BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
DOÃN THANH THỦY
BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI VỢ KHI LY HÔN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ LAN
HÀ NỘI, 2015
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Nguyễn Thị Lan – Giảng viên
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội đã tận tình hƣớng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt
quá trình thực hiện luận văn này.
Đồng thời em cũng xin cảm ơn các Thầy, Cô trong Trƣờng Đại học Luật Hà
Nội đã truyền đạt cho em những kiến thức quý báu trong quá trình em học tập và
rèn luyện tại Trƣờng.
Xin cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp và những ngƣời đã ủng hộ, chia sẻ và
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn Gia đình đã luôn động viên, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc học tập, nghiên cứu và hoàn thiện Luận văn này.
Tác giả Luận văn
Doãn Thanh Thủy
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn “Bảo vệ quyền lợi của người vợ khi ly hôn –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ trung thực, chính xác và
tin cậy. Những bất cập, kiến nghị nêu trong luận văn là những ý tƣởng của bản thân
tôi có đƣợc trong quá trình đào sâu, nghiên cứu về mặt quy định chung của pháp
luật cũng nhƣ thực tiễn xảy ra trong đời sống xã hội.
Tác giả Luận văn
Doãn Thanh Thủy
MỤC LỤC
Chƣơng 1
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN
6
LỢI CỦA NGƢỜI VỢ KHI LY HÔN
1.1.
KHÁI NIỆM LY HÔN VÀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA
6
NGƢỜI VỢ KHI LY HÔN
1.1.1.
Khái niệm ly hôn
6
1.1.2.
Khái niệm bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn
7
1.2.
SỰ CẦN THIẾT BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƢỜI VỢ
10
KHI LY HÔN
1.3.
SƠ LƢỢC PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ
12
QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI VỢ KHI LY HÔN
1.3.1.
Pháp luật Việt Nam trƣớc năm 1945
12
1.3.2.
Pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến 1975
16
1.3.3.
Pháp luật Việt Nam từ năm 1975 đến nay
18
1.4.
PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ BẢO VỆ
21
QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI VỢ KHI LY HÔN
Chƣơng 2
THỰC TIỄN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI
26
VỢ KHI LY HÔN THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
2.1.
BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO LY HÔN CỦA NGƢỜI VỢ
26
2.1.1.
Ngƣời vợ thực hiện quyền yêu cầu ly hôn
26
2.1.2.
Cha, mẹ hoặc ngƣời thân thích khác của ngƣời vợ thực
29
hiện quyền yêu cầu ly hôn
2.2.
BẢO VỆ QUYỀN LÀM MẸ CỦA NGƢỜI VỢ KHI LY
33
HÔN
2.2.1.
Bảo vệ quyền làm mẹ của ngƣời vợ khi hạn chế quyền yêu
cầu ly hôn của ngƣời chồng
33
2.2.2.
Bảo vệ quyền làm mẹ của ngƣời vợ khi xem xét các
35
trƣờng hợp ly hôn và căn cứ ly hôn
2.2.3.
Bảo vệ quyền làm mẹ của ngƣời vợ trong việc giải quyết
39
quan hệ đối với con cái khi ly hôn
2.3.
BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA VỢ KHI LY
43
HÔN
2.3.1.
Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của ngƣời vợ khi vợ chồng
43
lựa chọn chế độ tài sản theo luật định
2.3.2.
Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của ngƣời vợ khi vợ chồng
51
lựa chọn chế độ tài sản theo thoả thuận
2.4.
BẢO VỆ QUYỀN CÓ NƠI Ở CỦA NGƢỜI VỢ KHI LY
54
HÔN
2.5.
BẢO VỆ QUYỀN ĐƢỢC CẤP DƢỠNG CỦA NGƢỜI
57
VỢ KHI LY HÔN
2.6.
BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI VỢ KHI LY HÔN
60
TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
2.6.1.
Nhận xét chung
60
2.6.2.
Một số vụ việc cụ thể có liên quan đến việc bảo vệ quyền
62
lợi của ngƣời vợ khi ly hôn
2.7.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
67
BẢO VỆ QUYÈN LỢI CỦA NGƢỜI VỢ KHI LY HÔN
PHẦN KẾT LUẬN
70
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong xã hội ngày nay, hiện tƣợng ly hôn đang xảy ra khá phổ biến và có xu
hƣớng ngày càng tăng trên thế giới. Theo số liệu thống kê cho thấy, trên thế giới cứ
mƣời ba giây là có một cặp vợ chồng nào đó đòi ly hôn [41]. Ở Việt Nam, theo
thống kê của Trung tâm tƣ vấn hạnh phúc gia đình – 1088, các vụ ly hôn hiện nay ở
Việt Nam chủ yếu bắt nguồn từ ba nguyên nhân chính đó là không hợp về tính cách,
thiếu hòa hợp về tình dục và ngoại tình. Có đến 80% những vụ ly hôn xảy ra với lý
do có liên quan đến việc ngoại tình. Theo thống kê, ngƣời phụ nữ thƣờng gặp khó
khăn hơn đàn ông trong việc tìm kiếm một gia đình mới [41]. Theo số liệu thống kê
cũng cho thấy rằng tỷ lệ ly hôn ở Việt Nam không cao so với các nƣớc khác, 0,4%
ở đàn ông và 1,3% ở phụ nữ có độ tuổi từ 15 đến 49 tuổi [41]. Tuy nhiên, việc ly
hôn cũng gây ra nhiều ảnh hƣởng đến ngƣời vợ, ngƣời chồng trong quan hệ hôn
nhân, ảnh hƣởng đến con cái của họ. Về góc độ pháp luật, ly hôn là làm chấm dứt
quan hệ vợ chồng trƣớc pháp luật. Khác với việc kết hôn đƣợc coi là tiền đề cơ bản
để tạo lập gia đình, xác lập mối quan hệ có tính pháp lý giữa ngƣời vợ và ngƣời
chồng và để hƣớng tới mục tiêu xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững, việc ly hôn
dƣới góc độ pháp luật là chấm dứt quan hệ vợ chồng giữa hai bên. Việc ly hôn đặt
ra việc phải giải quyết những hậu quả liên quan nhƣ phân chia, thanh toán tài sản
của vợ chồng, nghĩa vụ cấp dƣỡng nuôi con, quyền chăm sóc, nuôi con, các vấn đề
về đời sống sau hôn nhân....Trên thực tế, việc ly hôn không chỉ làm ảnh hƣởng đến
gia đình, tế bào nhỏ nhất của xã hội, mà còn có nhiều ảnh hƣởng không tốt đến
ngƣời vợ, ngƣời chồng, ngƣời con trong mối quan hệ hôn nhân đó. Trong mối quan
hệ hôn nhân còn tồn tại thì cần có sự tƣơng xứng giữa vai trò của ngƣời vợ và ngƣời
chồng. Khi việc ly hôn xảy ra thì việc giải quyết hậu quả của việc ly hôn đƣợc đặt
ra. Riêng đối với ngƣời phụ nữ, đƣợc coi là phái yếu trong xã hội, việc ly hôn đặt ra
nhiều vấn đề cần quan tâm nhƣ đảm bảo đời sống của ngƣời phụ nữ sau hôn nhân,
bảo đảm các quyền nhân thân của ngƣời phụ nữ sau khi ly hôn, đảm bảo các quyền
về tài sản và phân chia tài sản sau khi ly hôn, đảm bảo việc thăm nuôi, chăm sóc
con, các vấn đề liên quan đến việc tái hôn cho ngƣời phụ nữ..v..v...Những vấn đề
2
trên cần đƣợc nhìn nhận, xem xét và quan tâm dƣới góc độ xã hội để đảm bảo cho
quyền và lợi ích của ngƣời phụ nữ và cũng góp phần ổn định đời sống xã hội. Dƣới
góc độ pháp luật, việc bảo vệ ngƣời vợ sau khi ly hôn cũng cần nhìn nhận cụ thể và
rõ ràng hơn thông qua các quy định của pháp luật cũng nhƣ thực tiễn đời sống hôn
nhân trong xã hội hiện này. Do vậy, đề tài “Bảo vệ quyền lợi của người vợ khi ly
hôn – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đƣợc lựa chọn để tìm hiểu và nghiên cứu
nhằm góp phần bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn, nhằm kiến nghị hoàn
thiện các quy định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn thực thi việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của ngƣời vợ khi vấn đề ly hôn đƣợc đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc quan tâm và nghiên cứu về đời sống của ngƣời phụ nữ trong thời kỳ hôn
nhân và sau khi ly hôn đã đƣợc đề cập đến rất nhiều trên khía cạnh về mặt đời sống
xã hội. Về mặt quy định của pháp luật, việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời phụ nữ
trong quá trình hôn nhân cũng đƣợc đề cập thông qua các quy định pháp luật trong
Luật hôn nhân gia đình năm 2000, Luật Hôn nhân gia đình năm 2013 và các văn
bản hƣớng dẫn các luật này. Tuy nhiên, có thể nói, những quy định về bảo vệ quyền
lợi của ngƣời phụ nữ khi ly hôn đƣợc đề cập một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông
qua các quy định của pháp luật mà chƣa có nhiều những công trình nghiên cứu
mang tính hệ thống và cụ thể về vấn đề này. Đối với việc bảo vệ quyền lợi của
ngƣời vợ khi ly hôn thì đã có một số công trình ở nhiều cấp độ khác nhau đề cập
trực tiếp hoặc gián tiếp:
Nhóm giáo trình, sách bình luận: Đinh Mai Phƣơng (2006), Bình luận khoa học
Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Văn
Cừ và Ngô Thị Hƣờng (2002), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2000, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Điện
(2002), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, NXB Trẻ Thành
phố Hồ Chí Minh; Tƣởng Duy Lƣợng (2001), Bình luận một số án Dân sự và Hộn
nhân và gia đình, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Giáo trình Luật Hôn nhân và
Gia đình (2008), NXB Công an Nhân dân, Hà Nội....
