Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên sau khi ly hôn – một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.68 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN NINH CHI

BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA CON CHƢA THÀNH NIÊN
SAU KHI LY HÔN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hƣớng Ứng dụng

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 8380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Thị Mai Hiên
\

Hà Nội – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn theo đúng quy định.


Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Ninh Chi


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành và sâu sắc nhất tới cô giáo, PGS.TS. Hà Thị Mai Hiên đã tận tình
chỉ bảo, hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình xây dựng luận văn này. Đồng
thời, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo Khoa Pháp luật dân sự;
các thầy cô giáo Khoa Đào tạo Sau đại học Trường Đại học Luật Hà Nội đã
hết lòng truyền đạt kiến thức, tạo điều kiện để tôi được học tập, nghiên cứu
trong hai năm học vừa qua.
Bên cạnh đó, tôi cũng gửi lời cảm ơn tới các đồng nghiệp tại cơ quan,
gia đình và bạn bè đã động viên, giúp đỡ, hướng dẫn, tạo điều kiện tốt nhất để
tôi có thời gian, có động lực để hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, xin kính chúc cô giáo, PGS.TS. Hà Thị Mai Hiên cùng các
thầy, cô giáo luôn mạnh khỏe và tiếp tục gặt hái được nhiều thành công trong
sự nghiệp giảng dạy, nghiên cứu. Đồng kính chúc các đồng nghiệp và bạn bè
đạt được những điều tốt đẹp trong công việc và cuộc sống.
Mặc dù đã cố gắng hết sức, tuy nhiên bởi vốn hiểu biết còn hạn hẹp nên
luận văn này không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Kính mong các thầy, cô và
toàn thể bạn đọc đóng góp, cho ý kiến để luận văn được hoàn thiện hơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Ninh Chi


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


HN&GĐ

: Hôn nhân và gia đình

Nxb.

: Nhà xuất bản

SN

: Sinh năm

Nghị định số

: Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của

110/2013/NĐ-CP

Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bổ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn
nhân gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã

Nghị định số
67/2015/NĐ-CP

: Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính

phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và
gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………….……………………………..1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI CỦA CON CHƢA THÀNH NIÊN SAU KHI CHA MẸ LY
HÔN…………………………………………………………………………..7
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc bảo vệ quyền lợi của con chƣa thành
niên khi ly hôn……………………………………………………………......7
1.1.1. Khái niệm ly hôn và hậu quả pháp lý, xã hội của việc ly hôn đối
với con chưa thành niên…………………………….........................................7
1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên sau khi cha
mẹ ly hôn…………………………..……...………………………………....12
1.1.3. Ý nghĩa của quy định pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho con chưa
thành niên sau khi cha mẹ ly hôn………………………………………..…..13
1.2. Nội dung của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của con chƣa thành
niên sau khi cha mẹ ly hôn theo pháp luật hôn nhân gia đình Việt
Nam………………………………………………………………………….16
1.2.1. Nguyên tắc giao con chưa thành niên cho bên nào nuôi dưỡng,
giáo dục vì quyền lợi mọi mặt của con………………………………………16
1.2.1.1. Trường hợp cha mẹ có sự thỏa thuận………………….…..18
1.2.1.2. Trường hợp cha mẹ không có sự thỏa thuận………………19
1.2.1.3. Việc xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên…....20
1.2.2. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên sau
khi ly hôn.........................................................................................................21
1.2.2.1. Nghĩa vụ và quyền của người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục

con…………………………………………………………………….……..21


1.2.2.2. Nghĩa vụ và quyền của người không trực tiếp nuôi dưỡng,
giáo dục con…………………………………………………………………27
1.2.3. Quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục
con…………………………………………………………………...………40
1.2.3.1. Điều kiện để Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng,
giáo dục con……………………………………………………..…………..40
1.2.3.2. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ sau khi thay đổi người trực
tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con………………………………………….……42
1.2.4. Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên……...43
Tiểu kết Chương 1……………………………….….……………………46
Chƣơng 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG
CƢỜNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA CON CHƢA THÀNH NIÊN SAU
KHI CHA MẸ LY HÔN...…………………………………………………47
2.1. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con chƣa thành
niên sau khi cha mẹ ly hôn trong hoạt động xét xử……………………....47
2.2. Một số khó khăn, vƣớng mắc trong công tác thi hành án về cấp
dƣỡng nuôi con sau khi cha mẹ ly hôn…………………………………....57
2.3. Một số tồn tại, bất cập trong việc thi hành án giao con cho ngƣời
nào trực tiếp nuôi dƣỡng, giáo dục………………………………………..59
2.4. Một số giải pháp tăng cƣờng bảo vệ quyền lợi của con chƣa thành
niên sau khi cha mẹ ly hôn…………………………………….…………...63
2.4.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật……………………………….63
2.4.2. Giải pháp về tổ chức thực hiện pháp luật………………………..65
Tiểu kết Chương 2……………………………………………………......68
KẾT LUẬN……………………………………………….………………...69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ly hôn – một vấn đề không mới nhưng đang xảy ra ngày càng phổ biến
và có dấu hiệu tăng lên đáng kể qua từng năm, là một biện pháp mà nhiều đôi
vợ chồng lựa chọn như là lối thoát cho cuộc sống bế tắc, giải thoát cho bản
thân. Tuy nhiên, họ lại không hoàn toàn ý thức hết được hậu quả pháp lý, xã
hội mà ly hôn đem lại cho những đứa con của mình. Ly hôn trở thành nỗi mất
mát, thiếu hụt trong tâm hồn trẻ và nếu trẻ không được bù đắp tình cảm, được
bảo vệ thì trước hết, nhân cách chúng sẽ phát triển lệch lạc, khuyết thiếu, sau
đó sẽ là tuổi thơ bị đánh mất và dễ sa ngã, vi phạm pháp luật.
Trẻ em là thế hệ tương lai của đất nước, luôn cần được quan tâm, chăm
sóc từ gia đình và xã hội. Trên thế giới, nhiều văn bản đã ghi nhận quyền của
trẻ em, chẳng hạn: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc
tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị và nhất là Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam
là nước đã phê chuẩn vào năm 1990. Trong nước, hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật mà đứng đầu là Hiến pháp qua các thời kỳ cùng Luật Hôn nhân và
gia đình ra đời, đều đưa vào những quy định thể hiện chính sách và ưu tiên
của nhà nước ta đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và bảo
đảm quyền lợi cho con chưa thành niên là một trong những nguyên tắc cơ bản
của Luật. Bên cạnh đó, Luật Trẻ em năm 2016 cũng là đạo luật quan trọng, có
liên quan mật thiết với Luật HN&GĐ trong quy định cụ thể các quyền cơ bản
của trẻ em và trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội, cũng như các cơ
quan, tổ chức hữu quan. Điều đó đã thể hiện sự quan tâm nhất định của nhà
nước đối với công tác bảo vệ quyền trẻ em, xác định rõ trách nhiệm của cha,
mẹ, gia đình và xã hội trong việc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Tuy nhiên trên
thực tế, việc áp dụng pháp luật còn gặp phải những khó khăn, vướng mắc.



