Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Khoa Phát thanh – Truyền hình
    
TIỂU LUẬN CHUYÊN ĐỀ
VIẾT BÁO KINH TẾ
Người thực hiện: Phi Thị Thu Khuyên
Hà Nội, tháng 12 năm 2008
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Nhu cầu về thông tin kinh tế của công chúng ngày càng lớn. Nhu cầu này 
của họ phần lớn được đáp ứng là từ việc nghe, xem và đọc các sản phẩm truyền 
thông. Độc giả, thính giả, khán giả và cả những “cư dân mạng” luôn tìm được 
những thông tin bổ ích cho công việc, cuộc sống thường ngày từ các con số, sự 
2
việc, thống kê, báo cáo về đời sống kinh tế và cả những cuộc tranh luận về tác 
động của các hoạt động kinh doanh trong xã hội, ví dụ tới môi trường, tới cơ cấu 
xã hội. 
Trên thế giới, báo chí kinh tế đã phân hóa mạnh mẽ. Lĩnh vực bao quát 
của các nhà báo kinh tế ngày càng mở rộng và sâu sát. 
Ở Cộng hòa Liên bang Đức, phương tiện truyền thông in ấn có trọng tâm 
là chủ đề kinh tế là ba tờ báo kinh tế phát hành từ thứ hai đến thứ sáu: tờ 
Thương mại, tờ Quan sát kinh tế và tờ Kho bạc. Các tuần báo khu vực bắt đầu 
chú trọng đến chủ điểm kinh tế là tờ Thời đại, Báo chủ nhật Toàn cảnh nước 
Đức, tờ Chúa Jê-su và thế giới. Những tạp chí chuyên sâu về kinh tế cũng nở rộ 
với các tờ Tiền vốn, DM, Nhịp độ, Người quản lý, Khoa học quản lý, Tuần kinh 
tế, Kiểm tra, Kiểm tra tài chính… 
Đề tài kinh tế trên truyền hình cũng đang gia tăng mạnh mẽ như chuơng 
trình “Cộng trừ” (đài ARD), “Wiso” (đài ZDF) – đề cập những vấn đề từ các 
doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân, chương trình Tiêu điểm, Sự kiện, Giám 
sát (đài ARD), chương trình Đối mặt hoặc Wiso đặc biệt của đài ZDF hoặc 
Chuyện trong tòa cao ốc của đài SAT1, Fox Business News (của tập đoàn truyền 
thông News Corp), CNBC (đài NBC) cùng với các chương trình thời sự có điểm 
qua mục kinh tế ở mức 1,1% trở lên.
Bên cạnh đó cũng phải kể đến những hãng tin tài chính hàng đầu như 
Bloomberg. Bloomberg.com là 1 trong 5 websites về thông tin kinh tế được truy 
cập nhiều nhất trên toàn cầu. Kênh truyền hình Bloomberg là kênh thông tin tài 
chính và kinh tế, được phát 24/24 giờ bằng tiếng Anh, chuyên cung cấp các số 
liệu về thị trường và tài chính hiện tại, tình hình giá cả, thương mại, các tin tức 
và thông tin cần thiết cho các cộng đồng, các công ty, các tập đoàn, các tổ chức 
thông tin, các chuyên gia pháp lý và tài chính và các cá nhân, các cuộc phỏng 
vấn trực tiếp về bí quyết thành công với các Tổng Giám đốc, CEO, những 
chuyên gia kinh tế, tư vấn chiến lược của các hãng nổi tiếng trên thế giới như: 
IBM, Microsoft, Toyota, Honda, Pricewaterhouse Coopers 
3
Ở Việt Nam, nhiều năm trước, báo chí kinh tế nói chung, trang kinh tế 
trên các báo nói riêng, chỉ là những trang không thể thiếu của mỗi tờ báo, nhưng 
lại không thực sự trở thành tâm điểm của độc giả, ngoại trừ khi có những "sự 
kiện", như đổi tiền, điều chỉnh chính sách tỉ giá hay những vụ việc tiêu cực trong 
doanh nghiệp đây đó bị phanh phui… Song, đời sống báo chí kinh tế đã thực sự 
thay đổi trong vài năm trở lại đây, đặc biệt kể từ khi Việt Nam chính thức gia 
nhập WTO. Xu thế hội nhập, toàn cầu hoá của nền kinh tế khiến các báo cũng bị 
cuốn theo. Điểm nóng dễ nhận thấy là sự phát triển của thị trường chứng khoán 
trong một năm qua. Từ chỗ thờ ơ với lĩnh vực chứng khoán, giờ đây, thông tin 
về chứng khoán, thị trường chứng khoán… đang trở thành mảng thông tin nóng 
nhất trên các tờ báo lớn, thu hút lượng độc giả nhiều nhất. Hiện Việt Nam có 5 
tờ báo hàng đầu về kinh tế được nhiều người ưa chuộng, từ người tiêu dùng, 
doanh nhân cho đến những công chúng khó tính nhất. Đó là tờ Thời báo kinh tế 
sài gòn, Thời báo kinh tế Việt Nam, báo Đầu tư, Công thương và Diễn đàn doanh 
nghiệp. Bên cạnh đó là sự ra đời liên tiếp của các chương trình truyền hình về 
kinh tế như Thị trường 24h, Việt Nam và các chỉ số (VTV1), Hội nhập (VTV1), 
Kinh tế cuối tuần (VTC7), Doanh nghiệp 24h (VTC1), Infotv… Trên Đài tiếng 
nói Việt Nam cũng để một thời lượng không nhỏ cho các chương trình kinh tế 
như Thời sự kinh tế (7h05 – 7h15), Kinh tế vĩ mô (8h05 – 8h15), Doanh nghiệp 
và doanh nhân, Hội nhập kinh tế quốc tế, Diễn đàn kinh tế… Cùng với đó là các 
phiên bản điện tử của các tờ báo in, các chương trình truyền hình về kinh tế và 
các trang tin điện tử về kinh tế nổi tiếng như CafeF.vn liên tiếp xuất hiện.
Một số tờ báo lớn bắt đầu quy hoạch lại trang để tăng diện tích cho mảng 
thông tin này. Ngay những tờ báo tưởng như không liên quan gì đến chứng 
khoán cũng không thể đứng ngoài cuộc. Tuy nhiên, một số báo vốn đã có sự 
chuẩn bị sẵn một đội ngũ phóng viên kinh tế vững vàng có thể yên tâm hơn để 
mở trang, ra sản phẩm mới, đáp ứng nhu cầu thông tin kinh tế gia tăng nhanh 
chóng của độc giả. Còn ngược lại, nếu thiếu sự chủ động đào tạo và bổ sung lực 
lượng thì sự hẫng hụt có thể nhìn thấy rõ.
4
Tiểu luận không nhằm mang lại tri thức đầy đủ và toàn diện về kinh tế để 
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà báo kinh tế nhưng cũng muốn làm rõ hơn cho 
độc giả vai trò của báo chí kinh tế để có sự đánh giá đúng tầm quan trọng, cải 
thiện diện tích và chất lượng của mảng này trên mặt báo. Đồng thời tiểu luận 
cũng cung cấp những kiến thức cần trang bị cho phóng viên kinh tế ngày nay.
I. BÁO CHÍ KINH TẾ
1. Vai trò
Để hiểu được vai trò của báo chí kinh tế thì trước tiên ta phải hiểu được 
cái nó phản ánh, bình luận và phân tích: thông tin kinh tế. 
5
Hầu hết ai cũng hiểu rõ thông tin có vai trò quan trọng như thế nào đối với 
con người. Thông tin là sự phản ánh tri thức và hiểu biết. Không có thông tin thì 
con người không có sự dẫn dắt cho các hoạt động của mình và hoàn toàn bất 
định trong môi trường đó.
