

<small>1.1. MOT SO KHAI NIEM</small>

<small>1.1.1. Khái niệm ly hôn</small>

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, ly hôn là một mặt của quan hệ hôn nhân, là mặt trái, bất thường nhưng không thể thiếu của quan hệ hôn nhân, khi quan hệ hôn nhân không thé tiếp tục. “7 do ly hôn tuyệt khơng có nghĩa làm tan rã những quan hệ gia đình mà ngược lại nó củng cơ những moi liên hệ đó trên cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn minh” [31,tr 355]. Pháp luật không bắt buộc nam nữ kết

hôn với nhau khi giữa họ khơng có tình u thì cũng khơng thé bắt buộc ho

phải sống chung với nhau khi giữa họ khơng cịn sự quan tâm, chăm sóc cho nhau. Ly hơn chính là giải pháp giúp người vợ, người chồng giải thoát được đau khổ, bạo lực, giúp họ tiếp tục sống cho chính mình và có cơ hội tìm được người vợ, người chồng khác, vì bản chất của ly hơn “chi là việc xác nhận một sự kién: cuộc sống hôn nhán này là cuộc sống hôn nhân đã chết, sự tơn tại của nó chỉ là bê ngồi và lừa dối. Đương nhiên, không phải sự tùy tiện của nhà lập pháp, cũng không phải sự tùy tiện của những cá nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định được cuộc hôn nhân đã chết hoặc chưa chết, bởi vì, như mọi người đã biết, việc xác nhận sự kiện chết tùy thuộc vào thực chất của vấn dé, chứ không phải vào nguyện vọng của những bên hữu quan... Nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều kiện trong đó hơn nhân được phép tan vỡ, nghĩa là trong đó về thực chất hơn nhân tự nó bị phá vỡ roi. Việc Tịa án cho phép phá bỏ hơn nhân chỉ có thể là việc ghi biên bản sự tan rã bên trong của nó”

<small>[14.tr 119].</small>

Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, Điều 89 - Luật Hôn

<small>nhân và Gia đình năm 2000 quy định:</small>

“1. Tịa án xem xét u câu ly hơn, nếu xét thất tình trang tram trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, muc đích của hơn nhân khơng đạt được thì Tịa án quyết định cho ly hôn.

2. Trong trường hop vợ hoặc chong của người bị Tịa án tun bố mat tích xin ly hơn thì Tịa án giải quyết cho ly hơn”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Đứng trên quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa Mác- Lê nin, Khoản 8- Điều

8 - Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Ly hơn là việc cham dứt

quan hệ hôn nhân do Toa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cẩu của vợ hoặc chong hoặc cua cả hai vợ chong”.

<small>Trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học Luật Hơn nhân va gia</small>

đình nói riêng, việc đưa ra khái niệm đầy đủ về ly hơn có ý nghĩa quan trọng,

phản ánh quan điểm chung nhất của Nhà nước ta về ly hôn, tạo cơ sở lý luận cho việc xác định bản chất pháp ly cua ly hôn, xác định nội dung, phạm vi điều chỉnh của các quan hệ pháp luật hơn nhân và gia đình về vấn đề ly hôn và các van đề khác phát sinh từ ly hôn.

Theo từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp thì ly hơn được hiểu la: “Cham dirt quan hệ vợ chong do Toa an nhán dan công nhận hodc quyết định theo yêu cẩu của vợ hoặc chong hoặc ca hai vợ chồng ”[33,

<small>tr 460].</small>

Đây là cách giải thích được sử dụng nhiều trong công tác nghiên cứu và

<small>giảng dạy khoa học pháp luật và giải thích cho các đương sự có liên quan trong</small>

thực tiễn giải quyết các vụ án ly hôn.

Tại dự thảo sửa đổi, bố sung một số điều Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, bản dự thảo ngày 16/4/2014 (khoản 14 - Điều 2a) quy định “Ly hôn là việc cham dứt quan hệ vợ chông theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp

<small>luật của Tịa an’.</small>

Khái niệm ly hôn tại từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý - Bộ

Tư pháp va dự thảo sửa đổi, b6 sung một số điều Luật Hôn nhân và gia đình

năm 2000 có tính chính xác va cụ thé hơn, đó chính là việc “cham dit quan hệ

vợ chong”.

Căn cứ vào các quy định về ly hôn trong Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 và trong dự thảo Luật sửa đôi, bố sung một số điều Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000, dựa vào đặc điểm của ly hơn, có thể đưa ra khái niệm ly hôn như sau: “Ly hôn là việc cham dứt quan hệ vợ chong trước pháp luật theo yêu cẩu của vợ, chong và dua trên các căn cứ luật định ””.

1.1.2. Quan điểm về ly hôn

<small>Ly hôn là mặt trái của quan hệ hôn nhân, là sự tan vỡ hạnh phúc giađình, ở mơi giai đoạn lịch sử, ở mơi qc gia, nên văn hóa khác nhau lại có cái</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

nhìn khác nhau về ly hôn. Tổng hợp các quan điểm khác nhau về ly hơn có thể

phân chia thành hai loại, cụ thể:

Cam ly hơn: Hơn nhân được xác lập và được duy trì chỉ nhờ vào sự ưng thuận lúc ban đầu (lúc kết hôn), cũng giống như sự ưng thuận khi giao kết hợp đồng: một khi đã ưng thuận kết hôn, người kết hơn khơng thê thay đơi ý chí, nghĩa là phải chấp nhận cuộc sống chung cho đến cuối đời (cũng như người giao kết hợp đồng phải thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, không thé đơn phương rút khỏi quan hệ kết ước, dù có thể khơng cịn muốn duy trì quan hệ đó nữa). Cụ thể hơn có nghĩa kết hơn thì được, nhưng ly hơn thì khơng được. Quan niệm này được chấp nhận trong rất nhiều hệ thống luật nguyên sơ và được coi là một trong những quan niệm nên tang của luật giáo hội về gia

đình. Khơng ít nước Châu Âu chỉ mới từ bỏ quan niệm này cách đây không

lâu: Ở Ý từ năm 1975, ở Tây Ban Nha từ năm 1982... Việc duy trì quan niệm nay trong luật cận đại và đương đại của các nước chủ yêu vi lý do tôn giáo. Theo quan điểm của tôn giáo, trong đời song hôn nhân, sự liên kết vợ chồng không phải chỉ do quyết tâm của họ mà còn là kết quả của ơn Chúa “ Điều gì Thiên Chúa đã kết hop, thì lồi người không được phân ly” (16, tr 23], “Hôn nhân đã ký kết và hồn hợp thì khơng thể bị tháo gỡ bởi bat cứ quyển lực nhân loại nào, bat cứ lý do gì, ngoại trừ cái chết” [16, tr 104].

Tự do ly hôn: Cac nước theo quan điểm này cho rằng, hơn nhân khơng thể được duy trì, một khi vợ hoặc chồng hoặc cả hai khơng cịn cảm thay duoc thôi thúc bởi ý muốn chung sống. Mỗi người phải có quyền tự do cham dứt quan hệ hơn nhân, như đã có quyền tự do xác lập quan hệ đó. Nếu cả vợ và chồng đều đồng ý ly hơn thì càng tốt; nêu khơng, mỗi người có quyền ly hơn chỉ bằng quyết định đơn phương của mình. Quyền tự do ly hơn được thiết lập trong luật La Mã thời kỳ cuối. Trong luật đương đại của nhiều nước theo Common law hoặc của các nước Bắc Âu, ly hơn theo ý chí đơn phương được

<small>thừa nhận dưới hình thức “Ly hơn do khơng hợp tinh tình” (divorce pour</small>

incompatibilité d’humeur): chỉ cần chứng minh rằng giữa vợ và chồng có sự khác biệt về tính tình và sự khác biệt đó là ngun nhân của những xung đột gay gắt giữa hai người khiến cho cuộc sống chung không thể chịu đựng được,

vợ hoặc chồng có thé xin ly hơn và thẩm phán phải đáp ứng thuận lợi đối với

u cầu ly hơn đó.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Mơ hình pháp luật thừa nhận tự do ly hơn cịn tồn tại hình thức tự do ly hơn dưới sự kiểm sốt của Nhà nước. Đây là hình thức được hình thành từ quan điểm cho rằng ly hôn là quyền tự do của cá nhân nhưng quyền u cầu ly hơn

thì vẫn nam trong quyền dân sự nên phải chịu sự kiểm soát của pháp luật. Việc

ly hơn của vợ chồng chỉ được Tịa án chấp nhận trong trường hợp được pháp luật quy định. Yêu cầu ly hơn có thể do vợ hoặc chồng hoặc cả vợ và chồng đưa ra. Tham phán, về phan mình, có quyền quyết định cho phép hay khơng

<small>cho phép ly hơn trên cơ sở đánh giá mức độ chính đáng, hợp lý, hợp tình của</small>

u cầu ly hơn; nếu như yêu cầu ly hôn trùng với trường hợp được luật dự

kiến, Thâm phán có thể bác đơn xin ly hôn, một khi xét thấy lý do ly hôn

không vững chắc hoặc việc ly hơn có thé ảnh hưởng bat lợi nghiêm trọng đối với cuộc sông sau ly hôn của một trong hai đương sự (hoặc cả hai) hoặc đối với tương lai của con cái, so với việc tiếp tục quan hệ hôn nhân. Hệ thống ly hôn tự do dưới sự kiểm soát của Nhà nước cho phép cơ quan Nhà nước có thâm quyền can thiệp vào sự hình thành suy nghĩ của vợ, chồng về van đề ly hôn, đồng thời vẫn tôn trọng ý chí của vợ, chồng hoặc của cả hai về việc duy

trì hay khơng duy trì cuộc sống chung. Đây là quan điểm tiễn bộ và phù hợp

với sự phát triển chung của xã hội nên được nhiều nước trên thế giới áp dụng, trong đó có Việt Nam. Theo đó, Nhà nước cơng nhận quyền tự do ly hơn chính đáng của vo chong, dựa trên ý chi tự nguyện của vợ chồng, Nhà nước không thê bằng pháp luật cưỡng ép nam nữ kết hơn thì cũng khơng bắt buộc vợ chồng

phải ly hôn. Quyên ly hôn là quyền tự do tuyệt đối nhưng quyền yêu cau ly hôn

không phải là quyền tự do tuyệt đối mà phải đưới sự quản lý của Nhà nước, quan hệ vợ chồng chỉ có thé chấm dứt băng các phán quyết có hiệu lực pháp luật của Tòa án là bản án ly hơn hoặc quyết định cơng nhận thuận tình ly hôn. 1.1.3. Khái niệm quyền ly hôn

Quyền kết hôn và quyền ly hơn là quyền tự nhiên vốn có của mỗi con

người, là một trong những quyên cơ bản của quyền con người được Nhà nước

<small>và pháp luật bảo vệ. Khi hơn nhân khơng đạt được mục đích mà cả hai vợ</small>

chồng hoặc một bên vợ hoặc chồng hướng đến thì họ có quyền ly hơn, đây là cách giải quyết mang tính tích cực và văn minh. Trong pháp luật dân sự, quyền ly hôn là quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân không thể chuyền giao cũng như không thé ủy quyền cho người khác thực hiện thay. Điều 85 - Bộ luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Vo, chong hoặc cả hai vợ chong có quyên yêu cau Tịa án giải quyết việc ly hơn ”.

Tại Khoản 3 - Điều 73 - Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định: “Người đại diện theo 1y quyên được quy định trong Bộ luật Dân sự là người đại diện theo ủy quyên trong to tụng dân sự; doi với việc ly hôn, đương sự không được ủy qun cho người khác thay mặt mình tham gia tơ tụng ”.

