Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Luận văn thế giới nghệ thuật trong thơ nguyễn lương ngọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.63 KB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
UBND TỈNH THANH HÓA
TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC

PHẠM VIẾT CƢƠNG

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ NGUYỄN LƢƠNG NGỌC

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 822.01.21

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hồng Thị Huệ

THANH HĨA, NĂM 2020


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. NLN (NLN) là một trong những cây bút gây chú ý, tạo nhiều
dƣ luận bởi những tìm tịi, cách tân khá mạnh mẽ từ những năm cuối thập
kỉ 80, đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX, khi văn học Việt Nam nói chung, thơ
Việt Nam nói riêng bƣớc vào chặng đổi mới đầy “náo nhiệt” sau giai
đoạn “phòng chờ”. Cùng với Nguyễn Quang Thiều, Dƣơng Kiều Minh,
NLN đã đặt những “bƣớc chân vạm vỡ”, khai mở con đƣờng đổi mới thơ
Việt Nam. Với tinh thần dấn thân quyết liệt, một ý thức và quyết tâm
thay đổi tận gốc rễ nhận thức, tƣ duy, NLN đã để lại một thế giới nghệ
thuật thơ mang màu sắc riêng, góp phần làm phong phú diện mạo thơ
Việt Nam đƣơng đại.
1.2. Thế giới nghệ thuật là chỉnh thể của hình thức văn học, là


sản phẩm sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ theo những nguyên tắc tƣ tƣởng thẩm mĩ nhất định. Gắn với mỗi thế giới nghệ thuật là một quan niệm
riêng, cá tính sáng tạo riêng của tác giả. Với NLN, tuy còn dang dở trong
hành trình sáng tạo, nhƣng bằng nỗ lực đổi mới, cách tân thơ Việt, ông
đã sớm tạo dựng cho mình một thế giới nghệ thuật riêng, có khả năng mở
ra cho ngƣời đọc một hình tƣợng nghệ thuật mang tính chỉnh thể, có cấu
trúc khá độc đáo với quy luật vận động riêng. Bởi vậy, tiếp cận thơ NLN
từ góc nhìn thế giới nghệ thuật sẽ góp phần khẳng định cá tính, sự nỗ lực
sáng tạo, đổi mới, cách tân và đóng góp của nhà thơ trong tiến trình thơ
hiện đại Việt Nam.
1.3. Từ thực tế giảng dạy, chúng tơi cũng nhận thấy việc tìm hiểu
rộng hơn (ngồi phạm vi bài giảng) đối với văn học đƣơng đại Việt Nam
nói chung, thơ đƣơng đại nói riêng vẫn là nhu cầu đặt ra. Bởi vậy, nghiên
cứu đề tài này là cơ hội để chúng tôi, một mặt vừa củng cố, gia tăng
những vấn đề lí thuyết mà với giáo viên phổ thơng vẫn là mới (những
vấn đề lí luận về cái tơi trữ tình trong thơ trữ tình, những vấn đề lí thuyết
mới mà các nhà thơ đƣơng đại đã tiếp thu và vận dụng trong sáng tác...);

2


mặt khác có điều kiện tìm hiểu sâu một trƣờng hợp thơ cụ thể, để từ
trƣờng hợp cụ thể này có những so sánh, liên hệ trong cái nhìn mang tính
khái quát về sự vận động, phát triển của thơ đƣơng đại.
Từ những lí do trên, chúng tơi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu luận
văn: Thế giới nghệ thuật trong thơ NLN.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
NLN là cây bút sớm thể hiện nỗ lực cách tân của thơ ca đƣơng
đại Việt Nam. Bởi vậy, thơ ông, ngay từ tập đầu, đã thu hút đƣợc sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình và cả bạn đọc yêu thơ. Tuy nhiên,
theo khảo sát, tìm hiểu của chúng tơi, hiện tại, số cơng trình, bài viết

nghiên cứu trực tiếp và nhất là mang tính khái quát về về thế giới nghệ
thuật thơ NLN vẫn còn rất thiếu, chủ yếu là những bài viết khai thác trên
phƣơng diện đổi mới, cách tân của thơ ông. Dù không phải hƣớng nghiên
cứu trực tiếp nhƣng những bài viết, những cơng trình này sẽ là tài liệu
tham khảo, giúp chúng tôi gợi mở vấn đề nghiên cứu của đề tài.
Trong mục này, chúng tơi trích dẫn các ý kiến của các tác giả
Mai Văn Phấn, Nguyễn Thanh Mừng, Đỗ Ngọc Yên, Lê Hồ Quang, Hà
Nguyên Huyến, luận văn cao học của Trần Thị Vị, (bảo vệ năm 2015 tại
trƣờng Đại học Vinh) .v.v…
Chúng tơi sẽ kế thừa những cơng trình nghiên cứu đã có trên đây
để tìm hiểu một cách hệ thống, cụ thể và toàn diện về thế giới nghệ thuật
thơ NLN.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là Thế giới nghệ thuật thơ
NLN, trên những phƣơng diện cơ bản nhƣ hình tƣợng cái tơi trữ tình,
hình tƣợng khơng - thời gian và một số phƣơng diện nghệ thuật khác.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề: Những phƣơng diện cơ bản trong thế giới
nghệ thuật thơ NLN.
- Phạm vi tƣ liệu: Với đề tài này, chúng tôi đi sâu khảo sát 4 tập

3


thơ NLN, bao gồm: Từ nước (Nxb Hội nhà văn, 1991), Ngày sinh lại
(Nxb Thanh niên, 1991), Lời trong lời (Nxb Văn học, 1994), Trong sổ
tay của vợ (vĩ thanh của ba tập trên).
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu một cách tồn diện, bao quát hình tƣợng thế giới nghệ
thuật thơ NLN; từ đó góp phần khẳng định đóng góp, giá trị của thơ NLN
trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đi sâu vào tìm hiểu những nội dung cụ thể trong thế
giới nghệ thuật thơ NLN nhƣ hình tƣợng cái tơi trữ tình, hình tƣợng
khơng - thời gian và những phƣơng diện nghệ thuật thể hiện thế giới
nghệ thuật thơ ông.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp hệ thống
Quan niệm thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể, xuất phát từ đặc
điểm riêng của thế giới nghệ thuật thơ NLN, vận dụng phƣơng pháp này
luận văn sẽ làm rõ những yếu tố tạo nên tính chỉnh thể và những đặc
điểm riêng trong thế giới nghệ thuật thơ NLN.
5.2. Phương pháp so sánh
Phƣơng pháp này giúp ngƣời viết nhận ra thi pháp riêng của
NLN khi xây dựng hình tƣợng cái tơi trữ tình, hình tƣợng khơng - thời
gian và những phƣơng diện nghệ thuật tiêu biểu thể hiện thế giới nghệ
thuật thơ (so với các nhà thơ khác cùng thời).
5.3. Phương pháp thống kê, phân loại
Phƣơng pháp này giúp ngƣời viết tìm kiếm một cách có hệ thống
những hình ảnh, biểu tƣợng... xuất hiện nhiều lần trong thế giới nghệ
thuật thơ NLN.
5.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phƣơng pháp này giúp ngƣời viết làm rõ những nét độc đáo về
thế giới nghệ thuật trong thơ NLN và có cái nhìn khái qt về thơ ơng.