Các tài liệu trên hầu hết chỉ mới đƣa ra phân tích, bình luận các quy định liên
quan đến tài sản trong quá trình hôn nhân, nghĩa vụ của vợ chồng trong hôn nhân,
3
các quy định về ly hôn, nghĩa vụ cấp dƣỡng nói chung giữa vợ chồng sau khi ly
hôn...mà chƣa đi sâu nghiên cứu có tính hệ thống về quyền lợi của ngƣời vợ khi ly
hôn.
Nhóm luận văn, luận án, đề tài khoa học: Bùi Thị Mừng (2004), Bảo vệ quyền
phụ nữ theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luận văn Thạc sỹ Luật học; Bài
viết “Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 với việc bảo vệ người phụ nữ” của
PGS.TS Trần Thị Huệ trên Đặc san phụ nữ, Tạp chí Luật học 2004; Bài viết “Quyền
của phụ nữ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam” của Thạc sĩ
Nguyễn Thị Lan, Tạp chí Luật học số 3 năm 2004; TS. Nguyễn Văn Cừ (2004),
Chế độ tài sản của vợ, chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000,
Luận án Tiến sĩ Luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội; Phạm Thị Ngọc Lan
(2000), Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật Hôn nhân
và gia đình Việt Nam năm 2000, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật Đại học
Quốc Gia Hà Nội; Phạm Thị Ngân (2012), Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
con khi cha mẹ ly hôn, Khóa luật tốt nghiệp, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội; Hồ Thị
Nga (2007), Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn, Khóa luận tốt nghiệp,
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội...
Nhƣ vậy, mặc dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về việc bảo vệ
quyền lợi của ngƣời phụ nữ khi ly hôn nhƣng chƣa có công trình nào nghiên cứu
một cách cụ thể và có hệ thống liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của
ngƣời vợ khi ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng nhƣ theo Luật
hôn nhân và gia đình năm 2014. Do vậy, việc lựa chọn nghiên cứu về đề tài “Bảo
vệ quyền lợi của người vợ khi ly hôn – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” sẽ góp
phần làm rõ nội hàm của vấn đề trên cũng nhƣ đóng góp đƣợc những kiến nghị cụ
thể, có giá trị đối với việc hoàn thiện quy định của pháp luật và thực tiễn thi hành
pháp luật.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài đặt ra là:
-
Tìm hiểu những vấn đề lý luận liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời
vợ khi ly hôn.
4
-
Tìm hiểu một cách có hệ thống và hoàn chỉnh những quy định pháp luật hiện
hành về việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn.
-
Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật có liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của ngƣời vợ khi ly hôn.
-
Trên cơ sở tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực trạng thực thi pháp luật nhƣ
trên, tác giả mạnh dạn nêu lên những kiến nghị góp phần hoàn thiện những quy định
của pháp luật và nâng cao hiệu quả việc thực thi các quy định về bảo vệ quyền của
ngƣời vợ khi ly hôn.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi nghiên cứu: Vấn đề bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn là vấn đề
tƣơng đối phức tạp vì vấn đề này không chỉ liên quan đến các quy định của pháp
luật hôn nhân và gia đình mà còn liên quan đến các quy định của pháp luật dân sự,
pháp luật đất đai, nhà ở..v..v...Tuy nhiên, dƣới góc độ phạm vi nghiên cứu của một
luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về một số vấn đề lý luận cơ bản
liên quan đến bảo vệ ngƣời vợ khi ly hôn; quy định của pháp luật hiện hành liên
quan đến vấn đề này, đặc biệt là các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm
2014 và các văn bản hƣớng dẫn luật này. Bên cạnh đó, tác giả cũng khảo cứu thêm
về thực tiễn thực thi các quy định pháp luật có liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi
ngƣời vợ khi ly hôn thông qua những biểu số liệu thống kê cụ thể. Đề tài không bao
gồm những vấn đề ly hôn có liên quan đến các yếu tố nƣớc ngoài.
5. Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài:
Đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ vấn đề lý luận về việc bảo vệ quyền lợi của
ngƣời vợ khi ly hôn; quy định của pháp luật hiện hành về việc bảo vệ quyền lợi của
ngƣời phụ nữ khi ly hôn; nêu và phân tích các hạn chế của pháp luật; nghiên cứu
thực tiễn các vấn đề liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn.
Từ đó, tác giả nêu lên những đề xuất nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở phƣơng pháp luận của triết học MácLênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về hôn nhân và gia
đình.
Luận văn đƣợc thực hiện thông qua các phƣơng pháp nhƣ sau:
5
-
Phƣơng pháp phân tích: Đƣợc sử dụng để làm rõ những vấn đề thuộc phạm vi
nghiên cứu;
-
Phƣơng pháp tổng hợp: Đƣợc sử dụng để khái quát hóa nội dung cần nghiên
cứu, đƣa ra hƣớng nghiên cứu một cách có lô-gic để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên
cứu.
-
Phƣơng pháp so sánh: Đƣợc sử dụng để nghiên cứu, xem xét pháp luật Việt
Nam qua các thời kỳ về việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn; đồng thời
nghiên cứu so sánh pháp luật Việt Nàm với pháp luật của một số nƣớc khác về vấn
đề trên.
-
Phƣơng pháp thống kê: Thống kê các số liệu có liên quan đến vấn đề cần
nghiên cứu; từ đó, phân tích và tổng hợp số liệu để rút ra các nhận định phù hợp để
làm cơ sở thực tiễn cho việc đƣa ra các kiến nghị về việc hoàn thiện pháp luật.
7. Điểm mới của luận văn
Tiếp cận một cách khoa học các vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi của ngƣời
vợ khi ly hôn. Xây dựng khái niệm về bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn.
Đánh giá khách quan các quy định hiện hành liên quan đến việc bảo vệ quyền của
ngƣời vợ khi ly hôn và thực tiễn áp dụng các quy định này.
Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và
tăng cƣờng việc bảo vệ ngƣời vợ khi ly hôn theo quy định của pháp luật hiện hành.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
nội dung chính nhƣ sau:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn.
Chƣơng 2: Bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn theo pháp luật hiện hành.