Có thể hiểu, chỉ những người trước pháp luật là vợ, chồng của nhau mới có quyền ly hơn và họ phải trực tiếp thực hiện quyên ly hôn.

Như vậy, “quyên ly hôn là quyên nhân thân của vợ, chong mong muốn cham dứt quan hệ vợ chong trước pháp luật”.

<small>1.1.4. Khái niệm căn cứ ly hôn</small>

Pháp luật công nhận vợ chồng có quyền được tự do ly hơn, nhưng như vậy khơng có nghĩa là giải quyết ly hôn tùy tiện theo nguyện vọng của vợ chồng. Giải quyết ly hơn một mặt đảm bao lợi ích của vợ chồng, mặt khác phải

<small>đảm bảo lợi ích của con cái, các thành viên khác trong gia đình và lợi ích xã</small>

hội. Do đó, Nhà nước phải kiểm sốt việc ly hôn bằng cách xác định những

điều kiện cần và đủ để cho phép cham dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật

<small>trên cơ sở đánh giá một cách khách quan thực trạng quan hệ hôn nhân.</small>

Pháp luật phong kiến và pháp luật của Pháp, Thái Lan coi hôn nhân như một hợp đồng dân sự, do vậy khi cham dứt hôn nhân cũng như cham dứt hop đồng đều dựa vào lỗi của các bên. Pháp luật xã hội chủ nghĩa giải quyết ly hôn dựa vào thực chất của quan hệ vợ chồng, trên cơ sở đánh giá một cách khách quan. Như vậy, căn cứ ly hôn mang bản chất giai cấp, nó phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước cam quyên. Ở mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ, căn cứ ly hơn có sự khác nhau. Nhà nước ta giải quyết ly hôn căn cứ vào “tinh trang tram trong, đời sống chung không thể kéo dai, mục đích của hơn nhân khơng dat duoc”.

Như vậy, “căn cứ ly hơn là những tình tiết hay điều kiện do pháp luật quy định và chỉ khi có những tình tiết hay điều kiện đó thì Tồ án mới quyết định cho vợ chẳng ly hôn ”.

<small>1.2. SƠ LƯỢC PHÁP LUAT VIET NAM VE LY HON</small>

Thời kì phong kiến có bộ Quốc Triều hình luật ban hành dưới triều đại vua Lê Thánh Tông (Luật Hồng Đức) và Hoàng Việt Luật lệ được ban hành dưới triều vua Gia Long (Luật Gia Long).

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Trong thời kì Pháp thuộc, nước ta chia thành ba miền và áp dụng ba bộ luật dé điều chỉnh các van dé hơn nhân gia đình:

Ở Bắc Kì áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1931 (Dân luật Bắc kỳ),

Ở Trung Kì áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1936 (Dân luật Trung kỳ),

Ở Nam Kì cho ban hành tập Dân luật giản yêu năm 1883.

<small>Thời kỳ cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân (từ 1945 -1954) nước ta</small>

ban hành Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950 dé điều chỉnh van dé ly hôn. Thời kỳ đất nước chưa thống nhất (1954 - 1975) bị chia cắt làm hai miền Nam - Bắc thì ở miền Bắc van dé ly hôn được điều chỉnh bởi Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, cịn ở miền Nam vấn đề ly hơn được điều chỉnh bởi Luật Gia đình 02/01/1959 dưới chế độ Ngơ Đình Diệm, Sắc luật 15/64 ngày 23/07/1964 về giá thú, tự hệ và tài sản cộng đồng, Bộ Dân luật Sài Gòn ngày 20/12/1972 dưới chế độ Ngơ Văn Thiệu.

Sau khi đất nước ta hồn tồn thống nhất, van đề ly hôn được điều chỉnh

<small>bởi Luật Hơn nhân va gia đình năm 1986 và hiện nay là Luật hơn nhân va giađình năm 2000.</small>

Chế định ly hôn được đề cập trong hệ thống pháp luật từ thời phong kiến đến nay được nghiên cứu qua các khía cạnh cụ thể sau:

1.2.1. Quyền u cầu ly hơn

Pháp luật thời kỳ phong kiến ghi nhận quyền tự do ly hôn của vợ chồng

băng cách cùng nhau thảo một văn thư, vợ chồng bày tỏ ý chí về việc châm dứt

cuộc song chung và việc ly hơn có hiệu lực sau khi người chồng ký, người vợ điểm chỉ vào giấy đó mà khơng cần có sự can thiệp của cơ quan Nhà nước có thâm quyền [ 34, tr.559, 560]. Tuy nhiên, với tư tưởng trọng nam khinh nữ nên quyên lợi của người phụ nữ trong pháp luật thời kỳ này chưa được đảm bảo một cách đầy đủ. Khi người vợ phạm vào một trong bảy điều “that xudt” thì người chồng cũng bat buộc phải bỏ vợ kể cả khi người chồng không mong muốn, quy định này không đảm bảo quyền tự do ly hôn của người chồng, tức là pháp luật phong kiến vẫn chú trọng vào lợi ích và danh tiếng của dịng họ mà khơng quan tâm đến hạnh phúc của chính bản thân người trong cuộc. Pháp luật thời kỳ nay cũng đã quan tâm đến quyền yêu cầu ly hôn của người phụ nữ, điều 308 - Bộ luật Hồng Đức cho phép người vợ đệ đơn trình và bỏ chồng:

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

“Pham chong đã bỏ lửng vợ năm thang mà khơng di lại (vợ được trình với quan sở tại và quan làm chứng), thì mat vợ. Nếu vợ da có con thì cho thời hạn một năm. Vi việc quan phải di xa thì khơng theo luật nay. Nếu đã bỏ vợ mà ngăn người khác lấy vợ mình, thì phải tội biém”. Có thé nói quy định “nếu vợ đã có con thì cho thời hạn một năm ”, điều này có nghĩa là bình thường người chồng bỏ lửng người vợ năm tháng khơng đi lại thì người vợ được quyền ly hơn người chồng, cịn khi người vợ có con thì nếu người chồng bỏ lửng vợ một năm không di lại thì người vợ được qun ly hơn.

Ngồi ra, pháp luật phong kiến cịn buộc vợ chồng phải ly hơn mà khơng cần có bên nào u cau, đó là: Két hơn khi dang có tang cha mẹ hoặc tang chong; kết hôn khi ông bà, cha mẹ dang bị giam cam, tù tội; lấy người trong họ; ép gạ người vợ góa kết hơn với người khác; lấy đàn bà, con gái hát xướng làm vợ; lấy vợ góa của anh, em, thay học; con của quan ty kết hôn với con của tù trưởng địa phương nơi biên giới (Luật Hồng Đức). Như vậy, các nhà làm luật thời kì phong kiến đã đồng nhất ly hơn với hủy hơn trái pháp luật, có nghĩa là, mặc dù những người kết hôn và buộc phải ly hôn do phạm vào các điều kiện kết hơn thì giá trị pháp lý vẫn tơn tại đến khi có án xử ly hơn thì thơi, chỉ có một số ít trường hợp được pháp luật cơng nhận cho cả hai người có quyền yêu cau ly hôn. Mặc dù những trường hợp mà người vợ được quyền ly hôn là rất hạn hẹp nhưng cũng đã thể hiện được tư tưởng tiễn bộ của các nhà làm luật thời kỳ này đã khá chu đáo trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của người phụ nữ và sự ôn định của đời sống gia đình.

Thời kì Pháp thuộc, mặc dù mỗi vùng, miền áp dụng một bộ luật khác nhau nhưng nhìn chung duy trì chế độ hơn nhân và gia đình lạc hậu, bất bình đăng, kìm hãm sự phát triển của các quan hệ hơn nhân và gia đình. Chế độ gia trưởng gắn liền với tư tưởng trọng nam, khinh nữ, vai trị của người đàn ơng

<small>hồn toan áp đảo vai trò của người đàn ba cả trong quan hệ gia đình và quan hệ</small>

xã hội. Ly hơn do thuận tình, một giao dịch địi hỏi vợ và chồng đều có quyền tự do bày tỏ hoặc khơng bày tỏ ý chí trở thành một chế định khơng thích hợp với nền nếp tư duy pháp lý đặt cơ sở cho hệ thống pháp luật gia đình. Cụ thể hơn, có thê tin rằng trong hệ thống pháp luật gia đình thời phong kiến dựa trên chế độ phụ quyền, hầu hết các trường hợp thuận tinh ly hôn về thực chat là các trường hợp ly hôn theo sáng kiến của người chồng, người vợ chỉ chấp nhận

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

hoặc cam chịu. Mặc dù cũng đã ghi nhận quyền yêu cầu ly hôn của vợ chồng nhưng chi trong một số trường hợp cụ thé, tại Điều 119- Dân luật Trung Ki và Điều 120 - Dân luật Bắc Kỳ quy định: Vợ và chồng có thể cùng xin ly hơn nếu vì một bên can án trọng tội, vì một bên vơ hạnh làm nhơ nhuốc đến nỗi bên kia không thê ở chung được. Ngồi ra, luật cịn quy định điều kiện hai vợ chồng có

thé xin thuận tình ly hơn là đã chung sống với nhau hai năm (Điều 121 - Dân

luật Bắc Kỳ và Điều 120 - Dân luật Trung Kỳ), còn tại Dân luật giản yếu Nam Ky lại quy định chặt chẽ hơn, vợ chồng khơng được thuận tình ly hôn nếu chưa chung sống đủ hai năm hoặc đã quá hai mươi năm; người chồng dưới 25 tuổi hay người vợ dưới 21 tuôi hoặc quá 45 tuôi; khơng có sự thuận tình của bố mẹ. Có thé nói rằng quyền u cau ly hơn của vợ chồng dưới chế độ Pháp thuộc mặc dù đã được ghi nhận nhưng còn hạn hẹp ở một SỐ trường hợp và phải có điều kiện cụ thể, chính vì vậy cũng chỉ phát huy được hiệu lực ở một SỐ người

thuộc tầng lớp trí thức.

Sau khi bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta ra đời năm 1946 ghi nhận quyền bình đăng giữa nam và nữ về mọi mặt (điều 9) - cơ sở pháp lý để đấu tranh xóa bỏ những hủ tục của chế độ hơn nhân và gia đình cũ, xây dựng chế độ hơn nhân và gia đình mới dân chủ, tiến bộ, cùng với sự phát triển nhanh

<small>chóng của xã hội và nhận thức của toàn dân, năm 1950 Nhà nước ta đã ban</small>

hành hai Sắc lệnh quy định về hôn nhân và gia đình: Sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950 và Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950, trong đó Sắc lệnh 159 đã quy định cụ thể về ly hôn, thực hiện nguyên tắc tự do hôn nhân, công nhận tự do kết hôn và tự do ly hơn, khơng cịn phân biệt dun cớ ly hôn riêng cho vợ hay riêng cho chồng mà gdp vào làm một với cách dùng từ “mét bén” thé hiện rõ sự bình đăng giữa vợ và chồng, xóa bỏ sự bất bình đăng trong các Bộ dân luật cũ. Đặc biệt, quyền bình đăng cho người phụ nữ được tự do ly hôn được nhắn mạnh và thật sự là bước ngoặt lớn trong chế độ hơn nhân và gia đình thời bấy giờ.

