Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (54.05 MB, 89 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
LUAN VAN THAC SI LUAT HOC <small>(Định hướng ứng dung)</small>
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được cơng bố trong bat kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
<small>Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.</small>
TÁC GIÁ LUẬN VĂN
Phạm Mai Thắm
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><small>: Toà án nhân dân</small>
: Ủy ban nhân dân
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">GIAO DUC NGƯỜI DƯỚI 18 TUOI PHAM TOI ĐƯỢC MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015... 6 1.1. Khái niệm biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội ... 6 1.1.1. Định nghĩa các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội...6 1.1.2. Đặc điểm các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội ...7 1.1.3. Ý nghĩa các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội ...7
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định các biện pháp giám sát, giáo
dục người dưới 18 tuéi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật
<small>hình sự năm 2(JÍ5...- - - G Go nH rre 91.2.1. Cơ sở lý luận của việc quy định các biện pháp giám sát, giáo dục người</small>
dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm
<small>0 SS ... 9</small>
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc quy định các biện pháp giám sát, giáo dục người
dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hỡnh s nm
<small>PE S&flóni bó Z3 ZBójâNôfebửửWk33ióqk8vitl3hk234lilhki3h2.lbkó2hó2\õ4hóShóv3b 4h 7h ZhóJ.ó@ght5iB2ónS883 23</small>
Kết luận chương L...---¿- ¿SE S2+ESEE2E5EESEE2EE2151121511211121121111111111 11111116 30 Chương 2.QUY ĐỊNH CUA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VE CÁC BIEN PHÁP GIÁM SAT, GIAO DỤC NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHAM TOI DUOC MIỄN TRÁCH NHIEM HÌNH SỰ VA MOT SO VAN DE TRONG TRIEN KHAI ÁP DỤNG... - 5. St ST E1 1112111101111 11 1111 11111101111 111111111 te 31 2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 ti phạm tội được miễn trách nhiệm hình sw... 3l 2.1.1. Về kỹ thuật lập pháp ...---¿- ¿+ kSSkÉEE*EEEEEE11E11211121111111111 1.11 1x xe 31 2.1.2. Điều kiện áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục...--- 5 s-: a2 2.1.3. Các biện pháp giám sat, giáo duc cu thỂ...---- 2 + s+c++k+E+kerxzEerkererrees 34 2.2. Về triển khai áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi
phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự...-- 2-5-5 52 2+E+x+Ee£eczezxsed 44 2.2.1. Các văn bản và nội dung hướng dẫn áp dung ...---- 2 25 +s+£z£zezxzed 44
2.2.2. Một số nội dung chưa rõ ràng cần tiếp tục hướng dan... cece 51 Kết luận chương 2...¿- ¿St E2 EE19E1218112111111211111111111111111 11111101111 1 10 67 KẾT LUẬN ...-- S5 E21 E1 1511121111111 111111111 1111111111111 1111111111111 1 re. 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ Quốc. Đáp ứng yêu cầu về cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhiều đạo luật lớn, quan trọng đã được ban hành, trong đó có Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội khóa XIII, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa XIV (viết tắt là Bộ luật hình sự năm 2015).
Với quan điểm nhất quán trong việc bảo vệ trẻ em, Nhà nước Việt Nam đã tham gia Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em va đã thúc day việc hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền trẻ em, trong đó, đã dành sự quan tâm đặc biệt cho đối tượng trẻ em vi phạm pháp luật, nhất là những trường người dưới 18 tuổi phạm tội. Người dưới 18 tuổi là người có thé chất va tâm sinh lý chưa phát triển tồn diện, dé bị ảnh hưởng bởi mơi trường xã hội. Thực tế cho thấy tình trang người dưới 18 tuéi vi phạm pháp luật đang có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp, tình trạng tái phạm tương đối cao. Do đó, Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 tiếp tục kế thừa những nguyên tắc xử lý nhân đạo, khoan hồng đặc biệt đối với người dưới 18 tuôi phạm tội và bổ sung nhiều điều khoản quy định về chính sách xử ly theo hướng bảo vệ tốt nhất cho người dưới 18 tuổi, đề cao hiệu quả phịng ngừa
và tính hướng thiện. Cùng với việc mở rộng phạm vi miễn trách nhiệm hình sự
(TNHS) đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, lần đầu tiên Bộ luật hình sự Việt Nam quy định các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được
miễn TNHS tại mục 2 Chương XII. Quy định các biện pháp giám sát, giáo dục
nhằm sớm đưa người dưới 18 tuổi ra khỏi vòng tố tụng chính thức, nhưng vẫn dam bảo yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm, tái phạm ở người dưới 18 tuổi. Việc làm rõ nội dung các quy định mới về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS là u cầu cần thiết.
Với những lý do đó, tơi quyết định chọn đề tài “Các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">TNHS là quy định mới của BLHS năm 2015, được sửa đơi, bé sung năm 2017, có
<small>hiệu lực áp dụng từ ngày 01/01/2018. Chính vì vậy, nghiên cứu, phân tích quy định</small>
của BLHS năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS rất hạn chế cả về số lượng và nội dung nghiên cứu. Trước đó, một số cơng trình liên quan đến đề tài nghiên cứu ở các góc độ, mức độ khác nhau, chủ yếu là nghiên cứu, đề xuất sửa đôi, bé sung các biện pháp đối với người chưa thành niên (NCTN) phạm tội trong BLHS năm 1999 và bình luận, góp ý quy định về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội của BLHS 2015 (chưa sửa đổi). Các nghiên cứu này đã góp phần bồ sung nền tang lý luận và thực tiễn cho việc bồ sung, hoàn thiện quy định về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn
<small>TNHS trong BLHS hiện hành.</small>
Theo trình tự thời gian, từ năm 2008 đến nay, có thé kể một số cơng trình
<small>nghiên cứu sau:</small>
- Những van đề lý luận và thực tiễn về miễn trách nhiệm hình sự theo Luật hình sự Việt Nam, tác giả Trịnh Tiến Việt, Luận án tiễn sĩ Luật học, năm 2008.
- Hoàn thiện pháp luật về xử lý chuyên hướng đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật, tác giả Đỗ Thuý Vân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20/2008.
- Các biện pháp thay thế xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm
<small>tội, tác giả Phạm Anh Tuyên, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật tháng 8/2014.</small>
- Xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật một số nước trên thế giới và pháp luật Việt Nam, tác giả Trần Thị Minh Thư, Tạp chí Kiểm sát, số 9/2014.
- Đề tài nghiên cứu khoa học "Biện pháp xử lý người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam", tác giả Nguyễn Sỹ Anh,
<small>năm 2014.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">- Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay, tác giả Nguyễn Minh Đức, Luận án tiễn sĩ luật học, năm 2016.
- Các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tudi phạm tội, tác gia Trần Hồng Nhung, Luận văn thạc sỹ, năm 2016.
- Tìm hiểu các biện pháp xử lý chuyên hướng đối với người chưa thành niên
phạm tội trong Bộ luật Hình sự năm 2015, tác giả Hoàng Minh Đức, Nguyễn Phan
Trung Anh, Tạp chí Nghề luật số 2/2016.
- Chính sách hình sự áp dụng đối với người đưới 18 tuổi phạm tội được quy
<small>định trong Bộ luật hình sự năm 2015, tác giả Trương Quang Vĩnh, Tạp chí Luật học</small>
số 4/2016.
- Miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự năm 2015 và những vấn đề đặt ra trong quá trình áp dụng, tác giả Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Luật học số 7/2016.
- Xử lý chuyên hướng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định Bộ luật hình sự năm 2015, tác giả Mai Thị Thủy, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
- Chính sách xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội, tác giả Nguyễn Quốc Việt, Tạp chí Kiểm sát số 22/2017.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ quy định về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tudi phạm tội được miễn TNHS trong BLHS hiện hành, đồng thời đưa ra một số đề xuất triển khai, nâng cao hiệu quả áp dụng quy định này trên thực tiễn, hướng đến giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội nhận thức và sửa chữa lỗi lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.
- Nhiệm vụ nghiên của luận văn là làm rõ khái niệm, bản chất pháp lý và quy định của pháp luật về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS được quy định trong BLHS năm 2015. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá, tác giả đưa ra một số nội dung còn vướng mắc cần tiếp tục hướng dẫn, đề xuất việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về các biện
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS
<small>theo Luật hình sự Việt Nam.</small>
<small>4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu</small>
<small>Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duyvật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp so sánh, phương pháp</small>
phân tích, phương pháp tơng hợp, phương pháp logic...
<small>5. Những đóng góp khoa học của luận văn</small>
Luận văn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu ở cấp độ thạc sỹ quy định của BLHS năm 2015 được sửa đổi, b6 sung năm 2017 về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS.
Luận văn nghiên cứu một cách cụ thê và tương đối toàn diện các quy định của BLHS hiện hành về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuôi
phạm tội được miễn TNHS: đánh giá quy định và hiệu qua áp dụng quy định của
BLHS năm 1999 về miễn TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội; các quan điểm của Dang, Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong tình hình mới; tham khảo kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thế giới về xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người đưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS; nghiên cứu những nội dung còn chưa rõ, vướng mắc cần được hướng dẫn hoặc tiếp tục nghiên cứu trong triển khai áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục đối với
cao hiệu quả áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục trên thực tiễn, góp phần tăng cường hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm, tái phạm ở người dưới 18 tuổi. Nghiên cứu của luận văn đóng góp về mặt thực tiễn để các cơ quan Nha nước có thầm quyền tham khảo trong thực tế áp dụng các biện pháp giám sát, giáo
luận văn gồm 2 chương.