Chƣơng 3: Bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn trong thực tiễn áp dụng pháp
luật và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật.
6
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
CỦA NGƢỜI VỢ KHI LY HÔN
1.1.
KHÁI NIỆM LY HÔN VÀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI VỢ
KHI LY HÔN
1.1.1. Khái niệm ly hôn
Xét về mặt thuật ngữ, “ly hôn” hay “li dị” theo Từ Điển Từ và Ngữ Việt
Nam của Nguyễn Lân đƣợc hiểu là “vợ chồng bỏ nhau” [38, tr.1050]. Về phƣơng
diện thuật ngữ thì việc ly hôn đƣợc nhìn nhận dƣới góc độ là hai vợ chồng không
còn chung sống với nhau, không có quan hệ gần gũi, yêu thƣơng, gắn bó, chia sẻ
với nhau.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, ly hôn là một mặt của quan hệ
hôn nhân, là mặt trái, mặt bất thường nhưng là một mặt không thể thiếu được của
quan hệ hôn nhân khi quan hệ hôn nhân không thể tiếp tục tồn tại được [36, tr.4].
Trong cuộc sống vợ chồng, nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc vợ chồng
không thể sống chung đƣợc nữa thì ly hôn cũng là một giải pháp để giải thoát vợ
chồng khỏi những bế tắc, mâu thuẫn trầm trọng và có cơ hội xây dựng lại hạnh phúc
và cuộc sống.
Tại Điều 3 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, có hiệu lực từ ngày 01
tháng 01 năm 2015: “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tòa án”.
Nhƣ vậy khái niệm mới này đã có cái nhìn đa chiều hơn về thực tế ly hôn so
với khái niệm ly hôn trong luật Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 “Ly hôn là
chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà Án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của
vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng”. Quy định của luật mới đã giúp chúng ta
không chỉ hiểu đƣợc bản chất ly hôn “là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân
này là một cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và giả dối” [22,
tr.255], là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa ngƣời vợ và ngƣời
chồng mà còn đảm bảo thực hiện quyền ly hôn cho họ với sự xuất hiện của ngƣời
7
khác “khoản 2 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014”[52]. Ở đây ta chƣa
bàn luận tới việc nhƣ vậy có phù hợp hay không mà ta nhận thấy luật mới đã thực
sự xem ly hôn là thực tế không thể thiếu và có cái nhìn rộng mở hơn luật cũ.
Theo khoản 2 Điều 51 Luật Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì quyền
yêu cầu ly hôn đã đƣợc mở rộng hơn về đối tƣợng không chỉ giới hạn bởi vợ, chồng
mà còn thêm cả cha, mẹ, ngƣời thân thích khác của ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng
cũng có quyền yêu cầu ly hôn trong những trƣờng hợp nhất định. Nhƣ vậy sẽ bảo
đảm tốt hơn về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng và ngƣời liên quan.
Việc quy định rộng mở hơn về đối tƣợng có quyền yêu cầu ly hôn trong Luật
hôn nhân và gia đình năm 2014 cho ta thấy rằng vấn đề ly hôn đã đƣợc nhìn nhận
nhƣ một hiện tƣợng khách quan, thiết yếu, xuất phát từ đòi hỏi thực tế chung của xã
hội. Để quản lý, điều chỉnh và ổn định quan hệ xã hội này thì tất yếu cần có những
quy phạm pháp luật mang tính thực tiễn, phù hợp và có tính thực tế cao dƣới một
góc nhìn rộng mở hơn.
Với những góc nhìn trên, ly hôn đƣợc coi là một phƣơng thức chấm dứt sự
tồn tại của việc hôn nhân, giải quyết triệt để về mặt pháp lý về hậu quả sau ly hôn
của vợ chồng.
Hậu quả pháp lý của việc ly hôn là nội dung sự việc mà Tòa án phải giải
quyết khi xét xử cho vợ chồng ly hôn, bao gồm: chấm dứt quan hệ vợ chồng trƣớc
pháp luật; chia tài sản chung của vợ chồng; giao con chƣa thành niên cho một bên
nuôi dƣỡng, giáo dục và quyết định mức cấp dƣỡng nuôi con; giải quyết việc cấp
dƣỡng giữa vợ chồng khi có yêu cầu...
Nhƣ vậy theo quan điểm của ngƣời viết cũng xin đƣa ra khái niệm về ly hôn
nhƣ sau: “ Ly hôn là chấm dứt sự tồn tại của quan hệ vợ chồng về mặt pháp lý. Từ
đó giải quyết triệt để hậu quả của ly hôn”.
1.1.2 Khái niệm bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn
Đề cập đến vấn đề bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn thì cần phải bắt
nguồn từ những vấn đề bao quát hơn nhƣ vấn đề quyền con ngƣời, quyền của ngƣời
phụ nữ, quyền của ngƣời vợ. Nhìn từ góc độ bao quát thì mới đánh giá đúng đƣợc
việc bảo vệ quyền của ngƣời vợ đƣợc nhìn nhận nhƣ thế nào khi ly hôn.
8
Quyền con ngƣời là quyền thiêng liêng của mỗi cá nhân, là quyền tất yếu mà
con ngƣời đƣợc hƣởng và các quốc gia đều phải tôn trọng. Có rất nhiều quan điểm
khác nhau về quyền con ngƣời. Theo quan điểm của Văn phòng cao ủy Liên hợp
quốc, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các
cá nhân và các nhóm chống lại hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân
phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người [23, tr.42]. Ở Việt Nam,
một số chuyên gia và cơ quan nghiên cứu cũng đƣa ra nhiều cách hiểu về quyền con
ngƣời. Theo đó, Quyền con người là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con
người được pháp luật công nhận, điều chỉnh, do cá nhân con người nắm giữ trong
mối liên hệ với cá nhân con người khác [39,tr16]. Dƣới góc độ chung nhất thì
quyền con ngƣời luôn thể hiện các đặc tính nhƣ tính phổ quát, tính đặc thù, tính giai
cấp, tính không chuyển nhƣợng đƣợc.
Theo các cách thức tiếp cận khác nhau, quyền con ngƣời cũng đƣợc phân
loại khác nhau. Theo chủ thể quyền, quyền con ngƣời gồm quyền cá nhân, quyền
của nhóm ngƣời (quyền phụ nữ, quyền trẻ em, quyền của ngƣời tàn tật,...) và quyền
quốc gia (quyền của quốc gia, dân tộc thiểu số, quyền phát triển...). Theo nội dung
quyền, quyền con ngƣời bao gồm: các quyền tự do dân chủ về chính trị (quyền bình
đẳng nam nữ, quyền bầu cử, ứng cử, quyền tự do ngôn luận,...), các quyền dân sự
(quyền tự do đi lại, cƣ trú, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền đƣợc an
toàn, bí mật về đời tƣ, thƣ tín, điện thoại liên lạc,...) và các quyền về kinh tế - xã hội
(quyền lao động, quyền học tập, quyền đƣợc bảo vệ sức khỏe...).
Từ góc độ khái quát về quyền con ngƣời, quyền của ngƣời phụ nữ cũng đƣợc
liệt kê nằm trong nhóm quyền con ngƣời. Theo nghĩa chung nhất, quyền phụ nữ là
khái niệm dùng để chỉ quyền con ngƣời của phụ nữ. Quyền của ngƣời phụ nữ cũng
sẽ có những đặc tính chung nhất của quyền con ngƣời. Theo góc độ nghĩa hẹp,
quyền của ngƣời phụ nữ còn có thể hiểu là những quyền tất yếu, gắn liền với đặc
điểm giới tính tự nhiên mà ngƣời phụ nữ đƣợc hƣởng. Dƣới góc độ này, quyền của
ngƣời phụ nữ có những quyền gắn liền với thiên chức của mình nhƣ quyền làm mẹ,
quyền đƣợc bảo vệ với tƣ cách là nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng...Dƣới góc độ pháp
lý, quyền của ngƣời phụ nữ đƣợc hiểu là: “tập hợp những khả năng pháp luật mỗi
quốc gia công nhận cho ngƣời phụ nữ đƣợc hƣởng, đƣợc làm và đƣợc đòi hỏi” [37].