<small>Dưới thời kỳ Việt Nam cộng hoà (1954-1975) đây là giai đoạn cuộc</small>

kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, tuy nhiên đất nước ta vẫn tạm thời chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, do vậy pháp luật nói

<small>chung và pháp luật hơn nhân và gia đình nói riêng của nước ta thời kỳ này cósự khác biệt giữa hai miên, miên Bac áp dụng Luật Hơn nhân và gia đình năm</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

1959 đã xóa bỏ những tàn tích của chế độ hơn nhân và gia đình phong kiến, lạc hậu, xây dựng chế độ hơn nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa. Quyền tự do ly hôn của vợ chồng được quy định cụ thé tại Điều 25 “Khi hai bên vợ chong xin thuận tình ly hon, thi sau khi điều tra, nếu xét dung là hai bên tu nguyện

<small>xin ly hơn, Tịa án nhân dân sẽ cơng nhận việc thuận tinh ly hôn”. Pháp luật</small>

ghi nhận quyền yêu cau ly hôn của cả hai vợ chồng, vợ chồng bình đăng trong kết hơn cũng như ly hơn, quyền lợi của người phụ nữ đã được pháp luật bảo đảm và bảo vệ. Tại miền Nam, đề quốc Mỹ thay chân thực dân Pháp xâm lược nước ta nên hệ thống các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình do chính ngụy quyền Sài Gịn ban hành gồm Luật Gia đình 02/01/1959, Sắc luật 15/64

<small>ngày 23/07/1964, Bộ Dân luật Sài Gòn ngày 20/12/1972. Các quy định tại cácvăn bản này hồn tồn có sự khác biệt so với quy định của Luật Hơn nhân và</small>

gia đình năm 1959 áp dụng tại miền Bắc. Pháp luật chỉ là công cụ dé bọn thực

dân thực hiện sự cai trị nước ta, ban đầu vì lý do tơn giáo mà pháp luật hơn

nhân, gia đình ở miền Nam cam ly hơn (điều 55- Luật Gia đình 1959) nhưng khơng tồn tại lâu dai do sự thiếu phù hợp của nó. Sau đó được chi phối bởi các quy tắc được xây dựng có sự kết hợp giữa luật của thời kỳ thuộc địa và luật của Pháp, nghĩa là vẫn chủ yếu bảo vệ các quyên lợi của người chồng.

Từ khi Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 đến Luật Hơn nhân và gia

<small>đình năm 1986 và cao hơn là Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 thì pháp</small>

luật thật sự thể hiện sự bình đăng giữa nam và nữ: Cả hai vợ chồng đều có quyên u cau ly hơn xuất phát từ ý chí của họ. Day là một điểm tiễn bộ, nhà làm luật đã cho phép vợ chồng có thé xin ly hơn theo như đúng ý chí của họ mong muốn mà không phải chịu một sự ràng buộc nao về điều kiện cho đôi bên được ly hôn. Pháp luật quan tâm đến ý chí tự nguyện, xin thuận tình ly hôn của vợ chồng, các trường hợp ly hôn được phân loại tùy theo yêu cầu ly hôn xuất phát từ ý chí của cả vợ và chồng hay của một trong hai người, khơng căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các sự kiện được coi là nguyên nhân của sự tan vỡ quan hệ vợ chồng như trước.

1.2.2. Điều kiện hạn chế ly hôn

Pháp luật phong kiến Việt Nam: Quốc Triều hình luật hay Bộ luật Hồng

Đức là một cơng trình xuất sắc về nhiều phương diện, là bộ luật được các nhà

<small>nghiên cứu trong nước và nước ngoài đánh giá cao trong lịch sử lập pháp của</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Việt Nam, mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo trọng nam khinh nữ nhưng lại có nhiều quy định phần nào chú ý đến thân phận của người phụ nữ,

vai trò của người phụ nữ đã được đề cao hơn nhiều so với các bộ luật đương thời trong khu vực. Ly hôn là biện pháp cham dứt hôn nhân cũng được thừa

nhận trong Bộ luật Hồng Đức và điểm đặc biệt là đã đưa ra vấn đề ly hôn và hạn chế quyền yêu cau ly hôn khá giống với luật hiện đại mặc dù còn đơn giản.

Quy định về “tam bất khứ” - ba trường hợp chồng không thé ly hôn vợ là một trong những quy định pháp luật tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long so với pháp luật các nước trong khu vực tại thời điểm đó, thé hiện được sự quan tâm mặc dù rất nhỏ bé của Nhà nước phong kiến đối với người phụ nữ, “tam bất khứ” được quy định tại Điều 165 - Bộ Luật Hồng Đức và Điều 108 - Bộ Luật Gia Long gồm:

+ Dữ canh tam niên tang: Người vợ đã dé tang cha mẹ chồng đủ ba năm; + Tiền ban tiện hậu phú quý: Khi lay nhau thì nghèo hèn, về sau cùng

<small>hợp tác làm ăn trở nên giàu có;</small>

+ Hữu sở thú vơ sở quy: Khi lấy nhau còn bà con, lúc bỏ nhau khơng cịn bà con để trở về.

Chúng ta có thé thay “tam bat khứ" là quy định hạn chế quyền ly hôn chứ không phải quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn, khi xảy ra ba trường hợp trên, người chồng không được quyền ly hôn vợ.

Đến thời kì Pháp thuộc, cả hai Bộ luật Bắc Kỳ và Trung Kỳ khơng có quy định nào về van dé hạn chế quyền yêu cau ly hôn của vợ chồng.

<small>Thời kỳ cách mang dân tộc - dân chủ nhân dân (từ 1945 -1954): Cách</small>

mang Tháng 8 năm 1945 thành cơng đánh dau một cột mốc lịch sử quan trong

<small>đó là sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước moi ra</small>

đời đã rất chú trọng đến việc ban hành các văn bản pháp luật mới nói chung và

pháp luật về hơn nhân và gia đình nói riêng. Hiến pháp 1946 ra đời là cơ sở

pháp luật quan trọng cho việc ban hành các văn bản về hơn nhân và gia đình.

Thời kỳ này chế độ hơn nhân và gia đình được điều chỉnh bởi Sắc lệnh 97/SL

ngày 22/11/1950 về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật và Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 quy định về vấn đề ly hơn. Hai sắc lệnh này đã xóa bỏ các quy định lạc hậu, thể hiện được sự bình đăng giữa nam và nữ. Đặc biệt Sắc lệnh số 159 đã lần đầu tiên quy định nguyên tắc tự do ly hôn và

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

bảo vệ nguyên tắc bảo vệ phụ nữ có thai và thai nhi khi ly hôn. Tại điều 5 của Sắc lệnh quy định: “Nếu người vợ đang có thai thì vợ hay chong có thé xin tịa án hỗn sau khi sinh nở mới xử lý việc ly hôn”. Mặc da quy định này của Sắc lệnh là tạm hỗn xử việc ly hơn chứ không phải hạn chế quyền yêu cầu ly hôn cua vo chồng nhưng nó cũng đã thể hiện được sự quan tâm nhất định của Nhà nước đến người phụ nữ, thai nhi va con nhỏ; thể hiện được tính nhân đạo của pháp luật hơn nhân và gia đình nước ta thời kỳ này. Quy định trong Sắc lệnh 159 là quy phạm tuỳ nghi, về nguyên tắc, vợ chồng không bị hạn chế quyền yêu cầu ly hơn. Điều kiện người vợ đang có thai là căn cứ để tồ tạm hỗn xét xử việc ly hơn đó cho đến khi người vợ sinh con xong. Do đó, thời gian tạm hỗn phụ thuộc vào thời điểm vợ hoặc chồng u cầu ly hơn thì người vợ đang mang thai ở tháng thứ mấy (ví dụ: khi ly hôn người vợ đang mang thai ở tháng thứ năm thì thời gian tạm hỗn là khoảng 4 tháng 10 ngày, nếu người vợ sinh con đủ tháng đủ ngày...) điều kiện tạm hỗn ly hơn chỉ được áp dụng khi vợ hoặc chồng yêu cầu xin tạm hoãn.

Bước sang giai đoạn 1954 -1975, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi nhưng đất nước vẫn tạm thời bị chia cắt là hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, vì vậy pháp luật nói chung và pháp luật về hơn nhân và

gia đình nói riêng thời kỳ này có sự khác biệt giữa hai miền. Tại miền Bắc,

<small>Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 được ban hành xóa bỏ những tàn tích của</small>

chế độ hơn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu; xóa bỏ hệ thống pháp luật về

ly hôn dựa trên quan điểm bất bình dang giữa nam và nữ xây dựng chế độ hơn

nhân và gia đình mới xã hội chủ nghĩa, quan tâm đến quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, coi họ là những đối tượng cần được xã hội và pháp luật đặc biệt quan tâm, điều này đã được thé hiện tại Điều 27- Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959: “Trong trường hợp người vợ có thai, chong chỉ có thể xin ly hơn sau khi người vợ đã sinh đẻ được một năm. Diéu hạn chế này không áp dụng đối với việc xin ly hôn của người vợ”. Quy định này không những thê hiện nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em trong pháp luật hơn nhân và gia đình mà cịn thể hiện tính nhân đạo và coi trọng các giá trị truyền thống tốt đẹp của Nhà nước ta lúc bấy giờ. Ở miền Nam, sau năm 1954, đế quốc Mỹ thay chân thực dân Pháp nên hệ thong các văn bản pháp luật hôn nhân và gia đình do chính quyền ngụy Sai

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Gịn quy định, là công cụ để bọn thực dân thực hiện cai trị, chính vì vậy quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của vợ chồng không được đề cập.

Đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, mặc dù Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhưng một số điều luật khơng cịn phù hợp với tình hình đổi mới của đất nước, vì vậy Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 ra đời, bên cạnh bảo đảm nguyên tắc bình đăng giữa vợ và chồng trong ly hôn, các quy định đã quan tâm nhiều hơn đến lợi ích của bà mẹ và trẻ em, theo điều 41- Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 thì “Trong trường hợp vợ có thai, chong chỉ có thé xin ly hơn sau khi vợ đã sinh con được một năm. Điều hạn chế này không áp dụng đối với việc xin ly hôn của người vợ ”. Kế thừa Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959, Luật Hơn nhân

<small>và gia đình năm 2000 quy định “Trong trường hợp vợ có thai hoặc dang ni</small>

con dưới mười hai tháng tuổi thi chong khơng có quyền u cau xin ly hôn”. Như vậy, vấn đề hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của vợ chồng lần đầu tiên được

đề cập một cách cụ thể trong Luật Hôn nhân va gia đình 1986 và được tiếp tục

kế thừa, phát triển trong Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000. Có thê nói, đây là giai đoạn phát triển nhất trong lịch sử pháp luật Việt Nam về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của vợ chồng. Tuy nhiên, qua hơn mười năm thực hiện, bện

cạnh những quy định phù hợp với thực tiễn thì Luật Hơn nhân và gia đình năm

2000 cịn có những quy định khơng hồn tồn phù hợp trong đó có quy định về hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của vợ chồng, để hoàn thiện chế định này cần

thiết phải sửa đổi, bổ sung.

<small>1.2.3. Căn cứ ly hôn</small>

Thời kỳ phong kiến: Các nhà làm luật quy định các duyên cớ ly hôn là do lỗi của vợ hoặc chồng chứ không phải lỗi chung của cả hai vợ chồng, trong đó lỗi của người vợ là chủ yếu.

Ly hôn do lỗi của vợ: Điều 388, Luật Hong Đức quy định rõ: “vợ cả, vợ lẽ phạm phải điều nghĩa tuyệt như thất xuất mà người chong chịu giấu khơng bỏ

thì phạm phải tội biém, tùy theo việc nặng nhẹ”, điều có có nghĩa khi người vợ phạm vào một trong bảy điều thất xuất thì người chồng bắt buộc phải bỏ vợ, nếu khơng bỏ vợ thì pháp luật cũng buộc họ phải bỏ đồng thời người chồng còn bị xử biém. Đó là các tội: Vơ tử, ghen tng, ác tật, dâm đãng, khơng kính

<small>cha me, lăm lời, trộm cap. Người chồng khơng có qun lựa chọn một cách xử</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

sự nào khác ngoàải việc bắt buộc phải bỏ vợ mặc dù khơng mong muốn. Sự bất bình đăng đã được thê hiện giữa vợ và chồng bởi chỉ thừa nhận quyền bỏ vợ đơn phương từ phía người chồng.

