VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ CẨM
NHÂN THÂN NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ CẨM
NHÂN THÂN NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 60 38 01 05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN HỮU TRÁNG
HÀ NỘI - 2017
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM
TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU ...................................................................................11
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu ..........11
1.2. Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội xâm phạm sở hữu ..................16
1.3. Những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người dưới 18 tuổi
phạm tội xâm phạm sở hữu ...................................................................................23
Chương 2: THỰC TRẠNG NHÂN THÂN NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM
TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÊN ÐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN, TP. HỒ CHÍ
MINH........................................................................................................................30
2.1. Khái quát tình hình tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện
trên địa bàn quận Bình Tân ...................................................................................30
2.2. Thực trạng nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội xâm phạm sở hữu tại quận
Bình Tân từ giai đoạn 2012 - 2016 .......................................................................32
2.3. Các đặc điểm nhân thân đặc trưng của người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH
trên địa bàn quận Bình Tân ...................................................................................36
2.4. Thực trạng những yếu tố động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội
xâm phạm sở hữu tại quận Bình Tân ....................................................................37
Chương 3:CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN BÌNH TÂN TỪ KHÍA CẠNH NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI .....54
3.1. Dự báo sự thay đổi của các yếu tố tác động đến sự hình thành các đặc điểm
nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu dưới 18 tuổi trên địa bàn quận Bình
Tân, thành phố Hồ Chí Minh ................................................................................54
3.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội xâm phạm sở hữu từ khía
cạnh nhân thân người dưới 18 tuổi .......................................................................57
KẾT LUẬN ..............................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................73
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
QP-AN:
Quốc phòng – An ninh
XPSH:
Xâm phạm sở hữu
BLHS
Bộ luật Hình sự
TAND
Tòa án nhân dân
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
Tp. HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Bảng so sánh tình hình tội XPSH do người dưới 18 tuổi thực hiện với
tình hình các tội phạm chung trên địa bàn quận Bình Tân.
Bảng 2.2. Bảng so sánh tình hình tội XPSH do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh với tình hình tội XPSH do người dưới 18 tuổi thực hiện
trên địa bàn quận Bình Tân.
Bảng 2.3.Cơ cấu của tình hình tội xâm phạm sở hữu do người chưa thành niên thực
hiện trên địa bàn quận Bình Tân.
Bảng 2.4 Thực trạng theo giới tính, độ tuổi của nhân thân người phạm tội XPSH
trên địa bàn quận Bình Tân.
Bảng 2.5 Cơ cấu tình hình tội phạm XPSH do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa
bàn quận Bình Tân theo đặc điểm trình độ học vấn.
Bảng 2.6 Cơ cấu tình hình tội phạm XPSH do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa
bàn quận Bình Tân theo hoàn cảnh gia đình.
Bảng 2.7 Cơ cấu tình hình tội phạm XPSH do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa
bàn quận Bình Tân theo đặc điểm việc làm.
Bảng 2.8 Cơ cấu tình hình tội phạm XPSH do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa
bàn quận Bình Tân theo nơi cư trú, hộ khẩu thường trú.
Bảng 2.9 Tình hình tạm trú của bị cáo các tỉnh dưới 18 tuổi phạm tội XPSH trên địa
bàn quận Bình Tân.
Bảng 2.10. Cơ cấu tình hình tội phạm XPSH do người dưới 18 tuổi thực hiện trên
địa bàn quận Bình Tân theo mục đích phạm tội.
Biểu đồ 2.1 Diễn biến số vụ án, số bị cáo phạm các tội XPSH do người dưới 18
tuổi thực hiện trên địa bàn quận Bình Tân.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quận Bình Tân được thành lập theo Nghị định số 130/2003/NĐ-CP ngày 05
tháng 11 năm 2003 của Chính phủ trên cơ sở tách 3 xã: Bình Hưng Hòa, Bình Trị
Đông, Tân Tạo và thị trấn An Lạc thuộc huyện Bình Chánh.
Phía Bắc: giáp quận 12, huyện Hóc Môn; Phía Nam: giáp quận 8, xã Tân
Kiên, xã Tân Nhựt thuộc huyện Bình Chánh; Phía Đông: giáp quận Tân Phú, quận
6; Phía Tây: giáp xã Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc B, Lê Minh Xuân thuộc địa phận huyện
Bình Chánh.
Toàn quận có 10 phường trực thuộc: An Lạc, An Lạc A, Bình Hưng Hòa,
Bình Hưng Hòa A, Bình Hưng Hòa B, Bình Trị Đông, Bình Trị Đông A, Bình Trị
Đông B, Tân Tạo, Tân Tạo A.
Diện tích toàn quận là 5.188,67 ha diện tích tự nhiên với 254.635 nhân khẩu
sinh sống và hiện nay đã tăng lên 699.713 nhân khẩu trong đó, người dưới 18 tuổi
có 109.580 người. Cơ cấu bao gồm nhiều dân tộc khác nhau, trong đó chủ yếu là
dân tộc Kinh chiếm 91,27%, dân tộc Hoa chiếm 8,45%, còn lại là các dân tộc khác.
Tôn giáo có Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo, Hồi giáo…
trong đó phật giáo chiếm 27,26% trong tổng số dân có theo đạo.