9
Dựa trên khái quát các vấn đề trên, bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn
cần đƣợc nhìn nhận dƣới góc độ rộng là bảo vệ quyền con ngƣời cũng nhƣ góc độ
hẹp là bảo vệ quyền của ngƣời phụ nữ trong khi ly hôn. Theo thống kê của Liên
hiệp quốc, phụ nữ chiếm đa số trong những người nghèo khổ của thế giới, trong
tình trạng đó, phụ nữ luôn là người thiệt thòi nhất về ăn uống, sức khỏe, giáo dục,
đào tạo, cơ hội việc làm và những nhu cầu khác [33,tr55]. Trong lĩnh vực hôn nhân
và gia đình, phụ nữ cũng cần đƣợc bảo vệ về nhiều mặt. Trong khoa học pháp lý,
khái niệm bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn chƣa đƣợc làm sáng tỏ về nhiều
khía cạnh khác nhau. Theo cách hiểu khái quát, việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ
khi ly hôn có thể đƣợc hiểu là hành vi của một chủ thể nhất định nhằm chống lại
mọi sự xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời vợ khi ly hôn.
Thông qua những vấn đề đã nêu, góc độ bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi
ly hôn cần đƣợc xem xét với những khía cạnh sau:
-
Chủ thể bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn: Việc ly hôn thông thƣờng
khi xảy ra thì phần nhiều thiệt thòi sẽ thuộc về ngƣời vợ, bởi ngƣời vợ thƣờng đƣợc
coi là đối tƣợng nằm trong nhóm dễ bị tổn thƣơng. Bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ
khi ly hôn có thể đƣợc thực hiện bởi cá nhân, tổ chức do pháp luật quy định.
-
Quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời vợ khi ly hôn bao gồm: quyền yêu cầu
ly hôn, quyền làm mẹ, quyền sở hữu tài sản, quyền về nơi ở, quyền đƣợc cấp
dƣỡng...
-
Cách thức bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn: Đối với quyền yêu cầu
ly hôn, ngƣời vợ có thể tự mình thực hiện quyền yêu cầu ly hôn. Ngoài ra, trong
những trƣờng hợp nhất định thì những ngƣời có quan hệ mật thiết với ngƣời vợ
cũng đƣợc quyền yêu cầu ly hôn, bao gồm: cha, mẹ, ngƣời thân thích của ngƣời vợ.
Khi giải quyết hậu quả của ly hôn thì ngƣời vợ cũng có thể tự mình hoặc yêu cầu
các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ví
dụ: ngƣời vợ yêu cầu cơ quan thi hành án yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dƣỡng của
ngƣời chồng đối với ngƣời vợ hoặc ngƣời con đang đƣợc ngƣời vợ trực tiếp nuôi
dƣỡng....Việc Nhà nƣớc xây dựng các quy định pháp luật liên quan đến quyền lợi
của ngƣời vợ khi ly hôn với mục đích nhằm bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly
hôn, bảo vệ quyền lợi của ngƣời thứ ba liên quan đến việc ly hôn.
10
Tóm lại, bảo vệ quyền của ngƣời vợ khi ly hôn đƣợc hiểu là bản thân ngƣời
vợ hoặc các cá nhân, tổ chức đƣợc pháp luật cho phép tham gia bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của ngƣời vợ trong việc giải quyết các vấn đề về ly hôn để đảm bảo
đƣợc những quyền và lợi ích chính đáng của ngƣời vợ theo đúng quy định của pháp
luật.
Vậy “Bảo vệ quyền lợi của người vợ khi ly hôn là cách thức, biện pháp do
pháp luật quy định đảm bảo các quyền cơ bản của người phụ nữ với tư cách là vợ
khi họ tham gia vào việc ly hôn.”
1.2.
SỰ CẦN THIẾT BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƢỜI VỢ KHI LY HÔN
Bảo vệ quyền lợi của ngƣời phụ nữ, mà cụ thể là bảo vệ quyền lợi ngƣời vợ
khi ly hôn cần đƣợc nhìn nhận xem xét dƣới nhiều góc độ. Trƣớc tiên, xét ở góc độ
tổng quát thì việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn cũng là việc đảm bảo
quyền con ngƣời trong vấn đề hôn nhân gia đình. Khi vấn đề ly hôn đƣợc đặt ra,
quyền con ngƣời cũng đƣợc đặt ra, để từ đó đặt ra vấn đề bảo vệ quyền của ngƣời
mẹ khi ly hôn. Quyền con người là những đặc quyền mà con người được pháp luật
công nhận, điều chỉnh, do cá nhân con người nắm giữ trong mối liên hệ với Nhà
nước và với cá nhân con người khác [39,tr16]. Nhƣ vậy, khi ly hôn thì vấn đề bảo
vệ quyền con ngƣời cần đƣợc đặt ra để bảo vệ cho ngƣời vợ khi ly hôn. Những vấn
đề lớn cần quan tâm ở đây là bảo vệ quyền bình đẳng trong ly hôn, bảo vệ quyền tự
do ly hôn, bảo vệ các quyền đƣợc đảm bảo về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, các
quyền liên quan đến tài sản...của ngƣời vợ khi có sự kiện ly hôn xảy ra. Do vậy, cần
phải nhìn nhận dƣới góc độ bảo vệ quyền con ngƣời khi bảo vệ quyền lợi cho ngƣời
vợ khi ly hôn. Có thể thấy rằng, có rất nhiều lý do đƣa ra để thấy đƣợc sự cần thiết
phải bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn.
Trƣớc tiên, ngƣời vợ thông thƣờng sẽ là ngƣời dễ bị tổn thƣơng lớn khi giải
quyết quan hệ ly hôn. Có thể thấy sau khi ly hôn, ngƣời vợ thƣờng gặp nhiều khó
khăn trong vấn đề đảm bảo kinh tế trong việc nuôi dạy con cái đồng thời cũng sẽ rất
vất vả khi ngƣời vợ đảm nhận việc nuôi con một mình. Khi nuôi con một mình,
ngoài việc phải đảm bảo kinh tế, ngƣời vợ còn khó khăn trong việc giáo dục, dạy
dỗ, chăm sóc con và chịu nhiều áp lực của xã hội khi nuôi con một mình. Thêm
nữa, ngƣời vợ sau khi ly hôn rất khó khăn trong việc tìm kiếm đƣợc hạnh phúc mới
11
cho mình và cũng rất khó khăn để có thể tham gia thiết lập một gia đình mới. Điều
này thể hiện trong việc tỷ lệ phụ nữ tham gia tái hôn sau khi ly hôn là rất thấp. Việc
khó khăn của phụ nữ trong việc tạo lập gia đình mới sau khi ly hôn xuất phát từ
nhiều yếu tố, quan niệm khác trong xã hội. Tỷ lệ phụ nữ sau khi ly hôn tìm lại đƣợc
hạnh phúc hiện nay là không cao. Đứng dƣới góc độ về mặt xã hội cần phải có sự
đảm bảo tổn thất về mặt tinh thần khi phụ nữ ly hôn. Bên cạnh đó, sự tổn thƣơng
của ngƣời vợ sau khi ly hôn còn đƣợc nhìn nhận dƣới góc độ họ tham gia vào các
quan hệ xã hội. Ngƣời vợ sau khi đỗ vỡ hôn nhân phải chịu rất nhiều áp lực của xã
hội, họ phải một mình chống chọi với mọi áp lực, sống thiếu sự hòa hợp về thể chất,
tinh thần, không có ngƣời gần gũi, làm chỗ dựa tình thần trong gia đình. Nhiều
ngƣời vợ nuôi con một mình gặp phải những sự quấy nhiễu của những ngƣời đàn
ông trong nơi họ làm việc, cƣ trú hoặc sự dè bỉu của những ngƣời khác. Những tổn
thất tinh thần này thông thƣờng sẽ gây ra tác động xấu cho đời sống ngƣời phụ nữ.