Ly hôn do lỗi của chồng: Điều 308 - Bộ Luật Hồng Đức quy định “Phàm chong đã bỏ lửng vợ năm tháng mà không di lại (vợ được trình với quan sở tại và quan làm chứng), thì mat vợ. Nếu vợ da có con thì cho thời hạn một năm. Vì việc quan phải đi xa thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ mà ngăn người khác lấy vợ mình, thì phải tội biếm”, điều này có nghĩa là bình thường người chồng bỏ lửng người vợ năm tháng khơng đi lại thì người vợ được quyền ly hơn người chồng, cịn khi người vợ có con thì nếu người chồng bỏ lửng vợ một năm khơng đi lại thì người vợ được qun ly hơn.

Cịn ở Quốc Việt Luật lệ, hầu hết những quy định về vấn đề ly hôn gần giống các quy định tại Luật Hồng Đức nhưng có một số điểm khác đó là: Tại quyền 7, Điều 15 đã quy định rõ về “that xuất”. Nếu phạm vào bảy điều nghĩa tuyệt thì phải bỏ, khơng bỏ sẽ bị phạt, nếu vợ khơng có trạng thái nghĩa tuyệt mà bỏ thì sẽ bị phạt, ngồi ra dù vợ phạm vào bảy điều nghĩa tuyệt nhưng có ba điều khơng thé bỏ “để tang ba năm, trước nghèo sau giàu, có người cưới cũng khơng ng” nhưng nếu bỏ thì vợ được giảm hai bậc tội, cho về đoàn tụ. Bên cạnh đó, nếu vợ chồng lẫy nhau mà chung sống không ăn ý, vui vẻ, cả hai đều muốn ly di thi cho ly di mà xét cả hai không có tội. Như vậy, Quốc Việt Luật lệ đã có đôi chút tiến bộ so với Luật Hồng Đức về vấn đề ly hôn của vợ chồng, bảo vệ một chút quyền lợi của phụ nữ và đã ưng thuận vấn đề ly hôn

<small>của cả hai bên mà không xét tội.</small>

Cũng giống như pháp luật về hôn nhân và gia đình thời kỳ phong kiến,

thời kỳ Pháp thuộc, căn cứ ly hôn van dựa trên yêu tố lỗi, tuy nhiên có tiến bộ

hơn là khơng chỉ dựa vào lỗi của vợ, chồng mà còn dựa trên lỗi của cả hai vợ chồng. Trong trường hợp “vợ phạm gian; vợ bỏ nha chong ra di, tuy đã buộc phải về nhưng không chịu về; vợ thứ đánh chửi, bạo hành vợ chính” (Điều

117- Bộ Dân luật Trung Kỳ 1936 và Điều 118- Bộ Dân luật Bắc Kì 1931). Khi

chơng bỏ nhà di q hai năm khơng có lý do chính đáng và không lo liệu việc nuôi nắng vợ con; chong đuối vợ ra khỏi nhà khơng có lý do chính đáng...(Điều 118 - Bộ Dân luật Trung Kỳ 1936 và Điều 11- Bộ Dân luật Bắc

Kỳ 1931). Điều 119 - Bộ Dân luật Trung Ky 1936 và Điều 120 - Bộ Dân luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Bắc Kì 1931 quy định về những duyên cớ mà cả vợ cả chồng cùng có thể xin ly hơn như: vì một bên can án trọng lội, vì một bên vơ hạnh làm nhơ nhuốc đến noi bên kia không thé ở chung được...”. Vẫn đề ly hôn thời ky này chủ yếu được xây dựng theo tư tưởng của Nho giáo phong kiến trước đây và dựa theo Dân luật của Pháp năm 1804 với quan điểm thuần túy coi hôn nhân là một hợp đồng do Dân luật điều chỉnh, chính vì vậy yếu tố lỗi được đặt lên hàng đầu.

Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 thừa nhận khả năng ly hôn do lỗi, do một bên mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo, thậm chí do khơng hợp tính tình (Điều 2). Đây cũng là điểm hạn chế của Sắc lệnh 159/SL trong thời kỳ này.

Dưới chế độ Việt Nam cộng hoà: Tại miền Nam áp dụng Luật Gia đình ngày 02/01/1959; Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964; Bộ Dân luật ngày 20/12/1972. Các văn bản trên đều đã bãi bỏ chế độ đa thê nhưng vẫn thê hiện sự bất bình đắng giữa vợ và chồng, bảo vệ quyền gia trưởng, người vợ vẫn phụ thuộc chồng. Bộ Luật Gia đình ngày 02/01/1959 thê hiện tư tưởng cực đoan, cụ thê ở Điều 55 “cẩm chỉ sự vợ chong ruông bỏ nhau về sự ly hôn, trừ trường hợp đặc biệt Tổng thơng có thể quyết định”.

Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 và Bộ luật Sài Gòn ngày 20/01/1972 có quy định căn cứ ly hơn, tuy nhiên, việc giải quyết ly hôn dựa trên nguyên cớ ly hôn được xác định dựa trên lỗi của vợ chồng. Điều 63 -Sắc luật số 15/64 quy định năm duyên cớ ly hôn mà nội dung chủ yếu là dựa trên lý do xin ly hôn của Sắc luật ngày 17/01/1950 nhưng đã sửa lại cho cụ thé hơn: duyên cớ ly hôn

<small>“do một bên bỏ nhà di quá hai năm khơng có dun cớ chính đáng” được sua</small>

lại là “có án văn xác định sự biệt tích của người phối ngau đã thất fung ”, hoặc lý do “vợ chồng tính tình khơng hợp, đối xử với nhau khơng thể chung sống được ” thê hiện băng các hành vi cụ thê “vì ngược đãi, bạo hành hay nhục mạ thường xuyên làm cho vợ chong không thể chung sống với nhau được nita”’.

Bộ Dân luật năm 1972 quy định dun cớ ly hơn bao gồm: Vì sự mắt tích của

người phối ngẫu; Vì người phối ngẫu bị kết án trọng hình; Vì sự ngược đãi,

bạo hành nhục mạ khiến cho vợ chồng không thé ăn ở với nhau được nữa. Như

vậy, yếu tố lỗi vẫn được các nhà làm luật thời kỳ này xác định là căn cứ dé vợ chồng

<small>ly hôn.</small>

Tại miền Bắc, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực ké từ 13/01/1960 lần đầu tiên căn cứ ly hôn được xác định hoàn toàn khác, việc giải

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

quyết ly hôn không dựa trên yếu tố “/67” của các bên như trước đây mà dựa

<small>trên cơ sở thực trạng của quan hệ hôn nhân. Căn cứ ly hôn phản ánh hôn nhân</small>

không thể tồn tại được nữa, nếu xét thấy “tình trạng tram trong, cuộc song chung khơng thé kéo dai, mục đích của hơn nhân khơng dat được” thi Toa án sẽ cho ly hôn. Điều 26 - Luật Hơn nhân va gia đình năm 1959 quy định: “Khi một bên vợ hoặc chẳng xin ly hôn, cơ quan có thẩm qun sẽ diéu tra và hịa giải, hịa giải khơng được, Tịa án nhân dân sẽ xét xử. Nếu tình trang tram trọng, đời sống chung khơng thé kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt

<small>được thì Tịa án nhân dân sẽ cho ly hơn `”.</small>

Kế thừa những điểm tiến bộ của Luật Hôn nhân va gia đình năm 1959,

Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 và phát triển cao hơn ở Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định cụ thể hơn căn cứ ly hôn. Tại điều 40- Luật Hôn nhân va gia đình năm 1986 quy định về căn cứ ly hôn: “Khi vợ hoặc chong hoặc cả hai vợ chong có đơn xin ly hơn thì Tịa án nhân dân tiến hành diéu tra và hòa giải.

Trong trường hợp cả hai vợ chong xin ly hơn, nếu hịa giải không thành và xét nếu dung là hai bên thực sự tự nguyện ly hơn thì Tịa an nhân dân cơng

<small>nhận cho thuận tình ly hơn.</small>

Trong trường hợp một bên vợ hoặc chéng xin ly hơn, nếu hịa giải khơng thành thì Tịa án nhân dân xét xử. Nếu xét thấy tinh trạng tram trọng, đời sống chung không thể kéo dai, mục đích của hơn nhân khơng đạt được thì Toa an

<small>nhán dán cho ly hơn ”.</small>

<small>Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 đã từng bước nâng cao nhận thứcvà ý thức của người dân trong việc thi hành các quy định của Nhà nước, từng</small>

bước xóa bỏ chế độ hôn nhân phong kiến, tư sản thay vào đó là một chế độ hơn nhân tự do, tiễn bộ, vai trị của người phụ nữ trong gia đình và xã hội được coi

<small>trọng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định căn cứ ly hơn theo quan</small>

điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, căn cứ ly hôn không được quy định riêng

<small>biệt như trong Luật Hơn nhân va gia đình năm 1986 mà được quy định chung</small>

nhất, dựa vào bản chất của quan hệ hôn nhân đã tan vỡ, Tòa án nhân dân phải tiến hành điều tra và hòa giải nhằm bảo vệ lợi ich của gia đình và chỉ khi nào xét thay quan hệ vợ chồng đã thực sự đến mức “tinh trạng tram trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng dat được” thì Toa an mới giải quyết cho ly hôn (điều 89 -Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000).

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<small>So với Luật Hơn nhân va gia đình nam 1986, Luật Hơn nhân va gia đình</small>

năm 2000 đã kế thừa, phát triển, mở rộng và cụ thể, chi tiết hơn nhăm mục đích giải quyết tốt nhất van dé ly hôn trong xã hội Việt Nam.

<small>Nghiên cứu căn cứ ly hơn theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959,Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 và Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000</small>

có thể nhận thấy răng theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hơn

nhân và gia đình năm 1986 thì đối với trường hợp thuận tình ly hơn khơng áp dụng căn cứ ly hôn, nếu các bên tự nguyện ly hôn thì Tịa án ra quyết định thuận tình ly hơn. Căn cứ ly hôn chỉ áp dụng đối với trường hợp ly hôn do một bên yêu cầu, khi vợ chồng có đơn u cầu ly hơn, Tịa án có trách nhiệm điều tra và hịa giải, thơng qua cơng tác điều tra, hòa giải sẽ giúp Tòa án nắm rõ được tình trang của quan hệ hơn nhân đã ở trong “tinh trạng tram trọng” hay chưa và “muc dich của hơn nhân” có đạt được hay khơng dé Tịa án có những quyết định đúng dan, khách quan. Điểm tiễn bộ và khác biệt của Luật Hôn

<small>nhân và gia đình năm 2000 so với Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959, 1986</small>

ở chỗ, căn cứ ly hơn quy định tại điều 89 được áp dụng cho cả thuận tình ly hơn và ly hơn do một bên yêu cầu, bởi thực tế, nguyên nhân phát sinh tranh chấp trong cuộc sông vợ chồng dẫn đến ly hôn hay thuận tinh ly hơn cũng là do tình cảm của chồng bị rạn nứt, một trong hai bên đã khơng làm trịn nghĩa vụ của mình với gia đình hay vì tự ái cá nhân hoặc hiểu lầm trong quan hệ của vợ hoặc chồng mình nên đã quyết định yêu cầu Tòa án giải quyết cho họ được ly

hôn. Khi giải quyết cho ly hôn hay công nhận thuận tình ly hơn, Tịa án phải

xem xét “tinh trạng tram trong” của vợ chồng, tránh trường hợp ly hôn giả tao nhằm mục đích cá nhân. Đây cũng là ý nghĩa sâu xa và là mục đích của pháp luật

<small>xã hội chủ nghĩa.</small>

<small>1.2.4. Hậu quả pháp lý của ly hôn</small>

Khi ly hôn sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định: Làm cham dứt quan hệ vợ chồng về nhân thân, về tài sản, giải quyết vấn đề con chung và cấp dưỡng giữa vợ và chồng.