Quận Bình Tân nằm ở cửa ngõ phía Tây của thành phố, có quốc lộ 1A chạy
ngang qua vành ngoài của thành phố, ngoài ra còn có tuyến đường Hồng Bàng và
Hùng Vương đi các quận nội thành. Đồng thời Bến xe Miền Tây là bến xe chính đi
các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Trong những năm qua, Đảng bộ và chính quyền
quận Bình Tân đã ban hành nhiều chính sách phù hợp thu hút nguồn vốn đầu tư
trong và ngoài nước, tốc độ đô thị hoá diễn ra khá nhanh, hầu như các phường
không còn đất nông nghiệp. Hiện nay nhiều mặt kinh tế - xã hội của quận phát triển
nhanh theo hướng đô thị. Trên địa bàn quận Bình Tân hiện có hai khu công nghiệp
do Ban quản lý các khu công nghiệp thành phố quản lý là khu công nghiệp Tân Tạo
và khu công nghiệp Vĩnh Lộc. Một công ty giày da POUYUEN Việt Nam, là khu
công nghiệp 100% vốn nước ngoài chuyên sản xuất giày da, diện tích 62 ha, với
1
95.000 lao động là người trên địa bàn quận và các tỉnh, thành phố đến làm việc và
học tập, làm cho dân số trên địa bàn quận ngày càng gia tăng kéo theo các dịch vụ
thương mại, nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí cũng được mở rộng, đời sống
vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được nâng lên.
Sau hơn 13 năm thành lập, quận Bình Tân đã có bước phát triển quan trọng
trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng - an ninh (QP-AN). Tốc độ
tăng trưởng kinh tế năm 2016 đạt 27%; trong đó, giá trị sản xuất công nghiệp tăng
35,35%, tiểu thủ công nghiệp tăng 18,52%, thu ngân sách tăng 13,8% năm th 9
liên tục đạt trên 1.000 t đồng); quản lý và phát triển đô thị đạt kết quả tích cực; văn
hoá - xã hội có bước phát triển, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện...
Tuy vậy, bên cạnh những yếu tố tích cực, những thành tựu đã đạt được, mặt trái của
nền kinh tế thị trường, sự gia tăng dân số nhanh với t lệ dân nhập cư càng lớn gây
khó khăn trong công tác quản lý con người và quản lý xã hội đã làm cho tình hình
tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân diễn biến hết s c ph c tạp các tội giết người,
cướp giật, trộm cắp tài sản… xảy ra ngày càng nhiều. Theo thống kê, từ năm 2012 –
2016, trên địa bàn Bình Tân, Tòa án nhân dân đã khởi tố, điều tra, tuy tố, xét xử
1.823 vụ án với hơn 2.333 bị can vi phạm hình sự, đặc biệt trong đó nhóm tội XPSH
đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử khoảng hơn 1.161 vụ án với hơn 1.459 bị can.
Điều đáng báo động là trong số 1.993 vụ án trên, các vụ án do người dưới 18 tuổi
phạm tội thực hiện đến 48 vụ với 101 bị cáo chiều hướng ngày càng ph c tạp.
(Nguồn thống kê số liệu từ tòa án Bình Tân)
Vấn đề người chưa thành niên vi phạm pháp luật và phạm tội đã và đang
được tất cả các nhà nước trên thế giới quan tâm, lo lắng. Liên hợp quốc đã ban hành
một số Công ước, Quy tắc liên quan đến công tác phòng chống vi phạm pháp luật
của người chưa thành niên; các cơ quan của tổ ch c lớn nhất hành tinh này cũng đã
tổ ch c nhiều cuộc hội thảo có tính chất toàn cầu và khu vực để bàn về vấn đề này.
Nhằm cụ thể hóa cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, các chiến
lược, kế hoạch của Chính phủ, chính quyền các cấp ở quận Bình Tân thời gian qua
cũng đã tích cực, chủ động thực hiện nhiều giải pháp để đấu tranh phòng, chống
2
tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện nói chung và tình hình tội XPSH
do người dưới 18 tuổi thực hiện nói riêng. Tuy nhiên những giải pháp này vẫn chưa
đạt được hiệu quả mong muốn. Tình hình tội XPSH do người dưới 18 tuổi thực hiện
trên địa bàn quận Bình Tân vẫn có diễn biến hết s c ph c tạp và có chiều hướng gia
tăng. Thực tế đó đã đặt ra nhu cầu cấp bách cần nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng chống tội XPSH do người dưới 18 tuổi gây ra trên địa bàn quận Bình
Tân trong thời gian tới. Để làm được điều này, một trong những vấn đề cần thực
hiện là tiến hành các nghiên c u về nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH.
Với cương vị là một cán bộ phụ trách công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em, học viên
luôn luôn mong muốn các em dù ở hoàn cảnh nào cũng được chăm sóc tốt nhất,
được giáo dục tốt nhất để trở thành những công dân tốt cho xã hội góp phần xây
dựng đất nước Việt Nam ngày một giàu đẹp. Từ quan điểm đó, học viên quyết định
chọn đề tài Nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội xâm phạm sở hữu từ thực
tiễn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sỹ với
mong muốn, đề ra các giải pháp hữu hiệu phòng ngừa tội XPSH từ khía cạnh nhân
thân, góp phần thực hiện có hiệu quả chương trình hành động bảo vệ, chăm sóc,
giáo dục, trẻ em tốt hơn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên c u được thực
hiện liên quan đến nhân thân người phạm tội, có thể kể đến các nghiên c u tiêu biểu
sau đây:
2.1. Nhóm những công trình nghiên cứu làm rõ vấn đề nhân thân người
phạm tội phục vụ quá trình áp dụng các quy định của BLHS
- Luận án Tiến sĩ Luật học: Nhân thân người phạm tội trong trong luật hình
sự Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Thủy, năm 2005;
Bài viết: Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự liên quan đến nhân
thân người phạm tội” của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí Toà án, số 13/2009, tr. 2327 và số 14,tr. 19-28;
3
- Bài viết: Nhân thân người phạm tội với việc quy trách nhiệm hình sự” của
tác giả Nguyễn Thị Thanh Thu , Tạp chí Toà án, số 8/2001, tr.2-7;
- Bài viết: Nhân thân người phạm tội một căn cứ để quyết định hình phạt”
của tác giả Trần Văn Sơn, Tạp chí Luật học, số 1/1997, tr.41-43;
- Bài viết: Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân nhắc khi quyết
định hình phạt” của tác giả Trịnh Tiến Việt, Tạp chí kiểm sát, số 1/2003, tr.21-23;
- Bài viết: Cần có biện pháp để thống nhất khi áp dụng tình tiết đã bị xử