4



6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là cái nhìn tổng thể về thế giới nghệ thuật thơ NLN, từ
đó góp phần khẳng định những đóng góp của nhà thơ vào tiến trình thơ
đƣơng đại Việt Nam.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội
dung luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1. NLN trên hành trình tạo dựng thế giới nghệ thuật thơ
Chƣơng 2. Hình tƣợng cái tơi trữ tình và hình tƣợng không gian,
thời gian nghệ thuật trong thơ NLN
Chƣơng 3. Phƣơng thức xây dựng thế giới nghệ thuật trong thơ
NLN.
CHƢƠNG 1
NLN TRÊN HÀNH TRÌNH TẠO DỰNG THẾ GIỚI NGHỆ
THUẬT THƠ
1.1. Giới thuyết khái niệm
1.1.1. Thế giới nghệ thuật
Thế giới nghệ thuật là một thế giới hình tƣợng đƣợc sáng tạo,
xây dựng nên trong tác phấm nghệ thuật theo những nguyên tắc tƣ tƣởng
- thẩm mĩ nhất định của ngƣời nghệ sĩ. Đó khơng phải là một thế giới
tĩnh mà là một thế giới động, phản ánh những biến chuyển tinh vi và
phức tạp trong tƣ tƣởng của ngƣời nghệ sĩ.
1.1.2. Thế giới nghệ thuật trong thơ trữ tình
Thơ trữ tình là một thuật ngữ nhằm để phân biệt với các loại hình
khác trong thể loại trữ tình và tự sự. Thơ trữ tình có khả năng khơi gợi và
bộc lộ cảm xúc rất lớn.
Nói đến thơ trữ tình là nói đến cảm xúc của chủ thể, thế giới chủ
quan của nhà thơ - cái tơi trữ tình. Muốn tiếp cận đƣợc thế giới nghệ
thuật của thơ phải nhận diện đƣợc cái tơi trữ tình. Bên cạnh cái Tơi trữ


5


tình thì thế giới - hiểu nhƣ mơi trƣờng tự nhiên và xã hội bao quanh cái
tôi (không gian, thời gian, các nhân vật trữ tình) là những phƣơng diện
khơng thể thiếu để xây dựng nên thế giới nghệ thuật thơ.
Với mỗi nhà thơ, đồng nghĩa với quá trình sáng tạo là việc tạo
dựng một thế giới nghệ thuật. Trong hành trình sáng tạo của mình, một
hành trình khơng dài nhƣng cũng không là ngắn ngủi, NLN, với một tƣ
duy nghệ thuật mới mẻ, với những nỗ lực không ngừng, đã tạo dựng
đƣợc một thế giới nghệ thuật thơ mà cho đến nay, khi nhà thơ đã đi xa
gần một phần năm thế kỉ, cái thế giới ấy vẫn có sức hấp dẫn, vẫn là lời
mời gọi cho những ai muốn khám phá.
1.2. NLN trên hành trình đổi mới thơ Việt Nam sau 1975
1.2.1. Những yếu tố có tính chất tiền đề
1.2.1.1. Bối cảnh lịch sử
Năm 1975, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nƣớc mở ra kỉ ngun hịa bình, độc lập cho dân tộc. Đại hội toàn quốc
lần thứ VI của Đảng (năm 1986), Đại hội của sự đổi mới đã tạo ra cơ hội
phát triển, làm thay đổi bộ mặt đất nƣớc trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong đó có văn học nghệ thuật.
1.2.1.2. Những thuận lợi và thách thức
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ từ đời sống kinh tế xã hội tới thi ca. Đƣờng lối mở cửa, hội
nhập quốc tế của Đảng đã tạo cơ hội mở rộng giao lƣu văn hóa, văn học
giữa nƣớc ta với các nƣớc trên thế giới. Bên cạnh đó phải nói tới sự xuất
hiện một đội ngũ nhà văn mới, nhạy bén với cái mới, ln ln tìm kiếm
cái mới. Chính khát vọng sáng tạo, khát vọng làm mới toàn bộ nền văn
học từ quan niệm đến cảm hứng, phong cách, thi pháp thể loại … của lớp
nhà thơ này là động lực của đổi mới, cách tân, là yếu tố thƣờng xuyên

kích thích năng lực tìm kiếm sáng tạo.
Bên cạnh những thuận lợi đó, văn học nói chung, thơ ca nói riêng
cũng đứng trƣớc những thách thức khơng nhỏ. Đó là lối mịn trong sáng
tác, là thói quen cảm thụ văn học theo những chuẩn mực của văn học thời

6


chiến, là tâm lí cầu tồn, bảo thủ, chậm đổi mới của một bộ phận độc
giả… Và trên hết là sự kì vọng vào một sự lột xác của cả nền văn học nói
chung, thơ ca nói riêng trên cả hai phƣơng diện nội dung và nghệ thuật.
Chính sức ép phải đổi mới thành công cũng là một trở ngại không hề nhỏ
đặt ra cho các nhà văn, nhà thơ.
1.2.2. NLN trong bầu khơng khí cách tân thơ đầu thập kỉ 90
của thế kỉ XX.
1.2.2.1. Bộ ba: Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều,
NLN: Đợt sóng cách tân đầu tiên của thơ Việt Nam sau 1975.
Trong suốt 30 năm chiến tranh (từ 1945-1975), thơ ca đã thăng
trầm cùng số phận dân tộc để vƣợt lên, tồn tại và đạt đƣợc những giá trị
to lớn của một nền thơ Cách mạng. Sau 1975, nhất là sau 1986, thì giọng
điệu và thi pháp thơ Việt Nam mới có đƣợc những chuyển động mới, lớn
lao, đáng kể. Và đợt sóng cách tân đầu tiên của hành trình đổi mới thơ
đƣơng đại mang tên bộ ba: Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều,
NLN.
1.2.2.2. NLN và quan niệm thơ lập thể
Chủ nghĩa lập thể còn gọi là trƣờng phái lập thể (Cubism) là một
trƣờng phái nghệ thuật thị giác có sức ảnh hƣởng rất lớn của thế kỷ XX.
Trong tác phẩm của họa sĩ lập thể, đối tƣợng đƣợc mổ xẻ, phân
tích và đƣợc kết hợp lại trong một hình thức trừu tƣợng. Ngƣời họa sĩ
khơng quan sát đối tƣợng ở một góc nhìn cố định mà lại đồng thời phân

chia thành nhiều mặt khác nhau, nhiều khía cạnh khác nhau. Thơng
thƣờng các bề mặt, các mặt phẳng giao với nhau không theo các quy tắc
phối cảnh làm cho ngƣời xem khó nhận ra chiều sâu của bức tranh.
Vốn là ngƣời có năng khiếu về hội họa, đam mê hội họa từ bé,
NLN nhận thấy sự tƣơng đồng trong quan điểm sáng tạo của Pablo
Picasso trong hội họa với ý tƣởng cách tân nghệ thuật thơ ca đƣơng đại
mà ông nung nấu. Bản thân NLN nhận thức đƣợc rằng sáng tạo đúng
nghĩa đòi hỏi ngƣời nghệ sĩ phải thực hiện một cuộc cách mạng, phải
thực hiện một cuộc lột xác chống lại những giá trị thẩm mĩ đã trở nên lỗi

7


thời và để xây dựng những chuẩn mực giá trị mới. Có lẽ chính vì thế mà
NLN ln đề cao hội họa lập thể bởi cái tinh thần cách tân quyết liệt của
nó và trở thành điều kiện tích cực giúp nhà thơ sớm hình thành một quan
niệm hiện đại về thơ, về hoạt động sáng tạo.
NLN luôn đề cao hội họa lập thể, trƣớc hết, bởi cái tinh thần
cách tân quyết liệt của nó. Chủ sối của phái Lập thể, Pablo Picasso viết:
“Mọi hành động sáng tạo đầu tiên đều là hành động hủy diệt”. Từ sự
đồng điệu về cảm xúc và tƣ duy sáng tạo, NLN dõng dạc phát biểu: đập
vụn mình ra mà ghép lại/ Nung chảy mình ra mà tìm lõi/ Xé toang mình
ra mà kết cấu? Bản thân cái đẹp luôn là một ý niệm mang tính lịch sử.
Do đó, sáng tạo đúng nghĩa ln đòi hỏi ở ngƣời nghệ sĩ khả năng “gây
hấn”, “nổi loạn” với truyền thống, với chính mình nhằm chống lại những
giá trị thẩm mĩ đã trở nên lỗi thời và để xây dựng những chuẩn mực giá
trị mới.
CHƢƠNG 2
CÁI TÔI TRỮ TÌNH, KHƠNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ
THUẬT TRONG THƠ NLN