2

Nhiều bậc cha, mẹ coi việc chăm sóc, nuôi dưỡng con là quy luật tự nhiên mà
chưa hề ý thức được tính pháp lý của hành vi đó, dẫn tới quyền trẻ em nói
chung và quyền lợi của con chưa thành niên nói riêng chưa được bảo đảm tốt
nhất và bị coi nhẹ. Pháp luật tuy đã có những chế tài nhưng chưa đầy đủ hoặc
chưa phù hợp với thực tế, còn nhiều vướng mắc, bất cập và thiếu những cơ
chế cần thiết để thực hiện. Vậy nguyên nhân do đâu, thực tế tại Tòa án, Cơ
quan thi hành án đã áp dụng các quy định của pháp luật như thế nào, những
kết quả đạt được, hạn chế, bất cập, vướng mắc phát sinh ra sao?
Được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo và nhất là người giảng viên
hướng dẫn của mình, tôi quyết định chọn đề tài: “Bảo vệ quyền lợi của con
chưa thành niên sau khi ly hôn – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” để
làm luận văn tốt nghiệp của mình. Hy vọng rằng, luận văn này sẽ giúp người
đọc có thêm hiểu biết nhất định đối với các quy định về bảo vệ quyền lợi của
con chưa thành niên sau khi cha, mẹ ly hôn cũng như một số vấn đề thực tiễn
đã và đang nảy sinh, từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện
các quy định của pháp luật về vấn đề này, cũng như bổ sung cho pháp luật về
HNGĐ cũng như pháp luật dân sự nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong nghiên cứu luật học nói chung và Luật HN&GĐ của Việt Nam
nói riêng, vấn đề bảo vệ quyền lợi cho con chưa thành niên sau khi cha mẹ ly
hôn cần được nghiên cứu như một cơ sở pháp lý quan trọng tạo khung cho
việc ban hành các quy phạm để bảo vệ quyền lợi cho trẻ em nói chung.
Đối với các quy định của pháp luật, bảo vệ quyền lợi cho con chưa
thành niên sau khi cha mẹ ly hôn được pháp luật HN&GĐ đề cập tại Luật
HN&GĐ năm 2014, Luật Trẻ em năm 2016 và một số văn bản hướng dẫn.
Đối với nhóm giáo trình, sách tham khảo, bình luận chuyên sâu có thể

kể đến bao gồm: Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học Luật Hôn


3

nhân và Gia đình Việt Nam, Nhà xuất bản (Nxb.) Trẻ Thành phố Hồ Chí
Minh; Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường (2002), Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội; Tưởng Duy Lượng (2001), Bình luận một số án Dân sự và Hôn nhân
và gia đình, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Đinh Mai Phương (2004), Bình
luận khoa học Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà
Nội; Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình (2013), Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội; … Các tài liệu này mới chỉ đề cập một lượng kiến thức cơ bản, phổ
thông hoặc trích đăng phụ lục, chỉ dẫn hoặc phân tích một số quy định trong
các văn bản liên quan đến vấn đề HN&GĐ.
Đối với nhóm luận văn, luận án, đề tài khoa học có thể liệt kê gồm: Bùi
Thị Mừng (2004), Về việc xem xét nguyện vọng của con khi giải quyết vấn đề
giao con cho ai nuôi trong các vụ án ly hôn, Tạp chí Luật học; Đỗ Thị Thu
Hương (2011), Vấn đề hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành
niên trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội; Phạm Thị Ngân (2012), Bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học
Luật Hà Nội; Nguyễn Thị Liên (2012), Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ
ly hôn – Thực tiễn xét xử tại các Tòa án thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Thu Trang
(2012), Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ
chồng ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Thị Loan (2015), Pháp
luật Việt Nam với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các
con khi ly hôn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;

Nguyễn Thị Thúy An (2017), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền và
nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn, Luận văn Thạc sĩ Luật học,