phạt hành chính trong Bộ luật hình sự” của tác giả Lê Đ c Tùng, Tạp chí Kiểm Sát,
số 5/2005, tr.34-36;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: "Nhân thân người phạm tội theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” của tác giả Lưu Thị
Hằng, Học viện Khoa học xã hội 2017;
- Bài viết: Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân nhắc khi quyết
định hình phạt” của tác giả Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2003, tr. 21-23;
- Bài viết: Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn truy cứu trách
nhiệm hình sự” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thu , Tạp chí Kiểm sát, số 17/2005,
tr. 32-35;
- Bài viết: Các tình tiết định khung tăng nặng trong tội giết người phản ánh
mức độ lỗi và các đặc điểm về nhân thân người phạm tội” của tác giả Đỗ Đ c Hồng
Hà, Tạp chí Toà án nhân dân, số 18/2005, tr. 17- 20;
2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lí luận về nhân
thân người phạm tội trong tội phạm học
- Giáo trình tội phạm học, do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Đại học Huế
- Trung tâm đào tạo từ xa, năm 2011;
- Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Tập thể tác
giả, Viện nghiên c u nhà nước và pháp luật, năm 2000;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội trong tội phạm học”
của Nguyễn Thị Thanh Thủy, Trường ĐH Luật Hà Nội năm 1996;
4
- Bài viết: Một số vấn đề nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn
Quang Hạnh, Tạp chí Nghề luật, số 1/2013, tr. 52-57;
- Bài viết: Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội” của tác giả
Nguyễn Thị Thanh Thu , Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2001, tr.4653;
- Bài viết: Nhân thân bị can và một số khái niệm kề cận” của tác giả TS. Bùi
Kiên Điện, Tạp chí Luật học, số 6/2001, tr. 14-18;
- Bài viết: Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản” của tác
giả GS.TS. Lê Cảm, Tạp chí Toà án, số 10/2001, tr.7-11 và Số 11/2001, tr. 5-8;
2.3. Nhóm các công trình nghiên cứu thực tiễn nhân thân người phạm tội
dưới góc độ tội phạm học ở một địa phương cụ thể
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên
địa bàn tỉnh Bình Phước của Nguyễn Thanh Tuấn (2017), Học viện khoa học xã
hội;
-Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh của Lê Ngô Phương Thanh (2017), Học viện khoa
học xã hội;
-Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên
địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh của Phan Thị Phương Thảo (2017),
Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
của Nguyễn Xuân Bá (2017), Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh của Lê Đình Toàn (2017), Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người thực hiện các tội xâm phạm
tình dục trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu của Bùi Ai Giôn (2017), Học viện
khoa học xã hội;
5
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội giết người trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh của Phan Ái nhi (2016), Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu
trên địa bàn tỉnh Kiên Giang của Hồ Thanh Lam (2016), Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Phòng ngừa tội phạm cướp tài sản trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Long từ góc độ nhân thân người phạm tội của Nguyễn Chí Công 2013),
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận 7,
thành phố Hồ Chí Minh của Phạm Uyên Thy 2015), Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm
trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai dưới góc độ tội phạm học của Ngô Minh Hải
2015), Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh;
- Luận văn thạc sĩ Luật học: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu
trên địa bàn quận Bình Tân của Lê Thành Công;
- Bài viết: Một số đặc điểm chú ý về nhân thân của người phạm tội về ma
tuý ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tuyết Mai, Tạp chí Luật học, số 11/2006, tr.
32-37;
- Bài viết: Một số vấn đề nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn
Quang Hạnh, Tạp chí Nghề luật, số 1/2013, tr. 52-57;
- Bài viết: Đặc điểm nhân thân người phạm tội và phương thức thực hiện tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai” của tác giả Lê Văn Định, Tạp chí Kiểm
sát, số 6/2015, tr. 47-53
2.4. Nhóm các công trình nghiên cứu làm rõ một số đặc điểm tâm sinh lí,
nhận thức của người chưa thành niên
- Bài viết: Một số đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên phạm tội của
thạc sĩ Đặng Thanh Nga;
- Bài viết : Thực trạng nhận thức pháp luật của người chưa thành niên
phạm tội của thạc sĩ Đặng Thanh Nga;
6
Các công trình nghiên c u trên đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cơ
bản về nhân thân người phạm tội, bao gồm khái niệm nhân thân người phạm tội,
phân biệt khái niệm nhân thân người phạm tội với một số khái niệm khác có liên
quan, các đặc điểm của nhân thân người phạm tội, vai trò của nhân thân người phạm
tội trong cơ chế hành vi phạm tội. Các công trình nghiên c u trên cũng đã tập trung
làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nhân thân người phạm tội, bao gồm khái
niệm nhân thân người phạm tội, phân biệt khái niệm nhân thân người phạm tội với
một số khái niệm khác có liên quan, các đặc điểm của nhân thân người phạm tội,
vai trò của nhân thân người phạm tội trong cơ chế hành vi phạm tội, đặc điểm tâm
lý của người chưa thành niên, nhận th c pháp luật của người chưa thành niên, đặc
điểm nhân thân người phạm tội trên một số địa bàn, như địa bàn quận Bình Tân,
Quận 7 thành phố Hồ Chí Minh, địa bàn tỉnh Gia Lai, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Kiên
Giang, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu …Nhưng chưa có đề tài nào nghiên c u về nhân
thân người dưới 18 tuổi phạm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn quận Bình Tân.