2.1. Cái tơi trữ tình trong thơ NLN
2.1.1. Cái tơi trữ tình.
Cái tơi trữ tình là tổng hợp các phƣơng diện cá nhân, xã hội,
thẩm mỹ. Cái tơi trữ tình là sự thể hiện một cách nhận thức và cảm xúc
đối với thế giới và con ngƣời thông qua việc tổ chức các phƣơng diện của
thơ trữ tình, tạo ra một thế giới tinh thần độc đáo nhằm truyền đạt đến
ngƣời đọc những cảm xúc thẩm mĩ.
2.1.2. Cái tôi trữ tình trong thơ NLN
Mỗi nhà thơ, nhất là những nhà thơ có phẩm chất, có phong
cách, đều tạo ra trong thơ một hình tƣợng cái tơi có đủ năng lƣợng hấp
dẫn, mời gọi ngƣời đọc đi vào khám phá thế giới nghệ thuật mà anh ta
tạo dựng. Xuất hiện vào thời điểm những năm đầu của hành trình đổi mới

8


thơ Việt Nam, NLN là một trong những nhà thơ đã nỗ lực mang đến cho
ngƣời đọc một cái tôi khá độc đáo, vừa quen vừa lạ.
2.1.2.1. Cái tôi với khát khao: Xé toang mình ra mà kết cấu
Thấu hiểu qui luật sáng tạo trong văn học, NLN thẳng thắn bộc
lộ khát khao hƣớng tới sự cách tân mạnh mẽ, đem đến sức sống mới cho
thơ ca trong dòng chảy bất tận của thời gian và sự đổi thay không ngừng
của xã hội đƣơng đại; khao khát muốn giải phóng mình khỏi những qui
tắc cũ kĩ, “lên men”, muốn “xé toang mình ra mà kết cấu” …
Sự khao khát đổi mới, sáng tạo trƣớc hết đến từ ý thức trách nhiệm
của NLN về thiên chức của ngƣời nghệ sĩ. Đó là phản ảnh hiện thực đời
sống thơng qua lăng kính sáng tạo của mình để ngợi ca cái đẹp, vun đắp
những rung động thẩm mĩ trong lòng bạn đọc. Hiện thực trong thơ ca
không phải là sự sao chép nguyên bản đời sống mà phải tổ chức, sắp xếp
lại bằng tƣ duy, bằng trí tƣởng tƣợng, phải vƣợt lên cái nhìn hiện thực để

phát hiện ra cái đẹp ở “bề sâu, bề sau, bề xa”. Khi “những quy tắc lên
men” đƣợc thay thế bằng một tƣ duy mới, một thái độ lao động đầy nhiệt
huyết, khi đó sáng tạo sẽ thăng hoa theo cảm xúc của cái tôi.
Nhƣ vậy, khao khát cách tân thơ Việt khỏi những sáo mòn với
những qui tắc cũ kĩ “lên men” thôi thúc NLN hành động. Nhà thơ khát
khao đƣợc xé bỏ lớp áo cũ chật chội, muốn đƣợc kết cấu lại chính mình
để hồn thơ đƣợc bay bổng trong chiều sâu của trí tƣởng tƣợng và tầng
hàm nghĩa của ngôn từ, để mỗi tác phẩm thơ ca thực sự là những phút
giây bùng nổ xúc cảm, chạm đến mọi góc khuất của tâm hồn. Muốn vậy
ngƣời nghệ sĩ phải biết hịa mình vào niềm đam mê sáng tạo, sống và
cống hiến hết mình cho nghệ thuật.
2.1.2.2. Cái tôi với những cảm giác ảo diệu, tinh tế
Để rũ bỏ “những qui tắc lên men”, muốn “xé toang mình ra mà
kết cấu”, cần ở nhà thơ rất nhiều tố chất mà một trong số đó là sự nhạy
cảm hơn ngƣời thƣờng. Trong thơ, cái tôi NLN hiện diện khá rõ nét là
một cái tôi của những cảm giác nội tâm tinh vi và mãnh liệt.
NLN thƣờng vận dụng các giác quan bao gồm cả cái mà ngƣời ta

9


thƣờng hay gọi là giác quan thứ sáu để cảm nhận về vạn vật, về thế giới.
Cái tôi trong thơ ông vừa biết phát hiện, cảm nhận những biến chuyển
đời sống, vừa biết tận hƣởng mọi vẻ đẹp trong đời sống thế tục. Ở đó, cái
tơi khẳng định mạnh mẽ qua những động thái thể chất mà thực chất cũng
là những động thái tâm hồn: Tôi tan, Tôi thấy, Tôi cảm, Tơi gặp, Tơi
vuốt, Tơi nghĩ…
Mặt trời mọc như lịng trứng đỏ
Cho tôi gặp nỗi đợi chờ không ngủ
(Trƣớc ban mai)

Gặp nỗi đợi chờ là một hình ảnh xa lạ gây bất ngờ đối với ngƣời
đọc bởi ngƣời ta thƣờng gặp một ngƣời, một sự vật, hiện tƣợng nào đó
mà ta có thể nhận biết đƣợc, nhận thấy đƣợc. Nhƣng ở đây tác giả lại
gặp nỗi đợi chờ không ngủ. Quả thật là một sự liên tƣởng lạ. Nỗi đợi chờ
của cái tơi trữ tình xuất hiện vào thời điểm bình minh, nỗi đợi chờ khơng
ngủ... Đợi chờ gì khi ngày mới bắt đầu? Đó có thể là những ấp ủ, toan
tính cho thơ? Câu hỏi này chắc chắn chỉ có mình NLN mới có thể giải
đáp chính xác, chỉ biết rằng ông đã cho ta thấy đƣợc cái cảm giác nội tâm
tinh vi của ơng (cái tơi trữ tình) trƣớc ban mai, cái cảm giác không phải
của một ngƣời nào đó mà là của chính ơng.
Cảm giác nội tâm tinh vi mãnh liệt của cái tơi trữ tình trong thơ
NLN còn xuất hiện trong những rung cảm, những cảm nhận tinh tế của
nhà thơ về thiên nhiên, đời sống con ngƣời... là những phút giây cá nhân
“bừng ngộ” trƣớc vẻ đẹp nguyên sơ của thiên nhiên đất trời. Vạn vật
đƣợc sinh ra, lớn lên rồi cũng quay về với cát bụi, ranh giới sự sống và
cái chết quả là mong manh.
Cảm giác đem đến cho NLN nhiều dự cảm bất an đồng thời cũng
đem lại cho thơ ông những xúc cảm mới mẻ lạ lùng về cuộc đời, con
ngƣời... Những cảm giác ảo diệu, tinh tế đã góp phần làm nên một hình
tƣợng cái tơi NLN trong thơ với thêm nét hấp dẫn, lôi cuốn ngƣời đọc đi
vào khám phá thế giới nghệ thuật thơ ông.