4

Trường Đại học Luật Hà Nội;…. Các đề án, đề tài, luận văn này chỉ đề cập
đến một lượng kiến thức khái quát về vấn đề bảo vệ quyền lợi của con khi cha
mẹ ly hôn, chưa có sự tách biệt, rạch ròi với đối tượng là trẻ chưa thành niên.
Có thể thấy, công trình nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề bảo vệ quyền
lợi cho con chưa thành niên sau khi cha mẹ ly hôn chưa nhiều, chưa đầy đủ.
Giáo trình, luận văn, các công trình nghiên cứu khoa học khác tuy có đề cập
tới nhưng chưa phân tích tỷ mỷ, chi tiết vấn đề này. Một số tạp chí, báo đài có
đưa tin, phóng sự nhưng không cụ thể, chỉ đưa ra các thông tin vụ việc mà
chưa đi sâu nghiên cứu, phân tích gốc rễ các quy định của pháp luật, chưa đề
xuất biện pháp giải quyết có hiệu quả hoặc chưa khả thi trong tình hình hiện
nay. Nhìn chung, các công trình, đề tài nghiên cứu về vấn đề này có nhưng
chưa thực sự nổi bật, đề cập chưa toàn diện và chưa giải quyết triệt để được
các nội dung phát sinh; chưa có công trình nghiên cứu một cách có hệ thống,
đầy đủ, chuyên sâu về bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên sau khi cha
mẹ ly hôn.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc áp dụng
Để thực hiện luận văn này, tác giả đã sử dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin về pháp luật, về
quan điểm điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ.
Luận văn còn được thực hiện bằng các phương pháp phân tích, tổng
hợp để nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề bảo vệ
quyền lợi của con chưa thành niên sau khi cha mẹ ly hôn. Các phương pháp
so sánh, thống kê, khảo sát, điều tra để đối chiếu, đánh giá, tìm ra điểm mới,
sự thay đổi trong các quy định của các pháp luật; thu thập thông tin qua các

nguồn tài liệu thực tiễn để minh chứng cho các vấn đề lý luận. Ngoài ra, một
số phương pháp khác được tác giả sử dụng để làm sáng tỏ, phong phú các vấn
đề cần nghiên cứu.


5

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về bảo vệ quyền lợi cho con chưa
thành niên sau khi cha, mẹ ly hôn, tập trung vào Luật HN&GĐ Việt Nam năm
2014 và thực tiễn áp dụng các quy định trong hoạt động xét xử, thi hành án.
* Phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi cho con chưa
thành niên sau khi cha, mẹ ly hôn ở nước ta;
- Tập trung chủ yếu vào các quy định hiện hành của Luật HN&GĐ Việt
Nam năm 2014 về vấn đề bảo vệ quyền lợi cho con chưa thành niên sau khi
cha, mẹ ly hôn và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan;
- Nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các quy định về bảo vệ quyền lợi cho
con chưa thành niên sau khi cha, mẹ ly hôn tại Tòa án, Cơ quan thi hành án.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ các quy định của pháp luật và việc
áp dụng pháp luật trên thực tế, từ đó làm cơ sở đưa ra các giải pháp, kiến nghị
giúp bảo đảm tối đa quyền lợi cho trẻ chưa thành niên sau khi cha mẹ ly hôn.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi của con chưa
thành niên sau khi cha mẹ ly hôn.
- Tìm hiểu một cách có hệ thống, khoa học những quy định của pháp
luật, tập trung vào Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 về quyền lợi của con
chưa thành niên sau khi cha mẹ ly hôn.

- Thực tiễn áp dụng pháp luật và những vướng mắc, bất cập, tồn tại nảy
sinh khi áp dụng pháp luật.
- Từ những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật đã tìm hiểu, tác giả đề xuất một số giải pháp về tổ chức và


6

thực hiện pháp luật để tăng cường bảo vệ quyền lợi cho con chưa thành niên
sau khi cha mẹ ly hôn.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
này bao gồm các nội dung chính:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về bảo vệ quyền lợi của
con chưa thành niên sau khi cha mẹ ly hôn;
Chương 2: Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp tăng cường bảo vệ
quyền lợi của con chưa thành niên sau khi cha mẹ ly hôn.


7

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI CỦA CON CHƢA THÀNH NIÊN SAU KHI
CHA MẸ LY HÔN
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc bảo vệ quyền lợi của con chƣa
thành niên sau khi cha mẹ ly hôn
1.1.1. Khái niệm ly hôn và hậu quả pháp lý, xã hội của việc ly hôn đối
với con chưa thành niên
* Khái niệm ly hôn và hậu quả pháp lý của việc ly hôn

Ly hôn là một vấn đề xã hội mang ý nghĩa tiêu cực nhiều hơn là tích
cực do những hệ quả mà nó mang lại. Từ khi pháp luật ra đời thì những quy
định về vấn đề ly hôn cũng theo đó mà xuất hiện, bởi quan hệ hôn nhân gia
đình là một trong những quan hệ chủ đạo trong xã hội và việc ly hôn dễ xảy ra
khi quan hệ hôn nhân tan vỡ. Tuy vậy, trải qua mỗi hình thái kinh tế xã hội
theo các thời kỳ thì quan điểm của nhà làm luật và quy định của pháp luật lại
không giống nhau. Theo đó, khi các hình thái kinh tế xã hội phát triển thì vấn
đề ly hôn ngày càng được nhìn nhận một cách tiến bộ hơn.
Trong thời kỳ chế độ phong kiến mà đặc trưng là tư tưởng trọng nam
khinh nữ, đề cao sự gia trưởng của người đàn ông, chế độ đa thê cùng những
căn cứ bất bình đẳng về ly hôn thì hôn nhân không xuất phát từ tình yêu, nền
tảng gia đình không được xây dựng trên cùng nguyện vọng, lý tưởng kéo theo
việc ly hôn chỉ được xem như thứ công cụ để bảo vệ hệ tư tưởng của chế độ
phong kiến cũng như lợi ích của giai cấp thống trị: cho phép người chồng tự
cho mình quyền bỏ vợ với nhiều lý do. Trong khi đó, người vợ không được
quyền bỏ chồng mặc dù cuộc hôn nhân đó là sự đau khổ, dày vò cả về thể xác
lẫn tinh thần.