Tương tự như vậy, thông tin kinh tế (những dữ liệu phản ánh lĩnh vực 
hoạt động kinh tế của xã hội được thu thập, xử lý và cung cấp cho các chủ thế 
trong các quá trình quản lý và thực hiện các hoạt động kinh tế của họ) có thể coi 
như huyết mạch của các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế. Thông qua việc 
nghiên cứu thông tin kinh tế chúng ta có thể có các đánh giá chính xác về nhịp 
sống kinh tế và quy mô phát triển của các doanh nghiệp, triển vọng và nguy cơ 
tiềm ẩn của các doanh nghiệp này. Có thể nói không quá rằng trong nền kinh tế 
thị trường, nơi diễn ra hàng ngày cuộc cạnh tranh quyết liệt để giành giật thị 
trường, thông tin kinh tế là một nhu cầu cấp thiết. Thông tin kinh tế có thể quyết 
định sự thành bại của của một doanh nghiệp.
Thông tin kinh tế phản ánh các mặt đời sống kinh tế của xã hội. Nó chủ 
yếu vận động trong lĩnh vực hoạt động kinh tế, giúp cho các chủ thể kinh tế ra 
quyết định thực hiện các hoạt động kinh tế của mình.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi chủ thể kinh tế, dù là người sản xuất, 
người tiêu dùng, người chủ nguồn lực kinh tế hay những người trung gian, đều 
chịu sự chi phối của cơ chế thị trường. Các quyết định kinh tế của họ có liên 
quan đến những người còn lại thông qua các quan hệ thị trường. Việc đề ra và 
triển khai thực hiện các quyết định đó đòi hỏi chủ thể kinh tế phải hiểu rõ những 
gì diễn ra trong các quá trình kinh tế của họ cũng như của những người khác liên 
quan đến họ. Vì vậy thông tin kinh tế trước hết và chủ yếu phục vụ cho quá trình 
ra quyết định về các hành vi kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
Sự can thiệp của Chính phủ cũng như các tổ chức quốc tế và thế giới vào 
các nền kinh tế cũng phải căn cứ vào các thông tin kinh tế đó. Những chuyển 
biến trong các nền kinh tế thị trường hiện đại làm cho thông tin có những vai trò 
mới. 
6
Vai trò vốn có, truyền thống của thông tin kinh tế là tiền đề, cơ sở, công 
cụ của quản lý kinh tế. Thực chất của quản lý kinh tế là quá trình đề ra và tổ 
chức, kiểm tra việc thực hiện các quyết định kinh tế nhằm thực hiện các mục 
tiêu của một tổ chức kinh tế - đơn vị kinh tế, một ngành hay toàn bộ nền kinh tế 
quốc dân. Trong kinh tế thị trường có ba loại chủ thể kinh tế cơ bản là doanh 
nghiệp, gia đình và Chính phủ.
Doanh nghiệp, gia đình và Chính phủ tác động qua lại thông qua thị 
trường để đưa ra các quyết định kinh tế tối ưu.
Quản lý và thực hiện các hoạt động kinh tế của các chủ thể này thực chất 
là quá trình đề ra và thực hiện các quyết định đó. Thông tin luôn gắn liền với các 
hoạt động này. Nó chính là “nguyên liệu” có ảnh hưởng lớn đến chất lượng của 
hoạt động quản lý. Sản phẩm của hoạt động quản lý là các quyết định cũng 
chính là các thông tin. Thông tin là công cụ truyền đất các ý đồ của chủ thể quản 
lý tới các đối tượng quản lý. Đồng thời, thông tin kinh tế dưới dạng các thông lệ, 
quy tắc ứng xử, các quy luật kinh tế được tổng kết,… góp phần tạo và làm tăng 
thêm năng lực, kỹ năng của những người ra quyết định ở các doanh nghiệp, gia 
đình cũng như các cơ quan của Chính phủ. Đó chính là tiền đề để các nhà quản 
lý tránh được chủ quan, cảm tính, xa lạ với thực tế khi ra các quyết định.
Thông tin kinh tế còn giữ vai trò là tài sản quan trọng, tạo nên sức mạnh 
của mỗi tổ chức, của mỗi quốc gia. Thông tin kinh tế nói riêng và thông tin nói 
chung là sản phẩm của lao động trí tuệ của con người. Nó được tạo ra, được lưu 
trữ và sử dụng nhằm làm tăng năng lực tạo ra của cải vật chất cả con người. Vì 
vậy, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, nền kinh tế hậu công nghiệp, thông tin 
không chỉ là một lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội mà nó còn giữ vai trò 
động lực chính của mỗi quá trình sản xuất và của nền kinh tế. 
Trong điều kiện hữu hạn của các tài nguyên thiên nhiên kể cả là lực lượng 
lao động, con đường tăng trưởng của kinh tế ngày nay là sử dụng công nghệ mới 
trong các quá trình sản xuất. Các thông tin về tình hình thị trường, về khách 
hàng, về cạnh tranh, về các môi trường tự nhiên, chính trị, xã hội bên trong và 
bên ngoài quốc gia còn giúp cho mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia tìm kiếm lợi 
7
thế cạnh tranh của họ. Vì vậy thông tin được xem như một tài sản quan trọng 
của mỗi tổ chức trong nền kinh tế thị trường, như bất kỳ tài sản nào khác (tài 
nguyên thiên nhiên, vốn kỹ thuật, vốn bằng tiền, lao động).
Thông tin là tài sản vô hình tồn tại trong các vật mang tin hữu hình. Đó là 
những dấu hiệu (từ ngữ, hình ảnh hay bất kỳ ký hiệu nào khác) được lưu trữ trên 
các phương tiện khác nhau như đĩa, băng, giấy tờ văn bản, bộ não của con 
người,… Có thể dễ dàng chuyển đổi thông tin từ phương tiện này sang phương 
tiện khác. Điều này đặt ra vấn đề bảo vệ quyền sở hữu các thông tin cũng như 
bảo vệ bí mật thông tin, đồng thời có cơ chế trao đổi chuyển giao sở hữu thông 
tin như các loại tài sản khác. Bên cạnh đó, có tính thời điểm, giá trị của thông tin 
chỉ tồn tại trong khoảng thời gian nhất định, trong những điều kiện, hoàn cảnh 
nhất định. Nếu không có tính thời sự nữa thì các thông tin cũng vô giá trị, không 
còn sử dụng được nữa. Vì vậy, tài sản này phải được trao đổi, được đưa vào sử 
dụng đúng lúc, đúng chỗ và đúng người có nhu cầu. Điều này đòi hỏi chủ sở hữu 
các thông tin không chỉ quan tâm đến việc thu thập, xử lý các thông tin mà cần 
phải tìm được khách hàng khai thác các thông tin đó một cách kịp thời, hiệu quả, 
cũng như cách thức truyền tin kinh tế hợp lý.
Sự vận hành nền kinh tế bằng cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà 
nước làm phát sinh nhiều loại mối quan hệ giữa các chủ thể, các bộ phận, tạo 
nên sự thống nhất của nền kinh tế quốc dân. Một trong các mối quan hệ đó giảm 
bớt khoảng cách, sự ngắt quãng đứt đoạn trong bức tranh kinh tế thế giới. Sự hội 
nhập kinh tế, quá trình toàn cầu hóa làm cho phạm vị hoạt động của mỗi chủ thể 
kinh tế ngày càng mở rộng. Hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra ở các khoảng 
cách không gian lớn càng đòi hỏi phát triển các hình thức thông tin hiện đại. 