Chương 1: Một số van dé chung về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về các biện pháp giám
nội dung triển khai áp dụng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">SỰ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
1.1. Khai niệm biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội 1.1.1. Định nghĩa các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội
Trong các văn bản quốc tế về tư pháp người chưa thành niên khơng có thuật
<small>ngữ các biện pháp giám sát, giáo dục mà có thuật ngữ biện pháp xử lý khơng chính</small>
thức, xử lý chuyển hướng. Theo cuốn thuật ngữ tư pháp người dưới 18 tuổi của Bộ Tư pháp phối hợp cùng tổ chức UNICEF thì thuật ngữ "biện pháp khơng chính
<small>thức” (Informal Measures) là “biện pháp xử lý vi phạm pháp luật khơng áp dụng các</small>
thủ tục tố tụng hình sự hoặc thủ tục xử lý vi phạm hành chính mà dựa vào cộng
đồng dé giáo duc, ran de người có hành vi vi phạm”. Ở nhiều quốc gia trên thé giới, những biện pháp xử lý khơng chính thức đối với người dưới 18 tuôi phạm tội thường được gọi là biện pháp xử lý chuyển hướng 7. Người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật được đưa ra khỏi hệ thống tố tụng chính thức để xử ly tại cộng đồng nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho người dưới 18 tuổi, phù hợp với hồn cảnh và tính chat vi phạm, đồng thời thúc day các biện pháp phục hồi, chú trọng cải tạo, giáo dục trẻ
<small>em. Trong pháp luật hình sự Việt Nam, BLHS 2015 khơng sử dụng thuật ngữ "biện</small>
pháp xử lý chuyển hướng" mà quy định các biện pháp giám sát, giáo dục tại Mục 2
<small>Chương XII - "Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được</small>
miễn trách nhiệm hình sự", bao gồm ba biện pháp: khiến trách, hòa giải tại cộng đồng và giáo dục tại xã, phường, thị tran.
Các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội là các biện pháp được quy định trong Bộ luật hình sự, do cơ quan tiến hành tổ tụng có thâm quyền áp dụng đối với người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và được miễn TNHS khi đáp ứng những điều kiện nhất định nhằm đưa người dưới 18 tuổi phạm tội ra khỏi vòng tố tụng chính thức để áp dụng các
<small>' Unicef (2009), Thuật ngữ tư pháp người chưa thành niên juvenile justice lexicon, song ngữ Anh — Việt, Hà</small>
<small>Nội, tr.5.</small>
<small>? Trần Hồng Nhung (2016), Các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi</small>
<small>phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, tr. 6.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">1.1.2. Đặc điểm các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội Các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS quy định trong BLHS năm 2015 có một số đặc điểm như sau:
<small>Một là: các biện pháp giám sát, giáo dục được quy định trong Bộ luật</small>
hình sự. Đối tượng áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục là người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bi coi là tội phạm được miễn TNHS theo các trường hợp quy định riêng đối với người dưới 18 tuổi tại khoản 2 Điều
<small>91 BLHS.</small>
Hai là: thâm quyền áp dụng biện pháp giám sát, giáo duc là cơ quan tiến hành tố tụng có thâm quyền tương ứng với giai đoạn tố tụng bao gồm: Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
<small>Ba là: các biện pháp giám sát, giáo dục có tính đa dạng. Mục 2 Chương</small>
XII BLHS quy định 03 biện pháp giám sát, giáo dục bao gồm: khiến trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc giáo dục tại xã, phường, thị tran. Mỗi biện pháp giám sát, giáo dục được quy định phân hóa theo độ tuổi, loại tội, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Người dudi 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS theo quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS phải bị áp dụng một trong ba biện pháp
<small>giám sát, giáo dục nêu trên.</small>
Bốn là: Người dưới 18 tuổi được miễn TNHS phải đáp ứng những điều kiện cụ thể để được áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục đồng thời, việc áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục phải có sự đồng ý của người dưới 18 tuổi phạm
<small>tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ. Người được áp dụng biện pháp giám sát</small>
giáo dục phải tuân thủ những nghĩa vụ nhất định.
1.1.3. Ý nghĩa các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội Bộ luật hình sự năm 2015 quy định các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS có ý nghĩa rất lớn về mặt lý
luận cũng như thực tiễn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">năm 1999, khắc phục căn bản những vướng mắc, bất cập đặt ra qua đánh giá thực tiễn, tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện cụ thê của Việt Nam. Dong thời thé hiện quan điểm của Dang, Nhà nước ta trong bảo vệ, giáo dục trẻ em nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng, thé hiện tính nhân đạo, tăng tính hướng thiện trong chính sách xử lý hình sự, thé hiện sự hài hòa giữa các biện pháp cưỡng chế hình sự với các biện pháp tác động xã hội khác, vừa đảm bảo tính giáo dục, chống và phòng ngừa tội phạm, đồng thời là một nỗ lực trong việc làm hài hòa hệ thống pháp luật quốc gia với Công ước quốc tế về Quyên trẻ em.
Việc quy định biện pháp giám sát, giáo dục nhằm sớm đưa người dưới 18 tuổi phạm tội ra khỏi vịng tơ tụng, vụ việc được giải quyết, xử lý nhanh hon, han chế việc người dưới 18 tuổi phạm tội phải tiếp xúc lâu dài với hệ thống tư pháp chính thức, tim ra cách thức phù hợp dé giải quyết việc người dưới 18 tuổi phạm tội trên cơ sở đánh giá từng trường hợp cụ thể, căn cứ tính chất mức độ vi phạm, nhân thân, gia đình, điều kiện hồn cảnh phạm tội để đưa ra biện pháp và can thiệp phù hợp đối với từng cá nhân người phạm tội, có thé giải quyết nguyên nhân gốc rễ dẫn đến hành vi phạm tội, làm giảm tác động tiêu cực đến sự phát triển, tương lai của người dưới 18 tuổi. Tạo điều kiện cho người dưới 18 tuổi phạm tội được sinh
sát của gia đình, nhà trường, chính quyền địa phương, nham giúp người dudi 18 tuổi nhận thức được lỗi lẫm của minh và rèn luyện, phát triển đúng đắn, trở thành người cơng dân tốt. Qua đó, vừa đảm bảo tăng cường khả năng cải tạo, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội ngoài cộng đồng vừa đảm bảo u cầu
<small>phịng ngừa tái phạm.</small>
Bộ luật hình sự năm 2015 quy định các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tạo cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai, áp dụng thống nhất, rộng rãi trên thực tiễn, góp phần làm giảm thiểu số lượng các vụ việc phải giải quyết bằng hệ thống tư pháp chính thức và do đó, giảm khối lượng cơng việc cho các cơ quan tư pháp, tiết kiệm được chi phí phát sinh từ q trình tố tụng
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">trường, chính quyền địa phương đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Trên thực tế, người dưới 18 tuổi phạm tội một phan do gia đình cịn bng lỏng trong việc chăm sóc, giáo dục, sự thiếu quan tâm, vơ cảm của những người xung quanh. Các biện pháp giám sát, giáo dục được áp dụng trên thực tế sẽ tác động lớn đến nhận thức, nâng cao trách nhiệm của gia đình, cộng đồng trong việc quan tâm, chăm sóc, giáo dục người dưới 18 tuổi, góp phan hạn chế người dưới 18 tuổi tái
<small>phạm, vi phạm pháp luật.</small>
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ
<small>luật hình sự năm 2015</small>
<small>1.2.1. Cơ sở lý luận cua việc quy định các biện pháp giảm sat, giáo dục người</small>
dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình
<small>sự năm 2015</small>
Một là: quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xử lý người dưới 18 tuổi phạm
<small>tội trong tình hình mới.</small>
Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta từ trước cho đến nay nhất quán với việc bảo vệ trẻ em, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ em bởi đây là đối tượng dé bị ton thương, tác động nhất. Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 05/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới đã chỉ ra một số hạn chế, yếu kém trong hệ thống pháp luật, chính sách về chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em chưa hoàn thiện và yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể quán triệt và thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm dé tăng cường công tac chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong thời gian tới, trong đó có nội dung yêu cầu "Rà sốt, sửa đơi, bố sung và hồn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về chăm sóc,
<small>giáo dục và bảo vệ trẻ em theo hướng mở rộng chính sách an sinh xã hội, phúc lợixã hội cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em thuộc gia đình nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùngdân tộc thiêu sô...Đây mạnh xã hội hóa cơng tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">theo hướng nâng cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư và các tơ chức chính trị - xã hội". Xây dung va tơ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình, dé án chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Tổ chức thực hiện tốt Công ước Liên hợp quốc về quyên trẻ em và các công ước, điều ước quốc tế khác có liên quan mà Nhà nước Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
<small>Từ sau năm 2000, Nhà nước ta thực hiện chủ trương cải cách tư pháp theo</small>
tỉnh thần của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng và các Nghị quyết của Bộ Chính trị như: Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trong các nghị quyết này Đảng ta chỉ rõ cần phải coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả
<small>phịng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù,</small>
mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá
quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa
các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia. Té chức các cơ quan tư pháp và các chế định bé trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cau tô chức và điều
<small>kiện, phương tiện làm việc; trong đó xác định Tịa án có vi trí trung tâm và xét xử là</small>
hoạt động trọng tâm, đề ra nhiệm vụ “Nghiên cứu thành lập Tịa hơn nhân và gia đình”. Bên cạnh đó, văn kiện đại hội Đảng lần thứ XI cũng chỉ rõ một trong bốn nhiệm vụ, giải pháp để đây mạnh xây dựng nhà nước pháp quyên xã hội chủ nghĩa là "Đây mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Đồng thời xác định: Xây dựng gia đình no ấm, tiễn bộ, hạnh phúc, thật
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp
tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em.
Hiến pháp năm 2013 cũng có những quy định mới, tiến bộ về quyền con người, quyền cơng dân. Theo đó, quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. "Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các van đề về trẻ em. Nghiêm cam xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em" (khoản 1 Điều 37 Hiến pháp năm 2013). Việc đề cao quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành đảm bảo các quyền này của người dân được thực hiện trên thực tế, theo đó, BLHS phải xử lý nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con người, quyền cơ bản của công dân, đồng thời cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi việc xử ly người phạm tội theo hướng dé cao
<small>hiệu quả phịng ngừa và tính hướng thiện.</small>
Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đôi, bố sung năm 2009 thé hiện nguyên tắc xử ly NCTN phạm tội phải đảm bảo lợi ích tốt nhất của NCTN, chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh
<small>và trở thành cơng dân có ich cho xã hội. Việc xử lý NCTN phạm tội phải căn cứ vào</small>
độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Việc buộc NCTN phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình là nhằm mục đích để họ nhận thức sâu sắc rằng hành vi phạm tội của mình đã vi phạm các chuẩn mực và quy tắc của nhà nước, của xã hội. Tuy nhiên mọi biện pháp xử lý đối với NCTN được xem xét không chỉ dựa vào tính chất và mức độ nghiêm trọng, hậu quả của hành vi ma cịn tính đến hồn
<small>cảnh riêng của các em, bởi vì mục đích của hình phạt, việc áp dụng hình phat và các</small>
biện pháp áp dụng khác đối với NCTN không phải chi là dé trừng phạt, mà còn nhằm hỗ trợ người vi phạm phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng. Việc xét xử NCTN chỉ đặt ra trong những trường hợp thật cần thiết, trong trường hợp phải áp dụng hình phạt đối với các em thì cũng lấy mục đích giáo dục, cải tạo là chủ yếu, không dé
<small>ảnh hưởng quá lớn đên tâm lý, sự phát triên của các em, dê gây ra sự bât mãn, lòng</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">thù hận. Bộ luật hình sự cũng quy định NCTN phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại khơng lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tơ chức nhận giám sát, giáo dục. Bộ luật tơ tụng hình sự 2003 và Bộ luật tơ tụng hình sự năm 2015 đều dành riêng một chương quy định về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, trong đó xác định nguyên tắc "Bảo đảm thủ tục tổ tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi, bao đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuôi ".