1.2.4.1. Hậu quả về nhân thân

<small>Pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ, theo phong tục tập quán hay theo</small>

quy định thì sau khi ly hôn hoặc sau khi quyết định ly hơn của Tịa án có hiệu

lực, quan hệ vợ chồng hồn tồn chấm dứt, vợ, chồng có quyền kết hơn với người khác. Riêng đối với pháp luật dưới chế độ Việt Nam cộng hòa, người vợ

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

được lấy lại tên riêng của minh và chỉ có thé tái giá sau 300 ngày kê từ khi hôn

nhân cham dứt.

1.2.4.2. Hậu quả về tài sản

Thời kỳ phong kiến, khi ly hôn tài sản chung của vợ chồng được thanh

tốn, giữa việc ray vợ va ly hơn đều giống nhau, chỉ phân biệt giữa việc vợ chồng có con hay khơng có con. Nếu có con, vợ khơng lấy lại tài sản riêng đã mang về nhà chong, tài sản riêng được sáp nhập vào trong khối tài sản chung của vợ chồng và do người chồng quản lý, người vợ chỉ lấy lại quần áo, tư trang và các đồ vật riêng. Người chồng có thê giao thêm cho một số tiền nhiều hay ít tùy thuộc theo tài sản riêng và sự góp sức của vợ vào khối tài sản chung, đồng thời tùy thuộc vào lỗi lầm của người vợ khi ly hôn. Nếu hai vợ chồng chia nhau con cái thì họ cũng chia nhau tài sản. Nếu người vợ khơng có con, người chồng hoàn trả cho người vợ các tài sản riêng và chia cho một phần tài sản

<small>chung, thường là một nửa (trừ những tài sản đã bán trong thời kỳ hôn nhân).Dưới thời Pháp thuộc, pháp luật quy định người vợ ly hôn, khi ra khỏi</small>

nhà chồng, được phép mang đi quần áo, tư trang, đồ dùng cá nhân. Việc phân

<small>chia các tài sản có giá trị lớn được thực hiện theo các thoả thuận trước trong</small>

hơn ước; nếu khơng có hơn ước, thì theo các quy định của pháp luật. Các giải

pháp của luật về phân chia tài sản giữa vợ chồng sau khi ly hôn được xây dựng

<small>tùy theo gia đình có hay khơng có con và người vợ có hay khơng có ngoại tình.</small>

Thời kỳ cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân (Sắc lệnh 159-SL) thì hậu quả pháp lý giữa vợ và chồng chỉ được quy định một cách chung chung: Trong trường hợp xét xử một bên có lỗi thì Tồ án có thể bắt bên đó bơi thường phí tổn cho bên kia (Điều 7). Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của một bên vợ chồng khi bên kia mắc lỗi (ngoại tình, bạo lực gia đình....), mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào hậu qua của hành vi có lỗi gây ra. Đây cũng là quy định tiến bộ, đảm bảo quyên lợi cho người phụ nữ, bởi người gây ra lỗi chủ yếu là người chồng (lại thường là người có u cầu ly hơn),

người phụ nữ trong thời bấy giờ thường cam chịu, nhẫn nhịn và là người phải chịu hậu quả của hành vi có lỗi gây ra.

Luật Hơn nhân va gia đình năm 1959 ra đời đã quy định về chế độ tai

sản của vợ chồng khi ly hôn, tại Điều 29 quy định “Khi ly hôn, việc chia tài

<small>sản sẽ căn cứ vào sự đóng góp về cơng sức của mơi bên, vào tình hình tài sản</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

và tình trạng cụ thể của gia đình”. Tuy nhiên, quy định trên chỉ mang tính khái quát cao, đồng thời chưa đưa ra những nguyên tắc phân chia tài sản. Nhược điểm này đã được khắc phục trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 tại

Điều 42 quy định chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn do hai bên thỏa thuận và

được Tịa án nhân dân cơng nhận, nếu khơng thỏa thuận được thì do Tịa án

quyết định. Đồng thời, còn quy định nguyên tắc khi chia tài sản: tài sản của

bên nào thì vẫn thuộc quyền của bên đó, tài sản chung được chia đơi...khi chia tài sản phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và của người con chưa thành

<small>nién....Quy định này được quy định rõ và hồn thiện hơn nữa ở Luật Hơn nhân</small>

và gia đình năm 2000 khi dành han một điều dé quy định về nguyên tắc chia tài

sản khi ly hôn (Điều 95), quy định chia tài sản của vợ chồng trong những trường hợp cụ thé như chia tai sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hơn (Điều 96), chia quyền sử dụng đất của vợ, chồng khi ly hôn

(Điều 97) và chia nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng (Điều 98). Sự quy

<small>định rõ ràng như hiện nay của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 đã tơn</small>

trọng cả sự thỏa thuận của hai vợ chồng, thê hiện sự bình đẳng của hai vợ chồng. 1.2.4.3. Hậu quả doi với các con

Thời kỳ phong kiến, hậu quả pháp lý của việc ly hôn không được quy

định rõ trong luật, như vậy, nha làm luật đã bỏ ngỏ, dé van dé này được giải

quyết theo phong tục tập quán (chia tài sản ly hơn, chăm sóc, ni dưỡng con

<small>chung,...). Trong gia đình phụ hệ, lẽ tự nhiên, các con mang họ cha thì sẽ ở lại</small>

gia đình với cha, nhưng cũng có khi hai vợ chồng thỏa thuận với nhau về số

con ở với cha, số con ở với mẹ, giữa cha, mẹ với các con vẫn luôn giữ liên lạc. Thời kỳ Pháp thuộc khi vợ chồng ly hôn, con cái luôn thuộc về người

<small>cha, người phụ nữ không được mang theo con mình.</small>

Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950 tại Điều 6, quy định: “Toa án sẽ CĂH Cứ Vào quyên lợi của các con vị thành niên dé án định việc trong nom, nuôi nang và day dỗ chúng. Hai vợ chẳng đã ly hôn phải cùng chịu phi ton về việc nuôi day con, mỗi người tùy theo khả năng của minh”. Như vậy, với quy định này, nhà làm luật đã nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên sau khi bố mẹ ly hôn. Điều này đã trái ngược hắn với những tập quán và pháp luật cũ của ta, xóa bỏ tư tưởng trọng nam, khinh nữ, đã trực tiếp ảnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

hưởng đến quyền lợi của người phụ nữ và gián tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi

<small>của con chưa thành niên.</small>

Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 quy định vợ chồng vẫn có mọi nghĩa vụ và quyên lợi đối với con chung (Điều 31), việc giao cho ai trông nom,

nuôi nắng, giáo dục (Điều 32) và phải cùng chịu phí tổn thương và giáo dục con cái (Điều 33). Qua đó thé hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với trẻ em, để trẻ em được lớn lên trong điều kiện tốt nhất cả về vật chất và tinh than.

Kế thừa và phát triển các quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 đã quy định tương đối cụ thê về hậu quả pháp lý đối với con khi cha mẹ ly hơn, theo quy định tại Điều 44 và 45 thì khi vợ chồng đã ly hơn vẫn có mọi nghĩa vụ và quyên đối với con chung, nhà làm luật đã xác định đó là nghĩa vụ đầu tiên của người làm cha, làm mẹ sau đó mới là quyền. Việc xác định người có nghĩa vụ trơng nom, ni dưỡng, giáo dục phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, cụ thé hơn, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã quy định mức cấp dưỡng đối với người không nuôi giữ con bằng việc khâu trừ vào thu nhập hoặc buộc phải nộp những khoản phí tốn đó khi Tịa án xác định được việc người đó trì hỗn hoặc lần tránh. Đây là quy định tiễn bộ so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của cha mẹ đối với các con.

Đến Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định ngày càng hoàn thiện vấn đề con chung, thé hiện sự quan tâm một cách sâu sắc và triệt để của

Nhà nước đối với trẻ em, thê hiện sự tiến bộ của luật pháp. Trên cơ sở kế thừa

<small>những quy định tại Luật Hơn nhân va gia đình năm 1986, Luật Hơn nhân va</small>

gia đình năm 2000 đã bổ sung các quy định như quy định rõ hơn về người được cấp dưỡng, bao gồm con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mat năng lực hành vi dân sự, khơng có kha năng lao động và khơng có tài sản dé tự ni mình (Điều 92). Việc xác định người trực tiếp ni con ngồi việc căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên phải xem xét nguyện vọng của con, về nguyên tắc con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi nếu các bên khơng có thỏa thuận khác (Điều 93).

1.2.4.4. Cấp dưỡng giữa vợ và chồng

Thời kỳ phong kiến, nếu ly hôn diễn ra trước nha mơn thì quyền lợi của người đàn bà được bảo đảm hơn, nếu được kiện thì người đàn bà còn được hưởng một số tiền bồi thường hay cấp dưỡng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Thời kỳ Pháp thuộc quy định vợ chồng có nghĩa vụ cấp dưỡng khi ly

hôn, nghĩa vụ cấp dưỡng của người chồng đối với người vợ trong thời gian

đang giải quyết việc ly hôn. Nếu người vợ tái giá, vô hạnh hoặc ăn ở tư tình với người khác thì khơng được lĩnh tiền cấp dưỡng.

Thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, Nhà nước ta ban hành hai Sắc lệnh đầu tiên về hôn nhân, Sắc lệnh số 97/SL và Sắc lệnh 159/SL. Sắc lệnh 159 quy định cụ thé về ly hôn, tại điều 7 quy định “7rong trường hợp xét xử một bên có lỗi thì Tịa án có thé bắt bên đó bơi thường phi ton cho bên kia”, quy định này xác định trách nhiệm của bên có lỗi đối với bên kia, trong trường hợp nếu

khơng có lỗi thì trách nhiệm bồi thường sẽ khơng được đặt ra.

<small>Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959, Luật Hơn nhân và gia đình năm</small>

1986 và Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 trên cơ sở kế thừa và phát triển quy định về việc cấp dưỡng giữa vợ và chồng qua các thời kỳ đã quy định cụ thể, đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ - đối tượng hay chịu nhiều thiệt thịi khi ly hơn sẽ có cuộc sống đảm bảo sau ly hơn. Tại Điều 60 - Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hơn thì: "Khi ly hơn, nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cau cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình". Đây tuy là một quy định của pháp luật nhưng lại thể hiện tính nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục và nâng cao giá trị đạo đức xã hội, thể hiện tinh thần

tương thân tương ái, thé hiện tình nghĩa vợ chồng ngay cả khi quan hệ vo

chồng đã khơng cịn được pháp luật bảo hộ.

Như vậy, qua nghiên cứu các vấn đề ly hôn trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ thời kỳ phong kiến đến nay, chúng ta thấy được vấn đề ly hôn được quy định ngày càng chỉ tiết, rõ ràng và ngày càng được hoàn thiện, thể hiện sự quan tâm của xã hội đối với vẫn đề này.