8

Sang tới xã hội tư sản, khi xã hội đã có bước tiến dài trong lịch sử, việc
tự do yêu đương, chế độ hôn nhân một vợ một chồng và tự do ly hôn… đã
được quy định. Dù vậy, về bản chất, những quy định trên vẫn không thoát
khỏi hệ tư tưởng của giai cấp tư sản, dù rất tiến bộ nhưng khó thực hiện trên
thực tế, chỉ mang tính hình thức. Lê-nin đã chỉ rõ: “Dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, quyền ly hôn cũng như tất cả mọi quyền dân chủ khác, không loại trừ
một quyền nào đều không thể thực hiện một cách dễ dàng được, nó lệ thuộc
vào nhiều điều kiện, bị giới hạn, bị thu hẹp và có tính chất hình thức 1”. Có
thể thấy rõ biểu hiện đó qua quy định về căn cứ ly hôn: Việc ly hôn thường

căn cứ vào lỗi của một bên đương sự; lỗi là yếu tố quyết định một cuộc hôn
nhân có thể tồn tại được hay không cũng như ai là người có quyền xin ly hôn.
Do đó, chỉ cần một bên có lỗi thì cuộc hôn nhân đó có căn cứ chấm dứt bất kể
cuộc sống của gia đình và tình trạng cuộc hôn nhân trong một thời gian dài
diễn ra như thế nào. Như vậy, ly hôn đã không phản ánh được đúng như bản
chất của nó.
Đến giai đoạn xã hội chủ nghĩa, các quy định về ly hôn cơ bản đã phản
ánh đúng bản chất của vấn đề khi pháp luật là ý chí số đông trong xã hội. Nếu
coi hôn nhân là kết quả của tình yêu và sự đồng thuận của hai bên nam nữ thì
ly hôn là sự giải thoát cho họ khi nhận thấy quyết định đó là sai lầm. Bởi, bản
chất của ly hôn “chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân này chỉ là
một cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và giả dối 2” và
“Tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm tan rã những mối liên hệ gia đình
mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ,
những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn minh 3”.

Lê–nin: Về sự biếm họa chủ nghĩa Mác và về Chủ nghĩa kinh tế đế quốc, toàn tập, Nxb. Tiến bộ,
Matxcơva, 1981, T.30, tr.166.
2
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.1, tr.234.
3
Lê-nin: Về quyền dân tộc tự quyết, Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcova, 1980, T.25, tr. 335.
1


9

Theo quy định tại Khoản 14 Điều 3 Luật HN&GĐ thì: “Ly hôn là việc chấm
dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa
án”. Khi nhận thấy quan hệ vợ chồng luôn căng thẳng, nặng nề và cuộc hôn

nhân của mình là sai lầm thì vợ hoặc chồng cũng có thể đứng ra yêu cầu Tòa
án chấm dứt quan hệ đó và Tòa án là người khách quan bên ngoài xem xét,
nhìn nhận và đánh giá toàn diện vấn đề để từ đó đưa ra quyết định cuối cùng.
Đảm bảo quyền tự do ly hôn cũng là một nội dung quan trọng của nguyên tắc
hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được ghi nhận tại Điều 36 Hiến pháp năm 2013
và được cụ thể hóa tại Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2014. Tuy nhiên, tự do ly
hôn không phải là tự do tùy tiện không theo quy tắc nào mà phải dựa trên
những căn cứ luật định - khi “hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”
(Khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014), bên cạnh đó, ly hôn chỉ có giá trị
pháp lý khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Ở thời kỳ
này, căn cứ ly hôn cơ bản đã được đánh giá một cách tổng quát, xem xét đến
bản chất của nguyên nhân ly hôn, đó là khi mọi cố gắng để duy trì đời sống
chung đã trở thành vô ích, quan hệ hôn nhân thực sự rạn nứt, tan vỡ đến
không thể hàn gắn, tình trạng gia đình luôn căng thẳng, không tìm được tiếng
nói chung. Điều đó thể hiện bản chất khác với việc chỉ căn cứ ly hôn dựa trên
yếu tố lỗi của xã hội tư sản trước đó hoàn toàn dựa trên những hiện tượng mà
không xem xét bản chất của vấn đề.
Như vậy, trải qua mỗi thời kỳ chế độ xã hội khác nhau, khái niệm ly
hôn lại được hiểu và định nghĩa theo những quan điểm khác nhau. So với chế
độ phong kiến và tư sản nhìn nhận ly hôn theo góc độ tiêu cực: do lỗi của một
bên gây ra thì tới chế độ xã hội chủ nghĩa, nó được nhìn nhận dưới một khía
cạnh tích cực hơn, bình đẳng hơn – là lối thoát, giải pháp cho một cuộc sống
bế tắc. Mặt khác, căn cứ để ly hôn và vai trò của cơ quan xét xử ở các thời kỳ


10

cũng rất khác nhau. Trong xã hội phong kiến và tư bản, cơ quan xét xử không
quan tâm, cân nhắc nhiều đến cuộc sống và tình cảm của vợ chồng đã thực sự