Các quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật trẻ em, Luật hơn nhân và gia đình, Luật con ni, Luật phịng, chống bạo lực gia đình, Luật bình đăng giới và Bộ luật dân sự đều có quy định về bảo vệ trẻ em. Luật tơ chức Tịa án nhân dân quy định về chức năng, nhiệm vụ, tô chức, hoạt động của Tịa án, trong cơ cấu tơ chức của Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện có Tịa gia đình và người chưa thành niên. Luật trẻ em năm 2016, tại khoản 3,4,5 Điều 5 xác định nguyên tắc "Bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em trong các quyết định liên quan đến trẻ em; Tôn trọng, lắng nghe, xem xét, phản hồi y kiến, nguyện vọng của trẻ em. Khi xây dựng chính sách, pháp luật tac động đến trẻ em, phải xem xét ý kiến của trẻ em và của các cơ quan, tơ chức có liên quan; bảo đảm lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu về trẻ em trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, ngành và địa phương". Điều 30 quy định về quyền được bảo vệ trong tô tụng và xử lý vi phạm hành chính của trẻ em, trong đó ưu tiên giải quyết nhanh chóng các vụ việc liên quan đến trẻ em dé giảm thiểu tổn hại đến thé chất và tinh thần của trẻ em. Điều 71 quy định: "Trẻ em vi phạm pháp luật bi áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính; biện pháp khiển trách, hịa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị tran khi
được miễn trách nhiệm hình sự; hình phat cải tạo không giam giữ; án treo theo quy
định của Bộ luật hình sự; trẻ em đã chấp hành xong biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng hoặc tù có thời hạn được áp dụng các biện pháp bảo vệ sau đây nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện vi phạm pháp luật, phục hồi, tránh tái phạm".
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 tại khoản 4 Điều 2 cũng xác định nguyên tắc
"Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em..."
Có thể thấy, quan điểm nhất quán của Đảng, nhà nước ta đối với trẻ em là đề cao việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em. Trong đó, quan điểm về việc xử lý NCTN phạm tội cũng luôn được quan tâm, kế thừa, phát triển, cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật. Theo đó, việc xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cần tiếp tục kế thừa và đề cao hơn nữa tính nhân đạo, khoan hồng được quy định trong BLHS năm
cần thiết, chủ yêu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành cơng dân có ích cho xã hội. Bên cạnh việc dé cao tính nhân đạo, hướng thiện trong xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội đặt ra yêu cầu tăng cường các biện pháp giám sát, giáo dục, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để người dưới 18 tuổi phạm tội sửa chữa sai lầm, tái hòa nhập cộng đồng, phát triển lành mạnh, hạn chế tối đa tình trạng người đưới 18 tudi tái phạm, đảm bảo hiệu qua và ý nghĩa tích cực của chính sách nhân đạo trong xử lý người đưới 18 tuổi phạm tội.
Hai là: yêu cẩu của các văn bản pháp lý quốc tế mà Việt Nam đã ký kết,
<small>tham gia.</small>
Vấn đề bảo vệ trẻ em, NCTN nói chung và bảo vệ trẻ em, NCTN phạm tội nói riêng là van đề được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. Trong thời gian qua, các văn bản quốc tế về quyền con người, quyên trẻ em, NCTN lần lượt được ra đời. Theo đó, các quốc gia trên thế giới cũng rất nỗ lực trong việc bảo đảm hệ thống pháp luật liên quan đến NCTN phạm tội tuân thủ theo đúng luật pháp quốc tế về quyền con người bằng việc đưa những nguyên tắc quốc tế vào các luật và chính sách quốc gia.
Trong xu thế chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam đã tham gia nhiều tô chức quốc tế, t6 chức khu vực và đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa phương, trong đó có các văn bản pháp lý quốc tế về bảo vệ trẻ em, NCTN phạm tội. Điều này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục sửa đổi, b6 sung BLHS dé nội luật hóa các quy định trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên liên quan đến lĩnh vực hình sự đối với NCTN nhằm thực hiện day du nghia vu cua quốc gia thành viên, tao cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế trong
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">phịng, chống tội phạm. Theo đó, các quy định của BLHS Việt Nam cần tuân thủ, tương thích với các nguyên tắc, hướng dẫn đối với việc xử lý NCTN phạm tội được thé hiện trong một số văn bản pháp lý quốc tế sau:
Công ước về quyền trẻ em do Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 theo Nghị quyết 44/25, có hiệu lực từ ngày 02/9/1990. Đây là văn kiện pháp lý có số thành viên lớn nhất phê chuẩn so với tất cả các Công ước quốc tế khác đề cập tới một số khía cạnh về tư pháp NCTN, các van dé liên quan đến trẻ em và quyền con người. Việt Nam là quốc gia đầu tiên của Châu A và là quốc gia thứ hai trên thé giới phê chuẩn Công ước này vào ngày 20/02/1990. Nội dung Công ước quy định các quyén cơ bản của trẻ em, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.... Trong đó, Điều 40 Công ước đưa ra yêu cầu các quốc gia thành viên phải tim cách thúc day hình thành những đạo luật, thủ tục, qui định, các cơ quan và thể chế áp dụng riêng cho các trẻ em bị tố cáo hay bị thừa nhận là đã vi phạm luật hình sự, đặc biệt phải chú ý: Bất kỳ khi nào xem xét thấy thích hợp và nên làm, thì dé ra các biện pháp dé xử lý những trẻ em như thế mà không phải đụng đến những quá trình tố tụng tư pháp, miễn là các quyền con người và những điều kiện bảo vệ hợp pháp được tơn trọng đầy đủ và phải có sẵn nhiều biện pháp khác nhau như chăm sóc, hướng dẫn và lệnh giám sát, tư vấn, tạm tha, chăm nuôi thay thế, các chương trình giáo dục và dạy nghề và những biện pháp thay thế khác ngồi việc chăm sóc tập trung, nhằm đảm bảo cho trẻ em được đối xử một cách phù hợp với phúc lợi của các em và tương xứng cả với
<small>hoàn cảnh và tội phạm của các em.</small>
Quy tắc tối thiểu phô biến của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua 29/11/1985 (Quy tắc Bắc Kinh). Nội dung Quy tắc đề ra các tiêu chuẩn tối thiểu, toàn diện về việc áp dụng pháp luật với NCTN. Các quy tắc này hướng dẫn các quốc gia thành viên khi xây dựng các hệ thống tư pháp riêng cho NCTN theo nghĩa vụ được quy định tại Điều 40 của Công ước về quyên trẻ em, nhân mạnh việc xây dựng hệ thống các quy định áp dụng đối với người chưa thành niên cần chú trọng đến quyền, lợi ích của người chưa thành niên, đồng thời đảm bảo mọi quyết định xử lý NCTN phải phù hợp với hồn cảnh và tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà các em đã thực hiện. Quy tắc nêu rõ: Tư pháp NCTN là một bộ phận của nền tư
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">pháp quốc gia, bao gồm các quy định pháp luật và việc áp dụng các quy định đó đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật do một hệ thống các cơ quan tài phán
<small>và một đội ngũ những người tham gia vào các hoạt động tư pháp thực hiện theo</small>
họ. Bất cứ khi nào thích hợp, phải xem xét về việc xử lý NCTN phạm tội mà khơng phải đưa ra xét xử chính thức bởi các cơ quan có thẩm quyền (Quy tắc 11.1). Theo Bình luận Quy tắc số 11.4 của Quy tắc Bắc Kinh, thì "việc sử dung các biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự, thơng thường là chuyền giao cho các tổ chức hỗ trợ ở cộng đồng, được áp dụng rộng rãi trên cơ sở chính thức và khơng chính thức trong nhiều hệ thống pháp luật. Việc này nhằm ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực của các thủ tục tô tụng tiếp theo trong áp dung tư pháp đối với người chưa thành niên (ví dụ người chưa thành niên phạm tội sẽ phải chịu một vết nhơ khi bị buộc tội và tuyên án). Trong nhiều trường hợp, cách giải quyết tốt nhất là không có sự can thiệp của tịa án. Vì vậy, việc sử dụng các biện pháp thay thế trách nhiệm hình sự ngay từ đầu và không chuyển giao cho những tơ chức (xã hội) khác có thé là cách tối ưu. Đặc biệt trong trường hợp hành vi phạm tội khơng mang tính chất nghiêm trọng, và gia đình, nhà trường hoặc những tổ chức quản lý xã hội không chính thức khác đã
<small>có cách xử lý hoặc có khả năng xử lý theo một hướng phù hợp và mang tính xâydựng".</small>
Hướng dẫn về hành động đối với trẻ em trong hệ thống tư pháp hình sự -Nghị quyết 1997/30 của Liên hợp quốc (Hướng dẫn Viên). Hướng dẫn kêu gọi các quốc gia thành viên "Các nguyên tắc và quy định của Công ước về quyền trẻ em cũng như các quy tắc và tiêu chuẩn của Liên Hợp Quốc về tư pháp người chưa thành niên cần phải được phản ánh đầy đủ trong hệ thống pháp luật và thực tiễn của quốc gia và địa phương, đặc biệt là thông qua việc thiết lập một hệ thống tư pháp người chưa thành niên hướng tới trẻ em, mà có thể bảo đảm các quyền của trẻ em, ngăn chặn sự vi phạm các quyên của trẻ em, thúc đây ý thức về nhân phẩm và giá trị của trẻ em, và tôn trọng day đủ các yếu tô về độ tuổi, giai đoạn phát triển, quyền được tham gia thực sự và sự đóng góp của trẻ em với xã hội" (Điều 11). Đồng thời