Mạng thông tin khu vực và toàn cầu không chỉ giúp cho các doanh nghiệp, 
khách hàng và các cơ quan quản lý vĩ mô cũng như các tổ chức quốc tế trao đổi 
thông tin kinh tế với nhau. Thông qua hệ thống này còn thực hiện được các giao 
dịch thương mại, các quan hệ hợp tác sản xuất ở nhiều ngành, nhất là những 
ngành kinh tế sử dụng công nghệ cao. Những hoạt động sản xuất kinh doanh 
thực hiệ ở các địa điểm cách xa nhau vẫn có thể trao đổi, thực hiện các giai đoạn 
8
kế tiếp nhau của một quá trình kinh doanh trên mạng thông tin. Những khả năng 
ứng dụng công nghệ thông tin trong các ngành dịch vụ và một số ngành sản xuất 
vật chất khác cho thấy vai trò quan trọng của các hệ thống thông tin kinh tế 
trong nền kinh tế hiện đại đang dần chuyển sang nền kinh tế tri thức với quy mô 
toàn cầu. Với những vai trò trên, thông tin kinh tế là đặc trưng cho sức mạnh của 
người sở hữu và sử dụng chúng, của mỗi quốc gia. Trong nền kinh tế thị trường 
ngày nay, sức mạnh không chỉ thể hiện ở những nguồn nhân lực hữu hình mà cả 
các nguồn lực vô hình, trong đó có thông tin nói chung và thông tin kinh tế nói 
riêng. Các quốc gia, các tổ chức kinh tế mạnh do có mạng lưới thông tin hoàn 
chỉnh, chủ động nắm bắt các thời cơ để thực hiện thành công các ý đồ phát triển 
kinh tế của mình. Ngày nay người ta thấy rằng các cường quốc thông tin (Mỹ, 
Tây Âu, Nhật Bản,…) đồng thời là các cường quốc kinh tế.
Cũng không ai có thể phủ nhận một điều, phương tiện thông tin đại chúng 
(báo chí) là hệ thống hữu hiệu truyền tải các thông tin kinh tế bên trong và bên 
ngoài quốc gia. Là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, báo chí kinh tế giống 
như tấm gương phản ánh đời sống kinh tế với cả ưu điểm và hạn chế, đi lên và 
thăng trầm, cả mặt sáng và mặt tối. Song có một điều không thể phủ nhận trong 
mối “duyên nợ” này là kinh tế có phát triển vững thì báo chí kinh tế mới mạnh. 
Ngược lại, báo chí kinh tế mạnh sẽ là kênh thông tin, là cầu nối, là chất xúc tác 
cho các quan hệ kinh tế trong đời sống kinh tế phát triển. Những khu vực có hệ 
thống PTTTĐC kinh tế mạnh cũng chính là các cường quốc về kinh tế trên thế 
giới như Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản…
2. Liên hệ thực tiễn Việt Nam
Thời hội nhập kinh tế toàn cầu đã đem lại cơ hội phát triển chưa từng có 
cho giới doanh nhân. Đời sống báo chí kinh tế cũng vì nhu cầu cấp thiết về 
thông tin kinh tế mà thực sự trở nên sôi động. Quan hệ tương hỗ giữa báo chí 
9
kinh tế và doanh nghiệp cũng ngày càng phát triển trong nền kinh tế thị trường 
xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Qua điều tra 300 doanh nghiệp cho thấy: 203 doanh nghiệp thu thập thông 
tin từ các phương tiện thông tin đại chúng để đưa ra các quyết định kinh tế; 171 
doanh nghiệp sử dụng thông tin từ tạp chí và các ấn phẩm khác; 90 doanh 
nghiệp sử dụng dịch vụ môi giới; 46 doanh nghiệp thu thập thông tin từ các 
trung tâm tư liệu; 72 doanh nghiệp sử dụng mạng máy tính để thu thập thông tin 
(trích kết quả điều tra trong luận án TS Kinh tế năm 2000: Thông tin kinh tế 
trong sự phát triển kinh tế thị trường nước ta hiện nay). Theo viện dẫn kết quả 
một cuộc điều tra "nhỏ nhưng khá chân thực, khách quan" của ông Nguyễn Thế 
Kỷ - Vụ trưởng Vụ Báo chí, hơn 40% doanh nghiệp được hỏi đánh giá rất tích 
cực về báo chí (năm 2007). Như vậy có thể khẳng định vai trò báo chí kinh tế 
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay nói chung, hỗ trợ Chính phủ, tổ 
chức phi chính phủ, doanh nghiệp đưa ra các quyết định kinh tế đúng đắn nói 
riêng. Hiện nay, trong số hơn 702 cơ quan báo chí được Bộ Văn hoá Thông tin 
cấp giấy phép hoạt động, có tới hàng trăm tờ báo kinh tế. Hầu như 100% cơ 
quan báo chí đều có trang, chuyên mục, chuyên đề về kinh tế - xã hội hoặc lực 
lượng phóng viên, biên tập viên chuyên nghiệp thực hiện mảng đề tài này.
Luận giải về vai trò của báo chí kinh tế trong kinh tế thị trường nước ta 
hiện nay đã có nhiều tài liệu, luận án, thậm chí đề tài khoa học cấp bộ đề cập 
đến. Tiểu luận xin mạn phép trích đăng một bài nghiên cứu khá sâu sắc và đầy 
đủ về vấn đề nêu trên của tác giả Đặng Đức Long (bài viết được đăng trên báo 
điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam).
Nói đến vai trò của báo chí kinh tế đối với việc xây dựng văn hoá doanh 
nhân, doanh nghiệp ở Việt Nam, có lẽ điều đầu tiên không thể không nói đến là 
sự “khơi nguồn tư tưởng”, tạo nên sự thay đổi của nhận thức xã hội đối với giới 
kinh doanh. Công cuộc đổi mới đất nước do Đại hội VI của Đảng khởi xướng, 
bắt đầu từ “đổi mới tư duy” đã tạo cuộc chuyển mình to lớn để đất nước vượt 
qua khủng hoảng, vững bước bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 
Nhưng nói đến thành công của “đổi mới tư duy”, trước hết phải nói đến “đổi 
10
mới tư duy kinh tế” mà báo chí kinh tế đã góp sức không nhỏ. Xã hội Việt Nam 
từng trải qua một thời “đêm trước đổi mới” với tư tưởng “trọng nông, ức 
thương”, xem nhẹ việc buôn bán kinh doanh. Nhà văn Lê Lựu, Giám đốc Trung 
tâm Văn hoá doanh nhân Việt Nam từng thừa nhận sức ỳ của tư duy một thời coi 
“buôn bán là gian manh”, “giàu là tội lỗi”, coi doanh nhân là “bọn con buôn”, 
“bọn gian lận”, “bọn ăn chơi, phè phỡn” Nhưng rồi, đi qua thời “ngăn sông 
cấm chợ”, đường lối đổi mới kinh tế, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần 
dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng vai trò tuyên truyền tích cực của báo chí kinh tế 
đã ngày càng làm thay đổi cách nhìn của xã hội đối với giới doanh nhân, doanh 
nghiệp. Cách đây hơn 10 năm, người viết bài này có dịp làm một đề tài khoa học 
về chuyên mục Chuyện làm ăn của nhà báo Hữu Thọ, nguyên Trợ lý Tổng Bí 
thư, Tổng biên tập báo Nhân dân. Quá trình nghiên cứu và trao đổi trực tiếp với 
ông cho thấy: trên con đường đổi mới đầy chông gai, Đảng, Nhà nước trăn trở 
với chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế bao nhiêu thì những người làm báo 
kinh tế cũng trăn trở, đau đáu gấp bội với việc đưa đường lối của Đảng vào cuộc 
sống, với những câu hỏi nóng bỏng từ thực tiễn làm ăn của các doanh nghiệp. 
Có tới 1001 vấn đề nhạy cảm là những “câu hỏi lớn” từ thực tiễn lao động sản 
xuất đã được báo chí chuyển tải đến các nhà lãnh đạo cùng với sự phân tích, 
luận giải, dự báo. Nếu không có sự ủng hộ đầy nhiệt thành, dũng cảm của giới 
báo chí với giới kinh doanh thì khó mà có được những quyết sách kinh tế kịp 
thời Giờ đây, doanh nhân đã trở thành một lực lượng có vai trò quan trọng 
trong sự nghiệp xây dựng đất nước giàu mạnh, được tôn vinh. Giới doanh nhân 
đã có ngày 13-10 – ngày Bác Hồ gửi thư cho giới công thương Việt Nam năm 
1946 là ngày truyền thống của mình. Nhưng để có được ngày này, cùng với sự 
quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực của Phòng Thương mại Công nghiệp 
Việt Nam, phải kể đến vai trò của báo chí trong việc tôn vinh giới doanh nhân, 
đưa họ từ chỗ làm nghề ít được coi trọng bước lên vị trí của một trong những 
nghề cao quí của xã hội. Không chỉ góp phần làm thay đổi nhận thức của xã hội, 
vai trò của báo chí kinh tế trong xây dựng văn hoá doanh nhân, doanh nghiệp 
còn thể hiện trên hàng loạt vấn đề quan trọng khác như: tuyên truyền, phổ biến 
11
đường lối, chính sách, pháp luật kinh tế; giúp giới doanh nhân, doanh nghiệp 
nắm vững thông tin kinh tế, thông tin thị trường, xây dựng thói quen, phong 
cách làm ăn chuyên nghiệp trong “sân chơi” lớn, hình thành văn hoá kinh doanh. 