10


2.1.2.3. Cái tơi tha thiết trong tình u
Thơ viết về tình u của NLN có nét gì đó bình dị nhƣ chính con
ngƣời nhà thơ trong cuộc sống ngày thƣờng nhƣng cũng mang đầy những
xúc cảm phiêu du ở phía sau cái bình dị đời thƣờng ấy.
Vẫn là một tình yêu nồng nàn và say đắm nhƣng không phải cái

đắm say của những khối cảm nhục thể. Tình u trong thơ NLN thanh
mát cái nắng ban mai. Nó hƣớng tới cuộc đời, tới những điều bình dị
tƣởng chừng bị lãng qn trong vịng xốy kim tiền thời kì đầu đổi mới
và hội nhập. Giữa bao bơn bề lo toan, tình yêu vẫn sống, vẫn gieo mầm
xanh hi vọng, và có gì đẹp hơn cái trong sáng, ngây thơ của những em bé
nhỏ xinh. Tình yêu thanh khiết bắt đầu từ những điều dung dị đó. Tung
tăng có em gái nhỏ/ Ô xanh bóng mỏng theo sau…
Dễ nhận thấy cách thể hiện tình yêu trong thơ NLN vừa là cảm
nhận riêng của nhà thơ nhƣng cũng cho thấy ảnh hƣởng thời đại: những
va đập của cuộc sống, nhân tình thế thái... trong bối cảnh xã hội Việt
Nam thời hậu chiến và sau đổi mới khiến con ngƣời cảm thấy cô đơn,
muốn xích lại gần nhau. Trong gian khổ mới thấy hết ý nghĩa mà tình
u đem lại. Đó là động lực, là đức tin để sống và cống hiến.
Thơ tình của NLN là mạch cảm xúc về gia đình, về tình u con
ngƣời hịa trong tình u cuộc sống gắn với những gì đời thƣờng, binh dị,
mộc mạc... của cuộc sống ngày thƣờng.
Nhƣ vậy, cảm nhận và viết về tình yêu của NLN khơng chỉ là
lãng mạn, mơ mộng, mà đó là tình yêu của con ngƣời bình thƣờng trong
cuộc sống đời thƣờng, ngày thƣờng, có khao khát, có đợi chờ, tin tƣởng,
lo âu, sẻ chia, bình dị và hƣớng về gia đình với tất cả niềm thiết tha yêu.
2.1.2.4. Cái tơi thống nhất giữa lí tính tỉnh táo và trực giác
nhạy bén
Sự thống nhất giữa lý tính tỉnh táo và trực giác nhạy bén trong
hình tƣợng cái tơi trữ tình là một lý do giải thích cho sự thành cơng trong
thơ NLN.
Trong thơ, NLN không chỉ vận dụng các giác quan để cảm nhận

11



về vạn vật, về thế giới mà còn sử dụng tiếng nói vơ thức để thể hiện
những góc khuất trong tâm hồn con ngƣời. Đặc biệt là suy nghĩ về “sân
khấu cuộc đời” và những dự cảm về cái chết.
Coi cuộc đời nhƣ một sân khấu, một vở kịch với đầy rẫy những
mối quan hệ ràng buộc trong vịng xốy của xung đột kịch, chịu sự ràng
buộc bởi mạch vận động kịch từ mở đầu, thắt nút, phát triển đến cao trào
rồi mở nút. Và khi sân khấu sáng đèn là lúc kịch bản ban đầu đã đƣợc
chuyển hóa thành số phận, thành cuộc đời thực. Thơ NLN mang sẵn
trong mình sự biến hóa kì diệu đó.
Trực giác nhạy bén trƣớc những ám ảnh tâm linh chính là đặc
điểm nổi bật trong thơ NLN. Ở đây ám ảnh về cõi chết và cái chết thƣờng
trở đi trở lại, khi nhƣ một ý nghĩ bất chợt, khi nhƣ một tiếng nói mơ hồ từ
cõi nào thẳm xa. Sống - với NLN là sự tái sinh sau rất nhiều lần chết.
Không phải ngẫu nhiên ông đề từ cho tập “Ngày sinh lại” bằng một câu
trong kinh thánh: “Ta là sự sống lại và là sự sống”.
Thơ NLN chứa nhiều dự cảm bất an gắn liền với mất mát và nỗi
đau. Dƣờng nhƣ trong thơ ơng những gì càng tốt đẹp càng dễ bị hủy
hoại... Tuy nhiên, đằng sau ám ảnh thƣờng trực về cái chết và nỗi đau ấy
là khao khát đƣợc sống thêm một cuộc đời mới, và do vậy, cái chết ở đây
cũng mang một ý nghĩa tẩy rửa, tái sinh - chết là để chờ “ngày sinh lại”.
Dự cảm về cái chết là phần trực giác nhạy bén nhƣng đằng sau
nó là những suy tƣ, những trăn trở, những dự liệu đặt ra. Vậy, có thể
thấy, trong nhiều trang thơ, nhiều tứ thơ của NLN, hình tƣợng cái tơi trữ
tình nghiêng về phần trực giác nhƣng thực ra nó vẫn là sự thâm nhập
giữa trực giác và lí tính, sự thống nhất giữa hai yếu tính đó. Chính sự hòa
quyện này mới làm nên trục tƣ tƣởng trong thơ NLN, mới giúp cho cái
tơi trữ tình có đƣợc một bệ đỡ, một cốt lõi.
2.2. Không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ NLN
2.2.1. Không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật là một phƣơng diện của thi pháp. Trong

văn học, con ngƣời tồn tại giữa thế giới đã đƣợc nghệ thuật hóa. Khơng

12


gian nghệ thuật góp phần tạo nên thế giới đã đƣợc nghệ thuật hóa đó.
Mỗi thời đại thi ca đều có những quan niệm về khơng gian nghệ thuật
khác nhau và thậm chí mỗi nhà thơ cũng có những quan niệm riêng về
không gian. Không gian nghệ thuật giúp chuyển tải hình tƣợng cái tơi trữ
tình, làm rõ hơn bản chất của hình tƣợng cái tơi trữ tình. Thế giới nghệ
thuật thơ NLN đƣợc tạo dựng bởi những hình tƣợng khơng gian gắn với
một cái tơi trữ tình mang đậm bản sắc riêng của nhà thơ.
2.2.1.1. Không gian thiên nhiên
Không gian thiên nhiên trong thơ NLN mang một nét đẹp đa
dạng và khá riêng biệt. Thiên nhiên trong thơ ông khơng đơn giản là
những yếu tố tồn tại bên ngồi con ngƣời, là yếu tố khách quan mà luôn
chứa đựng sức mạnh của nội tại, một “tâm hồn tự nhiên” tn chảy rạo
rực của sự sinh sơi, nảy nở. Đó là không gian của bầu trời, của ngôi sao,
của sƣơng, của mặt trời, của vầng trăng, của lá ở công trƣờng…
Không gian thiên nhiên trong thơ NLN đẹp và ẩn chứa trong nó
một sức sống mãnh liệt, gợi lên sự gần gũi, thân quen và bình yên. NLN
viết về thiên nhiên mà nhƣ viết về một sinh thể sống, ông đã biến thiên
nhiên thành một khung nền đầy trữ tình cho cảm xúc cái tơi trữ tình cất
cánh. Mảng khơng gian ấy là một mảng màu đầy yêu thƣơng trong thế
giới nghệ thuật thơ NLN.
2.2.1.2. Không gian tâm linh
Thơ NLN viết nhiều về không gian tâm linh. Không gian tâm
linh là khơng gian của cuộc sống tinh thần đầy bí ẩn, một không gian ở
thế giới bên kia, thế giới đằng sau cái chết, thế giới của các linh hồn, thế
giới của thần linh... mang tính chất mơ hồ, lạ lùng, kỳ dị, ảo diệu trong

không gian của giấc mơ, không gian tƣởng tƣợng của cõi hƣ ảo, cõi
chết...
2.2.1.3. Không gian cuộc sống đời thường
Thơ NLN viết nhiều về không gian cuộc sống đời thƣờng. Đó là
khơng gian sinh sống, học tập và lao động, là không gian của niềm vui
nỗi buồn mà ta gặp trong cuộc sống hàng ngày.