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">xác định: "Cần xem xét lai các thủ tục hiện hành, và nếu có thé, cần phát triển biện pháp thay thế hoặc biện pháp tùy chọn khác thay cho hệ thống tư pháp hình sự truyền thống nhằm tránh phải phụ thuộc vào các hệ thống tư pháp hình sự dành cho những thanh niên bị cáo buộc phạm tội. Cần xác định các bước đi thích hợp nhằm tạo ra trong cả nước một loạt các biện pháp giáo dục và có tính chất thay thế ở các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, nhằm ngăn ngừa sự tái phạm và thúc đây khả năng tái hòa nhập xã hội của trẻ em phạm pháp. Khi thích hợp, cần sử dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp khơng chính thức trong các trường hợp liên quan đến trẻ em phạm pháp, bao gồm việc hịa giải và các hình thức tư pháp phục hồi, đặc biệt các quy trình liên quan đến các nạn nhân. Cần huy động sự tham gia
<small>của gia đình khi sử dụng các biện pháp khác nhau trong chừng mực sự tham gia đó</small>
có lợi cho trẻ em " (Điều 15)
Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa vi phạm pháp luật của người
chưa thành niên (Hướng dẫn Riyadh) thông qua ngày 14/12/1990. Hướng dẫn Riyadh
đã đưa ra cách tiếp cận phòng ngừa tội phạm tích cực, tồn diện và đặt NCTN là trung tâm. Cách tiếp cận này hướng tới giải quyết các nguyên nhân xã hội căn bản dẫn đến hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Trong đó, Quy tắc 52 kêu gọi các chính phủ ban hành và thực thi “luật và thủ tục để thúc đây và bảo vệ quyền và lợi ích của người chưa thành niên”. Hướng dẫn này khuyến nghị hoạt động phòng ngừa phạm tội ở người chưa thành niên cần xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, sự phối kết hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các đoàn thé quần chúng, sự tham gia của cộng đồng thông qua một loạt các dịch vụ và chương trình, hợp tác liên ngành giữa các chủ thé trong toàn xã hội và sự tham gia của người chưa thành niên vào quá trình xây dựng tất cả các chính sách phịng ngừa tội
Như vậy, các văn bản pháp lý quốc tế về trẻ em, NCTN đều dành sự quan tâm đặc biệt đến đối tượng là trẻ em, NCTN vi phạm pháp luật. Các văn bản này
NCTN phạm tội, đồng thời tăng cường sự tham gia, phối hợp của cộng đồng, gia
<small>đình NCTN phạm tội trong việc giáo dục, cải tạo NCTN. Theo đó, việc mở rộng</small>
phạm vi miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và quy định các biện pháp
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">giám sát, giáo dục đối với người đưới 18 tuổi được miễn TNHS trong BLHS năm 2015 là cần thiết, đáp ứng yêu cầu của các văn bản pháp lý quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Ba là: Tham khảo kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thé giới Kinh nghiệm lập pháp của nhiều quốc gia trên thế giới về TNHS của NCTN có hai xu hướng: một là có luật riêng quy định về TNHS người chưa thành niên như Cộng hòa Đức (Luật về Tòa án người chưa thành niên), Nhật Bản (Luật Người chưa thành niên), Canada (Đạo luật về Tư pháp Hình sự đối với Thanh thiếu niên, New Zealand (Đạo luật về Trẻ em, Thanh thiếu niên và Gia đình), Thái Lan (Đạo luật về Tịa Gia đình và Trẻ em), Philippin (Đạo luật về Tư pháp và Phúc lợi người chưa thành niên năm 2006)...; hai là quy định về TNHS người chưa thành niên trong Bộ luật hình sự > như Liên bang Nga (Bộ luật hình sự năm 1996, được sửa đôi, bô sung năm 2010). Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị cũng như phong tục tập quan, truyền thống lịch sử, tình hình tội phạm và u cầu đấu tranh phịng, chống tội phạm ở NCTN.... mà các quốc gia có những quy định về độ tuổi, mức độ chịu TNHS, chính sách xử lý khác nhau đối với NCTN phạm tội. Tuy nhiên, điểm chung nhất trong chính sách xử lý đối với NCTN phạm tội là đề cao tính nhân đạo, khoan
nhận thức được sai lầm, sửa chữa, phát triển thành cơng dân có ích cho xã hội. Qua nghiên cứu văn bản pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật quốc gia nói riêng cho thấy có hai hình thức xử lý đối với NCTN vi phạm pháp luật nói chung và NCTN phạm tội nói riêng, bao gồm: Biện pháp xử lý chính thức và Biện
<small>pháp xử lý khơng chính thức. Biện pháp xử lý chính thức là hình thức xử lý NCTN</small>
phạm tội được hạn chế áp dụng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Về cơ bản những biện pháp xử lý chính thức có thể được áp dụng đối với NCTN là: nhắc nhở, khiến trách hoặc cảnh cáo; trừng phạt kinh tế, các hình phạt tiền; cải tạo khơng giam giữ, trả tự do có điều kiện; các hình phạt về nhân thân như tước hoặc hạn chế một số quyền nhất định; hình phạt tù....Bên cạnh đó cịn có một số biện pháp tư pháp có thể
<small>3 Lê Thị Sơn (2015), Nguyên tắc xử lí đối với người chưa thành niên phạm tội và sự thể hiện trong Bộ luật</small>
<small>hình sự, Tạp chí Luật học (03), tr. 60.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">ap dung đối với NCTN phạm tội như buộc cai nghiện, buộc chữa bệnh, đưa vào cơ
<small>sở đào tạo, trường giáo dưỡng....</small>
Biện pháp xử lý khơng chính thức đối với NCTN là biện pháp xử lý vi phạm pháp luật không áp dụng các thủ tục tố tụng hình sự hoặc thủ tục xử lý vi phạm hành chính mà dựa vào cộng đồng dé giáo dục, ran đe người có hành vi vi phạm. Ở nhiều nước trên thế giới, biện pháp xử lý khơng chính thức đối với NCTN thường được gọi là biện pháp xử lý chuyển hướng vi NCTN được đưa ra khỏi hệ thống tổ tụng chính thức để xử lý tại cộng đồng. Đây xu hướng chung đang được sử dụng phổ biến, khuyến khích áp dung và rất hiệu quả trong việc thúc day quá trình phát triển tích cực của NCTN phạm tội và ngăn chặn tái phạm, huy động sự tham gia của cộng đồng, gia đình NCTN vi phạm vào cơng tác giáo dục, giúp đỡ NCTN phạm tội. “Xử lý chuyên hướng được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới như: Đức, Nhật Bản, Thai Lan, Philipin, New Zealand, Nam Phi, Uc (bang New South Wales), Canada....” *.
Một số biện pháp xử lý khơng chính thức đối với NCTN phạm tội được áp dụng phô biến trên thé giới như sau:
+ Cảnh cáo, nhắc nhở, khiến trách của cảnh sát: Day là một trong những biện pháp có ý nghĩa, mang lại nhiều giá tri tinh thần, nhân cách đối với người chưa thành niên, được sử dụng phổ biến ở một số quốc gia trên thế giới như New
<small>Zealand, bang New South Wales, Nhật Bản, ....Cảnh sát tham gia vào các hoạt động</small>
xử lý chuyên hướng đối với NCTN phạm tội bằng các hình thức đơn giản, có lợi
cho NCTN, giúp NCTN nhận ra lỗi và kịp thời sửa chữa.
Ở New Zealand, Đạo luật về Trẻ em, Thanh thiếu niên và Gia đình quy định một số nguyên tắc trong xử lý đối với NCTN như: Không áp dụng xử lý hình sự nếu vẫn có thê áp dụng một phương án dé thay thế giải quyết van đề; không áp dụng xử ly hình sự dé đạt được mục đích phúc lợi; các biện pháp xử lý NCTN phạm tội nên hỗ trợ cho cả gia đình và xây dựng các kỹ năng xử lý hành vi vi phạm của con cái họ Ÿ.... Cảnh sát đóng vai trị quan trọng trong việc áp dụng xử lý chuyên hướng đối với
<small>* Ban soạn thảo Bộ luật hình sự sửa đồi, Ban thuyết minh chi tiết về dự thảo Bộ luật hình sự sửa đồi, Hà Nội,</small>
<small>2015, tr. 31.</small>
<small>" Vũ Thị Thu Quyên (2015), Pháp luật về quyển của người chưa thành niên phạm tội, Luận án Tiến sĩ Luật</small>
<small>học, Hà Nội, tr. 64.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">NCTN phạm tội, giảm thiểu số vụ việc chuyển tới Tòa Thanh thiếu niên để xét xử hính thức. Cảnh sát có thé áp dụng biện pháp cảnh cáo bằng văn bản hoặc chuyển thanh thiếu niên vi phạm tới Đội cảnh sát đặc biệt (Đội Cảnh sát trợ giúp Thanh thiếu niên) buộc xin lỗi nạn nhân, buộc lao động phục vụ cộng đồng. Trong đó, “biện pháp cảnh cáo được sử dụng phô biến, số vụ việc được giải quyết bang cảnh cáo chiếm khoảng 44%, chuyên thanh thiếu niên vi phạm tới Đội cảnh sát trợ giúp thanh thiếu niên chiếm khoảng 32%, Họp gia đình 8 %, chuyên sang Tòa Thanh thiếu niên 17 %”“.
<small>Bang New South Wales: Theo nội dung nghiên cứu trong luận văn của tác</small>
giả Trần Hồng Nhung”, mục tiêu của Đạo luật về Thanh thiếu niên phạm pháp là đưa NCTN ra khỏi hệ thống xét xử chính thức, việc để Tịa án xử lý người chưa thành niên phạm tội được coi là giải pháp cuối cùng. Đối với những vi phạm nhỏ, không quá nghiêm trọng, cảnh sát có thé cảnh cáo, nhắc nhở hoặc đề nghị tổ chức họp gia đình đối với NCTN phạm tội. Biện pháp nhắc nhở được áp dụng đối với
<small>những hành vi vi phạm nhỏ, không mang tính bạo lực. Biện pháp cảnh cáo được áp</small>
dụng phổ biến trong trường hợp NCTN phạm những lỗi tương đối nhẹ và thừa nhận hành vi vi phạm của mình dưới sự chứng kiến của người trưởng thành. Trước khi đồng ý nhận cảnh cáo, NCTN phạm tội có quyền tìm kiếm lời khuyên, tư vấn pháp lý. Cán bộ công an được trao quyền chủ động, tự quyết trong việc áp dụng các biện pháp cảnh cáo và biện pháp này mang lại hiệu quả trong việc làm giảm số lượng NCTN bị đưa ra xét xử chính thức cũng như giảm tình trạng tái phạm của NCTN Ÿ.