Khi thực hiện đề tài này, Học viên đã kế thừa những lý luận, thực tiễn các công
trình nghiên c u trên, vận dụng đi sâu vào nghiên c u nhân thân người dưới 18 tuổi
phạm tội XPSH trên địa bàn quận Bình Tân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên c u các đặc điểm nhân thân của người dưới 18 tuổi phạm
tội XPSH ở quận Bình Tân, làm sáng tỏ các yếu tố tác động đến sự hình thành các
đặc điểm nhân thân xấu ở người phạm tội, luận văn hướng đến mục đích đưa ra các
giải pháp tăng cường phòng ngừa tội XPSH do người dưới 18 tuổi thực hiện trong
thời gian tới ở địa bàn quận Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh.
3.2. Nội dung nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện ba nội dung
sau:
Thứ nhất: Nghiên c u làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhân thân người
dưới 18 tuổi phạm tội XPSH;
7
Thứ hai: Phân tích làm rõ thực tiễn nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội
XPSH và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người dưới 18 tuổi phạm
tội XPSH trên địa bàn quận Bình Tân, giai đoạn 2012 - 2016;
Thứ ba: Nghiên c u đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tội XPSH
từ khía cạnh nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn quận Bình Tân, TP.
Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên c u của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về nhân
thân người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH trên địa bàn quận Bình Tân. Để nghiên c u
về nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH trên địa bàn quận Bình Tân, học
viên dựa trên các số liệu thống kê xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận
Bình Tân giai đoạn 2012 - 2016, cũng như trên cơ sở kết quả nghiên c u 48 bản án
xét xử sơ thẩm của TAND quận Bình Tân giai đoạn 2012 - 2016 được thu thập đầy
đủ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên c u nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH dưới góc độ
tội phạm học và phòng ngừa tội phạm trên địa bàn quận Bình Tân, TP. Hồ Chí
Minh trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016.
Tội XPSH được quy định tại chương XIV của BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung
năm 2009), gồm Tội cướp tài sản Điều 133), Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
Điều 134), Tội cưỡng đoạt tài sản Điều 135) Tội cướp giật tài sản Điều 136), Tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản Điều 137) Tội trộm cắp tài sản Điều 138) Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản Điều 139), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Điều
140), Tội chiếm giữ trái phép tài sản Điều 141), Tội sử dụng trái phép tài sản Điều
142 BLHS 1999, Điều 177 BLHS 2015, Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Điều 143), Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà
nước Điều 144), Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Điều 145).
8
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên c u dựa trên cơ sở phép biện ch ng duy vật của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự
an toàn xã hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên c u đặc thù của tội phạm học, cụ
thể:
- Phương pháp nghiên c u lý luận, phân tích, so sánh, bình luận… được sử
dụng để làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhân thân người dưới 18 tuổi phạm
tội XPSH.
- Phương pháp nghiên c u lý luận, phân tích, quy nạp, hệ thống, diễn dịch,
thống kê, đối chiếu, suy luận logic, nghiên c u bản án, điều tra xã hội học… được
sử dụng để làm rõ các đặc điểm nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH và
các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH
trên địa bàn quận Bình Tân giai đoạn 2012 - 2016.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phân tích, suy luận logic… được sử
dụng để nhằm đưa ra kiến nghị việc hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa tình hình
tội XPSH từ góc độ nhân thân người phạm tội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận của đề tài: Luận văn là công trình nghiên c u đầu tiên ng
dụng lý thuyết về nhân thân người phạm tội, người chưa thành niên vào việc phân
tích nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH trên địa bàn quận Bình Tân, TP.
Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên c u được sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận tội
phạm học nói chung và lý luận phòng ngừa tội XPSH do người dưới 18 tuổi thực
hiện nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn của đề tài: Những biện pháp phòng ngừa đưa ra trong đề
tài rút ra được từ đặc điểm nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tôi XPSH có thể
9
được tham khảo trong thực tiễn công tác phòng, chống tội phạm XPSH nói riêng và
tội phạm nói chung trên địa bàn quận Bình Tân trong thời gian tới. Kết quả nghiên
c u của luận văn cũng có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong các cơ sở đào
tạo luật trong cả nước.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được cấu trúc thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội
xâm phạm sở hữu.
Chương 2: Thực trạng nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội xâm phạm sở
hữu trên địa bàn quận Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh, giai đoạn 2012-2016.
Chương 3: Các giải pháp tăng cường phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu
do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn quận Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh từ
khía cạnh nhân thân người phạm tội.
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu
1.1.1. Khái niệm nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội xâm phạm sở hữu
Xét về mặt ngôn ngữ, khái niệm nhân thân người phạm tội được hình thành
từ khái niệm nhân thân” và khái niệm người phạm tội” [48, tr.147]. Do vậy, để
làm sáng tỏ khái niệm nhân thân người phạm tội, phải xuất phát từ các luận điểm
của triết học Mác – Lênin về bản chất của con người nói chung với tư cách là một
phạm trù lịch sử - xã hội [62, tr.129].
Con người là sản phẩm của tự nhiên nên trước hết mang đặc tính sinh học.
Đặc tính sinh học trong con người quyết định sự hình thành những hiện tượng, quá
trình tâm, sinh lý của con người. Mặt khác, con người muốn tồn tại đòi hỏi phải có
quá trình hoạt động để phục vụ nhu cầu của mình như ăn, uống, nghỉ ngơi,... Trong
bất kỳ xã hội nào, con người không bao giờ sống tách rời, riêng lẻ mà luôn luôn có
mối quan hệ với nhau trong quá trình sản xuất cũng như trong quá trình sinh hoạt
khác. Vì thế, con người luôn mang đặc tính xã hội. Nhân thân con người là sự thống
nhất giữa các đặc tính xã hội và đặc tính sinh học, trong đó đặc tính xã hội có ý
nghĩa quyết định, nhưng đặc tính sinh học cũng có ý nghĩa riêng. Chính quá trình
thỏa mãn các nhu cầu sinh học chiếm vị trí quan trọng trong ý thức và quy định lợi
ích cũng như khuynh hướng phát triển của con người” [56, tr. 97]. Nhân thân con
người là tất cả các đặc điểm sinh học, tâm lý và xã hội có liên quan đến một con
người, thể hiện bản chất riêng của họ. Nói cách khác, nhân thân con người là tổng
hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của con người tham gia vào các
mối quan hệ xã hội.
Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học là con người phạm tội chứ không
phải là con người nói chung. Người phạm tội là người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm” [48, tr.149]. Người phạm tội cũng
là con người của xã hội, cho dù tội phạm mà họ thực hiện có nghiêm trọng đến đâu.
11
Vì vậy, khi đề cập đến nhân thân người phạm tội là nói đến các đặc điểm của nhân
thân con người nói chung và cả những đặc điểm đặc trưng của nhân thân người
phạm tội, chính những đặc điểm, dấu hiệu này thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội
của họ. Dấu hiệu đặc trưng trong nhân thân người phạm tội khác với nhân thân con
người bình thường trước hết ở chỗ trong nhân thân của họ bao gồm tất cả các dấu
hiệu mà luật hình sự quy định về chủ thể của tội phạm nói chung. Có nghĩa rằng, tại
thời điểm thực hiện tội phạm họ có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi theo
luật định và đặc biệt là họ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Ngoài ra,
nhân thân người phạm tội còn có dấu hiệu, đặc điểm liên quan đến sự việc phạm tội
như tâm lí, tính cách, thói quen, sở thích, quan điểm, thái độ đối với xã hội, ý th c
pháp luật…[48, tr.151].
Cũng như nhân thân con người, nhân thân người phạm tội bao gồm hệ thống
các đặc điểm tâm, sinh lý. Các đặc điểm tâm, sinh lý phụ thuộc vào những điều kiện
sống, của sự giáo dục, của những mối quan hệ… nhất định. Chính các đặc điểm đó
dưới sự tác động của các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài, của tình huống cụ thể,
tạo thành động lực thúc đẩy việc thực hiện tội phạm.
Như vậy, nhân thân người phạm tội là t c là người có lỗi trong việc thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội phạm được hiểu là tổng
hợp tất cả các dấu hiệu, những đặc điểm,có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp
với điều kiện, hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó
[62, tr.131].
Trên cơ sở khái niệm nhân thân người phạm tội, khái niệm người chưa thành
niên, có thể rút ra định nghĩa nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội xâm phạm sở
hữu như sau:
Nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội xâm phạm sở hữu là tổng thể các
dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội trong sự kết hợp với với các điều kiện
và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu của
người đó”
12
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội
xâm phạm sở hữu
Nhân thân người phạm tội là vấn đề quan trọng được nhiều ngành khoa học
nghiên c u như tội phạm học, khoa học luật hình sự, tâm lý học tư pháp… Tuy
nhiên do mỗi ngành khoa học có mục đích nghiên c u khác nhau cho nên phạm vi
và nhiệm vụ nghiên c u về nhân thân người phạm tội cũng khác nhau.
Khoa học luật hình sự nghiên c u nhân thân người phạm tội với mục đích
xác định và đánh giá hành vi phạm tội, trách nhiệm hình sự và quyết định biện pháp
xử lý hình sự đối với người phạm tội theo luật hình sự [64, tr.193]. Tâm lý học tư
pháp nghiên c u người phạm tội với mục đích xác định năng lực trách nhiệm hình
sự và xử lí những người phạm tội là người mắc các bệnh về tâm lí, tâm thần [48,
tr.145].
Tội phạm học với tư cách là một khoa học chuyên nghiên c u về tội phạm và
người phạm tội cùng những nguyên nhân và điều kiện của nó để đề ra các biện pháp
phòng ngừa, cho nên vấn đề nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân
người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH nói riêng được nghiên c u một cách khá toàn
diện và mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Trong phạm vi
luận văn này, Học viên xin đề cập đến việc nghiên c u nhân thân người dưới 18
tuổi phạm tội XPSH với các ý nghĩa chính sau:
Thứ nhất, nghiên c u làm rõ nhân thân người duới 18 tuổi phạm tội XPSH,
góp phần làm cho quá trình định tội, định khung và quyết định hình phạt được chính
xác.
Nhân thân người phạm tội tuy không phải là một trong những yếu tố cấu
thành tội phạm nhưng các đặc điểm của nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan
trọng trong việc xác định các vấn đề: Truy c u trách nhiệm hình sự, quyết định hình
phạt, yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt,… Theo khoa học luật hình sự:
nhân thân người phạm tội được hiểu là tổng thể tất cả các đặc điểm có ý nghĩa về
mặt xã hội của người thực hiện tội phạm được cân nhắc để giải quyết những vấn đề
của trách nhiệm hình sự (cá thể hóa hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự, miễn và
13
giảm hình phạt)” [64, tr.194]. Chính vì vậy, pháp luật tố tụng hình sự quy định, các
đặc điểm nhân thân người phạm tội phải được các cơ quan tiến hành tố tụng thu
thập đầy đủ trong hồ sơ vụ án và phải được thể hiện trong bản Kết luận điều tra của
Cơ quan điều tra, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát và Bản án của Tòa án.