chấm dứt hay chưa mà chỉ xem xét yếu tố lỗi mà các bên đưa ra có hợp lý hay
không, dẫn tới việc xét xử thụ động. Còn tới chế độ xã hội chủ nghĩa, Tòa án
là cơ quan nhìn nhận vấn đề một cách khách quan để quyết định có hay không
việc ly hôn của vợ, chồng, đó đã phải là giải pháp cuối cùng cho cuộc hôn
nhân bế tắc với nhiều mâu thuẫn hay chưa.
Tóm lại, ly hôn là sự kiện pháp lý do quyết định của Tòa án căn cứ theo
các quy định của pháp luật về HN&GĐ, sau khi đã tiến hành các thủ tục tố
tụng dân sự, được thể hiện bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật,
làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng trước pháp luật.
* Hậu quả xã hội của việc ly hôn đối với con chưa thành niên
Khi quan hệ hôn nhân thực sự tan vỡ, không còn sự cố gắng để duy trì
đời sống chung hoặc mọi sự cố gắng đều vô ích, tình trạng gia đình ngày càng
trầm trọng thì ly hôn là một trong những hệ quả tất yếu. Ly hôn là quyết định
của các cặp vợ chồng nhằm cấu trúc lại cuộc sống của mình. Tuy nhiên, ảnh
hưởng của nó với xã hội rất nặng nề. Nhiều nước, tỷ lệ ly hôn của các cặp vợ
chồng tăng lên đáng lo ngại, tạo ra những hệ lụy nặng nề cho sự phát triển và
môi trường xã hội. Nhiều nhà khoa học đã đưa ra những lời cảnh báo nhằm
hạn chế tình trạng ly hôn hiện nay.
Theo thống kê của Liên hợp quốc, trên thế giới trong năm 2016, 10
nước có tỷ lệ ly hôn cao nhất là: Bỉ (71%), Bồ Đào Nha (68%), Hung-ga-ry
(67%), Cộng hòa Séc (66%), Tây Ban Nha (61%), Lúc-xem-bua (60%), Ét-xtô-ni-a (58%), Cu-ba (56%), Pháp (55%), Mỹ (53%). Một số nước ở châu Á
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, tỷ lệ ly hôn có xu hướng tăng. Tình
trạng ly hôn ở khu vực thành thị thường cao hơn ở nông thôn.


11

Hệ quả về mặt xã hội của các cuộc ly hôn rất nặng nề. Trước tiên, nó
ảnh hưởng tới tâm lý với người ly hôn. Đối với đa số các trường hợp, thất
vọng về cuộc sống hôn nhân, giảm sút lòng tin vào con người. Từ đó kéo theo

những tác động không tốt đến sinh lý do thay đổi thói quen sinh hoạt. Tác
động đó ảnh hưởng không tốt đến sức lao động của con người. Bố mẹ ly hôn
có tác động rất lớn đến tâm lý, thể chất của con cái, nhất là các trường hợp ly
hôn khi con còn nhỏ hoặc ở lứa tuổi đang phát triển. Nó làm thay đổi xu
hướng phát triển của đứa trẻ, dẫn tới những hệ lụy lâu dài về sau. Ly hôn gây
nên những rạn nứt trong các mối quan hệ, dẫn đến những diễn biến tâm lý cực
đoan trong xã hội của người ly hôn. Trên bình diện đạo đức xã hội, ly hôn
phát triển mạnh mẽ sẽ trở thành trào lưu; khiến cho con người dễ dàng chấp
nhận lối sống hời hợt, thiếu trách nhiệm với hôn nhân, tính bền vững của gia
đình không cao và kết cấu xã hội lỏng lẻo.
Nguyên nhân của tình trạng ly hôn nhiều ở các nước nêu trên được
đánh giá khá toàn diện. Trước tiên xuất phát từ quan niệm xã hội về hôn nhân,
đơn giản là mối quan hệ cộng sinh đơn thuần, sẵn sàng tan vỡ khi có nhân tố
không thỏa mãn hoặc tồn tại không trọn vẹn. Đối với một số quốc gia, còn
xuất phát từ chính sách kinh tế, xã hội như giảm thuế thu nhập ở mức cao cho
người đã kết hôn (một số nước châu Âu), nhà nước đảm bảo chi phí cưới và
hưởng tuần trăng mật cho các cặp đôi kết hôn (Cu-ba), tình hình kinh tế khó
khăn, thủ tục ly hôn dễ dàng (chỉ cần một người chứng minh cuộc hôn nhân
không phù hợp)…Nhưng phổ biến nhất, việc ly hôn xuất phát từ chỗ hai bên
không chấp nhận những khác biệt của nhau, không sẵn sàng chia sẻ khó khăn
cùng nhau và đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của người bạn đời.
Thực tế cho thấy, ly hôn ở gia đình trẻ xảy ra phổ biến hơn và có xu
hướng ngày càng tăng. Xã hội càng phát triển hiện đại thì các cặp vợ chồng
trẻ càng bỏ nhau dễ dàng bởi tư duy của họ cởi mở, phóng khoáng, độc lập về


12

kinh tế, cái tôi bản thân quá cao dẫn tới khi cuộc sống phát sinh mâu thuẫn,
hôn nhân có dấu hiệu rạn nứt, không hạnh phúc thì họ sẵn sàng ly hôn. Có thể

thấy, giới trẻ ngày nay đang thiếu sự chuẩn bị cho cuộc sống chung, nhiều đôi
yêu cuồng, cưới vội rồi sau đó nhanh chóng chia tay vì thiếu kỹ năng làm vợ
làm chồng, làm mẹ làm cha; không được học tập, rèn luyện kỹ năng ứng phó,
giải quyết các vấn đề phức tạp, mâu thuẫn phát sinh trong đời sống gia đình,
đặc biệt là thiếu sự hy sinh cần thiết dành cho nhau dẫn tới khi có chuyện, hôn
nhân thường dễ đứt dãy. Để có một gia đình hạnh phúc, bền vững chưa bao
giờ là điều dễ dàng, bởi không có cuộc hôn nhân nào mà không có sóng gió
và không phải hễ cứ xảy ra mâu thuẫn là đôi bên lại đòi ly hôn. Do vậy, cần
rất nhiều sự cố gắng, hy sinh, chia sẻ của cả hai bên để cùng vượt qua. Họ đâu
biết hết được rằng, mỗi khi một gia đình tan vỡ, xã hội và người thân sẽ thêm
gánh nặng, trong đó hệ lụy buồn nhất vẫn là những đứa trẻ thiếu đi sự yêu
thương, quan tâm, chăm sóc, giáo dục đầy đủ của cả cha và mẹ. Thực tế đã
cho thấy, không ít trẻ học hành sa sút, nhân cách lệch lạc, thậm chí là phạm
pháp ngay ở tuổi vị thành niên khi cha mẹ bỏ nhau.
1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên sau khi
cha mẹ ly hôn
Trước hết, để nghiên cứu về bảo vệ quyền lợi cho con chưa thành niên,
cần tìm hiểu rõ một số khái niệm. Về từ “bảo vệ”, đó là động từ, có nghĩa là
hành động, hoạt động giữ gìn cho khỏi hư hỏng, chống lại mọi sự hủy hoại,
xâm phạm để giữ cho được nguyên vẹn; giữ gìn an toàn cho một cơ quan, tổ
chức, tập thể hoặc một nhân vật, một cá nhân nhất định, bênh vực bằng lý lẽ
xác đáng. Còn đối với khái niệm “con chưa thành niên”, theo Khoản 1 Điều
21 Bộ luật dân sự năm 2015 thì người chưa thành niên là người chưa đủ mười
tám tuổi. Vì vậy, con chưa thành niên trong phạm vi luận văn này, cũng chính
là người chưa thành niên theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, tức là