<small>Tại Liên Bang Nga, NCTN phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm</small>
trọng có thé được miễn hình phạt và áp dụng biện pháp giáo dục bắt buộc (Điều 92 Bộ luật hình sự năm 1996, được sửa đổi, bố sung năm 2010). Các biện pháp giáo dục đối với NCTN được quy định cụ thé tại Điều 91, bao gồm: cảnh cáo, giao giám sát, bồi thường thiệt hại, biện pháp hạn chế sự nhàn rỗi và đặt ra những địi hỏi
<small>riêng đơi với xử sự của NCTN. Trong đó, biện pháp cảnh cáo là việc giảng giải cho</small>
<small>° Nguyễn Sỹ Anh (2014), Biện pháp xử lý người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật quốc tế và kinhnghiệm cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội, tr.44.</small>
<small>7 Tran Hồng Nhung (2016), Các biện pháp giám sát, giáo duc và biện pháp tư pháp doi với người dưới 18 tuổi</small>
<small>phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, tr. 29.</small>
<small>Š Tran Hồng Nhung (2016), Các biện pháp giám sát, giáo duc và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi</small>
<small>phạm tội, Luan văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, tr. 29.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">NCTN về tác hại do hành vi của mình gây ra và hậu quả của việc tái phạm hành vi đó theo quy định của Bộ luật hình sự. NCTN có thể bị áp dụng cùng một lúc nhiều biện pháp giáo dục bắt buộc. “Trong trường hợp NCTN nhiều lần cố tình khơng chấp hành biện pháp giáo dục, không thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của cơ quan chức năng, thì các biện pháp giám sát, giáo dục sẽ bị hủy bỏ và hồ sơ vụ án được chuyền đến co quan có thẩm quyền dé truy cứu trách nhiệm hình sự” Ÿ.
+ Họp gia đình và cộng đồng: Hình thức xử lý này được quy định trong pháp luật một số quốc gia như Thai Lan, Canada, Nhat Ban, Philippin, New South Wales.... Day là hình thức xử ly chuyển hướng mang tính chat tiền đề dé cơ quan chức năng, nạn nhân và NCTN phạm tội thỏa thuận với nhau về vẫn đề xử lý hậu
<small>quả của hành vi phạm tội do người chưa thành niên gây ra.</small>
Tại Thái Lan biện pháp hop gia đình và cộng đồng được áp dụng phố biến đối với trẻ em vi phạm, chuyên hướng thành công một số lượng lớn thanh thiếu niên ra khỏi hệ thống tư pháp hình sự. Theo Đạo luật về Tịa gia đình và Trẻ em, tất cả trẻ em bị cảnh sát tạm giữ phải chuyển sang Trung tâm Bao trợ và Giám sát người chưa thành niên. Giám đốc trung tâm này có quyền tự chủ trong việc khuyến nghị với Công tố viên ra quyết định không truy tố đối với NCTN phạm tội nếu có đủ các điều kiện như sau: hành vi bị cáo buộc có khung hình phạt dưới 05 năm tù; có thể tin tưởng rằng người thực hiện hành vi vi phạm có thé sửa chữa và phục hồi được; vi phạm lần đầu và người thực hiện hành vi vi phạm thừa nhận trách nhiệm của mình và nạn nhân đồng ý áp dụng biện pháp họp gia đình và cộng đồng như một biện phâp thay thế quá trình xử lý chính thức. Thành phần tham gia cuộc họp gia đình và cộng đồng bao gồm nạn nhân, NCTN phạm tội, cha mẹ hoặc người giám
va người điều hành cuộc họp. Tại cuộc họp mọi người thống nhất về các phương án đề khắc phục hậu quả gây ra bao gồm xin lỗi nạn nhân, lao động phục vụ cộng đồng hoặc bồi thường thiệt hai.
<small>? Trịnh Tiến Việt, Miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự năm 2015 và những van đề đặt ra trong qtrình áp dụng, Tạp chí Luật học số 7, 2016.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">Ở Bang New South Wales, Tổ chức họp gia đình là biện pháp xử lý chuyển hướng đối với NCTN phạm pháp nếu biện pháp nhắc nhở và cảnh cáo không phù hợp. Đối với biện pháp này, Cảnh sát phải chuyên cho nhân viên Cảnh sát chuyên trách về thanh thiếu niên để người này quyết định việc có tổ chức cuộc họp giải quyết vẫn đề vi phạm do NCTN phạm tội. Cuộc họp này gần giống với mơ hình Họp Gia đình và cộng đồng của Thái Lan, Tuy nhiên, NCTN vi phạm có quyền có Luật sư tham gia và tư van. Mục đích của cuộc họp nhăm đặt ra một kế hoạch thống nhất giữa các bên về việc giải quyết hậu quả hành vi vi phạm như buộc xin lỗi, lao động phục vụ cộng đồng, bồi thường...
Tại Philippin, Đạo luật về Tư pháp và Phúc lợi người chưa thành niên đã đưa ra một hệ thống xử lý chuyên hướng chi tiết đối với NCTN phạm tội. Theo đó, đối với tat cả các vụ án liên quan đến NCTN từ 15 đến 18 tuổi phạm tội có khung hình phat dự kiến cao nhất là 6 năm thì cán bộ có thẩm quyền phải tiến hành hop gia đình và hịa giải dé xây dựng kế hoạch chuyên hướng xử lý phù hợp cho NCTN trên co sở đánh giá tính chất của hành vi phạm tội, hồn cảnh, mơi trường và gia đình, việc khắc phục hậu quả cho nạn nhân, an toàn an ninh cộng đồng, lợi ích tốt nhất của NCTN.... Thỏa thuận xử lý chuyên hướng được lập thành văn bản và không kéo dài quá 02 năm. Trong quá trình thực hiện kế hoạch xử lý chuyên hướng, NCTN phải báo cáo thường kỳ hàng tháng cho cơ quan có thâm quyền dé đánh giá hiệu qua thực hiện kế hoạch xử lý chuyên hướng.
Ở Nhật Bản đã có một hệ thống tư pháp riêng cho trẻ em vi phạm pháp luật từ năm 1949. Luật Người chưa thành niên của Nhật Bản hoàn toàn dựa trên nên tảng phúc lợi để điều chỉnh, đặc biệt là đối với trẻ em dưới 14 ti. “Mục đích của
<small>Luật người chưa thành niên là không trừng phạt những NCTN phạm tội mà giúp đỡ</small>
cho họ phát triển tốt, tiến hành những biện pháp bảo vệ để thay đổi tính cách của NCTN phạm tội và tạo ra một môi trường giáo dục dé điều chỉnh NCTN mắc phải
<small>10 : ^ 2 2 . A oA ^ 2 z A 2</small>
<small>”, Tại Nhật Bản, trẻ em được giáo dục vê việc tuân thủ các quy chuân củasai lâm</small>
xã hội từ rât nhỏ. Trẻ em và gia đình thường phải xin lỗi với những nhười bị ảnh
hưởng về hành vi không đúng của mình. Do đó, NCTN có hành vi vi phạm và gia
<small>'° Vũ Thị Thu Quyên (2015), Pháp luật về quyên của người chưa thành niên phạm tội, Luận án Tiến sĩ Luật</small>
<small>học, Hà Nội, tr.59.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">đình họ thường đi xin lỗi cơng khai, chính thức đối với nạn nhân, gia đình nạn nhân. Cảnh sát Nhật Bản và các thành viên trong cộng đồng có vai trị tích cực trong việc phát hiện, hướng dẫn va đưa ra các biện pháp phòng ngừa phù hợp đối với NCTN
<small>có nguy cơ phạm tỘI.</small>
<small>+ Hịa giải giữa nạn nhân, gia đình nạn nhân, người đại diện hợp pháp củanạn nhân với người chưa thành niên phạm tội, gia đình người chưa thành niên,</small>
người đại diện hợp pháp người chưa thành niên phạm tội: Biện pháp này thực chất là việc mở một budi họp hòa giải để giải quyết hậu quả hành vi phạm tội của NCTN trên cơ sở tình cảm, thơng cảm đối với nhau, các bên có thé dễ dàng đạt được thỏa thuận về hướng giải quyết mà không cần sự can thiệp của cơ quan có thâm qun. Thành phần tham gia hịa giải bao gồm: nạn nhân, gia đình nạn nhân, người đại diện
<small>hợp pháp của nạn nhân, NCTN phạm tội, gia đình hoặc người đại diện hợp pháp</small>
NCTN phạm tội, cảnh sát. Hình thức hịa giải có thê được thực hiện riêng rẽ hoặc lồng ghép trong quá trình thực hiện họp gia đình, họp cộng đồng dé tìm ra cách xử lý thích hợp nhất đối với NCTN phạm tội, bảo đảm bảo vệ tốt nhất quyên và loi ích
<small>hợp pháp của cả nạn nhân và NCTN phạm tội.</small>
Ở Canada, Đạo luật về Tư pháp Hình sự đối với Thanh thiếu niên (YCJA.. S.C. 2002) có nhiều điểm tích cực. Bộ luật có các quy định về việc "chuyên hướng cho một số lượng rất lớn người vi phạm lần đầu và vi phạm ít nghiêm trọng ra khỏi hệ thống tư pháp chính thức thơng qua việc áp dụng các nguyên tắc tư pháp phục hồi và các biện pháp thay thế tại cộng đồng" !!. Các biện pháp ngoài tư pháp bao gồm buộc bồi thường cho nạn nhân, cảnh cáo nhắc nhở của Cảnh sát, chuyển ra xử ly trong các dịch vụ tại cộng đồng, buộc tham gia vào các chương trình tư pháp phục hồi
<small>như họp gia đình, hịa giải giữa nạn nhân và người vi phạm.</small>
+ Sau khi thống nhất việc xử lý chuyên hướng đối với NCTN phạm tội, NCTN phạm tội phải thực hiện một số nghĩa vụ như bồi thường, buộc xin lỗi công khai, buộc chịu sự giám sát, buộc tham gia các khóa tập huấn, các chương trình, hoạt động xã hội tại cộng đồng...