Các đặc điểm nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH có ý nghĩa trong
việc định tội và định khung hình phạt đối với tội XPSH, như: Trong một số trường
hợp, các yếu tố về nhân thân người phạm tội đã được nhà làm luật quy định là yếu
tố loại trừ trách nhiệm hình sự, yếu tố miễn hình phạt, yếu tố định tội, định khung
hình phạt hoặc quy định là tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự như: Người phạm tội từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về các tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm
trọng khoản 2 Điều 12 BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009)) riêng tại khoản 2
điều 12 của Bộ Luật hình sự năm 2015 thì quy định rõ hơn: Người đủ 14 tuổi tuổi
trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự vè tội giết người, tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội
hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội
cướp tài sản, về tội rất nghiêm trọng, tội đặn biệt nghiêm trọng quy định tại một
trong các điều …” ; Không phạt tử hình hoặc tù chung thân đối với người phạm tội
chưa đủ 18 tuổi; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên.
khoản 5 Điều 69 BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009)), Bộ LHS năm 2015 thì
được quy định tại khoản 6 Điều 91.
Động cơ và mục đích tư lợi là yếu tố định tội của hầu hết tội XPSH tại
Chương XIV của Bộ luật hình sự 1999; đặc điểm tái phạm nguy hiểm” được quy
định là yếu tố định khung một số tội XPSH điểm c khoản 2 của Điều 133, Điều
134, Điều 135, Điều 136, Điều 137, Điều 138, Điều 139; điểm đ khoản 2 Điều 140;
điểm d khoản 2 Điều 142; điểm e khoản 2 Điều 143 của BLHS); đặc điểm tái
phạm tội” là yếu tố định tội được quy định tại khoản 1 của Điều 137, Điều 138,
Điều 139, Điều 140, Điều 142 và Điều 143 của BLHS; đặc điểm nghề nghiệp là yếu
tố định tội được quy định tại Điều 144 và yếu tố định khung tại khoản 2 của Điều
14
139, Điều 140 và Điều 142. Theo BLHS năm 2015 thì được quy định tại XVI tội
XPSH từ điều 168 đến điều 180. Khi đã định tội và định khung một cách chính xác
sẽ giúp cho việc quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH
đúng đắn, phù hợp với tính chất và m c độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra,
từ đó góp phần giáo dục và cải tạo có hiệu quả người phạm tội XPSH, ngăn ngừa
phạm tội mới và giáo dục người khác.
Thứ hai, nghiên c u làm rõ nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH,
giúp xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội XPSH nguyên nhân từ
phía người phạm tội và nguyên nhân từ phía xã hội).
Nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH với tổng thể các đặc điểm có
tác động chi phối hành vi phạm tội và cũng chính là kết quả của sự tác động qua lại
giữa người phạm tội và môi trường xã hội của người phạm tội XPSH. Bằng những
nghiên c u tổng quát về nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH và những số
liệu về các loại tội XPSH góp phần làm rõ những tác động tiêu cực của môi trường
gia đình, nhà trường, môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội vĩ mô đến sự hình thành
các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội XPSH. Nghiên c u cụ thể về
các đặc điểm và những yếu tố tác động đến quá trình hình thành các đặc điểm tiêu
cực của nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH sẽ cho thấy rõ những nguyên
nhân và điều kiện làm phát sinh hành vi phạm tội XPSH.
Thứ ba, nghiên c u làm rõ nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH,
giúp đề ra các biện pháp phòng ngừa tội XPSH nói riêng và tội phạm nói chung.
Nhiệm vụ của phòng ngừa là loại trừ các điều kiện thuận lợi cho việc phát
sinh tội phạm, hạn chế các nhân tố tội phạm, hoặc nhân tố có ảnh hưởng đến sự
hình thành các phẩm chất cá nhân tiêu cực của con người. Nghiên c u làm rõ các
đặc điểm trong nhân thân của mỗi người, như giới tính, tuổi, nghề nghiệp, trình độ
văn hóa, quan điểm… đặc biệt là làm rõ các nguyên nhân dẫn đến sự hình thành các
đặc điểm nhân thân xấu, sai lệch của người phạm tội sẽ giúp cho việc đề ra các biện
pháp phù hợp nhằm tác động loại bỏ dần các đặc điểm nhân thân xấu, góp phần
15
hình thành các đặc điểm nhân thân tốt, qua đó làm biến chuyển người phạm tội
thành người có ích cho xã hội.
Thứ tư, nghiên c u làm rõ nhân thân người phạm tội XPSH, giúp đề ra các
biện pháp giáo dục, cải tạo người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH một cách phù hợp và
hiệu quả. Có thể dựa vào đặc điểm nhân thân của người dưới 18 tuổi phạm tội
XPSH để phân loại và áp dụng các biện pháp giáo dục, cải tạo phù hợp với từng
nhóm người. Từ các đặc điểm nhân thân có thể cải thiện hoặc loại trừ các đặc điểm
nhân thân tiêu cực có vai trò quan trọng đối với việc phát sinh tội XPSH, từ đó có
thể giáo dục, cải tạo họ thành người tốt, không tái phạm tội. Nghiên c u các đặc
điểm nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội cũng giúp cho việc tư vấn cho phạm
nhân việc học nghề phù hợp, chuẩn bị tốt nhất cho quá trình tái hòa nhập.
Thứ năm, nghiên c u làm rõ nhân thân người phạm tội XPSH còn góp phần
cung cấp những thông tin hữu ích cho các ngành khoa học pháp lý khác: Khoa học
luật Tố tụng hình sự, khoa học Điều tra hình sự.