Hơn nữa, bảo vệ quyền lợi của ngƣời phụ nữ sau khi ly hôn đảm bảo quyền
lợi cho nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội. Việc bảo vệ tốt quyền lợi của ngƣời
phụ nữ khi ly hôn thì sẽ đảm bảo tốt quyền lợi cho chính bản thân ngƣời phụ nữ
dƣới góc độ quyền yêu cầu ly hôn của họ đƣợc đảm bảo, quyền bảo đảm về danh
dự, nhân phẩm của họ, quyền đối với tài sản của họ đƣợc đảm bảo. Dƣới góc độ gia
đình, bảo vệ quyền lợi của ngƣời phụ nữ khi ly hôn tốt cũng là việc đảm bảo cho
ngƣời phụ nữ bình đẳng hơn trong mối quan hệ trong gia đình. Phụ nữ trong gia
đình hiện tại phải tham gia dƣới nhiều vai trò, phải làm tốt công việc xã hội nhƣng
đồng thời cũng phải làm tốt công việc trong gia đình. Pháp luật bảo đảm tốt cho
quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn cũng là một kênh tác động tốt đến đời sống gia
đình, giúp ổn định đời sống gia đình, đảm bảo quyền bình đẳng nam và nữ khi ly
hôn. Đối với xã hội, bảo vệ tốt đƣợc quyền lợi của ngƣời phụ nữ sau khi ly hôn
nhằm đảm bảo cho xã hội đƣợc ổn định hơn, các mối quan hệ trong xã hội hài hòa
hơn, xã hội tiết kiệm đƣợc chi phí hơn trong việc giải quyết các tranh chấp liên
quan đến ly hôn. Xét ở góc độ xa hơn, ngƣời phụ nữ còn đƣợc bảo vệ tốt hơn về
tính mạng và tài sản khi họ đƣợc đảm bảo quyền yêu cầu ly hôn để thoát ra khỏi
cuộc sống chung không tốt đẹp mà ở đó họ bị hành hạ về thể xác cũng nhƣ tâm hồn.
12
Bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn còn thể hiện tính nhân đạo của pháp luật
đó là đảm bảo công bằng, bình đẳng về giới. Bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly
hôn cũng chính là việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời phụ nữ để cho ngƣời phụ nữ
đƣợc hƣởng các quyền lợi chính đáng nhƣ quyền làm mẹ, quyền đƣợc nuôi dƣỡng,
chăm sóc, quyền đƣơc thăm nuôi con. Việc bảo vệ quyền lợi này cũng xuất phát từ
nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ trong quan hệ vợ chồng. Việc bảo vệ này
cũng nhằm giúp cho ngƣời vợ đƣợc bảo vệ tốt hơn, đƣợc đảm bảo quyền lợi tốt
hơn, đảm bảo sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa nam và nữ trong mối quan hệ
hôn nhân gia đình. Bảo vệ quyền lợi cho ngƣời vợ khi ly hôn giúp cho ngƣời vợ
đảm bảo đƣợc quyền tự do ly hôn. Ly hôn đƣợc coi là một giải pháp hợp lý khi mà
mục đích của cuộc hôn nhân không đạt đƣợc. Do vậy, khi đƣợc pháp luật bảo vệ,
ngƣời vợ sẽ có cơ hội thoát khỏi những bế tắc trong đời sống hôn nhân và có cơ hội
để tìm lại đƣợc hạnh phúc cho riêng mình.
1.3.
SƠ LƢỢC PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA
NGƢỜI VỢ KHI LY HÔN
1.3.1. Pháp luật Việt Nam trƣớc năm 1945
Nhƣ đã khái quát ở các phần trên, bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn
là vấn đề chƣa đƣợc đề cập đến nhiều trong quá trình lịch sử phát triển của xã hội
Việt Nam từ trƣớc cho đến nay. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử xã hội nhất
định đều có những quy định pháp luật đề cập ít nhiều đến việc bảo vệ quyền lợi của
ngƣời vợ khi ly hôn.
Xã hội Việt Nam trƣớc năm 1945 tồn tại kiểu nhà nƣớc phong kiến và phong
kiến nửa thuộc địa. Trong giai đoạn này, vai trò của ngƣời vợ, ngƣời phụ nữ không
đƣợc quan tâm nhiều đến. Dƣới chế độ phong kiến, hôn nhân và gia đình đƣợc thực
hiện theo giáo lý Nho giáo. Vai trò ngƣời đàn ông trong gia đình đƣợc xem trọng,
coi trọng nam giới hơn nữ giới, với tƣ tƣởng “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”.
Hôn nhân không có sự tự do và hầu nhƣ không xuất phát từ tình yêu. Vai trò quyền
lực ngƣời đàn ông trong gia đình là tuyệt đối [35,tr19]. Trong suốt một thời gian
dài, từ thế kỷ XI cho đến thế kỷ XIX, nƣớc ta đã có một số Bộ luật để điều chỉnh
các hoạt động chung của xã hội, trong đó có điều chỉnh đến các quan hệ hôn nhân
và gia đình. Điển hình là ba bộ luật: Bộ Hình thƣ (thời lý), Bộ Quốc triều hình luật
13
hay Bộ Luật Hồng Đức (Thời Lê), Bộ Hoàng Việt Luật lệ - Bộ Luật Gia Long (Thời
Nguyễn). Những quy định trong 03 Bộ luật này đều có những quy định liên quan
đến ngƣời phụ nữ. Tuy nhiên, địa vị của ngƣời phụ nữ thƣờng thấp kém trong xã
hội phong kiến, danh dự, nhân phẩm, quyền con ngƣời cũng không đƣợc đề cao và
tôn trọng. Bộ Luật Hồng Đức thời Lê đƣợc coi là tiến bộ hơn cả bởi sự kế thừa các
quy định của các bộ luật trƣớc đó, có chỉnh sửa bổ sung cho phù hợp, đồng thời
cũng đã có những quy định tiến bộ, bảo vệ cho những tầng lớp yếu kém trong xã
hội. Việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn thì không đƣợc đề cập trực tiếp
đến trong bộ luật này. Tuy nhiên, ở góc độ nào đó cũng bảo vệ quyền lợi của ngƣời
vợ nhƣ quy định tại Điều 308 Quốc Triều hình luật: “Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5
tháng không đi lại (vợ được trình với quan sở tại) thì mất vợ. Nếu vợ đã có con, thì
cho hạn 01 năm. Vì việc quan phải đi xa thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ mà
lại ngăn cản người khác lấy vợ cũ thì phải tội biếm”. Điều luật này cũng nhằm đảm
bảo quyền lợi của ngƣời vợ. Quy định về bảo vệ quyền lợi ngƣời vợ khi ly hôn còn
đƣợc cụ thể hơn trong việc quy định về quyền đƣợc ly hôn của ngƣời phụ nữ tại
Điều 333: “...Nếu con rể lấy chuyện phi lý mà mắng nhiếc cha, mẹ vợ, đem việc cho
thưa quan sẽ cho ly dị....”. Bộ luật Hồng Đức chỉ đƣa ra đƣợc một số điều luật mà
nghiên cứu cho thấy rằng những điều luật đó có mang những nội hàm nhằm bảo vệ
đôi chút cho ngƣời phụ nữ dƣới chế độ phong kiến. Trên thực tế, Bộ luật Hồng Đức
ra đời chủ yếu đƣợc xây dựng nhằm đảm bảo duy trì cho trật tự của nhà nƣớc phong
kiến thời kỳ đó, nên nó không chứa đựng nhiều quy định bảo vệ trực tiếp quyền lợi
của ngƣời vợ khi ly hôn. Nghiên cứu Bộ luật Hồng Đức, Quyển 3, chƣơng Hộ hôn
từ Điều 284 đến Điều 341 thấy rằng những quy định chung về bảo vệ quyền lợi của
ngƣời vợ khi ly hôn không xuất hiện. Việc bảo vệ quyền của ngƣời vợ nhƣ quyền tự
do ly hôn, quyền làm mẹ, quyền sở hữu tài sản, quyền có chỗ ở hoặc quyền đƣợc
cấp dƣỡng đều không đƣợc nhắc đến trong Bộ luật này.