13

trẻ chưa đủ mười tám tuổi – người chưa phát triển đầy đủ về mặt thể chất và

tinh thần của con người, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như
những người đã thành niên. Mặt khác, theo Điều 1 Công ước quốc tế về
quyền trẻ em, được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua ngày 20/11/1989
có quy định: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em là người dưới mười tám
tuổi; trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành
niên sớm hơn”. Có thể thấy, quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện
hành hoàn toàn phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em, qua đó pháp
luật nước ta đã phần nào bảo đảm quyền và nghĩa vụ của trẻ em cơ bản thống
nhất với quốc tế.
Có thể nói, bảo vệ quyền lợi cho con chưa thành niên sau khi ly hôn là
tổng thể các biện pháp, cách thức, thông qua các quy định của pháp luật do
các cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện, để đảm bảo các quyền và lợi ích
chính đáng của con không bị xâm phạm hoặc chịu tác động, ảnh hưởng xấu từ
việc ly hôn của cha mẹ, đồng thời áp dụng các chế tài xử lý đúng, kịp thời,
nghiêm khắc những hành vi vi phạm làm tổn hại tới quyền và lợi ích hợp
pháp của con sau khi cha mẹ ly hôn. Ở phạm vi rộng hơn, bảo vệ quyền lợi
cho con chưa thành niên là việc đảm bảo quyền lợi cho trẻ thông qua khuyến
khích, áp dụng các biện pháp nhằm tạo điều kiện tốt nhất để trẻ được phát
triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần; phòng ngừa và kịp thời phát hiện,
ngăn chặn, chống lại hoặc khắc phục hậu quả những hành vi làm ảnh hưởng
đến trẻ, nhất là trong bối cảnh cha mẹ trẻ ly hôn.
1.1.3 .Ý nghĩa của quy định pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho con
chưa thành niên sau khi cha mẹ ly hôn
Trước hết, đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc nâng cao tinh
thần trách nhiệm đối với con cái của cha, mẹ.


14

Cha, mẹ sinh con, cũng là người chịu trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục

con đến khi trưởng thành, đủ khả năng tự lập, nuôi sống bản thân. Bất kể cha,
mẹ có sống cùng nhau hay không, có cuộc sống thiếu thốn hay đầy đủ cũng
không thể chối bỏ trách nhiệm với con cái. Có đôi khi, cùng chăm sóc, nuôi
dạy con là niềm vui của bậc làm cha mẹ, con cái là động lực để phấn đấu, để
cố gắng xây đắp gia đình thêm đủ đầy, êm ấm nhưng khi ly hôn được cho là
giải pháp cuối cùng, tranh chấp, mâu thuẫn diễn ra thường xuyên thì công
việc chung đó, vô tình cũng trở thành một lý do để các bên chỉ trích, trách
móc nhau. Vì vậy, luật đã quy định việc nuôi con không chỉ là quyền mà còn
là nghĩa vụ của cha, mẹ. Nghĩa vụ này vừa là nhằm bảo vệ quyền lợi cho trẻ,
vừa là để nâng cao ý thức trách nhiệm của cha, mẹ, nhất là sau khi đã ly hôn,
là căn cứ để có chế tài phù hợp áp dụng nếu cha, mẹ không thực hiện nghĩa vụ
của mình.
Thứ hai, đây là sự cụ thể hóa nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của trẻ em
trong trường hợp đặc biệt.
Trong giai đoạn hiện nay, bảo vệ trẻ em luôn là vấn đề được xã hội
quan tâm, tạo điều kiện. Đảng, nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính
sách và cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật, ví dụ như trước đây
là Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 và hiện tại là Luật trẻ
em năm 2016, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/6/2017. Trong đó, luật thể
hiện, ghi nhận rõ nhiều quyền lợi của trẻ như quyền sống, quyền được chăm
sóc sức khỏe, quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng, quyền được giáo dục, học
tập và phát triển năng khiếu, quyền vui chơi giải trí, quyền về tài sản và một
số quyền đặc thù khác nữa. Đối với trường hợp con chưa thành niên có cha,
mẹ ly hôn, trẻ còn phải chịu nhiều thiệt thòi và mất mát hơn nhiều so với
những đứa trẻ được sống trong một gia đình đầy đủ, trọn vẹn cả cha lẫn mẹ.
Vì lẽ đó, Luật HN&GĐ quy định việc bảo vệ quyền lợi cho con chưa thành