Khoa học Điều tra hình sự dựa trên những thông tin về nhân thân người
dưới 18 tuổi phạm tội XPSH như một trong những căn c để đề ra, xác định phương
pháp, phương hướng, chiến thuật điều tra nhằm thu thập ch ng c , ch ng minh tội
phạm và người phạm tội. Trong hoạt động điều tra vụ án, thông tin phản ánh về
nhân thân người phạm tội XPSH giúp cho việc sàng lọc đối tượng, phát hiện nhanh
chóng, chính xác tội phạm và người phạm tội, áp dụng các biện pháp ngăn chặn cho
phù hợp với từng đối tượng phạm tội, khám xét thu giữ vật ch ng và sử dụng những
biện pháp tác động tâm lý, cảm hoá đối tượng trong lấy lời khai, hỏi cung, đối
chất…
1.2. Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội xâm phạm sở hữu
Mỗi nhân thân người phạm tội cụ thể đều có những đặc điểm, dấu hiệu
chung trong từng nhóm người phạm tội hay trong tất cả người phạm tội và nó còn
có những đặc điểm, dấu hiệu đặc thù của nhân thân người phạm tội đó. Trong phạm
vi luận văn này, học viên chỉ đề cập đến các đặc điểm của nhân thân người dưới 18
tuổi phạm tội XPSH. Trong quá trình nghiên c u nhân thân người phạm tội nói
16
chung, nghiên c u nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH học viên cũng
phân chia các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH, có thể chia làm ba nhóm
sau:
1.2.1. Nhóm đặc điểm sinh học (nhân chủng học)
a. Giới tính
Tìm hiểu đặc điểm giới tính giúp xác định được người phạm tội XPSH là
nam hay là nữ, qua đó cho thấy tình hình tội XPSH theo từng giới. Thực tế qua
công tác nghiên c u tình hình tội phạm ở nước ta cũng như các nước trên thế giới
đã cho thấy số lượng giữa nam giới và nữ giới phạm tội có khác nhau, nam giới
thường phạm tội nhiều hơn so với nữ giới. Nam giới có một số đặc điểm đặc thù và
được xã hội thừa nhận, đó là mạnh mẽ, quyết đoán nhưng cũng đi đôi với khả năng
kiềm chế kém, dễ bị kích động… Trong khi đó, nữ giới thường ôn hòa, dịu dàng, có
khả năng chịu đựng tốt nhưng cũng hay để ý, nhỏ nhặt. Ngoài ra, việc nam giới
phạm tội nhiều hơn nữ giới không phải do đặc điểm sinh lý của nam giới khác với
nữ giới, mà còn do những điều kiện hình thành phẩm chất cá nhân và sự tiếp nhận
giáo dục của nam giới có những đặc điểm khác với nữ giới. Nam giới và nữ giới
đều bình đẳng như nhau trong việc tiếp nhận giáo dục, đồng thời họ cùng có khả
năng nhận th c như nhau. Tuy nhiên, do sự ảnh hưởng của tư tưởng lạc hậu trọng
nam khinh nữ” đang tồn tại trong nhiều gia đình. Nam giới thường nhận được sự
nuông chiều nhiều hơn. Nghiên c u các đặc điểm giới tính của người phạm tội là
nam giới đã chỉ ra, nam giới dễ bị ảnh hưởng bởi các thói hư tật xấu, dễ bị tiêm
nhiễm tệ nạn xã hội và dễ hình thành phẩm chất cá nhân tiêu cực, trạng thái tâm lý
tiêu cực hơn so với nữ giới. Đối chiếu với các đặc điểm của nhóm tội XPSH, phần
nào cho thấy được t lệ phạm các tội cũng như phạm nhóm tội XPSH do nam giới
thực hiện luôn nhiều hơn nữ giới. Tuy vậy, trong những năm gần đây do sự thay đổi
vị trí, vai trò của nữ giới trong gia đình và xã hội, người phụ nữ được giải phóng
khỏi công việc gia đình, tham gia nhiều vào hoạt động xã hội nên t lệ nữ giới phạm
tội XPSH có xu hướng gia tăng. [48, tr.155]
17
b. Độ tuổi
Độ tuổi là một đặc điểm có mối quan hệ hữu cơ với việc phát triển và hình
thành nhân cách trong đặc điểm nhân thân của người phạm tội. Không những thế,
độ tuổi còn gắn liền với vị trí, vai trò của con người trong xã hội và các mối quan hệ
xã hội chủ yếu mà con người đó tham gia. Nghiên c u đặc điểm l a tuổi trong nhân
thân người phạm tội XPSH sẽ giúp xác định được l a tuổi nào phạm tội XPSH
nhiều nhất, l a tuổi nào thực hiện loại tội phạm này ít nhất, theo đó xác định các
biện pháp phòng ngừa cụ thể hướng tới những người trong các độ tuổi khác nhau.
Có nhiều cách phân chia độ tuổi khác nhau trong các nghiên c u tội phạm
học, tuy nhiên tron khuôn khổ nghiên c u người dưới 18 tuổi phạm tội xâm phạm
sở hữu có thể phân loại thành 02 nhóm: Người chưa đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi,
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Nhóm tội XPSH là nhóm tội mà người phạm tội rất đa đạng về độ tuổi và
mỗi độ tuổi có những đặc điểm đặc trưng về sự phát triển thể chất, tinh thần, tâm,
sinh lý, hiểu biết xã hội… nên nghiên c u đặc điểm độ tuổi cho phép xác định m c
độ tích cực phạm tội” và đặc điểm về hành vi chống đối xã hội của những người
thuộc những l a tuổi khác nhau.[59, tr.144]
Ngoài các đặc điểm nêu trên, các đặc điểm khác như: dân tộc, quốc
tịch...cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên c u nhân thân người phạm tội.
Các đặc điểm này có mối quan hệ mật thiết với vị trí, vai trò, các thuộc tính văn
hóa,… của con người trong xã hội. Trong nghiên c u tội phạm học ở Việt Nam, căn
c vào tiêu chí dân tộc, người phạm tội XPSH được chia thành 02 nhóm: người dân
tộc kinh, người dân tộc thiểu số. Nếu sử dụng tiêu chí quốc tịch, người phạm tội
XPSH được chia thành 03 nhóm: Người Việt Nam, người nước ngoài và người
không quốc tịch.