<small>1.3. CHE ĐỊNH LY HON CUA MOT SO QUOC GIA</small>

Pháp là quốc gia có nền lập pháp phát triển và có ảnh hưởng lớn tới các nước trên thế giới và khu vực. Bộ luật dân sự Pháp năm 1804 hay còn gọi là

Bộ luật Napoleon là một sản phẩm của quá trình pháp điển hóa giữa những qui định mang tính chuẩn mực trong pháp luật La Mã và một số tập quán đương

thời, Bộ luật dân sự Pháp thường được xem là “khuôn vàng thước ngọc” dé các quốc gia khác học tập khi xây dựng dân luật. Cho đến ngày nay, chúng ta vẫn

khơng thê phủ nhận tính mẫu mực của các qui định trong dân luật Pháp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Thái Lan là quốc gia trong khu vực Đông Nam Á dễ tiếp nhận và thích nghi với những yếu tố được du nhập nhất. Việc hình thành pháp luật ở Thái Lan chủ yếu cũng là do tiếp thu từ pháp luật nước ngồi trong đó có pháp luật

<small>của Pháp, Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan là một trong những bộ luậtđược xây dựng theo pháp luật Pháp. Chính vì vậy, việc nghiên cứu hai hệ</small>

thống pháp luật của Pháp và Thái Lan cho chúng ta thấy được sự tiến bộ trong

kỹ thuật lập pháp nói chung và pháp luật hơn nhân và gia đình, cụ thê là chế định ly hơn nói riêng. Đồng thời, cho chúng ta thay được sự khác nhau cơ bản về bản chất của pháp luật tư bản và pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Chế định ly hôn trong pháp luật của Pháp được quy định tại thiên VI quyền thứ 3 Bộ Luật Dân sự Pháp.

Chế định về ly hôn trong pháp luật của Thái Lan được quy định tại Quyền V- Gia đình - Bộ Luật Dân sự và thương mại Thái Lan.

Nghiên cứu chế định ly hôn trong pháp luật của Pháp và Thái Lan, luận

văn nghiên cứu với 4 nội dung: Quyền yêu cầu ly hôn, điều kiện hạn chế quyền yêu cầu ly hôn, căn cứ ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn.

1.3.1. Chế định ly hôn theo pháp luật của Pháp - Quyên yêu cầu ly hôn

Pháp luật của Pháp đã thé hiện ngun tắc bình đăng giữa vo và chồng, tơn trọng quyền của người phụ nữ trong quan hệ hôn nhân và gia đình. “Vo hoặc chong có qun u cau Tịa án giải quyết việc ly hơn nếu người kia vi phạm nghiêm trọng hoặc vỉ phạm nhiễu lan các nghĩa vụ hôn nhân khiến cho đời sống chung giữa vợ chong không thể kéo đài "(Điều 242 - Bộ luật Dân sự Pháp). Với bản chất hôn nhân là một hợp đồng dân sự nên vợ, chồng có quyền ngang nhau về quyền yêu cầu ly hôn.

- Điều kiện hạn chế quyên yêu cau ly hôn

Pháp luật của Pháp không quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hơn vì trong quan hệ hơn nhân, hai bên có quyền, nghĩa vụ như nhau (quan hệ trong hợp đồng dân sự). Điều này khác biệt với pháp luật về hơn nhân và Gia đình Việt Nam mang bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa: quan tâm đến sức khỏe sinh sản của người phụ nữ và quyền trẻ em.

<small>- Can cứ ly hôn</small>

Pháp luật của Pháp căn cứ trên cơ sở lỗi và xem xét đến tình trạng hôn nhân thực tế của vợ chồng, với các quy định duyên cớ lỗi một cách bình đăng

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

cho cả hai bên vợ chồng, vì thế khi vợ hoặc chồng có lỗi, người kia có thể kiện địi ly hơn nhưng về bản chất, một trong hai bên có lỗi chưa chắc đã dẫn đến tình trạng hơn nhân thực sự tan vỡ, vì vậy gây thiệt thòi cho các bên vợ chong. Điều 229- Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “Có thé giải quyết cho ly hôn trong các trường hợp sau: Ly hôn do lỗi ”.

Điều 230 - Bộ Luật Dân sự Pháp quy định “nếu hai vợ chong cùng xin

<small>ly hơn thì phải nói rõ ly đo”, trong trường hợp này căn cứ ly hôn được xác định</small>

nếu việc ly hôn do bên kia làm cho cuộc sống chung không thẻ tiếp tục và bên kia chấp nhận thì Thâm phán tuyên bố cho ly hôn mà không cần xem xét yếu

tố lỗi. Như vậy, trong trường hợp này ly hôn được giải quyết theo sự thỏa

thuận của hai bên vợ, chồng, điều này phù hợp với bản chất của hôn nhân theo pháp luật Pháp là một hợp đồng dân sự. Theo Điều 243- Bộ luật Dân sự Pháp thì “vợ hoặc chong có thé xin ly hơn khi nêu ra toàn bộ những sự việc bắt nguồn từ bên vợ hoặc chông là do cuộc sống chung không thể tiếp tục ”. Theo quy định này, một bên vợ hoặc chồng làm đơn đến Tịa án xin ly hơn trong đó có nêu lỗi của bên kia và nếu bên kia thừa nhận lỗi trước Tịa án thì Tịa án sẽ tuyên ly hôn. Hôn nhân là sự tự nguyện của hai bên nam - nữ, là sự liên kết suốt đời giữa vợ và chồng, được xây dựng trên cơ sở tình u chân chính,

chính vì vậy, khi một trong hai bên có lỗi thì có nghĩa họ đã tự phá vỡ sự liên

kết ấy, tự mình vi phạm thỏa thuận giữa hai người, do đó, trong trường hợp cả hai vợ chồng cùng nộp đơn lên Tòa án u cầu ly hơn vì cuộc sống chung đã

cham dứt hồn tồn va do lỗi thì trước hết, Thâm phán sẽ giải quyết yêu cầu ly

hôn do lỗi (điều 246 - Luật số 2004-439 ngày 26/5/2004). Khi xem xét, Bộ luật Dân sự Pháp cũng xét đến tình trạng hơn nhân thực tẾ của vợ chồng, Tòa án sẽ xử cho ly hơn nếu tính tình của một người đã thay đổi đến mức không thé sống chung được nữa và theo những dự đốn có lý nhất khơng thể được khôi phục trong tương lai. Bên cạnh việc xác định tình trạng đời sống chung tan vỡ, pháp luật của Pháp còn quy định cuộc song chung của vợ chồng được coi là hoàn toàn cham dứt khi hai vợ chồng đã sông riêng biệt từ hai năm trở lên, tính từ thời điểm có quyết định triệu tập ra tồ dé giải quyết việc ly hơn (Điều 238- Bộ

<small>luật dân sự Pháp).</small>

<small>- Hậu qua pháp lý của ly hôn</small>

+ Quan hệ nhân thân giữa vợ và chong: Pháp luật Pháp giỗng như pháp

luật Việt Nam quy định sau khi bản án hoặc quyết định của Tịa án có hiệu lực,

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

vợ chồng chấm dứt quan hệ nhân thân, khơng có nghĩa vụ u thương, chăm sóc,

quan tâm đến nhau.

Tuy nhiên, theo pháp luật của Pháp thì khi kết hơn, vợ, chồng được sử dụng họ của nhau, sau khi ly hôn vợ, chồng không được sử dụng họ của người kia. Nếu người kia chứng minh được việc sử dụng họ đó có liên quan đến lợi ích đặc biệt của bản thân hoặc của các con với điều kiện là nguoi vo, người chồng kia đồng ý của Thâm phan cho phép (Điều 264 - Bộ luật Dân sự Pháp).

+ Quan hệ tài sản giữa vợ và chong: Theo pháp luật của Pháp thì việc

ly hơn khơng ảnh hưởng đến các lợi ích có được trong thời gian hôn nhân và việc tặng cho tài sản hiện có dưới mọi hình thức (Điều 265-1 -Luật 2004 -

439-Bộ Luật Dan sự Pháp). Đối với tai sản là nơi ở của gia đình va là tài sản của một bên thì Thâm phán có thể quyết định cho thuê nơi ở đó cho người vợ hoặc người chồng.

+ Van dé cấp dưỡng giữa vợ va chong sau ly hôn

Với bản chất là một hợp đồng dân sự, khi ly hơn điều đó có nghĩa một bên tham gia hợp đồng đã có lỗi, vi phạm các điều khoản của hợp đồng, vì vậy, bên vi phạm hợp đồng sẽ phải bồi thường cho bên còn lại, theo pháp: “Mộ trong hai vợ chơng có thể có nghĩa vụ trả cho bên kia một khoản trợ cấp trong phạm vi khả năng của minh dé bù trừ sự chênh lệch về điều kiện sống giữa hai vợ chong do việc chấm ditt hôn nhân gây nên ”. Mức trợ cấp bù trừ có tính chất trọn gói bang tiền hoặc tài sản khác và do Tham phán quyết định. Phương thức

thực hiện phụ cấp bù trừ do Tham phán áp dụng như nộp một khoản tiền, giao

tài sản hoặc giao quyền sử dụng đất, quyền cư trú hoặc quyền thu hoa lợi tạm thời hoặc suốt đời đối với tài sản theo định kì, hàng tháng một lần hoặc nhiều lần (Điều 274 - Luật 2004 -439 - Bộ Luật Dân sự Pháp). Việc hưởng trợ cấp bù trừ căn cứ các tiêu chí cụ thể hoặc ly hơn hồn tồn do lỗi của người vợ hoặc chồng đã yêu cầu trợ cấp bù trừ. Khi tính phụ cấp bù trừ, Thâm phán quyết định căn cứ vào các tiêu chí cụ thể: Thời gian hơn nhân, tuổi, tình trạng

sức khỏe của vợ, chồng, trình độ chuyên môn và việc làm của vợ chồng; Tài

sản ước tính hoặc tai sản dự kiến, trợ cấp hưu trí...) (Điều 6 và 18II Luật 2004

<small>-439 - Bộ Luật Dân sự Pháp).</small>

<small>+ Quan hệ giữa cha, mẹ với con sau khi ly hôn</small>

Quan hệ giữa cha mẹ với con sau khi ly hơn vẫn được duy trì như khi

<small>hơn nhân cịn đang tơn tại, cha mẹ có quyên và nghĩa vụ yêu thương, chăm</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

sóc, ni dưỡng, giáo duc các con. Khi ly hơn, nếu các con khơng ở cùng cha, mẹ thì cha, mẹ có quyền cấp dưỡng ni con. Pháp luật Pháp quy định hai phương thức cấp dưỡng đó là theo thỏa thuận và do Thâm phán quyết định phương thức và hình thức chi trả. Điều 264 - Bộ Luật Dân sự Pháp quy định: “Bằng việc nộp khoản tiên tồn bộ hoặc một phan cho cơ quan có thẩm quyên, cơ quan này cáp dan cho con, lợi tức theo chỉ số tại thời điểm thanh toán bằng quyên hưởng dung hoa lợi hoặc thu hoa lợi từ tài sản của minh”.

1.3.2. Chế định ly hôn theo pháp luật của Thái Lan - Quyên yêu cầu ly hôn

Pháp luật Thái Lan cũng giống như pháp luật của Pháp coi hơn nhân là một hợp đồng dân sự, vì vậy vợ chồng có các quyền và nghĩa vụ ngang nhau về quan hệ nhân thân và tài sản. Nếu một trong các bên “phd vỡ cam kết" thì đương nhiên hợp đồng chấm dứt, bên cịn lại sẽ có quyền kiện địi chấm dứt hợp đồng, chấm dứt hơn nhân. Tại Điều 1514- Bộ Luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định “Việc ly hơn chỉ có thể được tiến hành với sự dong ÿ của cả hai vợ chong hoặc theo phan quyết cua Toa an. Việc ly hơn được tiễn hành có đồng ý của cả hai bên phải được làm bằng văn bản và có ít nhất hai chữ ký xác nhận của hai người làm chứng”. Khi các bên vợ chồng không cùng đồng ý ly hơn thì quyền u cầu ly hơn được pháp luật ghi nhận bình dang cho các bên vợ chồng.