Báo chí kinh tế với vũ khí phê phán sắc bén cũng là nơi phản ánh kịp thời những 
khuyết tật của nền kinh tế thị trường, tệ tham nhũng, quan liêu, buôn gian bán 
lận giúp cho doanh nhân, doanh nghiệp nhận thức, điều chỉnh hành vi và hoạt 
động. Song ở đây, chúng tôi không có tham vọng làm một “báo cáo thành tích” 
về vai trò của báo chí trong việc tạo nên bức tranh văn hoá nhiều sắc màu của 
doanh nhân, doanh nghiệp. Với quan điểm, điều quan trọng không phải ở lời nói 
mà ở việc làm và với tư duy chung của những người làm báo là tìm tòi, đề cập 
những vấn đề nóng, những vấn đề dư luận quan tâm, những câu hỏi đang cần trả 
lời ngay, ở bài viết này, chúng tôi xin trao đổi mấy vấn đề cần làm ngay để phát 
huy tốt hơn vai trò của báo chí kinh tế trong xây dựng văn hoá doanh nhân, 
doanh nghiệp ở Việt Nam như sau:
2.1 Báo chí kinh tế trong việc xây dựng, thúc đẩy môi trường kinh 
doanh lành mạnh ở Việt Nam.
Văn hoá doanh nhân, doanh nghiệp chỉ nảy nở, phát triển trong một môi 
trường xã hội, môi trường kinh doanh thuận lợi. Vì vậy, việc đăng tải thông tin, 
mở các diễn đàn để góp phần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế - 
cơ sở pháp lý bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp, đấu tranh với những hành 
vi gian lận, làm ăn phi văn hoá, tăng cường phổ biến pháp luật trong nước và 
pháp luật quốc tế tới từng doanh nghiệp để tránh những vi phạm đáng tiếc là một 
trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của báo chí kinh tế hiện nay. Các 
văn bản quy phạm pháp luật nhất thiết phải được đông đảo doanh nhân và những 
người lao động tham gia xây dựng thông qua nhiều kênh thông tin, trong đó báo 
chí là một kênh gần gũi, hiệu quả.
Tuy nhiên, để thực hiện được điều này không có nghĩa là “ném” tất cả 
những văn bản quy phạm pháp luật lên mặt báo một cách máy móc. Báo chí 
kinh tế khi tuyên truyền, phổ biến pháp luật phải biết được bạn đọc tờ báo của 
mình cần gì, nói với họ bằng cách nào. Bạn đọc của các tờ báo kinh tế thường là 
12
những chuyên gia, những doanh nhân có trình độ học vấn cao, thông tin pháp 
luật của họ phải thiết thực, có chiều sâu. Bên cạnh những chuyên mục giải đáp 
pháp luật cần có chuyên trang, chuyên mục dạng như “luật sư của bạn”, “ý kiến 
chuyên gia” để giúp giải đáp những vướng mắc, bức xúc của doanh nghiệp. Các 
tờ báo kinh tế cũng nên mở các “nhịp cầu pháp lý”, các mục “câu hỏi hôm nay”, 
“vấn đề chờ cơ quan chức năng”, “ý kiến doanh nghiệp”, “nhà quản lý trả lời” 
để doanh nhân, doanh nghiệp bày tỏ, phản ánh những hiện tượng nhũng nhiễu, 
vi phạm pháp luật, gây khó cho doanh nghiệp. Các tờ báo cũng nên thường 
xuyên làm cầu nối tổ chức gặp gỡ, trao đổi giữa doanh nghiệp và các cơ quan 
Nhà nước về việc thực hiện cơ chế, chính sách, qua đó doanh nghiệp hiểu thêm 
nội dung các cơ chế chính sách còn Nhà nước nắm thêm thực tế, giúp cho việc 
hoạch định chính sách được sát thực hơn.
Để xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, báo chí kinh tế cần xung 
kích hơn nữa trên mặt trận chống tiêu cực, cải cách thủ tục hành chính hiện nay. 
Cần đi sâu luận giải, phân tích, kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh cuộc cải cách 
hành chính theo hướng dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp và hiện 
đại hoá; giúp cho các cơ quan Nhà nước cần tạo thói quen làm việc với các hiệp 
hội doanh nghiệp, tôn trọng các quyền của hiệp hội, lắng nghe và giải quyết 
đúng pháp luật những kiến nghị của hiệp hội; giúp các doanh nghiệp, doanh 
nhân tham quan, khảo sát, tiếp cận thị trường thế giới, đồng thời tiếp xúc, giao 
lưu văn hoá và học tập tinh hoa văn hoá kinh doanh của các doanh nghiệp trên 
thế giới. Có thể nêu vụ việc cấm container HC 40 feet trên Quốc lộ 5 đã buộc 
các doanh nghiệp vận tải container phải “chi ngoài luồng” rất lớn để được chạy 
xe diễn ra gần đây là một ví dụ. Nhờ nhiều tờ báo lên tiếng, cơ quan chức năng 
đã thấy quy định cấm này vốn đã không hợp lý, lại không được thực hiện triệt 
để, khiến doanh nghiệp muốn chạy xe phải “biết chi”. Rõ ràng, quy định cấm chỉ 
làm phát sinh thêm những tiêu cực trên đường, mà doanh nghiệp trong trường 
hợp này là đối tượng bị động, bị lôi vào cuộc phạm luật. Nhờ báo chí phản ánh 
kịp thời mà hiện tượng này được chấm dứt, bảo vệ quyền lợi chính đáng của 
doanh nghiệp.
13
2.2 Báo chí kinh tế với việc đấu tranh chống những khuyết tật của 
nền kinh tế thị trường, xây dựng văn hoá doanh nhân, doanh nghiệp.