15


niên sau khi ly hôn chính là sự cụ thể hóa nguyên tắc bảo vệ trẻ em trong
trường hợp đặc biệt, có cha, mẹ ly hôn.
Thứ ba, đây là sự thể hiện tính chất công bằng, dân chủ, nhân đạo của
pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa, về cơ bản, có sự tiến bộ, vượt hơn hẳn so
với các chế độ trước đó khi quy định căn cứ ly hôn phải được Tòa án xem xét,
nhìn nhận một cách khách quan nhất. Quy định này đã giảm thiểu được số
trường hợp gia đình tan vỡ khi mâu thuẫn, xung đột giữa các bên còn có thể
cứu vãn được. Điều đó sẽ khiến số vụ việc ly hôn giảm đi, số trẻ chưa thành
niên phải sống xa bố hoặc mẹ cũng theo đó mà bớt đi. Mặt khác, khi cố gắng
duy trì, cứu vãn một cuộc hôn nhân bế tắc sẽ chỉ làm tình hình cuộc sống
thêm căng thẳng, trầm trọng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến con trẻ thì ly hôn
cũng là biện pháp phù hợp để cuộc sống của trẻ được tốt đẹp hơn. Việc quy
định giao con cho người nào nuôi hoàn toàn là vì lợi ích của trẻ đã thể hiện rõ,
cho dù trong hoàn cảnh nào thì quyền lợi của con chưa thành niên luôn được
đặt lên hàng đầu. Điều này đã thể hiện được bản chất nhân đạo của pháp luật
xã hội chủ nghĩa so với các chế độ trước đó.
Thứ tư, đây là sự tiếp nối truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc.
Bất kể trải qua thời kỳ dựng nước hay giữ nước của dân tộc hay cho
đến thời điểm hiện tại, tình cảm gia đình luôn mang ý nghĩa rất thiêng liêng
trong tâm thức người Việt. Cho dù xã hội phát triển, thay đổi từng ngày thì
truyền thống, đạo lý giữa cha, mẹ và con cái ấy vẫn luôn được giữ gìn, tiếp
nối. Khi mà sự quan tâm đến trẻ em ngày càng được chú trọng thì việc ghi
nhận trong luật nguyên tắc cũng như cụ thể hóa các quy định về nghĩa vụ nuôi
con của cha mẹ được coi như là biểu hiện cho sự tiếp nối truyền thống, đạo
đức dân tộc.


16


1.2. Nội dung của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của con chƣa thành
niên sau khi cha mẹ ly hôn theo pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam
1.2.1. Nguyên tắc giao con chưa thành niên cho bên nào nuôi dưỡng,
giáo dục vì quyền lợi mọi mặt của con
Trong một vụ án ly hôn, ngoài vấn đề tài sản thì việc giao con cho ai
nuôi là một nội dung quan trọng mà Tòa án phải quyết định. Bởi, người bị tổn
thương và chịu nhiều thiệt thòi sau khi cha, mẹ ly hôn vẫn là những đứa con,
nhất là khi trẻ đang ở lứa tuổi chưa thành niên, cần sự chăm sóc của cả cha và
mẹ để đạt được sự phát triển toàn diện nhất. Trên thực tế, không ít các bậc
cha, mẹ khi đưa nhau ra Tòa, ngoài chia tài sản, chia các khoản nợ hoặc nghĩa
vụ, họ còn xác định cả vấn đề “chia con”. Đây là khái niệm được khá nhiều
người sử dụng, theo ý hiểu của bản thân họ, mà không phải bản chất của vấn
đề. Sau khi ly hôn là cha, mẹ sẽ không chung sống cùng nhau nữa nên trẻ,
theo lẽ đương nhiên sẽ theo cha hoặc mẹ đến một nơi ở mới, hoặc vẫn ở nhà
cũ nhưng thiếu vắng đi người còn lại. Từ đây, không phải cả cha và mẹ đều
hàng ngày được tiếp xúc với trẻ, chăm sóc, giáo dục, chơi đùa ,…cùng trẻ mà
thay vào đó, chỉ có một bên được trực tiếp đảm nhận nghĩa vụ đó. Ở một góc
độ khác, nhìn nhận về mặt pháp luật, trẻ không phải là tài sản, đồ vật để được
xem xét, tính toán là chia cho ai, hoặc giao hết các con cho một bên trực tiếp
nuôi, bên còn lại chỉ có nghĩa vụ cấp dưỡng. Tóm lại, khái niệm “chia con”
thường được sử dụng ở trên vừa không phù hợp với quy định của pháp luật,
vừa không đúng với thực tế về mặt xã hội, thể hiện sự thiếu trách nhiệm, hời
hợt của nhiều bậc cha, mẹ trong việc nuôi dạy con cái mình, làm sai lệch bản
chất của việc giao con cho một bên trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
Về nguyên tắc, việc ai là người nuôi con sau khi ly hôn có thể được các
bên đương sự (vợ, chồng) tự thỏa thuận với nhau và được Tòa án ghi nhận
trong bản án. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi


17


dưỡng, giáo dục con khi chưa thành niên (dưới 18 tuổi) hoặc đã thành niên
nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, hoặc không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi mình. Người không trực tiếp nuôi con có
nghĩa vụ cấp dưỡng (mức cấp dưỡng tùy theo điều kiện kinh tế hoặc theo thỏa
thuận) để người kia chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Nếu hai bên
không thể tự thỏa thuận được với nhau, Tòa án sẽ xem xét, giao quyền nuôi
con cho một bên vợ hoặc chồng. Cụ thể hóa nguyên tắc nêu trên, tại Khoản 2
Điều 81 Luật HN&GĐ quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp
nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp
không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp
nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên
thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Quy định này nhằm bảo đảm tốt nhất
quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng pháp
luật, các Tòa án vận dụng những quy định này không giống nhau. Ở một số
Tòa án, việc quyết định giao con cho ai nuôi không cần phải hỏi ý kiến của
người con, nhưng có Tòa án lại cho rằng cần phải lấy ý kiến của con cả khi
cha mẹ thoả thuận được việc giao con cho ai nuôi. Thực tiễn cho thấy, việc
xem xét ý kiến, nguyện vọng của con và coi đó là một trong những cơ sở để
Tòa án quyết định việc giao con cho ai nuôi là cần thiết, xét dưới cả góc độ lý
luận và thực tiễn. Bởi vì, khi cha mẹ ly hôn, con cái mất đi một điểm tựa quan
trọng nhất, đó chính là mái ấm gia đình. Việc hỏi ý kiến để các em nói lên tâm
tư, nguyện vọng của mình là hoàn toàn chính đáng, phù hợp với tinh thần của
Điều 12 Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em mà Việt Nam là quốc
gia thành viên. Theo đó: “Các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em
có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, được quyền tự do phát
biểu những quan điểm đó về tất cả mọi vấn đề có tác động đến trẻ em, những
quan điểm của các em được coi trọng một cách thích ứng với tuổi và độ