<small>li x . . . ‘</small>
<small>Tran Hưng Binh (2013), Bao vệ quyên va lợi ich hợp pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tô tụng</small>
<small>Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, tr.65.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">xử lý khơng chính thức, xử lý chuyển hướng đối với NCTN phạm tội với một
chuyên hướng không bị coi là bị kết án hình sự; (3) Việc xử lý chuyển hướng <small>chỉ được áp dụng khi NCTN phạm tội thừa nhận hành vi vi phạm của mình va</small>
dụng biện pháp xử lý khơng chính thức, xử lý chuyển hướng thay cho hình thức xử lý chính thức; (4) Việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng đối với
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc quy định các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình
<small>sự năm 2015</small>
Đường lối nhất quán của Đảng và Nhà nước ra là tôn trọng, bảo đảm quyền COn người, lay con người là mục tiêu, động lực cua sự phat triển, nhất là đối với trẻ em. Với việc tham gia Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em, hệ thông pháp luật bảo vệ quyền trẻ em của nước ta ngày càng được hoàn thiện, trong đó, dành sự quan tâm đặc biệt cho đối tượng NCTN vi phạm pháp luật. Xuất phat từ đặc điểm tâm sinh ly của NCTN là người chưa phát triển đầy đủ về thé chất và tâm thần. Đây là lứa tuổi đang trong quá trình phát triển cả về sinh lý cơ thể và tâm lý, ý thức.
gây sự mat cân bằng trong hoạt động hệ thần kinh trung ương, dẫn đến tinh trang mat cân băng tạm thời trong cảm xúc, nên thường có những cơn xúc động mạnh, phản ứng nóng nảy, hành vi bất thường, bồng bột, thiếu suy nghĩ”'”. NCTN có nhu cầu độc lập, muốn tự khăng định bản thân, khơng muốn phụ thuộc vào gia đình. Do đó thường dẫn đến việc thực hiện các hành vi lệch chuẩn, dẫn đến vi phạm pháp
<small>l2 ...¬ : ,</small>
<small>Trân Hưng Bình (2013), Bao vệ qun va lợi ích hop pháp của người chưa thành niên theo pháp luật tô tung</small>
<small>Việt Nam, Luận án tiễn sĩ luật học, Hà Nội, tr.3 1-35.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">luật. Đồng thời nhu cầu khám phá của NCTN cao, khám phá cái mới, thử nghiệm cái mới, trong đó có cả những điều thiếu lành mạnh, trái chuan mực. Mặt khác, do tuổi đời cịn ít, kinh nghiệm sống chưa nhiều nên cịn non nớt về nhận thức và tinh thần, hiểu biết về pháp luật và các chuẩn mực xã hội còn hạn chế nên không phân biệt được cái tốt, cái xấu, dễ bị lôi kéo, bắt chước làm theo. Do vậy, NCTN chịu sự tác động rất lớn của môi trường sông, là những đối tượng dễ bị tôn thương, dễ tiếp thu những thói hư, dễ bị tha hóa về nhân cách và cũng dễ bị kích động, lơi kéo vào những tệ nạn xã hội. Việc phải tiếp xúc với hệ thống tư pháp hình sự với quy trình tố tụng nghiêm ngặt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý cũng như ảnh hưởng đến uy tín, danh dự và sự phát triển trong tương lai của người chưa thành niên. Việc đưa NCTN vào vòng tố tụng chính thức, nhất là đưa người dưới 18 tuổi ra xét xử có thé dẫn đến việc NCTN trở nên chai sạm, xa lánh gia đình, nhà trường và có thể tiếp xúc nhiều hơn với những hành vi tiêu cực dẫn đến tiếp tục vi phạm. Do vậy, kế thừa nguyên tắc nhân đạo, khoan hồng đặc biệt đối với trẻ em, chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với việc truy cứu trách nhiệm hình sự NCTN nhằm mục đích chủ yếu là giáo dục, giúp đỡ họ nhận thức, sửa chữa lỗi lầm, tạo điều kiện dé họ phát triển lành mạnh và trở thành cơng dân có ích cho xã hội.
<small>Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, NCTN phạm tội là người từ đủ</small>
14 tuổi đến dưới 18 tudi đã có lỗi có ý hoặc vơ ý trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm. NTCN phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình theo những quy định tại Chương X BLHS 1999 về “những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội”, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung BLHS. Điều 69 BLHS 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định nguyên tắc chung xử lý đối với NCTN phạm tội, đó là những nguyên tắc cơ bản có tính chỉ đạo xun suốt trong q trình xử lý NCTN phạm tội. Theo đó, ngồi các trường hợp miễn TNHS đối với người phạm tội nói chung, NCTN phạm tội có thể được miễn TNHS khi đáp ứng đủ các điều
<small>kiện như sau:</small>
Thứ nhất, về đối trong: NCTN phạm tội được miễn TNHS là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Căn cứ vào Điều 12 BLHS, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">về tội phạm rất nghiêm trọng do cô ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, BLHS đã giới hạn độ tuổi chịu TNHS, theo đó, NCTN phạm tội từ đủ 14 đến dưới 16 tudi khơng phải chịu TNHS về tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng. Như vậy, việc miễn TNHS đối với NCTN theo quy định tại khoản 2 Điều 69 BLHS chỉ đặt ra đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
<small>Thứ hai, hành vi phạm tội mà NCTN thực hiện là tội ít nghiêm trọng hoặc</small>
nghiêm trọng. Theo quy định tại khoản 3 Điều § BLHS về phân loại tội phạm thì tội ít nghiêm trọng là tội gây hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến ba năm tù, tội phạm nghiêm trọng là tội gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến bảy năm tù.
Thứ ba, NCTN phạm tội gây hại không lớn. Đề xác định gây thiệt hại không lớn thì phải căn cứ vào thiệt hại do hành vi phạm tội của NCTN gây ra, bao gồm thiệt hại về vật chất, về sức khỏe, tinh thần và trật tự an tồn xã hội.
Thứ tư, NCTN có nhiều tình tiết giảm nhẹ. BLHS năm 1999 khơng quy định bắt buộc tình tiết giảm nhẹ phải là tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS. Do đó, có thể hiểu, để được xem xét miễn TNHS theo quy định tại khoản 2 Điều 69 BLHS thì NCTN phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, bao gồm các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS và các tình tiết khác mà Tịa án coi là tình tiết giảm nhẹ (khoản 2 Điều 46 BLHS).
Thứ năm, NCTN phạm tội được gia đình hoặc cơ quan, tơ chức nhận giám sát, giáo duc. Đây là điều kiện bắt buộc dé xem xét miễn TNHS cho NCTN phạm tội. Bởi ngồi các điều kiện khác thì NCTN phạm tội có thể cải tạo tốt, trở thành người cơng dân lương thiện, có ích cho xã hội hay khơng phụ thuộc rất lớn vào môi trường sống của họ. Trong trường hợp gia đình, cơ quan, tơ chức tự nguyện nhận trách nhiệm giảm sát, giáo dục NCTN phạm tội thì phải được cơ quan tiễn hành tố tụng chấp nhận. Trường hợp khi xét thấy NCTN phạm tội có đủ điều kiện miễn
<small>trách nhiệm hình sự, nhưng chưa có ai nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục thì cơ</small>
quan tiến hành tô tụng cần liên hệ với gia đình hoặc cơ quan, tổ chức dé xác định nguoi, cơ quan, tô chức nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục. Nếu như gia đình, cơ quan, tổ chức khơng nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục thì cơ quan tiễn hành tố
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">tụng không quyết định miễn TNHS đối với NCTN theo quy định tại khoản 2 Điều
<small>69 BLHS.</small>
Miễn TNHS là việc “cơ quan tư pháp hình sự có thâm quyền khơng buộc một người đã đáp ứng những điều kiện nhất định phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất
<small>lợi do người đó đã thực hiện hành vi phạm tội khi có căn cứ theo quy định tại Bộ</small>
luật hình sự mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội” ''. Day là chế định mang tinh chất nhân đạo, vừa thé hiện sự khoan hồng của Nhà nước, thé hiện sự phân hóa trách nhiệm hình sự, ngun tắc cơng bằng, kết hợp giữa trừng trị và giáo dục, thuyết phục, tăng cường khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội, đáp ứng yêu cầu chống và phòng ngừa tội phạm. Căn cứ vào các văn bản pháp lý luật hình sự Việt Nam, “về cơ bản người được miễn TNHS không phải chịu các hậu quả pháp lý bat lợi của việc phạm tội do mình thực hiện. Kê từ thời điểm được miễn TNHS, người thực hiện tội phạm không phải chịu TNHS và bat kỳ hậu qua gì dưới góc độ pháp lý hình sự”<small>. Truong</small>
hợp miễn TNHS theo khoản 2 Điều 69 BLHS là trường hop miễn TNHS áp dụng riêng đối với NCTN phạm tội có tính chất mở rộng, khoan hồng hơn nên đặt ra yêu cầu NCTN phải chịu sự giám sát, giáo dục của gia đình hoặc co quan, tổ chức nhằm giúp đỡ, giáo dục NCTN nhận thức được sai lầm, tự nguyện sửa chữa, phát triển
<small>lành mạnh, trở thành cơng dân có ích cho xã hội, ngăn chặn việc tái phạm.</small>
Tuy nhiên, theo báo cáo đánh giá tác động Bộ luật hình sự sửa đơi thì việc miễn TNHS theo quy định tại khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999 đối với NCTN phạm tội đã được các cơ quan tiến hành tổ tụng áp dụng trong tư pháp hình sự nhưng khơng phổ biến. Kết quả các báo cáo thông kê tổng hợp của Công an, Viện Kiểm sát, Tồ án nhân dân các tỉnh, thành phó trực thuộc Trung ương về việc miễn truy cứu TNHS theo khoản 2 Điều 69 BLHS cho thấy sỐ lượng bị can, bị cáo chưa thành niên phạm tội được miễn TNHS vào giao cho cơ quan, tổ chức, gia đình giám