Theo pháp luật nƣớc ta trƣớc đây, ngƣời phụ nữ phải chịu rất nhiều sự ràng
buộc trong đời sống hôn nhân và gia đình. Ngƣời phụ nữ Việt Nam trƣớc đây bị hạn
chế rất nhiều trong đời sống xã hội cũng nhƣ trong đời sống hôn nhân và gia đình.
Quan niệm ngƣời phụ nữ “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” đã
ăn sâu vào đời sống xã hội qua hàng nghìn năm. Do vậy, ngƣời phụ nữ không hề có
14
quyền tự do trong lĩnh vực hôn nhân kể cả việc kết hôn hay ly hôn. Dƣới thời kỳ
phong kiến thì quyền tự do kết hôn và ly hôn của ngƣời phụ nữ hầu nhƣ không đƣợc
ghi nhận. Số phận ngƣời phụ nữ thật mỏng manh. “Hôn nhân là sự chuyển giao uy
quyền đối với người phụ nữ, từ người cha đến người chồng” [40, tr.111]. Theo
pháp luật phong kiến, ngƣời đàn ông có thể bỏ vợ khi vợ phạm vào “thất xuất”: Vô
tử, ghen tuông, ác tật, lắm lời, trộm cắp, không phụng sự cha mẹ chồng, dâm đãng”
(Điều 108 Bộ luật Gia Long). Quy định về duyên cớ ly hôn đảm bảo quyền tự do ly
hôn cho ngƣời chồng. Quyền ly hôn của phụ nữ bị hạn chế[28,tr16]. Có thể nói,
dƣới pháp luật thời kỳ phong kiến, việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời phụ nữ còn rất
hạn chế, cho nên việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời phụ nữ khi ly hôn càng đƣợc ít
quan tâm hơn và cũng ít đƣợc đề cập đến.
Đến thời kỳ Pháp thuộc, quyền của ngƣời phụ nữ trong hôn nhân và gia đình
đã đƣợc đảm bảo tốt hơn. Lần đầu tiên, pháp luật quy định việc kết hôn phải do hai
bên nam nữ tự nguyện: “Việc kết hôn phải do hai bên nam, nữ bằng lòng” (Điều 76
Bộ Dân luật Bắc kỳ). Quy định này, trong pháp luật phong kiến chƣa ghi nhận. Bên
cạnh đó, việc ghi nhận các duyên cớ mà theo đó ngƣời vợ có thể xin ly hôn ngƣời
chồng cũng đem đến cho ngƣời phụ nữ sự bình đẳng nhất định so với ngƣời
chồng[28, tr.20]. Nhƣ vậy, quyền của ngƣời phụ nữ đã đƣợc tôn trọng hơn trong đời
sống hôn nhân và gia đình.
Dƣới chế độ thuộc địa, nửa phong kiến, trong quan hệ hôn nhân gia đình vai
trò của ngƣời vợ trong gia đình cũng chƣa đƣợc coi trọng. Thời kỳ này có 03 bộ luật
điều chỉnh quan hệ dân sự và trong đó có điều chỉnh quan hệ hôn nhân gia đình,
gồm có: Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931, Bộ Dân luật trung kỳ năm 1936, Bộ Dân
luật giản yếu năm 1883. Đánh giá chung từ ba bộ luật này là ba bộ luật đều có sự
điều chỉnh cụ thể hơn, điều chỉnh nhiều vấn đề liên quan trong quan hệ hôn nhân
gia đình hơn so với luật pháp thời kỳ trƣớc đây. Tuy nhiên, các bộ luật này có điểm
cơ bản giống nhau là: đều duy trì chế độ hôn nhân cƣỡng ép, phụ thuộc vào cha mẹ,
thừa nhận chế độ đa thê và sự bất bình đẳng nam nữ trong gia đình [35, tr.21]. Tuy
nhiên, Ba bộ luật trên phần nào cũng có những quy định đảm bảo tốt hơn cho ngƣời
phụ nữ trên góc độ so sánh với pháp luật thời phong kiến trƣớc đây. Điển hình,
Điều 106, Điều 107 Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật quy định: “Chồng được quản trị
15
tài sản chung. Còn vợ chỉ được tùy theo quyền hạn của mình được thay mặt trong
gia đình mà quản trị tài sản chung ấy.” “...người chồng có thể sử dụng của chung
về động sản không cần phải vợ bằng lòng cũng được, miễn là dùng về việc có lợi
ích cho công việc gia đình thời thôi...”. Thông qua quy định trên chúng ta có thể
thấy vẫn tồn tại sự bất bình đẳng trong hôn nhân giữa ngƣời vợ và ngƣời chồng.
Quyền sở hữu tài sản của ngƣời vợ sau ly hôn cũng đƣợc quy định có tính bất bình
đẳng giữa ngƣời vợ và ngƣời chồng. Việc chia tài sản sau khi ly hôn tùy thuộc vào
các điều kiện khi ly hôn nhƣ ngƣời vợ (vợ chính hay vợ thứ) có con hay không có
con thì đƣợc hƣởng những phần tài sản khác nhau. Hoặc nếu ngƣời vợ “phạm gian”
khi ly hôn thì sẽ không đƣợc hƣởng thì ngƣời vợ có thể mất cả quyền lợi về tài sản
chung. Điều 110 Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật quy định: “ Khi nào bởi sự ly dị mà
đoạn hôn, nếu có con thời người vợ chính bị ly hôn sẽ được một phần trong tài sản
chung; phần ấy là một phần ba trong tài sản chung, trừ ra khi nào người vợ vì sự
phạm gian mà bị ly dị, thời người vợ có tội ấy mất cả quyền lợi về tài sản chung;
...Nếu không có con thời người vợ ly dị được lấy lại kỷ phần của mình còn hiện vật
và trừ kỷ phần của chồng ra rồi lại được chia lấy một nửa của chung ấy; Người vợ
ly dị vì phạm gian mà không có con,...chỉ được lấy một phần tư trong trong tài sản
chung nghĩa là đã trừ kỷ phần của người chồng ra rồi”. Pháp luật còn quy định
ngƣời vợ thứ khi ly dị thì không bao giờ đƣợc chia phần tài sản chung, chỉ đƣợc lấy
lại phần tài sản riêng và đồ dùng cá nhân của bản thân ngƣời vợ thứ. Với quy định
trên thì có sự bất bình đẳng giữa ngƣời vợ và ngƣời chồng trong việc bảo đảm
quyền sở hữu tài sản cho ngƣời vợ khi ly hôn. Thêm nữa, quyền đƣợc hƣởng cấp
dƣỡng của ngƣời vợ khi ly hôn cũng không đƣợc đảm bảo. Theo Điều 143: “Người
vợ bị ly dị, bất cứ là chính thất hay thứ thất mà đã được tiền cấp dưỡng, nếu đã tái
giá hoặc đã cẩn hợp với ai hoặc là tà dâm thời không được lãnh tiền cấp dưỡng
nữa....”. Quyền làm mẹ của ngƣời cũng không đƣợc pháp luật đảm bảo khi xem xét
đến việc nuôi con. Pháp luật quy định ƣu tiên phần nuôi con dành cho ngƣời cha và
ngƣời mẹ chỉ đƣợc nuôi con khi mà vì lợi ích của đứa con. Điều 144 quy định: “ Sự
trông nom con cái thời giao cho người cha, duy khi nào vì lợi ích cho con thời tòa
án mới truyền giao tất cả các đứa con hoặc một vài đứa con cho mẹ...”. Do vậy,
16
với những quy định có tính điển hình nhƣ đã nêu trên có thể thấy pháp luật trong
giai đoạn này chƣa hề trú trọng đến việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn.
1.3.2 Pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến 1975
Vào năm 1954, sau khi ký kết hiệp định Giơnever, nƣớc ta bị chia cắt thành
hai miền Nam Bắc. Pháp luật điều chỉnh về quan hệ nhân gia đình cũng có sự khác
biệt nhau và vấn đề bảo vệ quyền của ngƣời vợ cũng chƣa đƣợc đề cập đến nhiều.