Trên trận tuyến chống tham nhũng, lãng phí, chống những hiện tượng 
buôn gian, bán lận thời gian qua, báo chí kinh tế đã thực sự chứng minh vai trò 
là người lính xung kích, dũng cảm. Khá nhiều vụ việc tiêu cực lớn, liên quan 
đến nhiều vấn đề xã hội bức xúc và nhạy cảm đều do báo chí phanh phui, phát 
hiện, tạo căn cứ và dư luận để cơ quan chức năng điều tra, xử lý. Điểm mặt hàng 
loạt vụ án kinh tế lớn mà báo chí phản ánh thời gian qua như: Epco – Minh 
Phụng, Tân Trường Sanh, Ruska, các vụ án buôn lậu, làm hàng giả; vụ kiện 
pháp lý xung quanh vấn đề cá ba-sa, vụ bị nước ngoài kiện ở Việt Nam Air line, 
những vụ tranh chấp, cạnh tranh không bình đẳng giữa các hãng viễn 
thông không chỉ giúp cơ quan quản lý Nhà nước điều chỉnh cơ chế, chính sách 
mà còn giúp chính các doanh nghiệp nhìn nhận, sửa chữa những hạn chế, khiếm 
khuyết của mình; hình thành, ổn định văn hoá quản lý, văn hoá lãnh đạo, văn 
hoá kinh doanh Như Lep-tôn-xtôi, đại văn hào Nga đã nói một câu rất hay 
rằng: “Ai cũng nói cải tạo thế giới, ít ai nói cải tạo chính bản thân mình”, từ 
những vụ việc “chấn động” dư luận ấy, không ít doanh nghiệp, doanh nhân đã 
biết “giật mình”, có những điều chỉnh hợp lý, để không đi vào vết xe đổ.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận một thực tế đáng suy nghĩ, không hiếm 
hiện tượng báo chí quá sa đà vào việc đấu tranh chống tiêu cực theo kiểu “đánh 
đấm”, sự vụ, gây sức ép để trục lợi, nhũng nhiễu doanh nghiệp. Đã có một số 
nhà báo lợi dụng danh nghĩa đấu tranh chống tiêu cực để tống tiền doanh 
nghiệp, bị cơ quan chức năng phát hiện và xử lý, ảnh hưởng nghiêm trọng đến 
đạo đức nghề nghiệp và uy tín của cơ quan báo chí, nghề báo. Cho nên, vấn đề 
đặt ra ở đây là cùng với việc mỗi doanh nhân, doanh nghiệp phải luôn “kinh 
doanh có văn hoá” thì cũng đòi hỏi các cơ quan báo chí đối diện với tiêu cực 
phải “đấu tranh có văn hoá”. Đấu tranh chống tiêu cực đối với doanh nghiệp 
không phải là “đánh đấm” doanh nghiệp, “tiêu diệt”, “ám hại”. Báo chí nước ta, 
dù là báo chí kinh tế của cơ quan nào cũng là đại diện cho công luận, là nền báo 
chí xã hội chủ nghĩa, không thể hoạt động theo kiểu tự do vô chính phủ, đứng 
14
trên pháp luật và công lý. Báo chí kinh tế khi đấu tranh chống tiêu cực cũng cần 
thấm nhuần tư tưởng “xây luôn đi đôi với chống”. Đấu tranh chống tiêu cực phải 
luôn hướng tới mục tiêu xây dựng, mang lại môi trường kinh doanh bình đẳng 
cho xã hội, bảo vệ công lý đồng thời giúp giới doanh nhân, doanh nghiệp phát 
triển. Tất nhiên ở đây, cần nhận thức một thực tế là tình hình thực tiễn kinh 
doanh của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay rất sôi động nhưng cũng rất 
phức tạp. Bên cạnh số doanh nghiệp làm ăn nghiêm chỉnh, góp phần dựng xây 
đất nước hiện tượng “doanh nghiệp ma”, buôn lậu, trốn thuế khá phổ biến báo 
chí kinh tế khi xác định “xây đi đôi với chống” không có nghĩa là “thoả hiệp”, 
“hiền lành” thái quá sẽ vô hình trung tiếp tay cho những “doanh nghiệp ma” 
này. Báo chí kinh tế, khi phê phán những vấn đề vĩ mô cũng cần chú ý hơn nữa 
trong xây dựng văn hoá doanh nhân, phê phán những hạn chế từ “văn minh lúa 
nước” vẫn tàn dư trong một số doanh nhân Việt Nam mà cụ Lương Văn Can đã 
mô tả cách đây gần cả trăm năm: “không có thương phẩm- không có kiên tâm – 
không có nghị lực – không biết trọng nghề - không có thương học – kém đường 
giao thiệp – không biết tiết kiệm – khinh nội hoá”. Hay thói quen xấu đút lót, 
chạy chọt, tiếp tay cho tham nhũng; thói nhậu nhẹt, thích ra oai 
Ở đây, bên cạnh “chống” phải chú ý hơn đến “xây”. Các tờ báo kinh tế 
cũng cần chú ý cân đối giữa thông tin đấu tranh chống tiêu cực và thông tin 
khác, có khen, có chê theo một tỷ lệ phù hợp. Chính Thủ tướng Chính phủ cũng 
đã nhiều lần nhắc nhở: Đi ra nước ngoài thấy họ đánh giá rất cao công cuộc đổi 
mới. Nhưng nhiều tờ báo quá sa đà vào “vụ việc”, chê nhiều hơn khen, đọc lên 
chỉ toàn thông tin tiêu cực, vụ án nọ kia khiến người ta có cảm giác xã hội đen 
tối quá! Vì vậy, các phương tiện thông tin đại chúng, các sáng tác văn học nghệ 
thuật cũng cần quảng bá và giảng dạy mạnh mẽ, sâu sắc hơn nữa về các doanh 
nghiệp và doanh nhân văn hoá, cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong văn hoá 
kinh doanh.
2.3 Vấn đề quảng cáo trên báo chí hiện nay
Quảng cáo trên báo chí, như chúng ta đã biết, là một kênh truyền thông 
cực kỳ hữu hiệu trong việc giới thiệu hình ảnh doanh nghiệp, giúp trực tiếp tăng 
15
lợi nhuận của quá trình sản xuất kinh doanh. Những doanh nghiệp lớn đều coi 
quảng cáo trên báo chí là một vấn đề nằm trong chiến lược phát triển của mình. 
Hằng năm, số vốn đầu tư vào quảng cáo của các doanh nghiệp trên báo chí khá 
lớn. Phát biểu tại hội thảo "Báo chí với doanh nghiệp, doanh nghiệp với báo chí” 
ngày 6/10/2007, ông Nguyễn Thế Kỷ - Vụ trưởng Vụ Báo chí (Ban Tuyên giáo) 
cho biết cả nước hiện có hai đài truyền hình có doanh thu mỗi năm đạt 1.200-
1.300 tỉ đồng (năm nay có thể đạt 1.500 tỉ); 15 đài truyền hình địa phương và 
khu vực có doanh thu trên 100 tỉ đến vài trăm tỉ đồng/năm; gần mười tờ báo in 
có doanh thu 350-600 tỉ đồng/năm. Tổng doanh thu của các cơ quan báo chí 
nước ta ít nhất là 10.000 tỉ đồng/năm, chủ yếu từ nguồn quảng cáo. Như vậy sự 
hợp tác giữa báo chí và doanh nghiệp là hai chiều, thiết thực, hiệu quả.
Song quảng cáo từ chỗ là cách thức quảng bá thương hiệu, giới thiệu sản 
phẩm, xuất phát từ nhu cầu tự thân của doanh nghiệp thời gian qua có lúc, có nơi 
đã trở thành “mảnh đất màu mỡ” cho những động cơ vụ lợi, nhũng nhiễu doanh 
nghiệp. Không phải không có cơ quan báo chí đặt ra “chỉ tiêu” quảng cáo cho 
phóng viên để tăng quĩ nội bộ cho mình. Cũng không phải không có hiện tượng 
“vạch lá tìm sâu”, phát hiện những hạn chế, tiêu cực của doanh nghiệp rồi tạo 
sức ép, buộc doanh nghiệp phải “quảng cáo” để nhà báo, cơ quan báo chí “im 
lặng”. Không phải không có những tờ báo, công ty truyền thông lập ra những 
“đội quân” chuyên đi xin xỏ quảng cáo, gây khó cho doanh nghiệp. Hiện tượng 
này đã ảnh hưởng xấu nghiêm trọng đến mối quan hệ tốt đẹp giữa báo chí – 
doanh nghiệp; làm biến tướng hình thức quảng cáo, từ chỗ là một hoạt động 
phục vụ kinh doanh trở thành một “thế giới ngầm” đầy phức tạp. Mặc dù Nhà 
nước ta đã có Pháp lệnh quảng cáo nhưng pháp lệnh này dường như vẫn chưa đủ 
chế tài để loại bỏ những phức tạp. Chính sự phá hoại mối quan hệ báo chí – 
doanh nghiệp do quảng cáo khiến cho nhiều doanh nghiệp khi quảng cáo chỉ là 
“nghĩa vụ”, là sự “trả nghĩa” báo chí, nhiều doanh nhân không muốn tiếp nhà 
báo. Điều này vô hình dung làm cho việc tuyên truyền, giới thiệu, quảng cáo về 
doanh nghiệp chỉ còn là hình thức, thiếu chiều sâu. Vì vậy, việc xây dựng, quảng 
16
bá hình ảnh doanh nghiệp, xây dựng văn hoá doanh nghiệp, doanh nhân cũng 
khó đạt được hiệu quả như mong muốn.