<small>13 . F `</small>
<small>Hội thảo khoa học câp khoa (2008), Hoàn thiện các quy định thuộc phán chung Bộ luật hình sự 1999,Trường Dai Học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.165.</small>
<small>'* Trịnh Tiến Việt (2016), Miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự năm 2015 và những vấn dé đặt ra</small>
<small>trong q trình áp dung, Tạp chí Luật học, 07. tr. 60 - 73.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">sát, giáo dục chiếm tỉ lệ rất nhỏ và giảm dan theo giai đoạn tố tụng (co quan điều tra khoảng 2,7%, Viện Kiểm sát 1,4% và Toà án là 0,05%). Đa số các bị can, bị cáo là
NCTN phạm tội được miễn TNHS được giao cho gia đình giám sát, giáo dục, một
số ít được giao cho cơ quan, chính quyền giám sát, giáo đục. Có nhiều lý do hạn chế việc áp dụng quy định về việc miễn TNHS, giao NCTN phạm tội cho gia đình, cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục tại cộng đồng theo khoản 2 Điều 69 BLHS. Một trong những ly do đó là thiếu cơ sở pháp lý rõ ràng, cụ thé về điều kiện, trình tự, thủ tục áp dụng, cơ quan tiễn hành tố tụng chi có biện pháp duy nhất là giao NCTN cho gia đình, co quan, tơ chức giám sát, giáo dục, tuy nhiên vai trò của gia đình, cơ quan, tổ chức cịn mờ nhạt, chưa cụ thé, các biện pháp hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng chưa thiết thực và hiệu quả chưa cao....nên tiềm ân nguy cơ tái phạm cao đối
<small>với NCTN phạm tội.</small>
Trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã có nhiều hoạt động thiết thực trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và đã đạt được những bước tiến lớn. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn đang ton tại một thực trạng đáng lo ngại là tình trạng vi phạm pháp luật nói chung và tình trạng phạm tội nói riêng ở người dưới 18 tuổi có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Theo thống kê của Ban chủ nhiệm Đề án 4 Chương trình Quốc gia phịng, chống tội phạm “từ năm 2006 đến năm 2015 cả nước xảy ra 95.474 vụ phạm pháp về trật tự xã hội do người chưa thành niên thực hiện, với tổng số 147.590 đối tượng, tính chất hành vi phạm tội, phương thức thủ đoạn và hậu quả gây ra càng nghiêm trọng, nguy hiểm, nhất là các băng nhóm thanh, thiếu niên tụ tập ăn chơi, gây rối trật tự công cộng” 'Ÿ. Người chưa thành niên dang ở độ tuổi phát triển, hình thành tinh cách con người, là thời gian có thé bị ảnh hưởng tốt hơn hoặc xấu đi, do đó việc phải tiếp xúc với hệ thống tư pháp hình sự với quy trình tố tụng nghiêm ngặt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý cũng như ảnh hưởng đến uy tín, danh dự và sự phát triển trong tương lai của NCTN. Những nghiên cứu quốc tế về hành vi tuổi vị thành niên cho thấy, NCTN bị coi là tội phạm có thê tiếp tục dan sâu hơn vào con đường phạm tội và rất khó thốt ra được. Việc đưa NCTN vào vòng
<small>15 . ke ge . . . : .</small>
<small>Hồng Minh Đức (2016), Chính sách hình sự đơi với người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện</small>
<small>nay, Luận án tiễn sĩ luật học, Hà Nội, tr.1.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">tố tụng, nhất là đưa NCTN phạm tội ra xét xử sẽ dẫn đến việc có xu hướng khắng định việc lệch chuẩn của NCTN ngay trong con mắt của họ, của người khác. NCTN có thê trở nên chai sạm, lỳ lợm hơn khi cảm thay xã hội không khoan dung va sự
<small>mặc cảm khó xóa được trong suy nghĩ và nhận thức cịn non nót của họ. Việc xử lý</small>
hà khắc khơng làm cho NCTN từ bỏ những hành vi không đúng đắn, thậm chí việc giam giữ sẽ khiến họ phải tiếp xúc nhiều hơn với những hành vi tiêu cực và thường đây NCTN vào lối sống phạm tội sau này. Do đó, xử lý theo cách này khơng phải là một biện pháp tốt bởi chưa giải quyết được nguyên nhân căn bản của hành vi đó.
<small>NCTN phạm tội sẽ càng xa lánh với gia đình, bạn bè, xã hội, khó khăn trong việc tái</small>
hồ nhập đề trở thành cơng dân có ích và càng làm tăng xu hướng tái phạm, vi phạm pháp luật. Thực tiễn xử lý NCTN phạm tội ở nước ta cũng cho thấy, việc xử lý NCTN phạm tội chủ yếu thông qua hệ thống tư pháp hình sự, thiên về mục đích trừng trị, loại chế tài chủ yếu áp dụng đối với NCTN phạm tội là hình phạt tù. Mặc dù vậy, tỉ lệ tái phạm trong lứa tuổi vị thành niên tương đối cao. Theo Báo cáo tong kết 05 năm thực hiện Đề án IV “Đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em và tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên” thuộc Chương trình quốc gia phịng chống tội phạm giai đoạn 2006-2010 của Ban chủ nhiệm Đề án IV thuộc Bộ Cơng an thì “trong phạm vi cả nước tong số lượng NCTN vi phạm pháp luật là 49.235 vụ gồm 75.594 đối tượng, trong đó số NCTN vi phạm lần đầu: 41.765 đối tượng, chiếm 55,2%; vi phạm lần thứ 2 trở lên: 33.919 đối tượng chiếm 44,8%”'°. Như vậy, có thé khăng định việc xử lý nghiêm khắc đối với NCTN phạm tội không đồng nghĩa với
<small>việc nâng cao hiệu quả giáo dục và phịng ngừa tái phạm.</small>
<small>Mặt khác, khi NCTN phạm tội, ngồi trách nhiệm của bản thân họ, Nhà nước</small>
và xã hội cũng có một phần trách nhiệm, vì việc quản lý, giáo dục và dạy dỗ lứa tuổi này cịn có nhiều sai lầm do đó chưa ngăn chặn và phịng ngừa được những tác động xấu của các tiêu cực, tệ nạn xã hội va các thói hư tật xấu xâm nhập, dẫn đến việc phạm tội. Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi con người sinh ra, lớn lên, phát triển và là yếu tố chủ đạo trong việc hoàn thiện nhân cách con người. Đối với NCTN thì gia đình là tơ âm, mơi trường thuận lợi dé học tap, tu dưỡng và rèn luyện
<small>'© Ban soạn thảo Bộ luật hình sự sửa đổi (2015), Báo cáo đánh giá tác động của dự án bộ luật hình sự (sửađổi), Hà Nội, tr. 36.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">đạo đức. Cơ quan, tô chức xã hội cũng là nơi mà NCTN có thể được học tập, lao động, học nghề và rèn luyện đạo đức. Vì vậy, nguồn lực tại cộng đồng như gia đình, cộng đồng dân cư nơi NCTN sinh sống, cơ quan, tô chức, đoàn thé mà NCTN sinh hoạt là một trong những ngn lực déi dao và có thé đem lại hiệu qua cao hơn trong việc giáo dục, giám sat, giúp đỡ NCTN phạm tdi, là điều kiện tốt để giáo dục, cải tạo NCTN phạm tội. Trong khi đó, hệ thống cán bộ xã hội và hệ thống dịch vụ trợ giúp đối với trẻ em nói chung, đối với NCTN vi phạm pháp luật nói riêng đang trong quá trình hình thành và phát triển. Quy trình thi hành một số chế tài không tước tự do đối với NCTN vi phạm pháp luật như biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị tran hoặc biện pháp thay thé xử lý hành chính giao NCTN cho gia đình quản lý, đã và đang hình thành một cách có hệ thống. Do vậy, cần khuyến khích sự tham gia, tạo điều kiện, cơ hội dé gia đình, cơ quan, tố chức, đoàn thể tham gia trong viéc giúp đỡ NCTN phạm tội sửa chữa lỗi lầm va tái hoà nhập.
Do đó, việc xử lý NCTN phạm tội cần tiếp tục kế thừa, đề cao tính nhân đạo, khoan hồng, bảo vệ lợi ích tốt nhất của NCTN, việc xử lý nhằm mục đích chủ yếu là
tham gia giúp đỡ NCTN nhận thức, sửa chữa lỗi lầm, hoà nhập cộng đồng, phát triển lành mạnh, trở thành cơng dân có ích cho xã hội. Theo đó, việc quy định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội theo quy định tại khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999 cần được tiếp tục kế thừa, phát triển, đồng thời đặt ra yêu cầu cần có các biện pháp giám sát, giáo dục đa dạng, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh phạm tội trong từng trường hop cụ thé, tính chất mức độ vi phạm, nhân thân, gia đình NCTN phạm tội.... đảm bảo áp dụng có hiệu quả việc miễn TNHS đối với NCTN phạm tội trên thực tiễn, vừa đáp ứng yêu cầu phòng chống tội phạm, tái phạm ở NCTN.
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">Kết luận chương 1
Chính sách hình sự nói chung và chính sách hình sự đối với NCTN nói riêng là van dé thời sự trong nghiên cứu lý luận, quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng của nước ta. Trước thực trạng NCTN vi phạm pháp luật đang có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp cùng với sự phát triển về mọi mặt của đời sống xã hội, xuất phát từ đặc thù về sự phát triển tâm sinh lý của người NCTN, khả năng cải
<small>tạo của NCTN, trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giám sát,</small>
giáo dục NCTN, yêu cầu bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền lợi NCTN, phù hợp quan điểm của Dang, Nhà nước ta dé cao hiệu quả phịng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, Công ước quốc tế về Quyên trẻ em, hệ thống tư pháp hình sự hiện hành liên quan đến NCTN, những quy định liên quan đến chính sách hình sự đối người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLHS 2015 đã được sửa đổi, b6 sung tương đối cơ bản, toàn điện, khắc phục được những ton tai, vướng mặc của BLHS
năm 1999. Trong đó, việc mở rộng phạm vi miễn TNHS và quy định các biện pháp
giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là điểm mới co bản vừa bảo vệ lợi ích tốt nhất cũng như đảm bảo phòng ngừa tái phạm ở người dưới 18 tudi.