1.2.2. Nhóm đặc điểm xã hội
a. Trình độ học vấn
Mỗi người có một trình độ học vấn khác nhau, trình độ học vấn là một yếu tố
ảnh hưởng rất lớn đến nhận th c của con người, đến khả năng ng xử của con
18
người trong các mối quan hệ xã hội nói chung và hành vi phạm tội nói riêng. Thực
tế cho thấy những người có trình độ cao thì khả năng nhận th c, hiểu biết càng cao
dẫn đến việc lựa chọn cách th c ng xử trước những vấn đề xã hội của cuộc sống
thường rất linh hoạt và thông minh từ đó sẽ kiểm soát được các hành vi của mình,
tránh thực hiện hành vi phạm tội và ngược lại đối với những người có trình độ học
vấn thấp thì khả năng hiểu biết các vấn đề xã hội, đặc biệt là nhận th c pháp luật
còn thấp, dẫn đến nguy cơ phạm tội rất cao. Tuy vậy m c độ ảnh hưởng của trình
độ học vấn đối với từng loại tội, từng nhóm tội cũng khác nhau, có những nhóm tội
đòi hỏi phải có học vấn nhất định mới thực hiện được hành vi phạm tội, như nhóm
tội phạm công nghệ cao, nhóm tội phạm tham nhũng,… Đối với nhóm tội XPSH,
người phạm tội không cần phải có trình độ học vấn cao mới có thể thực hiện được
tội phạm. Nhiều nghiên c u tội phạm học cho thấy, những người phạm tội XPSH đa
phần đều có trình độ học vấn tương đối thấp và ng với mỗi tội XPSH khác nhau
thì người phạm tội cũng có trình độ học vấn khác nhau. Dựa vào đặc điểm trình độ
học vấn, người dưới 18 tuổi phạm tội XPSH được chia thành 03 nhóm: 1) Người
không biết chữ và người có trình độ tiểu học, 2) Người có trình độ trung học cơ sở,
3) Người có trình độ trung học phổ thông.
b. Hoàn cảnh gia đình
Hoàn cảnh gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành những phẩm
chất tâm lý tiêu cực của con người, dẫn đến họ sẽ có tính chống đối xã hội, và có
những hành vi đi ngược với các chuẩn mực xã hội. Chính yếu tố gia đình trong đa
số trường hợp đã kích thích tính tích cực của mỗi thành viên, đồng thời gia đình giữ
vai trò kiểm sát, giám sát hành vi của những thành viên trong gia đình, hạn chế đến
m c tối đa các hiện tượng tiêu cực phát sinh trong mỗi con người. Nghiên c u đặc
điểm hoàn cảnh gia đình trong nhân thân người phạm tội XPSH là nghiên c u ở các
khía cạnh: quan hệ gia đình, hoàn cảnh kinh tế gia đình với những tác động của
chúng tới người phạm tội XPSH. Mối quan hệ gần gũi, ấm cúng trong gia đình,
cách xử sự văn minh, nhân ái giữa các thành viên trong gia đình, việc mỗi thành
viên luôn nêu cao trách nhiệm với gia đình có ý nghĩa rất lớn tới việc kiểm soát
19
hành vi, định hướng hành vi của mỗi người, giúp hạn chế những hành vi tiêu cực
xảy ra. Kết quả nghiên c u cho thấy những người đã kết hôn, được sống trong một
gia đình có cơ cấu đầy đủ, gia đình hòa thuận hạnh phúc, sống gương mẫu thì t lệ
phạm tội XPSH của họ ít hơn đối với những người chưa kết hôn, gia đình bị khiếm
khuyết cha mẹ ly hôn, cha hoặc mẹ chết…), gia đình có những thành viên thường
xuyên vi phạm pháp luật hoặc sống không hòa thuận hạnh phúc. Dựa vào đặc điểm
quan hệ gia đình, người duới 18 tuổi phạm tội XPSH được chia thành: gia đình có
cơ cấu hoàn thiện và gia đình bị khiếm khuyết, gia đình đông con và gia đình ít
con…
c. Nơi cư trú
Nơi cư trú, nơi sinh sống cũng là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến tình trạng
phạm tội XPSH. Mỗi nơi cư trú, sinh sống có những đặc trưng riêng về phong tục
tập quán, kinh tế, giáo dục… Những yếu tố này phần nào tác động đến quá trình
hình thành nhân cách người phạm tội. Được sống ở một nơi ổn định mà môi trường
yên bình, trật tự an ninh tốt, tình làng nghĩa xóm luôn được nêu cao, lối sống văn
hóa của mỗi thành viên thì động cơ, mục đích phạm tội XPSH rất thấp và ngược lại
nếu sống ở trong một cộng đồng toàn những người phạm pháp, tệ nạn xã hội… thì
nguy cơ phạm tội XPSH cũng tăng cao. Dựa vào đặc điểm nơi cư trú, người dưới 18
tuổi phạm tội XPSH được chia thành 03 nhóm: Người không có nơi cư trú, người
có nơi cư trú không ổn định và người có nơi cư trú ổn định.
1.2.3. Nhóm đặc điểm đạo đức - tâm lý
Những đặc điểm đạo đ c - tâm lý của nhân thân người dưới 18 tuổi phạm tội
XPSH bao gồm quan niệm, quan điểm về đạo đ c, về giá trị xã hội và các đặc điểm
tâm lý như nhu cầu, thói quen, sở thích, nguyện vọng… những đặc điểm này có vai
trò quan trọng trong sự hình thành động cơ phạm tội của người phạm tội XPSH.
Riêng đối với người dưới 18 tuổi hay còn gọi là người chưa thành niên thuộc nhóm
xã hội mang l a tuổi đặc thù với những đặc điểm tâm sinh lý đáng quan tâm. Đó là:
- Về trạng thái cảm xúc: người chưa thành niên là người đang trong quá trình
phát triển cả về sinh lí, tâm lí và ý th c. Đây là giai đoạn diễn ra những biến cố rất
20