13


Khơng gian cuộc sống đời thƣờng cịn là những hoạt động trong
lao động và sinh hoạt của con ngƣời. Hoạt động sinh hoạt lao động trong
thời gian hiện tại đƣợc NLN khắc họa rất ấn tƣợng trong những câu thơ
của mình. Đó là hình ảnh ngƣời mẹ ngồi bên cửa sổ cho con bú; là hình
ảnh ngƣời cha đi làm về và hôn đứa con đang dụi đầu vào ngực mẹ…
Điều này cũng cho thấy sự gắn bó cũng nhƣ tình cảm nồng hậu của nhà
thơ với cuộc sống thực tại. Vậy là, ở một góc rất gần của tâm hồn thơ,
tình cảm, cảm xúc của cái tơi trữ tình NLN dành cho khơng gian đời
thƣờng, bình dị, gần gũi. Cùng với các kiểu khơng gian khác, nó làm giàu
có hơn bản sắc của thế giới nghệ thuật thơ NLN, hiển hiện rõ hơn nhiều
chiều cái tơi trữ tình thơ ông.
2.2.2. Thời gian nghệ thuật
Cũng nhƣ không gian, thời gian nghệ thuật là một phƣơng diện
của thi pháp, góp phần làm nên thế giới nghệ thuật thơ. Thời gian nghệ
thuật thể hiện phƣơng thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật.
Nếu thế giới thực tại tồn tại trong thời gian thực tại thì thế giới nghệ thuật
cũng tồn tại trong thời gian nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật gắn liền với
tổ chức bên trong của hình tƣợng nghệ thuật, thể hiện sự tự cảm của con
ngƣời trong thế giới.
2.2.2.1. Thời gian hiện thực

Thời gian hiện thực đƣợc thể hiện tập trung qua các hình tƣợng
khác nhau, là thời gian gắn liền với các buổi trong ngày: Trước ban mai,
Trò chơi trưa hè… là các mùa trong năm: Cuối xn, Vào hạ, Trị chơi
trưa hè, Ngày thu, Tình thu, Mùa đông, Bốn mùa…
Thời gian hiện tại trong thơ NLN thƣờng gắn với những hình ảnh
của cuộc sống lao động sinh hoạt bình thƣờng, hằng ngày. Việc mơ tả thời
gian hiện tại cho phép những bức tranh hiện thực đời sống hiện lên dễ dàng
qua sự liên tƣởng, đối sánh tự nhiên. Một điều dễ thấy là NLN viết nhiều về
thời gian hiện tại. Thời gian hiện tại ấy là những ngày vất vả mệt nhọc trên
công trƣờng, là những trải nghiệm trong chuyến đi bộ xuyên việt, là những
lo âu trăn trở về vấn đề cơm áo, là tình yêu của con ngƣời….

14


2.2.2.2. Thời gian dự cảm
Thời gian dự cảm là thời gian của tƣơng lai đƣợc cảm nhận trong
câu chuyện hiện tại. NLN nói về thời gian tƣơng lai nhƣng tất cả ln sống
động, bí ẩn và nhƣ muốn nói với hiện tại bằng ngơn ngữ riêng của nó. Thời
gian ấy chứa đựng nhiều dự cảm bất an về cái chết, về sự lụi tàn.
Tiểu kết: Thơ NLN mở ra một thế giới hình tƣợng phong phú. Ở
trung tâm của thế giới nghệ thuật ấy là hình tƣợng cái tơi trữ tình với sự
đan dệt nhiều sắc thái, vừa mãnh liệt trần tục, lại cũng ảo huyền mộng
mị; một cái tôi khao khát yêu, khao khát sống nhƣng cũng luôn dự cảm
bất an về cõi chết; cái tôi đối nghịch trong thống nhất giữa lí tính và trực
giác; và tựu chung, đó là cái tơi của một nghệ sĩ với những khát khao đổi
mới, mong muốn vƣợt lên thực tại để đến những chân trời sáng tạo thi ca.
Tất cả đã tạo nên một thi giới đầy cảm xúc, vừa gần gũi quen thuộc, vừa
lạ lùng, bí ẩn; quen để khơng thấy lạc lõng khi bƣớc vào, lạ để đủ sức
hấp dẫn mời gọi sự khám phá.

CHƢƠNG 3
THỂ THƠ, KẾT CẤU, NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRONG THƠ
NGUYỄN LƢƠNG NGỌC
3.1. Thể thơ
NLN sử dụng đa dạng các thể thơ, nổi bật là thể thơ tự do, thơ
văn xuôi.
3.2.1. Thơ tự do
Thơ tự do của NLN nói riêng vốn khơng chịu sự ràng buộc của
những quy định trƣớc về số khổ, số chữ, trong từng dòng, về cách gieo
vần cũng nhƣ âm điệu, tiết tấu.
3.2.2. Thơ văn xi
Thơ văn xi NLN đã xóa mờ tối đa đƣờng biên ranh giới thể loại
giữa thơ và văn xi khiến bài thơ, câu thơ có khả năng diễn tả đa dạng và
linh hoạt, sinh động nhiều vấn đề của đời sống nhân sinh hiện đại.

15


3.2. Kết cấu
3.2.1. Kết cấu văn bản
Kết cấu văn bản của một bài thơ trữ tình, bao gồm nhiều yếu tố:
nhan đề thơ, dòng thơ và câu thơ, khổ thơ và đoạn thơ.
3.1.2.1. Cách đặt tên bài thơ
NLN đặt tên các bài thơ của mình với chủ ý thẩm mĩ rõ rệt, nhằm
tạo ra những nét riêng, góp phần mang đến một phong cách độc đáo
nhằm hƣớng ngƣời đọc đến chủ đề chính của bài thơ, giúp độc giả hiểu
tinh thần cơ bản của nội dung thơ NLN
3.1.2.2. Cách mở đầu và kết thúc bài thơ
Mở đầu bài thơ, NLN thƣờng sử dụng câu trần thuật. Kết thúc
trong thơ NLN có khi là dấu chấm cảm (!), dấu chấm lửng (…) hay bằng

cách trích dẫn câu thơ của một nhà thơ khác. Đây là cách kết thúc rất đặc
biệt bởi đơi khi nó mở ra cho độc giả những liên tƣởng mới, từ văn bản
thơ mà nghĩ đến nhiều các khía cạnh khác liên quan. Bên cạnh đó, cách
kết thúc này cũng gây khá nhiều sự bất ngờ, đôi khi là hụt hẫng. Cảm
nhận nhƣ thế nào còn phụ thuộc vào mỗi ngƣời đọc. Cách kết thúc bài
thơ cũng là một chỉ dẫn để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật tho NLN.
3.1.2.3. Cách tổ chức câu thơ, đoạn (khổ thơ), bài thơ
Cách tổ chức đoạn thơ trong thơ NLN thƣờng là tập hợp của
nhiều khổ, nhiều khúc, nhiều liên, có thể cấu tạo theo kiểu nối tiếp, kiểu
song hành hay xuống dòng một cách ngẫu nhiên. Cách tổ chức câu thơ
trong thơ NLN cũng có những điểm đáng chú ý: có khi đƣợc bắt đầu với
những liên từ: nếu, với, và… có khi là các biện pháp tu từ nhƣ so sánh,
ẩn dụ, nhân hóa… Câu thơ trong thơ NLN khơng quy định số tiếng. Câu
thơ có thể mở rộng, kéo dài thành nhiều dịng thơ. Trong đó, tiếng đầu
tiên của dòng đầu đƣợc viết hoa, tiếng của dòng tiếp theo khơng viết hoa.
3.2.2. Kết cấu hình tượng
3.2.2.1. Tổ chức hình tượng thơ theo hình thức luận đề
Kiến tạo hình tƣợng thơ dƣới hình thức luận đề làm nổi bật lên
hình tƣợng chủ thể cái tơi trữ tình ƣa suy ngẫm, tìm tịi, lý giải. Dƣờng