Để cải thiện vấn đề này, một số tờ báo lớn, đủ “sống” nhờ phát hành đã 
dám “nói không” với quảng cáo trên báo hằng ngày (như báo Công an nhân dân 
là một ví dụ). Nhưng thiết nghĩ với báo chí nói chung thì không thể làm điều 
này. Vấn đề quan trọng là phải quản lý hoạt động quảng cáo như thế nào. Mỗi 
cơ quan báo chí không nên thả lỏng hay “thương mại hoá quảng cáo” mà cần 
nâng cao chất lượng, hiệu quả quảng cáo theo hướng phục vụ doanh nghiệp, 
phục vụ bạn đọc. Trên thực tế thì những tờ quảng cáo khô khan trong thời buổi 
công nghiệp đang là sự “tra tấn” bạn đọc. Nhiều chuyên gia và bạn đọc cho rằng 
nên thay hình thức quảng cáo truyền thống hiện nay bằng những bài viết, phụ 
san dạng như: hướng dẫn tiêu dùng, thông tin tuyên truyền về doanh nghiệp. 
Công tác quản lý hoạt động quảng cáo, đặc biệt là quản lý về giá cả quảng cáo, 
định mức quảng cáo nếu được xiết chặt cũng sẽ giúp tránh tình trạng lộn xộn 
như hiện nay. Cũng có thể thay thế hình thức quảng cáo truyền thống bằng việc 
doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan báo chí tổ chức các hoạt động văn hoá – 
xã hội, thông tin tuyên truyền, tài trợ các chuyên mục để thông qua đó gián 
tiếp quảng bá hình ảnh của mình. Việc các doanh nghiệp tài trợ cho các cuộc thi 
báo chí, các hội thảo khoa học như hiện nay là một hướng đi tốt, vừa giúp nâng 
cao chất lượng nghiệp vụ của cơ quan báo chí, vừa giúp doanh nghiệp quảng bá 
hình ảnh của mình, hai bên cùng có lợi. Thiết nghĩ, trong tương lai, doanh 
nghiệp, hoặc một số doanh nghiệp có thể liên kết, phối hợp với một hay nhiều 
cơ quan báo chí để phản ánh, điều tra về chính những vấn đề khó khăn, vướng 
mắc của mình; mở những diễn đàn để kiến nghị về cơ chế chính sách liên quan 
đến chính doanh nghiệp, qua đó thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Tới đây, Bộ 
Văn hoá thông tin khi nghiên cứu và đề xuất việc xác lập rõ trách nhiệm của các 
ban ngành chức năng trong định hướng và quản lý hoạt động báo chí; tham mưu 
việc sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí cho phù hợp với tình hình mới cần chú ý hơn 
nữa tới tăng cường quản lý hoạt động quảng cáo.
17
Sân chơi WTO - cuộc chơi lớn đầy cơ hội nhưng cũng đầy thách thức đã 
đến gần. Hơn 200 nghìn doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước nhiều câu hỏi 
lớn. Trên con đường phía trước còn đầy cam go của họ, hơn 500 cơ quan báo chí 
phải thật sự là những người bạn lớn, những người bạn đường đầy nhiệt thành, 
sáng tạo giúp họ hướng tới thành công. Song người bạn đường đầy tiềm năng 
này không có “quyền lực thứ tư”. Điều quan trọng vẫn ở các doanh nghiệp, 
doanh nhân trong mỗi suy nghĩ, hành động của mình. Với doanh nhân, doanh 
nghiệp, đạt tới tầm “văn hoá” trong kinh doanh, có thể đã là lúc họ “có tất cả”.
II. KIẾN THỨC CẦN TRANG BỊ
1. Ngân hàng thế giới (World bank)
Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, vào năm 1994, đại diện của chính phủ 44 
quốc gia đã họp tại Bretton Woods, New Hamsphire, ở Hoa Kỳ nhằm xây dựng 
một chiến lược tái thiết nền kinh tế thế giới. Một kết quả quan trọng của cuộc 
họp này là việc thành lập Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IRBD), sau 
này trở thành “Ngân hàng thế giới” và Quỹ tiền tệ quốc tế.
Khi IRBD bắt đầu hoạt động vào năm 1946, pháp nhân mới này có 36 
thành viên. Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới – 184 nước – là thành 
viên của tổ chức này. Nhiều nước phát triển từng vay tiền của IRBD bao gồm 
Áo, Đan Mạch, Italy, Hy Lạp và Singapore hiện nay trở thành các nước tài trợ 
cho ngân hàng.
Nhắc đến World bank (Ngân hàng Thế giới – viết tắt là WB) là người ta 
ngầm hiểu là tên gọi chung của các tổ chức kinh doanh tài chính quốc tế bao 
gồm 4 tổ chức chủ yếu:
Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế tức IRBD: có mục tiêu là cho 
các thành viên nền kinh tế chậm phát triển vay vốn để thực hiện các chương 
trình cải tổ tài chính và những dự án thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hiện tại, số 
vốn của IRBD lên tới 100 tỷ USD và các khoản cho vay của IRBD có thời hạn 
18
tối đa là 15 năm, 5 năm ân hạn
1
 với lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế 
được điều chỉnh 6 tháng/ lần.
Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA): được thành lập từ năm 1960, đến năm 
2006 có khoảng 160 thành viên với số vốn pháp định khoảng 60 tỷ USD. Mục 
tiêu của IDA là giúp các nước nghèo nhất thế giới phát triển kinh tế. (các nước 
có GDP < 600 USD/người/năm) và mọi hoạt động đều do IRBD thực hiện. 
Nguyên tắc của IDA là chỉ cho các Chính phủ các nước vay chứ không cho 
doanh nghiệp (hoặc thực thể nào đó) của các nước thành viên vay. Các khoản 
cho vay của IDA khá ưu đãi với thời hạn dài từ 30 – 45 năm, ân hạn 10 năm và 
hầu như không tính lãi suất cho vay mà chỉ tính phí giao dịch.
Công ty tài chính quốc tế (IFC): được thành lập từ năm 1956 như là một 
chi nhánh của IRBD, song lại là một pháp nhân riêng biệt để huy động vốn từ 
IRBD và các nguồn khác trên thị trường vốn quốc tế. Hiện nay, IFC có khoảng 
180 thành viên tham gia. Mục tiêu của IFC là hỗ trợ phát triển kinh tế cho các 
thành viên đang phát triển thông qua sự giúp đỡ phát triển khu vực kinh tế tư 
nhân và giúp đỡ huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước vào mục đích này 
bằng cách mua cổ phần hoặc cho vay mà không cần đến sự bảo lãnh của Chính 
phủ. Các khoản cho vay của IFC có thời hạn từ 7 – 12 năm với lãi suất phụ 
thuộc vào lãi suất huy động của các nguồn trên thị trường.
Công ty đảm bảo đầu tư đa biên (MIGA): thành lập năm 1988, hiện nay 
có khoảng 160 thành viên tham gia. Mục đích của MIGA là khuyến khích đầu tư 
vào các nước đang phát triển thông qua đầu tư mua cổ phiếu và đầu tư trực tiếp 
giảm bớt các trở ngại phi thương mại đối với các hoạt động đầu tư, bảo lãnh đầu 
tư…
Ngoài ra Trung tâm giải quyết các tranh chấp liên quan đến đầu tư 
(ICSID) thành lập năm 1966 với 140 thành viên, cũng nằm trong 5 định chế của 
Ngân hàng Thế giới. Ra đời với mục tiêu khuyến khích đầu tư vào các nước 
đang phát triển thông qua hình thức cung cấp cơ sở vật chất, giải quyết tranh 
1
 Thời gian ân hạn là khoảng thời gian bổ sung mà bên cho vay cho phép bên vay trả nợ mà không bị phạt (Nếu 
vượt quá thời gian này sẽ bị phạt)
19
chấp bằng trọng tại quốc tế. ICSID đã xử lý 159 vụ tranh chấp, trong đó riêng 
năm tài chính 2004 là 30 vụ.
Các tổ chức nói trên của WB độc lập tương đối với nhau (có qui định 
riêng về điều kiện cho vay, đối tượng cho vay) và có sự bổ sung về mặt nghiệp 
vụ, cán bộ cho nhau.