18

trưởng thành của các em”. Khi quyết định người trực tiếp nuôi con, Tòa án sẽ
xem xét các điều kiện về việc chăm sóc, nuôi dưỡng cũng như tình cảm, đạo
đức, phương pháp nuôi dạy con cái…của cha và mẹ. Ý kiến của con tuy
không có ý nghĩa quyết định cuối cùng nhưng cũng là một trong những cơ sở
cần thiết để Tòa án xem xét, lựa chọn người nuôi con, bảo đảm cho trẻ sự
phát triển tốt nhất. Xây dựng mỗi gia đình bình đẳng, hạnh phúc là mục tiêu
của Đảng và Nhà nước ta, cũng là ước mong của tất cả mọi người. Tuy nhiên,
có những cuộc hôn nhân, vì nhiều lý do không thể tiếp tục tồn tại thì cần phải
có một hướng đi phù hợp, trong đó có việc giải quyết bằng cách thức ly hôn.
Và trong một vụ án ly hôn, việc hỏi ý kiến của con là cần thiết, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của những người con.
1.2.1.1. Trường hợp cha mẹ có sự thỏa thuận
Tôn trọng sự thỏa thuận của các bên là một trong những nguyên tắc cơ
bản trong pháp luật dân sự. Quan hệ hôn nhân và gia đình cũng là một loại
quan hệ dân sự, do đó, cho phép và thừa nhận quyền thỏa thuận của các bên.
Khi đi đến quyết định ly hôn nghĩa là cha mẹ đã có sự cân nhắc, xem xét
nhiều lần sao cho con cái mình bớt thiệt thòi nhất, được sống thoải mái nhất.
Về cơ bản, trường hợp cha mẹ thuận tình ly hôn thì đều đã tự thỏa thuận được
với nhau về tài sản và con chung. Tuy nhiên cũng có nhiều trường hợp, cha,
mẹ thỏa thuận được người trực tiếp nuôi con nhưng về tài sản, về các khoản
nợ, tài sản phát sinh khác lại không thỏa thuận được thì Tòa án vẫn phải tôn
trọng, ghi nhận sự thỏa thuận về con chung đó. Đồng thời, thực tiễn cũng cho
thấy, không phải mọi sự thỏa thuận đều là hợp lý và vì quyền lợi cho con: có
trường hợp người có đủ khả năng lại trốn tránh trách nhiệm nuôi con trong
khi người không đủ điều kiện về vật chất, tinh thần lại nhận nuôi con; có
trường hợp vì tự ái cá nhân hoặc có hiềm khích với bên kia mà cha, mẹ thỏa
thuận mức cấp dưỡng nuôi con không phù hợp, không đảm bảo để trẻ được



19

nuôi nấng, phát triển đầy đủ hoặc không yêu cầu cấp dưỡng,…Về mặt lý
thuyết, các bên tự thỏa thuận và Tòa án là nơi công nhận sự thỏa thuận đó
nhưng trên thực tế, thỏa thuận lại không đảm bảo được hiệu quả mà đáng lẽ ra
nó mang lại khi pháp luật dân sự thừa nhận và đặt lên hàng đầu. Chỉ bởi vì
những vấn đề riêng tư của cha, mẹ mà quyền lợi chính đáng của trẻ bị ảnh
hưởng thì đây cũng là vấn đề mà Tòa án nên cân nhắc việc can thiệp vào thỏa
thuận của cha, mẹ.
1.2.1.2. Trường hợp cha mẹ không có sự thỏa thuận
Khi ly hôn, hầu hết các bậc làm cha, làm mẹ đều thương và có mong
muốn là người trực tiếp nuôi con để bù đắp cho đứa trẻ cả về vật chất lẫn tinh
thần, thể hiện trách nhiệm của bản thân. Tuy nhiên theo quy định, con chỉ có
thể sống cùng một người, dẫn tới việc cha, mẹ không có sự thỏa thuận về
người trực tiếp nuôi con và Tòa án sẽ là cơ quan đưa ra quết định cuối cùng,
sau khi đã xem xét, cân nhắc mọi mặt để đảm bảo cuộc sống cho trẻ. Khi yêu
cầu Tòa giải quyết, mỗi bên đều cố gắng đưa ra lý lẽ để thuyết phục Tòa án
rằng bản thân là người có đủ có điều kiện, hoặc điều kiện tốt hơn so với bên
còn lại để giành quyền nuôi con. Vì lẽ đó, Tòa án cần căn cứ vào nhiều yếu tố
như điều kiện về kinh tế, thời gian, môi trường sống cũng như đạo đức, lối
sống của các bên để xem xét giao con cho ai nuôi dưỡng. Người trực tiếp nuôi
con có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của đứa trẻ nên việc xem xét của
Tòa cần được tiến hành cẩn thận, chính xác. Trước hết, về mặt tinh thần,
người trực tiếp nuôi con chính là tấm gương để trẻ học tập. Nếu người đó có
lối sống không tốt, đạo đức không trong sáng, không quan tâm đến cuộc sống
và nhu cầu hằng ngày của con thì dù điều kiện kinh tế có tốt đến thế nào đi
chăng nữa thì nhân cách của trẻ cũng phát triển lệch lạc. Khi đưa ra quyết
định, Tòa nên xem xét ai là người thường xuyên ở cạnh chăm sóc và đồng



×