16


nhƣ điều nhà thơ này khát khao tìm kiếm khơng phải là lời đáp cho
những câu hỏi đƣợc đƣa ra mà chính là con đƣờng, là lộ trình, là q
trình bền bỉ, kiên trì tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi đó. Bởi vì, có
một sự thật là nhiều khi trong đời sống cũng nhƣ trong sáng tạo, cách đi
cịn quan trọng và có ý nghĩa hơn cả đích đến.
3.2.2.2. Kiến tạo hình tượng thơ trong sự chuyển động liên tục
của liên tưởng và tưởng tượng

Kiến tạo hình tƣợng thơ trong sự chuyển động liên tục của liên
tƣởng và tƣởng tƣợng là đặc điểm thứ hai về kết cấu hình tƣợng trong thơ
NLN. Có thế nhìn thấy đặc điểm tổ chức hình tƣợng này trong nhiều bài
thơ của NLN, chẳng hạn: Sóng lăn tăn bình minh, Dịng nước, Bài ca dịu
dàng, Liên bút từ sen Huế, Hòa thanh, Đồng hồ vĩnh cửu… Nhƣng đậm
nét và ấn tƣợng nhất vẫn là Liên bút từ sen Huế và Đồng hồ vĩnh cửu.
Đây là hai bài thơ văn xuôi đƣợc chia thành nhiều mục, đánh số thứ tự
và mỗi mục, mỗi đoạn lại mang chở một nội dung khác nhau, một bức
tranh khác nhau về đời sống, tạo sự trỗi dậy nối tiếp liên tục bởi vơ số
các hình ảnh và để hiểu đƣợc tất cả các nội dung ấy cần phải đặt nó trong
một chỉnh thể nhất định.
3.2.2.3. Kiến tạo hình tượng thơ theo những ám ảnh và cảm
giác tâm linh bí ẩn, mơ hồ
Thơ NLN xuất hiện khá nhiều những ám ảnh lo âu về mất mát
rủi ro và tràn ngập những suy tƣ, trăn trở về sự sống - cái chết. Đặc biệt,
cái chết nhƣ một nỗi ám ảnh không ngừng cứ bám riết lấy suy nghĩ của
ông. Bằng trực giác tinh vi nhạy bén của mình, NLN dƣờng nhƣ dự cảm
đƣợc cuộc chết trƣớc khi nó thực đến. Bản thân ông hiểu đƣợc quy luật
sống chết là quy luật tất yếu của cuộc đời nên ông sẵn sàng đón nhận nó
bằng thái độ bình thản
Chính những ám ảnh về sự sống về cái chết, chính cái dự cảm
bất an trong thơ NLN đã tạo bàn đạp cho những cảm giác tâm linh bí ẩn
mơ hồ xuất hiện trong thơ ông. Nhà thơ viết nhiều thế giới tâm linh, một
thế giới của cuộc sống tinh thần đầy bí ẩn, một thế giới bên kia, thế giới

17


đằng sau cái chết, thế giới của các linh hồn, thế giới của thần linh...
3.3. Cách sử dụng hình ảnh, biểu tƣợng và bút pháp tạo hình

3.3.1. Cách sử dụng hình ảnh, biểu tượng
Biểu tƣợng là một trong những phƣơng thức quan trọng giúp nhà
thơ xây dựng thế giới nghệ thuật thơ. Từ hình ảnh bên ngồi thực tế cuộc
sống, NLN thổi vào đó tƣ duy nghệ thuật, mục đích nghệ thuật... xây
dựng thành hình tƣợng nghệ thuật mang tính biểu tƣợng.
Trong phạm vi khảo sát của mình, chúng tơi nhận thấy có 4 biểu
tƣợng tiêu biểu trong thơ NLN đó là: Hoa sen, hạc trắng, Con đường,
Lời nói/ giọng hát/ bài ca.
3.3.2. Những tìm tịi mới trong bút pháp tạo hình
3.3.1.1. Tạo hình bằng chi tiết, hình ảnh giàu chất hội họa
Nói thơ NLN giàu chất hội họa bởi nó có tính chất gần giống nhƣ
một bức tranh. Đọc thơ ơng có cảm giác nhƣ đang xem một bức tranh hội
họa lập thể khi những chi tiết và hình ảnh tạo nên bài thơ mang nhiều
màu sắc, đƣờng nét và cách tạo hình khối riêng biệt.
3.3.1.2. Tạo hình bằng cách lắp ghép nhiều sự vật, hình ảnh
xa lạ, bất ngờ
Cũng nhƣ hầu hết các nhà thơ vận dụng thủ pháp siêu thực, thơ
NLN cũng xuất hiện nhiều sự vật hình ảnh lạ và bất ngờ, khêu gợi nỗi
kinh ngạc bằng cách lắp ghép nhiều sự vật, hình ảnh xa lạ, bất ngờ nhằm
phá vỡ thói quen sử dụng từ ngữ sáo mòn và khai mở các dáng vẻ phong
phú của thế giới bằng những hình ảnh chói sáng. Bởi hình ảnh chính là
một phƣơng tiện giải phóng cái nhìn, gắn kết tƣởng tƣợng với tự nhiên,
biến các khả năng thành hiện thực
3.3.1.3. Tạo hình bằng cách tơ đậm những chi tiết, đường nét
lạ lùng, phi thực của sự vật
Bằng khả năng và trực giác nhạy bén trời ban, NLN đã đƣa đến
cho bạn đọc những hình ảnh ấn tƣợng nhờ bút pháp tạo hình bằng cách tơ
đậm những chi tiết, đƣờng nét lạ lùng, phi thực của sự vật nhằm đem lại
những ấn tƣợng thẩm mỹ khác thƣờng.


18


Trong thơ NLN, phần lớn những chi tiết đƣờng nét lạ lùng, phi
thực của sự vật đều rất đẹp và thơ mộng. Điều này đƣợc thể hiện rất rõ,
rất ấn tƣợng qua những câu thơ, bài thơ viết về tình u. Tuy nhiên, có
những hình ảnh, chi tiết lại gây bất ngờ bởi sự khác thƣờng và nghịch dị
của chúng. Chẳng hạn những chi tiết đƣờng nét mô tả về những ngƣời
bạn thi nhân: Và cái lưỡi anh, cái lưỡi của thi nhân hay bị chiên trên bàn
rượu/ Cái lưỡi của thi nhân như mộng, như mầm, như đọt chồi… (Bản
tin ngắn).
Cách phản ánh hiện thực qua những chi tiết lạ lùng, phi lý làm
nổi bật nhận thức về cái phi lý nhƣ một tồn tại tất yếu của đời sống con
ngƣời hiện đại. Đó là kết quả của một cái nhìn chiêm nghiệm và sâu sắc
của NLN trong thơ.
3.4. Ngôn ngữ và giọng điệu
3.4.1. Ngôn ngữ thơ
3.4.1.1. Ngôn ngữ đậm chất siêu thực
Ngôn ngữ siêu thực là một đặc trƣng trong bút pháp thơ NLN.
Cũng nhƣ hầu hết các nhà thơ sử dụng thủ pháp siêu thực, thơ ông khêu
gợi nỗi kinh ngạc bằng cách phá vỡ thói quen sử dụng từ ngữ sáo mòn và
khai mở các dáng vẻ phong phú của thế giới bằng những hình ảnh chói
sáng. Bởi hình ảnh chính là một phƣơng tiện giải phóng cái nhìn, gắn kết
tƣởng tƣợng với tự nhiên, biến các khả năng thành hiện thực.
Ngôn ngữ siêu thực thể hiện rõ nhất trong việc thi sĩ không sử
dụng cách viết đăng đối nhƣ trong thơ truyền thống mà biến tấu nó theo
nhịp của tâm linh, vì thế thơ khơng theo vần điệu, cấu trúc truyền thống
có khi bị đảo ngƣợc hồn tồn.
Những câu thơ thốt khỏi cấu trúc mơ hình truyền thống, triệt để
sử dụng loại câu khơng chủ ngữ hoặc chủ ngữ ẩn đi, đảo ngƣợc chức