<small>Chương | của luận văn đã làm rõ khái niệm va cơ sở cho việc quy định các</small>
biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS trong BLHS năm 2015, bao gồm: quy định của BLHS năm 1999 về miễn TNHS đối với NCTN phạm tội và đánh giá hiệu quả của quy định này trên thực tế; các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong tình hình mới; tham khảo kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thế giới về xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Việc nghiên cứu cho thấy, việc sớm đưa NCTN ra khỏi vòng tố tụng, xử lý NCTN bằng các biện pháp khơng chính thức là hình thức xử lý tiến bộ, là xu hướng phổ biến và đạt hiệu quả cao trong giáo dục, ngăn ngừa tái phạm ở NCTN. Quy định các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS trong BLHS Việt Nam là cần thiết, kế thừa quy định của BLHS năm 1999 về miễn TNHS đối với NCTN phạm tội, phù hợp với quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ trẻ em, chính sách nhân đạo, khoan hồng trong xử lý người dưới 18 tuôi phạm tội và là một nỗ lực trong việc nội luật hóa Công ước Quốc tế về quyên trẻ em mà Việt Nam đã ký kết.
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>Chuong 2</small>
QUY ĐỊNH CUA BO LUAT HÌNH SỰ NAM 2015 VE CAC BIEN PHAP GIAM SAT, GIAO DUC NGƯỜI DƯỚI 18 TUOI PHAM TOI DUOC MIEN
TRÁCH NHIỆM HÌNH SU VA MOT SO VAN DE TRONG TRIEN KHAI AP DUNG
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự
2.1.1. Về kỹ thuật lập pháp
So với quy định của BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 có nhiều điểm mới tích cực liên quan đến việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong đó, việc quy định các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi được miễn TNHS là điểm mới cơ bản, thé hiện rõ tính chất nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước ta đối với người dưới 18 phạm tội. Về mặt kỹ thuật lập pháp được thể hiện như sau:
Về tên gọi: Trong BLHS năm 2015, các biện pháp giám sát, giáo dục đối với
người dưới 18 phạm tội được miễn TNHS được đặt tên là “Các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự".
Trong các văn bản quốc tế về tư pháp người chưa thành niên khơng có thuật
<small>ngữ các biện pháp giám sát, giáo dục mà có thuật ngữ biện pháp xử lý khơng chính</small>
thức, xử lý chuyển hướng. Theo cuốn thuật ngữ tư pháp người dưới 18 tuổi của Bộ Tư pháp phối hợp cùng tổ chức UNICEF thì thuật ngữ "biện pháp khơng chính thức" là biện pháp xử lý vi phạm pháp luật không áp dụng các thủ tục tố tụng hình sự hoặc thủ tục xử lý vi phạm hành chính mà dựa vào cộng đồng dé giao duc, ran de
<small>người có hành vi vi phạm. Mục 2 chương XII BLHS nam 2015 quy định các biện</small>
pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp miễn TNHS đối với người đưới 18 tuổi phạm tội là những điều luật hoàn toàn mới. Tên gọi của mục 2 đã khái quát tương đối đầy đủ nội dung trong mục. Theo đó, các biện pháp giám sát, giáo duc được áp dụng trong trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS. Tên gọi của mục 2 về các biện pháp giám sát, giáo dục có hai nội dung là giám sát và giáo dục. Tuy nhiên hai nội dung này khơng mang tính chất độc lập mà đi cùng với nhau, thê hiện đầy đủ nội dung, ý nghĩa của các biện pháp. Mục đích chính của việc áp dụng các biện pháp nhằm giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS nhận
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">thức được sai lầm, sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh. Tuy nhiên, để giáo dục người đưới 18 tuổi phạm tội thơng qua gia đình, cộng đồng đạt hiệu quả, ngăn ngừa tình trang tái phạm thi cần đặt người dưới 18 tuổi phạm tội dưới sự giám sát của gia đình, cộng đồng. Có như vậy, các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới
18 tuổi phạm tội mới có thé đạt được hiệu quả, ý nghĩa trong thực tiễn áp dụng. Vẻ vị trí: Các biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS được quy định tại mục 2 Chương XII - Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, ngay sau mục | quy định chung về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tudi phạm tội. Điều này thé hiện tam quan trọng đặc biệt của các biện pháp giám sát, giáo dục được ghi nhận và ưu tiên áp dụng trong các nguyên tắc chung quy định tại Điều 91 BLHS, “Người đưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiễu tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phan lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Diéu 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này” (khoản 2 Điều 91 BLHS), “ Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm
<small>hình sự và ap dung một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc ap dụngbiện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này khơng</small>
bảo đảm hiệu quả giáo duc, phịng ngừa” (khoản 4 Điều 91 BLHS).
Vẻ kết cấu: Mục 2 quy định về các biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự gồm có 04 điều luật (từ Điều 92 đến Điều 95). Trong đó, có 01 điều luật quy định “Điều kiện áp dụng” (Điều 92) và 03 điều luật (Điều 93, Điều 94, Điều 95) quy định cụ thể ba biện pháp giám sát, giáo dục lần lượt là khiến trách, hòa giải tại cộng đồng, giáo dục tại xã, phường thị tran. Ba điều luật quy định các biện pháp giám sát, giáo duc đã cụ thé hóa điều kiện
áp dụng mỗi biện pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp được miễn TNHS và
yêu cầu giám sát, thực hiện nghĩa vụ của người được giám sát, giáo dục. Ba biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS được sắp xếp theo yêu cầu giám sát, giáo dục tăng dần, thống nhất trong kỹ thuật lập pháp
<small>chung của BLHS.</small>
2.1.2. Điều kiện áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">Điều 92 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về điều kiện chung áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội trong trường hop được miễn trách nhiệm hình sự như sau: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ quyết định miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp khiến trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thi tran, nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện pháp này". Có thể thấy việc áp dụng một trong các biện pháp giám sát,
người đại điện hợp pháp của họ. Trong trường hợp khơng có sự đồng ý của người
quan tiễn hành tố tụng khơng quyết định miễn TNHS và vẫn tiếp tục tiến hành các
khi ra quyết định miễn TNHS và áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thâm phán phải thông báo và giải thích về điều kiện, khả năng áp dụng các biện pháp này cho người dưới 18 tuổi, cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của họ biết. Đây là điều kiện rất quan trọng để quyết định áp dụng hay không việc miễn TNHS và biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Bởi chỉ khi người 18 tuổi phạm tội hoặc người đại điện hợp pháp của họ đồng ý áp dụng thì mới nâng cao tính tự giác chấp hành, đảm bảo các biện pháp giám sát, giáo dục có hiệu quả trên thực tế, đáp ứng yêu cầu giúp người 18 tuổi nhận thức được lỗi lầm, phòng chống việc tái phạm.
Vé thẩm quyên: Điều 92 BLHS xác định cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục là cơ quan tiến hành tố tụng, bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Theo quy định tại Điều 230, Điều 248, Điều 326 BLTTHS năm 2015 thì chủ thể có thâm quyền miễn TNHS nói chung theo Điều 29 BLHS và khoản 2 Điều 91 BLHS là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Như vậy, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án có thâm quyền miễn TNHS, đồng thời có thâm quyền áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội. Việc miễn TNHS va áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục trong giai đoạn
tố tụng nào do cơ quan có thâm quyền tiến hành tố tụng giai đoạn đó thực hiện. Cu thể: trong giai đoạn điều tra, thâm quyền miễn TNHS và áp dụng biện pháp giám
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">sát, giáo dục thuộc về Cơ quan điều tra đang thụ lý, giải quyết vụ án; trong giai đoạn truy tố, thâm quyền miễn TNHS và áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục thuộc về Viện kiểm sát đang thụ lý, giải quyết vụ án; trong giai đoạn xét xử, thâm quyền miễn TNHS và áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục thuộc về Tòa án đang thụ lý, giải quyết vụ án.
Vé đối tượng áp dụng biện pháp giám sát, giáo duc: Các biện pháp giám sát, giáo dục được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS theo quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS.
Khoản 2 Điều 91 BLHS quy định: "2. Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hop sau đây và có nhiêu tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phan lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và ap dung một trong các biện
<small>pháp quy định tại Mục 2 Chương này:</small>
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội it nghiêm trọng, phạm lội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251
<small>va 252 cua Bộ luật này;</small>
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Diéu 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134,
<small>141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này;</small>
c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trị không đáng kể trong vu
Như vậy, không phải mọi trường hợp người dưới 18 tuổi được miễn TNHS thì đều có thé áp dụng biện pháp giám sát, giáo dục quy định tại mục 2 Chương XII
phường, thị tran. Các biện pháp giám sát, giáo dục chi được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS theo các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS. Trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS theo Điều 29 BLHS thì người dưới 18 tuổi phạm tội không bi áp dụng các biện pháp
<small>giám sát, giáo dục.</small>
2.1.3. Các biện pháp giám sát, giáo dục cụ thể 2.1.3.1. Khiển trách
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">Trong pháp luật của nhiều nước thì khiến trách là việc nhắc nhở đối với người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật thay cho khởi tố về hình sự hoặc xử phạt hành chính đối với người đó. Việc nhắc nhở chỉ nhằm mục đích khiến cho người dưới 18 tuổi nhận thức được hành vi của minh là vi phạm pháp luật, việc có thé được thực hiện đối với người dưới 18 tuổi ngay tại nơi xảy ra vi phạm hoặc trước thực hiện với sự có mặt của cha mẹ người dưới 18 tuổi vi phạm sử
Trong pháp luật hình sự Việt Nam, "khiển trách" được quy định tại Điều 93 BLHS năm 2015. Đây là biện pháp giám sát, giáo dục mang tính nghiêm khắc ít nhất trong ba biện pháp giám sát, giáo dục. Việc khiến trách đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải có sự chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi, nhăm giúp người dưới 18 tuổi phạm tội nhận thức rõ hành vi
* Điều kiện áp dụng: Biện pháp khién trách được áp dụng đối với người dưới 18 tuôi phạm tội được miễn TNHS khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
Một là: Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp miễn TNHS được áp dụng biện pháp khiến trách quy định tại khoản 1 Điều 93 BLHS. Bao gồm:
Trường hop 1: Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 BLHS (điểm a khoản 1 Điều 93 BLHS). Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 BLHS, cụ thé là trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác), 141 (tội hiếp dâm), 171 (tội cướp giật tài sản), 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy), 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy), 250 (tội vận chuyền trái phép chất ma túy), 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy) và 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của BLHS.
Trường hợp 2: Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trị khơng đáng kể trong vụ án (điểm b khoản 1 Điều 93 BLHS). Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng xét thay người dưới 18 tuổi đáp ứng đủ các
<small>!” Trần Hồng Nhung (2016), Các biện pháp giám sát, giáo duc và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi</small>
<small>phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội, tr.7.</small>
</div>