- Điều kiện hạn chế quyên yêu cau ly hôn

Pháp luật của Thái Lan cũng giống như pháp luật của Pháp không quy

định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn.

<small>- Can cứ ly hôn</small>

Cũng giống như pháp luật của Pháp, pháp luật Thái Lan thừa nhận hai trường hợp ly hơn là thuận tình ly hơn và theo quyết định của Tịa án khi một bên vợ hoặc chồng có đơn yêu cầu. Tại Điều 1516- Bộ luật Dân sự và Thương

mại Thai Lan quy định cơ sở dé kiện địi ly hơn:

- Người chong đã ni dưỡng hoặc thờ phụng một người đàn bà khác như vợ mình hoặc người vợ có ngoại tình. Đây là cơ sở đầu tiên để một trong các bên cịn lại có thé kiện địi ly hơn. Trong quan hệ hơn nhân, pháp luật Thái Lan cũng như pháp luật Việt Nam và các nước khác tôn trọng nguyên tắc một

<small>vợ một chong, luôn đê cao sự chung thủy cua vợ chong. So với Luật Hơn nhân</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

và gia đình Việt Nam, pháp luật Thái Lan đã quy định cu thé va chi tiết hon các hành vi của vợ hoặc chồng là cơ sở dé ly hôn.

- Vợ hoặc chong có phạm lỗi, có hành vi đạo đức xấu, bat kề hành vi đó có phải là một tội hình sự hay khơng, néu nó gây cho người kia...Vợ hoặc chong bị hành hạ nghiêm trọng về thể xác và tinh than, lăng mạ người kia hoặc con cai của người đó... (Khoản 2,3 - Điều 1516 - Bộ Luật Dân sự và thương mại Thái Lan). Cũng giống như pháp luật của Pháp, pháp luật của Thái Lan cũng đề cao yếu tố lỗi trong quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng, phịng ngừa tình trạng bạo lực gia đình nhằm bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em.

- Bên cạnh đó, nếu người vợ hoặc chồng đã rời bỏ người kia hơn một năm; bị tuyên mất tích hoặc rời bỏ nơi cư trú của mình hơn ba năm mà khơng biết chắc chan là người đó cịn sống hay đã chết thì người cịn lại có quyền

<small>kiện địi ly hơn. Theo quy định này, trong khoảng thời gian dài người vợ,</small>

người chồng không được sự chăm sóc, u thương, chia sẻ của người cịn lại, khơng cịn chung sống cùng nhau thì mục đích cuả hơn nhân khơng đạt được thì hơn nhân cũng tan vỡ, người vợ, người chồng có quyền xin ly hơn, đây là u cầu chính đáng xuất phát từ thực tiễn của quan hệ hôn nhân.

- Vợ hoặc chồng đã phá vỡ cam kết của mình về giữ đạo đức tốt.

<small>- Hậu quả phap ly của ly hôn</small>

+ Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng: Pháp luật Thái Lan quy định sau khi bản án hoặc quyết định của Tịa án có hiệu lực, vợ chồng chấm dứt quan hệ nhân thân, khơng có nghĩa vụ u thương, chăm sóc, quan tâm đến nhau.

+ Quan hệ tài sản giữa và chong

Khi u cầu ly hơn, các bên có quyền thỏa thuận với nhau để xử lý và phân chia tài sản, nếu khơng thỏa thuận được thì Thâm phán quyết định. Bản chất của hôn nhân là hợp đồng dân sự nên khi ly hôn, hai bên vợ, chồng tiến

<small>hành “thanh ly tài san”.</small>

Điều 1532 - Bộ Luật Thương mại va Dân sự Thai Lan quy định: “Sau khi ly hôn, tài sản của vợ và chong phải được tiễn hành thanh lý, trong trường hợp ly hôn có sự dong ý của cả hai bên thì việc thanh lý sẽ áp dung đổi với tài sản của vợ và chẳng có vào ngày đăng ký ly hơn. Trong trường hop ly hơn theo phán quyết của Tịa án thì việc thanh lý sẽ áp dung đối với tài sản của vợ và

<small>chống có vào ngày vụ kiện doi ly hôn được Toa án thụ lý”. Vê các khoản nợ</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

với người thứ ba, sau khi ly hôn, các bên đều phải chịu trách nhiệm ngang nhau (Điều 1535 - Bộ Luật Dân sự và Thương mại Thái Lan).

+ Vấn dé cắp dưỡng giữa vợ và chẳng sau ly hôn

Trong quan hệ hôn nhân, yếu tố lỗi được đặt lên hàng đầu, bên nào có lỗi thì phải bồi thường cho bên kia một khoản tiền nhất định, pháp luật Thái Lan cũng giống như pháp luật của Pháp, bên nào có lỗi thì phải bồi thường, có chăng chỉ khác về tên gọi, nhưng pháp luật Thái Lan khác pháp luật Pháp ở chỗ quy định cụ thé đối tượng phải bồi thường là người có hành vi ngoại tình, khơng chỉ là người vợ, người chồng có hành vi ngoại tình mà cả người đàn ông, người đàn bà đã công khai ngoại tình với vợ hoặc chồng của họ. “Nguoi chong có qun khiếu nại địi bơi thường bat cứ người nào đã tự do ngoại tình với vợ minh; Và người vợ có qun khiếu nại địi người đàn bà khác đã cơng khai phơi bày quan hệ ngoại tình với người chơng của mình phải bơi thường” (điều 1523 - Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan).

<small>+ Quan hệ giữa cha, mẹ với con sau khi ly hôn</small>

Điều 1522 -Bộ Luật Dân sự và thương mại Thái Lan quy định: “Trong trường hợp ly hơn có sự dong ý của cả hai bên, thì phải có một sự dàn xếp và ghi vào bản thỏa thuận ly hôn về việc người nào, vợ hay chong hay cả hai sẽ

<small>đóng góp vào việc ni dưỡng con cải và sẽ phải đóng góp bao nhiêu. Trongtrường hợp Toa an xu ly hôn hoặc trong trường hợp thỏa thuận ly hôn khơng</small>

ghi nhận gì về việc ni dưỡng con cái, thì Tịa án sẽ quyết định vấn dé đó".

Bang việc quy định người cha, người mẹ nộp một khoản tiền hoặc tồn bộ số

tiền cấp dưỡng cho cơ quan có thâm quyền, việc cấp dưỡng đối với các con được đảm bảo, mặt khác có lợi cho các con khi được hưởng cả phần lợi tức, hoa lợi từ khoản tiền cấp dưỡng của cha, mẹ mang lại. Đây là cách làm thuận tiện và có lợi cho bố, mẹ và các con. Vấn đề ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái sau khi ly hôn hầu hết được pháp luật các nước tôn trọng sự thỏa thuận của vợ chồng, nếu khơng thỏa thuận được Tịa án sẽ ra phán quyết có tính đến yếu tố thuận lợi nhất cho sự phát trién của con trẻ, có chăng chỉ khác nhau về

<small>phương thức thực hiện.</small>

Điểm chung giữa pháp luật của Pháp và Thái Lan đó chính là việc quy định chế định về ly thân. Pháp luật của Pháp dành hắn một chương quy định về ly thân. Ly thân là một trong các điều kiện để ly hôn, nếu vợ hoặc chồng đã

tình nguyện sống ly thân vì không thể chung sống hạnh phúc trong hơn ba

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

năm, hoặc sống ly thân hon ba năm theo quyết định của Toa án thì bất kế người nào trong số họ cũng có thê kiện địi ly hôn (Điểm 4.2, Khoản 4, Điều

<small>1416 - Bộ Luật Dân sự và thương mại Thái Lan). Khoảng thời gian ba năm là</small>

thời gian dé hai vợ chồng có thé suy nghĩ có tiếp tục chung sống với nhau hay

cham dứt quan hệ hôn nhân, là thời gian “tam đờng” quan hệ hơn nhân giữa vợ và chồng, dé sau đó họ có những quyết định phù hợp, tiếp tục duy trì hay cham dứt hơn nhân. Day là quy định nham hạn chế ly hôn và phù hợp với tinh trạng của đời sống hôn nhân.

Qua nghiên cứu chế định ly hơn của Pháp và Thái Lan có thé thay đây là hai quốc gia có những quy định tiến bộ và phù hợp mang tính nhân văn sâu sắc trong quan hệ hơn nhân: Quyền bình đăng giữa vợ và chồng: Tôn trong quyền, nghĩa vụ của các bên, hạn chế tình trạng bạo lực gia đình nhất là đối với phụ nữ, bảo vệ quyền của trẻ em trong quan hệ hôn nhân. Quan hệ hôn

nhân xét về bản chất là quan hệ giao dịch dân sự, theo đó hai bên có thé thỏa

thuận, cam kết với nhau về quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản, yếu tố lỗi của một trong các bên là căn cứ để bên cịn lại có thé kiện địi ly hôn. Day là căn cứ sát thực và phù hợp nhất trong mọi quan hệ dé Toa án xem xét và ra các quyết định đúng đắn, kịp thời.

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<small>Chương 2</small>

LY HÔN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

<small>2.1. QUYEN YÊU CAU LY HON VA HAN CHE QUYEN YÊU CAU LY HON</small>

2.1.1. Quyền yêu cầu ly hôn của vợ chồng

“Ly hôn là cham diet hôn nhân do Tịa án cơng nhận hoặc quyết định theo u cẩu của vợ chong hoặc ca hai vợ chong” (Khoan 8, Điều 8, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000). Như vậy, quyền yêu cầu ly hôn là quyền nhân thân gắn liền với vợ, chồng, không thé chuyền giao cho người khác. Quyền tự do ly hôn của vợ chồng đã được Nhà nước ta ghi nhận nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng và các chủ thé có liên quan. Điều 64 - Hiến pháp 1992 quy định: “Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chẳng, vợ chong bình dang”, Hiến pháp 2013 - Điều 36 cũng đã kế thừa quy định trên, để cụ thể hóa, tại Điều 85 - Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Vo, chong hoặc cả hai người có qun u cau Tịa án giải quyết việc ly hôn”, Điều 42 - Bộ luật Dân sự năm 2005: “ Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyên yêu cau Tịa án giải quyết việc ly hơn ”.

Qun ly hôn khác với quyền yêu cầu ly hôn, quyền ly hơn là quyền tự nhiên có ngay từ khi vợ chồng kết hôn, là quyền dân sự tuyệt đối không bị hạn chế, bat kỳ chủ thé nào cũng có quyền ly hơn cho dù có hay khơng có đủ năng

lực hành vi dân sự và được thực hiện bằng chính hành vi của chủ thé có quyền.