năng cú pháp thƣờng đƣợc NLN sử dụng nhƣ một công thức để lạ hóa
ngơn từ diễn đạt.
3.4.1.2. Ngơn ngữ đời thường
Trong lộ trình thơ của mình, sau khi băng qua những sa mạc của

19


siêu thực, tƣợng trƣng… NLN có xu hƣớng trở về với những thứ đời
thƣờng, mang vẻ hồn cốt của dân tộc. NLN đã xuất phát từ cách hành
ngôn quen thuộc trong thơ truyền thống, nhƣ lối ẩn dụ, ví von của ngơi
thứ ba trong vai trị ngƣời quan sát trong tập thơ “Từ nƣớc” đến cách
chuyển đại từ nhân xƣng ở ngôi thứ nhất, nhân vật đang trực tiếp cảm
nhận, hành động. Đây là sự hồn thiện của q trình trình hóa thân,
chuyển hóa từ cái tơi chủ thể sáng tạo thành hình ảnh và chuyển động của
thế giới bên ngồi đồng nhất với thế giới nội tâm:. Nhƣng có lẽ biểu hiện
rõ nét nhất tính chất đời thƣờng, giản dị của ngôn ngữ thơ NLN là ở cách
đặt tên nhan đề của các bài thơ nhƣ: Con đường, Mùa đơng, Nhà thơ,
Khơng khóc nữa, Người vợ, Thân quen, Bên nhau …, những nhan đề thơ
thân quen nhƣ lời ăn tiếng nói trong cuộc sống đời thƣờng.
3.4.2. Giọng điệu
Thơ NLN là thơ của âm thanh và giàu chất hội họa “lập thể”.
Ơng sử dụng ngơn ngữ âm thanh liên kết lại để phục vụ cho ý đồ nghệ
thuật của mình. Với NLN, vỏ âm thanh của ngơn ngữ có khả năng xây
dựng hình tƣợng nghệ thuật. Ơng có ý thức khai thác các quy luật ngữ
âm của ngôn ngữ để tạo hình bằng nhạc tính. Nói một cách hình ảnh, nếu
ngơn ngữ là sợi dây đàn thì nhạc tính và âm điệu là những cung bậc
thanh âm ngân lên từ sợi dây đàn ấy. Việc kiến tạo âm điệu trong thơ
chính là việc tạo hình bằng nhạc tính. Và cách tạo hình bằng nhạc tính
này cũng là chiếc cầu nối thơ với ngƣời đọc, đƣa ngƣời đọc đi vào thế

giới màu nhiệm của thơ ca.
* Nhịp điệu:
NLN đã thử nghiệm nhiều yếu tố nhịp điệu, tiết tấu trong thơ của
mình, để tạo ra các hình thức nhịp điệu rất đa dạng và phong phú. Cách
ngắt nhịp thơ 5 chữ: Ngắt nhịp 2/3; Cách ngắt nhịp thơ 6 chữ: Ngắt nhịp
2/4; Cách ngắt nhịp thơ 8 chữ: Nhịp 3/3/2 và 3/1/3; Cách ngắt nhịp thơ
tự do: Nhịp 2/3 ; 3/2 và 3/7; Cách ngắt nhịp thơ văn xuôi: trong thơ văn
xuôi, NLN ngắt nhịp theo dịng cảm xúc của mình mà khơng theo một
quy luật ngắt nhịp có sẵn nào cả.

20


Sự biến tấu trong nhịp điệu thơ NLN không hề bó hẹp theo một
quy luật nào cả, tạo nên âm hƣởng tự do, khống đạt trong thơ, góp phần
thể hiện nhịp điệu phong phú.
* Điệp từ, điệp ngữ:
NLN đã khéo léo trong việc sử dụng các điệp từ, điệp ngữ, tạo
nên một phƣơng tiện hữu hiệu để tạo hình bằng tính nhạc trong thơ:
NLN chú ý đến các biện pháp hòa âm bằng cách điệp phụ âm
đầu, điệp vần tạo cảm giác, tạo hình ảnh và tạo tiếng nhạc trong tâm hồn
với muôn ngàn cảm xúc thiết tha.
Sự trùng điệp của phƣơng pháp điệp từ, điệp ngữ đã kết dính các
dòng thơ lại với nhau thành một đơn vị thống nhất, tạo hình cho ngơn
ngữ thơ. Nhƣ vậy có thể khẳng định rằng, cách tạo hình bằng nhạc tính
cũng là một đặc điểm đáng chú ý trong thơ NLN.

21



KẾT LUẬN
NLN là một trong những nhà thơ thuộc lứa đầu trên hành trình đổi
mới, cách tân thơ Việt Nam đƣơng đại. Bằng những nỗ lực khơng ngừng
nghỉ của mình, ông đã tạo ra một thế giới nghệ thuật mang màu sắc riêng,
một thế giới nghệ thuật mà có thể khá nhiều bạn đọc sẽ lúng túng để mở
ra cánh cửa nhƣng khi đã bƣớc vào rồi thì chắc chắn sẽ bị cuốn hút bởi
những mới lạ, hấp dẫn.
1. Đi sâu tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ NLN cần có một sự bao
qt chung về hành trình đổi mới thơ Việt Nam đƣơng đại mà ông là một
trong những gƣơng mặt tiêu biểu. Có thể thấy, từ sau 1975, nhất là sau
1986, những thuận lợi và thách thức từ điều kiện khách quan, những yêu
cầu của thời đại... đã tạo ra một lực đẩy, buộc văn học Việt Nam nói
chung, thơ nói riêng phải thay đổi. Những nhà thơ thuộc thế hệ đầu của
hành trình đổi mới thơ Việt Nam, mỗi ngƣời một lựa chọn đã tạo ra
những đợt sóng cách tân đáng ghi nhận. Với NLN, bằng sự xác lập một
quan niệm thẩm mĩ, một tƣ duy thơ mới, đã kiến tạo một thế giới nghệ
thuật với những đặc điểm riêng có trong hình tƣợng cái tơi trữ tình, hình
tƣợng khơng - thời gian và cả trên những phƣơng diện nghệ thuật tiêu
biểu.
2. Cái tôi trong thơ NLN đƣợc xây dựng nhƣ một hình tƣợng trung
tâm của thế giới nghệ thuật thơ. Đó là cái tơi với nhiều khía cạnh, bổ
sung cho nhau, làm đầy gƣơng mặt thơ ca đích thực mà NLN hƣớng tới.
Khám phá cái tơi trữ tình NLN trong thơ, chúng tơi nhận thấy đó trƣớc
hết là một cái tôi khao khát trong những nỗ lực đổi mới, cách tân thơ
Việt. Khơng muốn bị gị bó bởi những quy tắc lên men”, cái tơi ấy muốn
“xé toang mình ra mà kết cấu”, sẵn sàng “đập vỡ” những rào cản, những
quy tắc cũ để sống và cháy hết mình cho những nỗ lực đổi mới, cách tân
thơ. Ở thời điểm thơ NLN xuất hiện, những nỗ lực này là vơ cùng đáng
q, bởi vậy khía cạnh này của cái tôi NLN cũng là điểm hấp dẫn trong
khám phá cái tơi trữ tình trong thế giới nghệ thuật thơ ông.