Cơ cấu tổ chức của WB bao gồm: Hội đồng quản trị, Hội đồng Giám đốc 
điều hành, Chủ tịch Ngân hàng, quan chức các cấp, nhân viên phụ trách quản lý 
nghiệp vụ và hành chính.
1.1 Nhiệm vụ và chức năng
Hoạt động của Ngân hàng Tái thiết và Phát triển thế giới IRBD hay Ngân 
hàng Thế giới được bắt đầu từ năm 1946 có mục tiêu là tái thiết các nước bị tàn 
phá trong Chiến tranh thế giới thứ II. Sau đó vào năm 1948, nhiệm vụ này được 
thực hiện thông qua Kế hoạch Marsall do Mỹ tài trợ. Ngân hàng Thế giới 
chuyên về trợ giúp phát triển.
Ngân hàng Thế giới vay tiền từ các thị trường tài chính cho phần chủ yếu 
của các quỹ vốn Ngân hàng với tỉ lệ lãi suất rất thấp dựa vào tư cách nguồn vay 
nợ rất an toàn, được vốn của các thành viên đảm bảo. Ngân hàng Thế giới có 
điều kiện cho vay thuận lợi hơn so với điều kiện cho vay của thị trường. Ngân 
hàng này cho các nước có thu nhập trung bình từ 1.505 – 5.445 USD/người/năm 
vay tiền hoặc các tổ chức được các nước này đảm bảo, với điều kiện là các nước 
này không thể tiếp cận nguồn vốn với các điều kiện hợp lý.
Trong những năm 1950, các điều kiện cho vay tiền của Ngân hàng Thế 
giới luôn tỏ ra quá khó khăn đối với các nước nghèo, đến nỗi mà Hiệp hội phát 
triển quốc tế (IDA) với tư cách là một quỹ độc lập đã được thành lập nhằm cho 
các nước này vay vốn với điều kiện dễ dàng hơn. Nhóm Ngân hàng Thế giới có 
3 thiết chế trực thuộc: Công ty tài chính quốc tế (IFC), Trung tâm quốc tế giải 
quyết các tranh chấp liên quan đến đầu tư (ICSID) và Cơ quan bảo lãnh đầu tư 
đa phương (MIGA). Các cơ quan này có nhiệm vụ thúc đẩy đầu tư tư nhân tại 
các nước đang phát triển.
20
Trong những năm 1950 và 1960, Ngân hàng Thế giới chú trọng cho vay 
đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Sau đó, các khoản cho vay dành cho lĩnh vực sản xuất 
có phần tăng lên trong các cam kết trong những năm 1970.
Sau khi bắt đầu khủng hoảng vay nợ tại các nước đang phát triển (năm 
1982), Ngân hàng Thế giới cung cấp càng nhiều các khoản cho vay nhưng 
không phải cho các dự án kinh tế vi mô như trước nữa, mà để cải cách thay đổi 
cơ cấu kinh tế dài hạn có điều kiện (làm chủ các chi tiêu công, tự do hóa thương 
mại, tư nhân hóa). Như vậy, Ngân hàng Thế giới đã xích lại gần với IMF và 
cùng với thiết chế này chia sẻ nhiệm vụ.
Các khoản cho vay phục vụ cải cách cơ cấu – SAL (chiếm 15% các khoản 
cho vay năm 1987) liên tục tăng (hiện nay chiếm 30%), làm giảm phần đầu tư 
vào lĩnh vực sản xuất. Các khoản đầu tư này ngày càng được tài trợ trong khuôn 
khổ phối hợp với các nhà đầu tư công hoặc tư khác. Đa phần các khoản tín dụng 
cơ cấu được đầu tư vào các lĩnh vực nhạy cảm (như bảo hộ xã hội và môi 
trường).
Tính tổng cộng Ngân hàng Thế giới (IRBD và IDA) đã cho vay 22 tỷ 
USD năm 1999, một con số không nhỏ so với tổng lưu chuyển tài chính về các 
nước đang phát triển (230 tỷ USD) và vốn ODA (50 tỷ USD).
Trong năm tài chính 2004, Ngân hàng Thế giới cho vay tập trung vào 3 
lĩnh vực chính: Luật, tư pháp và quản trị công; giao thông vận tải; các dịch vụ y 
tế và xã hội.
Mới đây, Ngân hàng Thế giới buộc phải xem xét chủ trương về cho vay 
có điều kiện vì hai lý do. Thứ nhất, các cuộc cải cách cơ cấu kinh tế có những 
hiệu ứng trái ngược nhau, và các cuộc khủng hoảng tài chính cuối những năm 
1990 buộc thiết chế tài chính này phải quan tâm hơn nữa đến tác động của cải 
cách đến những tầng lớp dân cư dễ bị tổn thương nhất. Thứ hai, có rất nhiều 
trùng hợp giữa các điều kiện và chính sách cải cách cơ cấu kinh tế do Ngân hàng 
Thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế đưa ra đã khuyến khích hai thiết chế này phối 
hợp tích cực hơn nữa với nhau, đây là hai lý do khiến Ngân hàng Thế giới xác 
định lại các ưu tiên của mình.
21
2.2 Vai trò
Vốn là đề tài được nhắc đến nhiều lần trong các diễn văn của Chủ tịch 
Ngân hàng Mc Namara, chống đói nghèo đã trở thành mục tiêu ưu tiên trong các 
sáng kiến mới đây của Ngân hàng Thế giới cùng kết hợp thực hiện với IMF.
Trước hết, năm 1996, trong khuôn khổ Sáng kiến dành cho các nước 
nghèo vay nợ nhiều (HIPCI), Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế và các 
chủ nợ đa phương và song phương đã cung cấp một khoản trợ giúp đặc biệt giúp 
các nước vay nợ nhiều giảm bớt nợ nước ngoài xuống mức phù hợp. Các tiếp 
cận tổng thể này chỉ dành cho các nước lọt vào danh sách được hưởng trợ giúp 
từ IDA, chính là các nước vay nợ nhiều và đạt được các kết quả vững chắc từ 
chương trình cải cách cơ cấu.
Đặc biệt là cuối năm 1999, Ngân hàng Thế giới và IMF đã đưa ra các 
nguyên tắc chỉ đạo của Khung chiến lược chống đói nghèo, một khung mới thay 
đổi các công cụ can thiệp của Ngân hàng Thế giới (và của IMF) nhằm hướng 
các khoản cho vay của thiết chế này trực tiếp đến được tầng lớp dân cư dễ bị tổn 
thương nhất. Cơ chế này dựa trên sự tham gia của người nghèo (cải thiện các cơ 
hội phát triển kinh tế, các điều kiện chăm sóc y tế, giáo dục cho người dân cũng 
như chống lại các phân biệt đối xử) và củng cố hệ thống các thể chế. Và cũng 
căn cứ vào mục tiêu các nước đề ra trong việc giảm nghèo và xác định các lĩnh 
vực can thiệp sao cho mang lại hiệu quả nhiều nhất.
Các tín dụng cho vay trong lĩnh vực này căn cứ vào tài liệu chiến lược mà 
các nước đi vay cùng Ngân hàng Thế giới và IMF xây dựng nên.
Việt Nam là thành viên chính thức của WB từ 21/9/1976. Từ khi nối lại 
quan hệ tín dụng với Việt Nam tháng 10 năm 1993, WB (chủ yếu là IDA) chú 
trọng hỗ trợ VIệt Nam trong những vấn đề phát triển kinh tế - xã hội liên quan 
đến một số nội dung chủ yếu như (i) Tạo ra một môi trường hỗ trợ cho các 
doanh nghiệp; (ii) Chuyển đổi nền kinh tế nông thôn; (iii) Nâng cao năng lực 
con người; (iv) Cung cấp các dịch vụ hạ tầng có hiệu quả; (v) Cải thiện chất 
lượng môi trường; (vi) Xây dựng cơ chế quản lý hiện đại. Những nội dung phát 
triển này là trọng tâm hoạt động của WB tại Việt Nam. Theo đó, WB sẽ cung 
22
cấp các dịch vụ cho vay ưu đãi đối với các dự án phát triển đặc biệt là về hạ tầng 
cơ sở kinh tế và xã hội như giao thông, năng lượng, phát triển nông nghiệp và 
nông thôn, giáo dục, y tế,… Đồng thời WB cũng cung cấp hỗ trở kỹ thuật, thông 
tin, và kinh nghiệm quốc tế đối với các vấn đề phát triển.