Ở Miền bắc, ngay sau khi giành đƣợc độc lập không lâu, Quốc hội nƣớc ta đã ban
hành và thông qua bản Hiến pháp đầu tiên vào ngày 9/11/1946. Vai trò của ngƣời
phụ nữ đã đƣợc thay đổi hoàn toàn so với trƣớc đây bằng việc mang lại quyền bình
đẳng nam nữ cho ngƣời đàn bà. Điều 9 Hiến pháp quy định: “Đàn bà ngang quyền
với đàn ông về mọi phương diện”. Điều này là cơ sở pháp lý tạo ra sự bình đẳng
trong quan hệ hôn nhân gia đình. Tuy nhiên, thời kỳ này nƣớc ta chƣa xây dựng
đƣợc hệ thống văn bản hôn nhân gia đình hoàn chỉnh mà điều chỉnh các khía cạnh
của quan hệ hôn nhân gia đình thông qua các sắc lệnh. Đối với vấn đề ly hôn, Nhà
nƣớc đã ban hành Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950 quy định về vấn đề ly hôn,
Sắc lệnh 97-SL ngày 22/5/1950 về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật
để thay thế việc áp dụng ba bộ luật dân sự dƣới thời thực dân phong kiến. Quyền
của ngƣời phụ nữ hay ngƣời vợ đã đƣợc mở rộng, bình đẳng trong quan hệ hôn
nhân. Điều 5 Sắc lệnh 97-SL quy định: “Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia
đình” thể hiện sự bình đẳng giữa vợ chồng trong quan hệ hôn nhân gia đình. Điều 5
Sắc lệnh 97- SL quy định: “Người đàn bà ly dị có thể lấy chồng khác ngay sau khi
có án tuyên ly dị, nếu dẫn chứng rằng mình không có thai hoặc đương có thai”.
Nhƣ vậy, quyền của phụ nữ trong vấn đề ly hôn đã đƣợc mở rộng hơn. Tuy nhiên,
các quy định của thời kỳ này không có quy định nào cụ thể nói về việc bảo vệ ngƣời
vợ khi ly hôn.
Đến năm 1959, lần đầu tiên Luật hôn nhân và gia đình đƣợc ban hành trong
một văn bản thống nhất để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình một cách riêng
biệt. Luật hôn nhân gia đình năm 1959 đã điều chỉnh khá đầy đủ quan hệ hôn nhân
và gia đình, trong đó có cả sự điều chỉnh về việc ly hôn giữa vợ và chồng. Về việc
bảo vệ quyền lợi của ngƣời vợ khi ly hôn thì chƣa có nhiều quy định trực tiếp đề
cập đến, nhƣng cũng đã có những quy định để đảm bảo hơn quyền lợi của ngƣời vợ
17
khi ly hôn. Việc bảo đảm quyền lợi của ngƣời vợ phần nào đƣợc thể hiện ở quy
định tại Điều 27 :“Trong trường hợp người vợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hôn
sau khi vợ đã sinh đẻ được một năm. Điều hạn chế này không áp dụng đối với việc
xin ly hôn của người vợ”. Với quy định này thì quyền yêu cầu ly hôn của ngƣời vợ
đã đƣợc ghi nhận một cách vững chắc và pháp luật cũng đảm bảo quyền lợi cùa
ngƣời vợ hơn khi mà không cho phép ngƣời chồng ly hôn khi vợ đang có thai hay
nuôi con nhỏ dƣới 1 năm tuổi. Bên cạnh đó, Quyền sở hữu tài sản của ngƣời vợ
cũng đã đƣợc đề cập đến thông qua Điều 29: “Khi ly hôn, việc chia tài sản sẽ căn
cứ vào sự đóng góp về công sức của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng cụ
thể của gia đình. Lao động trong gia đình được kể như lao động sản xuất. Khi chia
phải bảo vệ quyền lợi của người vợ, của con cái và lợi ích của việc sản xuất”. Nhƣ
vậy, ngƣời vợ đã đƣợc ghi nhận quyền sở hữu tài sản trong hôn nhân và đảm bảo
đƣợc hƣởng tài sản đó nếu trong trƣờng hợp ly hôn. Ngƣời phụ nữ đã có vai trò cao
hơn trong đời sống hôn nhân vợ chồng, không còn phụ thuộc quá nhiều vào ngƣời
đàn ông nhƣ quy định của pháp luật thời phong kiến nữa. Đối với quyền yêu cầu
cấp dƣỡng, trong trƣờng hợp khi không đủ điều kiện nuôi con, rơi vào hoàn cảnh
túng thiếu thì ngƣời vợ có quyền yêu cầu ngƣời chồng thực hiện cấp dƣỡng nhƣ quy
định tại Điều 30: “...Khi ly hôn, nếu một bên túng thiếu yêu cầu cấp dưỡng, thì bên
kia phải cấp dưỡng tuỳ theo khả năng của mình...”. Nhƣ vậy, có thể thấy với quy
định của Luật hôn nhân gia đình năm 1959 đã có những quy định cụ thể, rõ ràng,
đảm bảo quyền của ngƣời phụ nữ một cách thiết thực hơn trong đời sống hôn nhân
cũng nhƣ trong khi ly hôn xảy ra.
Ở Miền Nam, sau hiệp định Giơnevơ, đế quốc Mỹ đã dần dần thay thế Pháp
ở Miền Nam. Quan hệ dân sự và hôn nhân gia đình trong thời điểm này nhìn chung
đƣợc điều chỉnh bởi Bộ dân luật giản yếu Nam Kỳ năm 1883. Sau khi Miền Nam
nằm dƣới sự kiểm soát của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa do Ngô Đình
Diệm làm tổng thống, hệ thống văn bản pháp luật đã đƣợc bổ sung, thay đổi để phù
hợp với việc quản lý và thống trị của chế độ này. Do vậy, một số văn bản pháp luật
riêng để điều chỉnh quan hệ hôn nhân gia đình cũng đã đƣợc ban hành nhƣ: Sắc luật
15/64 năm 1964 dƣới thời Nguyễn Khánh, Bộ luật Dân sự năm 1972. Với những
quy định của Bộ luật Dân sự năm 1972, quyền lợi của ngƣời vợ cũng đƣợc ghi nhận
18
cụ thể và rõ ràng hơn. Quyền tự do ly hôn của ngƣời vợ đã đƣợc mở rộng hơn
nhƣng về cơ bản pháp luật vẫn quy định cho phép ngƣời vợ đƣợc ly hôn trong
những trƣờng hợp nhất định. Vợ chồng còn đƣợc phép xin thuận tình ly hôn nếu
hôn thú đƣợc lập trên hai năm và dƣới hai mƣơi năm. Quyền đƣợc làm mẹ của
ngƣời vợ cũng đƣợc đảm bảo hơn so với pháp luật thời trƣớc. Điều 198 Bộ luật dân
sự năm 1972 quy định: “nếu không có lý do gì cản trở, những đứa trẻ còn thơ ấu
cần sự chăm sóc của ngƣời mẹ và sẽ đƣợc giao cho ngƣời này;....Trong mọi trƣờng
hợp, bố mẹ đều có quyền thăm các con tùy theo thỏa thuận của hai bên”. Quyền
đƣợc cấp dƣỡng của ngƣời vợ cũng đƣợc pháp luật đảm bảo. Tòa án có thể buộc
ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng thực hiện trách nhiệm cấp dƣỡng nếu ngƣời này có lỗi
trong việc dẫn đến ly hôn. Thêm nữa, theo quy định của pháp luật, quyền sở hữu tài
sản của ngƣời vợ đƣợc đảm bảo bởi nhiều quy định khác nhau. Đầu tiên, pháp luật
quy định tài sản của vợ chồng để chia khi ly hôn là tài sản hiện hữu vào ngày khởi
tố vụ án ly hôn. Tài sản sẽ đƣợc chia theo quy định của hôn ƣớc đã định trƣớc khi
kết hôn. “ Nếu không có hôn ƣớc thì ngoại trừ tài sản riêng của hai ngƣời, tài sản
chung sẽ chia đôi” (Điều 201). Quy định này tiến bộ hơn trƣớc đây vì tài sản đƣợc
chia công bằng cho cả vợ và chồng. Trƣớc đây, pháp luật quy định tùy vào từng
trƣờng hợp mà ngƣời vợ đƣợc một nửa hay một phần nhỏ hơn trong khối tài sản
chung. Nhƣ vậy, có thể nói đến pháp luật dân sự năm 1972 đã tạo sự bình đẳng cho
ngƣời vợ trong việc đƣợc hƣởng tài sản khi ly hôn.