22


Cùng với sự thể hiện mạnh mẽ của cái tôi sống hết mình cho
những nỗ lực đổi mới thơ, cái tơi trong thơ NLN cịn hiện diện ở nhiều
khía cạnh khác. Đó là cái tơi của những cảm giác ảo diệu, tinh vi và
mãnh liệt. Cái tôi ấy vừa biết phát hiện, cảm nhận những biến chuyển tế
vi của đời sống nội tâm, vừa biết tận hƣởng mọi vẻ đẹp trong đời sống
thế tục. Ở đó, cái tơi vừa “bừng ngộ” trƣớc vẻ đẹp nguyên sơ của thiên
nhiên đất trời và qui luật của sự sống, vừa khao khát một nỗi đợi chờ
không ngủ với những ấp ủ lo toan, dằn vặt, tự vấn mình trƣớc những vũ
điệu thiêu thân, trƣớc qui luật của sự sáng tạo... Cùng với đó là cái tơi tha
thiết trong tình u của con ngƣời đời thƣờng trong cuộc sống ngày
thƣờng, có khao khát, có đợi chờ, tin tƣởng, lo âu, sẻ chia bình dị và
hƣớng về gia đình với tất cả niềm thiết tha u.
Đặc biệt hơn trong thơ NLN cịn là cái tơi của sự thống nhất giữa lí
tính tỉnh táo và trực giác nhạy bén. Sự tỉnh táo của lí trí cho cái tơi một
cái nhìn bao qt về cuộc sống, nhận ra ở đó là một “sân khấu cuộc đời”
đầy hỗn độn, cái bi và cái hài, cái thanh khiết và cái trần tục, cái vĩnh cửu
và cái thoáng qua, cái trật tự và cái phi lý…, tất cả đan cài vào nhau,
khơng thể tách rời. Trực giác và lí tính thâm nhập, hòa quyện làm nên
trục tƣ tƣởng trong thơ, định hình bản sắc thơ NLN.
Đi cùng hình tƣợng cái tôi là không gian và thời gian nghệ thuật.
Không gian nghệ thuật thơ NLN mang nhiều nét vừa quen vừa lạ. Đó có
thể là một khơng gian thiên nhiên ngập tràn hƣơng sắc, gần gũi, thân
quen và bình yên, cũng có thể diệu vợi trong một khơng gian tâm linh với
những dự cảm mơ hồ về ranh giới mong manh của sự sống và cái chết;
một không gian cuộc sống đời thƣờng với những vui buồn thƣờng nhật
đan cài với những sắc thái không gian của tƣởng tƣợng, ảo diệu, khao

khát... làm nên sự hấp dẫn của thế giới nghệ thuật thơ NLN. Hịa điệu
cùng khơng gian là thời gian nghệ thuật. Khám phá kiểu thời gan nghệ
thuật trong thơ NLN chúng tơi nhận thấy sự khó phân định, gọi tên. Sở dĩ
nhƣ thế là vì thời gian hiện thực và thời gian dự cảm trong thơ NLN
thƣờng có sự thẩm thấu vào nhau trong linh cảm của thi nhân. Những

23


kiểu khơng - thời gian này, nhƣ đã nói, làm rõ hơn hình tƣợng cái tơi trữ
tình trong thế giới nghệ thuật thơ NLN.
3. Để tổ chức hiệu quả thế giới nghệ thuật trong thơ, NLN đã sử
dụng một cách linh hoạt nhiều phƣơng thức, phƣơng tiện thể hiện. Trên
phƣơng diện hình thức lớn nhất là thể thơ, NLN cho thấy sự đa dạng
trong lựa chọn. Các thể thơ ông sử dụng bao gồm thơ tự do, thơ văn xuôi,
thơ sáu chữ, thơ năm chữ. Tuy nhiên, thể thơ tự do và thơ văn xuôi chiếm
ƣu thế. Đây cũng là sự lựa chọn tất yếu khi ngay từ quan niệm thơ NLN
đã cho thấy một sự nỗ lực bứt thoát khỏi những ràng buộc, nguyên tắc.
Về kết cấu, thơ NLN nghiêng về kiểu kết cấu mở tạo nên những khoảng
trống thẩm mĩ rộng rãi, “vẫy gọi” nhiều hƣớng tiếp nhận khác biệt. Việc
sử dụng linh hoạt bút pháp tạo hình, với những biểu tƣợng thân thuộc
nhƣ hoa sen, hạc trắng, con đƣờng, lời nói/giọng hát/bài ca... là điều kiện
để thi sỹ thâm nhập sâu hơn vào hiện thực và đời sống tinh thần vốn đầy
những mâu thuẫn và đối nghịch của con ngƣời hiện đại. Tất cả đƣợc thể
hiện qua ngôn ngữ thơ vừa siêu thực, vừa đậm chất đời thƣờng, với giọng
điệu mang tính nhạc của hình tƣợng, hịa quyện thơ ca với hội họa, ngắt
nhịp linh hoạt … làm nên sức hấp dẫn riêng của thơ NLN.
4. Bên cạnh những thành cơng, thơ NLN vẫn cịn những hạn chế
nhất định. Sự lớp lang, tỉ mỉ, chi tiết khiến ngơn ngữ thơ nhiều khi trở
nên rƣờm rà, dài dịng, mất đi những khoảng trống và độ mờ thẩm mĩ cần

thiết, vốn là yếu tố quan trọng để tạo nên chất thơ. Bên cạnh đó, việc cố
tình phá bỏ tính nhạc truyền thống (đƣợc tạo nên bởi cách gieo vần, ngắt
nhịp, phối thanh quen thuộc…) để nhằm hƣớng tới tính nhạc bên trong
của hình tƣợng… cũng khiến thơ ơng trở nên khó đọc, khó nhớ. Những
tìm tịi, cách tân quyết liệt về mặt kĩ thuật viết là hết sức đáng q song
chính điều đó có khi khiến tác giả chƣa tìm đƣợc sự tƣơng khớp giữa
mục tiêu, cảm hứng với hình thức thể hiện… Mục đích tìm đến một tiếng
thơ lý tƣởng, hài hịa giữa tiếng nói nội tâm của con ngƣời hôm nay với
những kĩ thuật viết hiện đại là hết sức có ý nghĩa. Song hiệu quả nhƣ thế
nào còn phụ thuộc vào thái độ tiếp nhận của độc giả.

24


Việc tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ NLN sẽ góp phần phác vẽ
bức chân dung tinh thần của một trong những nhà thơ chặng đầu đổi mới,
góp phần làm rõ hơn một hành trình quan trọng của thơ đƣơng đại Việt
Nam - hành trình đổi mới. Chúng tơi cũng hy vọng, đề tài sẽ tạo cảm
hứng, gợi mở những hƣớng tiếp cận khác cho thế giới thơ NLN - một thế
giới nghệ thuật thơ còn ẩn chứa những điều mới mẻ cần khám phá, làm
rõ hơn, đầy đủ hơn.

25


×