Cịn đối với quyền yêu cầu ly hôn không phải là quyền tự nhiên mà là quyền vợ chồng có được thơng qua việc thực hiện quyền ly hơn của mình trước pháp luật (Tịa án) và chỉ có được khi các chủ thé có yêu cầu và thực hiện theo đúng các thủ tục pháp luật quy định. Bên cạnh đó, quyền u cầu ly hơn của các chủ thể có thể bị hạn chế trong những trường hợp nhất định, cụ thể theo Khoản 2

-Điều §5 - Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 thì quyền yêu cầu ly hơn của

người chồng bị hạn chế khi người vợ có thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tudi. Quyền yêu cầu ly hôn của người phụ nữ không bi hạn chế ngay cả khi mang

thai và nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Pháp luật đảm bảo nguyên tắc tự nguyện trong ly hôn. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống xã hội có rất nhiều trường hợp vợ hoặc chồng lợi dụng quy

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

định này dé trục lợi: Theo quy định của pháp luật, khi vợ hoặc chồng bị tâm thần khơng có kha năng điều khiển hành vi, bi Tòa án tuyên bố mất năng lực

hành vi dân sự thì họ khơng có khả năng thé hiện ý chí tự nguyện trong việc ly

hơn, do đó, người chồng hoặc người vợ cịn lại khơng u cầu ly hơn nhưng lại có hành vi ngược đãi, hành ha họ, pha tán tài sản chung thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ rất khó được đảm bảo. Trong trường hợp này, người vợ hoặc người chồng còn lại là người giám hộ đầu tiên cho chồng hoặc vợ mình, đồng thời là người đại diện theo pháp luật. Mọi giao dịch liên quan đến tài sản chung cua vo chồng sẽ do người đại diện thực hiện. Việc giám sát việc giám hộ cũng

như giám sát mọi hành vi của người đại diện trong các mối quan hệ liên quan

đến tài sản và thân nhân người vợ hoặc người chồng bị mất năng lực hành vi dân sự rất khó thực hiện. Trong rất nhiều trường hợp cha mẹ đẻ của người vợ hoặc người chồng mat năng lực hành vi dân sự rất muốn con mình được giải

<small>thốt khỏi cuộc hơn nhân đó nhưng theo quy định của pháp luật họ khơng có</small>

qun u cau ly hôn cho con của họ, trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân không thé được chấm dứt. Van dé tự nguyện trong ly hôn cũng là một van dé mà vợ chồng có thé lợi dụng dé ly hơn nhăm những mục đích khác. Về nguyên tắc, chỉ khi vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng nhận thức được đầy đủ rằng cuộc hôn nhân của họ đã tram trọng, khơng thể tồn tại được nữa thì họ mới u cầu ly hơn dé giải phóng cho cả hai bên. Tuy nhiên, trên thực tế, có rất nhiều

trường hợp, vợ chồng đã thuận tình ly hơn nhằm mục đích tau tán tài sản, trỗn tránh nghĩa vụ về tài sản hoặc nhằm mục đích xuất cảnh ra nước ngồi và do

căn cứ ly hơn hiện nay rất chung chung, không cụ thể nên việc giải quyết ly hôn cho các trường hợp này là rất dé dàng, khó kiểm sốt, trường hợp này

<small>được gọi là ly hơn giả tạo. Bên cạnh đó, có những trường hợp người vợ, người</small>

chồng bị bên kia cưỡng ép ly hôn (dùng bạo lực, uy hiếp tinh than....) hoặc lừa dối ly hôn nhằm làm cho bên kia thuận tình ly hơn vì việc giải quyết thuận tình ly hơn thường được giải quyết rất thuận lợi và nhanh chóng.

2.1.2. Điều kiện hạn chế quyền yêu cầu ly hôn đối với người chồng

Khoản 2 - Điều 85- Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang ni con dưới mười hai tháng tuổi thì chong khơng có qun u cau xin ly hơn”. Quy định này là sự kế thừa va phát triển từ các văn bản pháp luật ở các giai đoạn lich sử trước. Luật Hơn nhân va

gia đình năm 1959 quy định: “7rong trường hợp người vợ có thai, người chong

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

chỉ có thể xin ly hơn sau khi vợ đã sinh đẻ được một năm. Điều hạn chế này không áp dụng doi với việc xin ly hôn của người vợ” (Điều 27); Luật Hôn nhân

<small>và gia đình năm 1986 cũng quy định tương tự “7zong frường hợp người vợ có</small>

thai, chong chỉ có thé xin ly hôn sau khi vợ đã sinh con được một nam. Điều hạn chế này không áp dung đối với việc xin ly hôn của người vợ” (Điều 41).

Qua những quy định trên có thể thấy Luật Hơn nhân và gia đình năm

<small>1959, Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 quy định là tương tự nhau. Luật</small>

Hôn nhân và gia đình năm 2000 có một số điểm khác biệt nhất định: Ở cả ba văn bản pháp luật này đều có điểm chung là khi người vợ mang thai thì người chồng khơng có quyền u cầu ly hơn nhưng khác nhau ở chỗ, Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986 thì bắt buộc

<small>người vợ phải có sự kiện sinh đẻ, sau khi người vợ sinh đẻ được một năm</small>

người chồng mới có quyền u cau ly hơn, bat kể người con được sinh ra cịn

sơng hay đã chết. Trong khi đó, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 lại quy

định bắt buộc phải có hành vi “dang nudi con dưới mười hai tháng tuổi”, tức là có thê không ton tại việc sinh đẻ của người vợ, miễn là người vợ đang có hành vi ni con dưới mười hai tháng tuổi (có thé là con ni) thì người chồng khơng có quyền u cầu ly hơn. Nhưng trong trường hợp người vợ sinh con, không may đứa trẻ bị chết thì người vợ lại đang khơng ni con, vì vậy, người chồng khơng bị hạn chế qun yêu cau ly hôn.

Việc pháp luật quy định hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng là xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ bà mẹ trẻ em, tạo điều kiện cho người phụ nữ thực hiện tốt thiên chức của mình, bởi vì trong thời kỳ người vợ đang mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ thường có sự thay đổi nhất định về tâm sinh lý theo chiều hướng tiêu cực, mặt khác, việc sinh con và nuôi con nhỏ ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe của người vợ, vì vậy trong thời gian này, người vợ rất cần sự quan tâm, chia sẻ của người chồng. Tuy nhiên, theo cách quy định tại luật thực định, nếu người vợ sinh con mà đứa trẻ bị chết, người chồng được quyền yêu cầu ly hôn thì có thé coi đây là “cứ sốc kép”, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến người vợ cả về thê chất và tinh thần.

2.1.2.1. Điều kiện hạn chế quyền ly hôn đối với người chồng được xem xét cu thé trong các trường hợp sau

<small>- Trường hợp người vợ có thai</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Dé xác định trường hợp này cần thiết phải hiểu thế nào là “có thai’. Có thê hiểu có thai là đang mang thai được khơng? có nghĩa trong cơ thé người mẹ đang tồn tại một phôi thai - đứa con tương lai của vợ chồng. Phôi thai là sự kết hợp trứng của người vợ và tỉnh trùng của người chồng qua chu trình mang

thai tự nhiên hoặc qua việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nhưng phơi thai đócó nhất thiết phải đang nam trong cơ thé của người mẹ cho dù phơi thai cũng

có thể có hoặc khơng mang gen của vợ hoặc chồng hoặc cả của hai vợ chồng

trong việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản?

Xét với trường hợp người phụ nữ đang mang thai là kết quả của quá trình tự nhiên thì việc người phụ nữ đang mang thai có thé dựa trên các yếu tố sinh học như cơ thé người phụ nữ có những biến đôi nhất định, trọng lượng cơ thé tang nhanh, dac biét phan bung phat triển do chứa đựng bào thai, có hiện tượng “ ốm nghén ”... Tuy nhiên, trên thực tẾ, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ đã sản xuất những loại thuốc có khả năng tác động khiến cơ thé người phụ nữ có những biến đổi sinh học giống như có thai nhưng trên thực tế lại khơng phải đang mang thai. Trong trường hợp đó, cần thiết phải dựa vào kết quả y khoa của các bác sĩ chân đốn sự hình thành thai nhi trong cơ thé người phụ nữ, thường được gọi là kết quả siêu âm dé xác định người phụ nữ đang mang thai hay không. Với trường hợp phôi thai là kết quả của

việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định người phụ nữ có thai sẽ

được xác định như thế nào? Theo quy định tại Khoản 2 - Điều 85 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP khơng quy định việc xác định một người phụ nữ là đang có thai băng hình thức, phương pháp

nào nên thơng thường khi áp dụng trên thực tế, cơ quan chức năng dựa trên

những biéu hiện của sự thay đôi cơ thé người phụ nữ dé đưa ra kết luận cu thể. Trên thực tế đã xảy ra trường hợp phơi thai đó chưa cấy vào tử cung người

<small>vợ thì có được coi là trường hợp đặc biệt của trường hợp người vợ có thai khơng?</small>

Xét về mặt khoa học, đây chính là quá trình thụ tinh trong ống nghiệm, là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm dé tạo thành phôi. Trong trường hợp mang thai tự nhiên, quá trình trên đều diễn ra trong cơ thể của người phụ nữ và được pháp luật thừa nhận và là điều kiện để hạn chế quyền ly hôn của người chồng. Cịn đối với q trình mang thai bằng phương

pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, quá trình hình thành phơi thai được diễn ra ngồi cơ thé của người mẹ, luật thực định khơng có quy định cũng như hướng dẫn

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

cụ thé về trường hợp nay, vì cùng là q trình hình thành phơi thai, do đó nên

chăng pháp luật cần coi đây là trường hợp đặc biệt của trường hợp người vợ có

thai dé hạn chế quyền yêu cau ly hôn của người chồng? Trường hợp phôi thai mà người mẹ đang mang có thé là sự kết hợp trứng của người vợ và tinh trùng của người đàn ông khác không phải là tỉnh trùng của người chồng qua chu

<small>trình mang thai tự nhiên.</small>

Theo quy định tại Khoản 2, Điều 85, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 và Mục 6 - Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP thì trường hợp người vợ có

thai hoặc đang ni con dưới mười hai tháng tuổi “khơng phân biệt người vợ

có thai với ai hoặc bố của đứa trẻ dưới mười hai tháng tuổi là ai” người chồng đều khơng có quyền u cầu xin ly hơn vo. Như vậy, có thé hiểu, người chồng khơng có quyền u cau xin ly hơn vợ đối với cả trường hợp người vợ có thai với người thứ ba hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi mà đứa con đó là con của người thứ ba. Với quy định này đã thé hiện quan điểm lập pháp của

<small>nhà lập pháp Việt Nam: bảo đảm sức khỏe sinh sản của bà mẹ. Tuy nhiên, theo</small>

quan điểm của chúng tơi, nếu trong trường hợp phơi thai đó khơng phải là đứa con tương lai của người chồng (do người vợ đang có thai thì kết hơn; do người

<small>vợ ngoại tình trong thời kỳ hơn nhân mà có thai; do người vợ tự ý sinh con</small>

băng phương pháp khoa học) thì có thé người mẹ sé gặp nhiều nguy hiểm đến sức khoẻ và tính mạng khi pháp luật hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng. Mặt khác, có thé dẫn đến trường hợp người vợ lạm quyền như có thai

liên tục dé cố tình hạn chế quyên yêu cau ly hôn của người chồng. Nếu mang

thai hộ được thừa nhận trong tương lai thì có nên áp dụng điều kiện hạn chế ly hôn cho cả hai người chồng (chồng của người mang thai hộ và chồng trong cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ) hay không?

- Trường hop đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi

Theo quy định tại Khoản 2, Điều 85, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 và Khoản 6 - Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP “không phân biệt người vợ có thai với ai hoặc bố của đứa trẻ dưới mười hai thang tuổi là ai” người chồng đều không có quyền u cầu ly hơn. Điều này có nghĩa pháp luật không phân biệt người con dưới mười hai tháng tuổi có phải là con chung hay con riêng của một bên vợ, chồng, có thé có các trường hợp thuộc căn cứ này như sau: “Đứa trẻ do người vợ sinh ra trong thời kỳ hôn nhân và được vợ chong

<small>cham sóc, ni dudng”’.</small>

</div>

×