WB đã xây dựng Chiến lược hỗ trợ Việt Nam với mục tiêu hỗ trợ Việt 
Nam thực hiện Chương trình xóa đói giảm nghèo và tăng trưởng công bằng 
thông qua các chương trình/ dự án, các dịch vụ tư vấn và hỗ trợ kỹ thuật. 
Chương trình hỗ trợ Việt Nam giai đoạn 2004 – 2006 được xây dựng trên cơ sở 
Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo của Chính phủ 
(CPRGS).
Tính đến nay Việt Nam đã vay WB trên 40 khoản tín dụng với tổng số 
vốn vay khoảng 4 tỷ USD. Nguồn vốn hỗ trợ của WB được dành để thực hiện 
một số dự án mà đến nay đã bắt đầu phát huy hiệu quả như các dự án Phục hồi 
và phát triển ngành điện, nâng cấp Quốc lộ 1, đoạn Hà Nội – Vinh, thành phố 
Hồ Chí Minh – Cần Thơ, dự án Dân số và sức khỏe gia đình, dự án Giáo dục 
tiểu học, dự án Giáo dục đại học, dự án Phục hồi thủy lợi miền Trung… Các 
khoản giải ngân nhanh như SAC-1, Tài chính nông thôn, Hiện đại hóc hệ thống 
thanh toán ngân hàng, Tín dụng hỗ trợ giảm nghèo, Giảm nợ và dịch vụ giảm nợ 
đã hỗ trợ Chính phủ cân đối ngân sách hoặc hỗ trợ vốn cho ngân sách thực hiện 
các chương trình ưu tiên của Chính phủ, hỗ trợ và tăng vốn tín dụng cho khu 
vực nông thôn…
Ngoài các dự án tín dụng, WB đã cung cấp cho Việt Nam trên 40 dự án 
hỗ trợ kỹ thuật với tổng giá trị trên 25 triệu USD. Các khoản hỗ trợ kỹ thuật này 
(chủ yếu bằng viện trợ không hoàn lại) do WB tài trợ hoặc do WB huy động từ 
các nguồn đồng tài trợ giúp Việt Nam tiến hành chuẩn bị các dự án đầu tư và hỗ 
trợ tăng cường thể chế.
2. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
Quỹ tiền tệ quốc tế (tiếng Anh: International Monetary Fund, viết tắt 
IMF) là một tổ chức quốc tế giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng theo dõi 
tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài 
23
chính khi có yêu cầu. Trụ sở chính của IMF đặt ở Washington, D.C., thủ đô của 
Hoa Kỳ.
IMF mô tả chính bản thân nó như "Một tổ chức của 185 quốc gia", làm 
việc nuôi dưỡng tập đoàn tiền tệ toàn cầu, thiết lập tài chính an toàn, tạo điều 
kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế, đẩy mạnh việc làm và tăng trưởng kinh 
tế cao, và giảm bớt đói nghèo. Với ngoại lệ của Bắc Triều Tiên, Cuba, 
Liechtenstein, Andorra, Monaco, Tuvalu và Nauru, tất cả các nước thành viên 
của Liên Hiệp Quốc tham gia trực tiếp vào IMF hoặc được đại diện cho bởi 
những nước thành viên khác.
Tòa nhà trụ sở chính của Quỹ tiền tệ quốc tế tại Washington, D.C.
Vào năm 1930, khi hoạt động kinh tế ở những nước công nghiệp chính 
thu hẹp, nhiều nước bắt đầu áp dụng tư tưởng trọng thương, cố gắng bảo vệ nền 
kinh tế của họ bằng việc hạn chế nhập khẩu. Để khỏi giảm dự trữ vàng, ngoại 
hối, một vài nước cắt giảm nhập khẩu, một số nước phá giá đồng tiền của họ, và 
một số nước áp đạt các hạn chế đối với tài khoản ngoại tệ của công dân. Những 
biện pháp này có hại đối với chính bản thân các nước đó vì như lý thuyết lợi thế 
so sánh tương đối của Ricardo đã chỉ rõ mọi nước đều trở nên có lợi nhờ thương 
mại không bị hạn chế. Lưu ý là, theo lý thuyết tự do mậu dịch đó, nếu tính cả 
phân phối, sẽ có những ngành bị thiệt hại trong khi các ngành khác được lợi. 
Thương mại thế giới đã sa sút nghiêm trọng, khi việc làm và mức sống ở nhiều 
nước suy giảm.
IMF đã đi vào hoạt động ngày 27 tháng 12 năm 1945, khi đó có 29 nước 
đầu tiên ký kết nó là những điều khoản của hiệp ước. Mục đích của luật IMF 
ngày nay là giống với luật chính thức năm 1944. Ngày 1 tháng 3 năm 1947 IMF 
bắt đầu hoạt động và tiến hành cho vay khoản đầu tiên ngày 8 tháng 5 năm 
1947.
24
Từ cuối đại chiến thế giới thứ 2 cho đến cuối năm 1972, thế giới tư bản đã 
đạt được sự tăng trưởng thu nhập thực tế nhanh chưa từng thấy. (Sau đó sự hội 
nhập của Trung Quốc vào hệ thống tư bản chủ nghĩa đã thúc đẩy đáng kể sự 
tăng trưởng của cả hệ thống.) Trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, lợi ích thu được 
từ tăng trưởng đã không được chia đều cho tất cả, song hầu hết các nước tư bản 
đều trở nên thịnh vượng hơn, trái ngược hoàn toàn với những điều kiện trong 
khoảng thời gian trước của những nước tư bản trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến 
tranh thế giới.
Trong những thập kỷ sau chiến tranh thế giới hai, kinh tế thế giới và hệ 
thống tiền tệ có thay đổi lớn làm tăng nhanh tầm quan trọng và thích hợp trong 
việc đáp ứng mục tiêu của IMF, nhưng điều đó cũng có nghĩa là yêu cầu IMF 
thích ứng và hoàn thiện cải tổ. Những tiến bộ nhanh chóng trong kỹ thuật công 
nghệ và thông tin liên lạc đã góp phần làm tăng hội nhập quốc tế của các thị 
trường, làm cho các nền kinh tế quốc dân gắn kết với nhau chặt chẽ hơn. Xu 
hướng bây giờ mở rộng nhanh chóng hơn số quốc gia trong IMF.
Ảnh hưởng của IMF trong kinh tế toàn cầu được gia tăng nhờ sự tham gia 
đông hơn của các quốc gia thành viên. Hiện IMF có 184 thành viên, nhiều hơn 
bốn lần so với con số 44 thành viên khi nó được thành lập.
Nguồn vốn của IMF là do các nước đóng góp, các nước thành viên có cổ 
phần lớn trong IMF là Mỹ (17,46%), Đức (6,11%), Nhật Bản (6,26%), Anh 
(5,05%) và Pháp (5,05%).
Tổng vốn của IMF là 30 tỷ Dollar Mỹ (1999).
2.1 Nhiệm vụ và vai trò
Từ khi được thành lập IMF không ngừng thích ứng với những thay đổi 
sâu sắc của hệ thống tiền tệ quốc tế. Tổ chức này đã đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ 
mới trong khuôn khổ một quy chế gần như không đổi. 
Khi mới thành lập IMF đề ra mục tiêu rõ ràng là điều chỉnh hệ thống tỷ 
giá cố định dựa trên hợp tác quốc tế.
Nhiệm vụ chính của tổ chức này, nhiệm vụ cho phép IMF tư vấn trong 
lĩnh vực kinh tế vĩ mô, là giám sát chính sách kinh tế của các quốc gia thành 
25