1.3.3 Pháp luật Việt Nam từ năm 1975 đến nay
Sau khi thống nhất đất nƣớc, quan hệ hôn nhân gia đình đã đƣợc điều chỉnh
bởi Luật hôn nhân và gia đình năm 1959. Sau khi Hiến pháp l980 ra đời, cơ sở pháp
lý cho quan hệ hôn nhân và gia đình đƣợc ghi nhận rõ ràng tại Điều 63, 64 của Hiến
pháp này. Điều 63 quy định: “Phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình...”. Điều 64: “...Hôn nhân theo
nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng...”. Với
những cơ sở pháp lý của Hiến pháp 1980, Luật hôn nhân gia đình năm 1986 ra đời
đã điều chỉnh toàn diện hơn mối quan hệ hôn nhân và gia đình thời kỳ này. Việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời vợ khi ly hôn cũng đã đƣợc đề cập qua
một số quy định nhƣ ngƣời chồng chỉ đƣợc xin ly hôn sau khi vợ đã sinh con đƣợc
19
01 năm (Điều 41); hoặc quy định về nguyên tắc phân chia tài sản của vợ, chồng khi
ly hôn (Điều 42)....Sau khi bản Hiến pháp 1992 ra đời do yêu cầu bức thiết của sự
phát triển đời sống kinh tế xã hội, Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 cũng đƣợc ra
đời vừa là khắc phục những nhƣợc điểm của Luật hôn nhân gia đình năm 1986 và
cũng vừa là để đảm bảo điều chỉnh tốt mối quan hệ hôn nhân gia đình khi mà xã hội
đã có nhiều sự phát triển, thay đổi so với trƣớc đây. Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của ngƣời vợ khi ly hôn cũng đã đƣợc thể hiện rõ nét hơn trong nhiều quy
định của Luật hôn nhân gia đình năm 2000. Vấn đề bảo vệ quyền lợi ngƣời vợ khi
ly hôn cũng nhƣ bảo vệ quyền lợi ngƣời phụ nữ trong quan hệ hôn nhân gia đình
còn chịu sự tác động gián tiếp từ các quy định của các luật khác nhƣ Luật đất đai
năm 2003, Luật đất đai năm 2013, Luật bình đẳng giới năm 2006, Luật chống bạo
lực gia đình năm 2007...Đến nay, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã đƣợc
thông qua và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 đã có những quy định bổ
sung vào việc bảo vệ ngƣời phụ nữ, ngƣời vợ khi ly hôn.
Khi luật hôn nhân gia đình năm 1986 đƣợc thông qua, các quyền của phụ nữ
trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình đã đƣợc cụ thể hóa khá đầy đủ và toàn diện.
Quyền của ngƣời phụ nữ đƣợc mở rộng hơn trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Đồng nghĩa với việc đảm bảo cho quyền lợi của ngƣời phụ nữ, pháp luật có những
quy định về hạn chế quyền ly hôn của ngƣời chồng. Trên góc độ này, pháp luật
không cho phép ngƣời chồng yêu cầu ly hôn trong những trƣờng hợp nhất định.
Theo đó, trong trƣờng hợp ngƣời vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con nhỏ
dƣới 12 tháng tuổi thì ngƣời chồng không đƣợc quyền yêu cầu ly hôn. Nhƣ vậy,
pháp luật Việt Nam từ lâu nay đã có những quy định để đảm bảo quyền của phụ nữ
trong vấn đề hôn nhân và gia đình.
Khi đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ đổi mới, Hiến pháp 1992 ra đời và đã có
những quy định chung đảm bảo quyền lợi của ngƣời phụ nữ trong quan hệ hôn nhân
và gia đình. Theo đó, công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình (Điều 63 Hiến pháp 1992). Theo quy định
của bản Hiến pháp này, nam và nữ có quyền bình đẳng trong mối quan hệ hôn nhân
và gia đình. Cụ thể hơn, Hiến pháp đã đƣa ra nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tiến
bộ trong hôn nhân tại Điều 64 Hiến pháp 1992:“Hôn nhân theo nguyên tắc tự
20
nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”. Hiến pháp 1992 đã quy
định về quyền bình đẳng của vợ chồng trong việc ly hôn.
Luật hôn nhân gia đình năm 2000 đã có bƣớc phát triển đột phá hơn đối với
việc quy đình về quyền yêu cầu ly hôn của cả vợ và chồng. Theo đó, Điều 85 Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000 ghi nhận: “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền
yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn”. Quy định này đã đảm bảo tốt hơn cho cả
ngƣời vợ và ngƣời chồng về việc yêu cầu ly hôn. Hơn nữa, thông qua quy định này
quyền tự do ly hôn của ngƣời vợ đã đƣợc ghi nhận và tôn trọng. Có thể thấy, với
quy định trên, không chỉ ngƣời chồng mà ngƣời vợ cũng có quyền ngang với ngƣời
chồng trong việc yêu cầu tòa án giải quyết “yêu cầu ly hôn”. Điều này đƣợc nhìn
nhận là bƣớc phát triển hơn trƣớc đây vì trong pháp luật trƣớc đây thì quy định
ngƣời vợ đƣợc ly hôn trong những trƣờng hợp nhất định và cuộc hôn nhân đó đã
tồn tại một khoản thời gian nhất định. Ngƣời vợ đƣợc đảm bảo hơn về “quyền tự do
ly hôn” và quyền yêu cầu giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình ly hôn nhƣ
vấn đề về tài sản, nuôi con, cấp dƣỡng...Để đảm bảo quyền lợi cho ngƣời vợ, pháp
luật đã không cho phép ngƣời chồng thực hiện quyền ly hôn trong trƣờng hợp vợ có
thai hoặc đang nuôi con dƣới mƣời hai tháng tuổi. Trƣờng hợp này đƣợc nêu ra bởi
quan niệm ngƣời vợ khi mang thai cân đƣợc chăm sóc, bảo vệ và ngƣời gần gũi
nhất với ngƣời vợ trong giai đoạn này không ai hơn ngƣời chồng. Quyền làm mẹ
cũng đã đƣợc pháp luật ghi nhận cụ thể hơn, cho phép ngƣời mẹ đƣợc ƣu tiên nuôi
con trong trƣờng hợp con dƣới ba tuổi. Vợ chồng bình đẳng nhau trong việc thực
hiện quyền nuôi con, nếu con trên chín tuổi thì cần xem xét nguyện vọng của con ở
với ai. Đối với việc phân chia tài sản, quyền sở hữu tài sản của ngƣời vợ đƣợc tôn
trọng hơn và thực nguyên tắc chia đôi tài sản nhƣng có xem xét hoàn cảnh của mỗi
bên, công sức đóng góp của mỗi bên trong việc tạo lập, duy trì và phát triển tài sản
này. Quyền đảm bảo về tài sản của ngƣời vợ còn đƣợc ghi nhận cụ thể hơn khi pháp
luật hôn nhân gia đình ghi nhận “lao động của ngƣời vợ trong gia đình đƣợc coi nhƣ
lao động có thu nhập”. Điều này xuất phát từ nguyên nhân là có nhiều ngƣời phụ nữ
chỉ ở nhà và thực hiện công việc nội trợ trong gia đình, không tham gia các hoạt
động kinh tế ngoài xã hội. Công việc của họ cũng góp phần không nhỏ trong việc
tạo dựng gia đình nên cần phải xem xét đến. Nhƣ vậy, đến luật hôn nhân và gia đình