Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Luận văn thế giới nghệ thuật trong tùy bút của đỗ chu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (757.43 KB, 112 trang )

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến TS. Nguyễn Hồi Thanh, người thầy đã
ln khích lệ và tận tình hướng dẫn tơi trong suốt q trình thực hiện luận văn
này.
Để hồn thành luận văn, tơi cũng đã nhận được nhiều sự giúp đỡ của gia
đình, đồng nghiệp trường THPT Ngô Quyền (Bà Rịa – Vũng Tàu), và q thầy cơ
cơng tác tại Phịng KHCN & SĐH trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh.
Xin cảm ơn tất cả mọi người
Mai sơn Tùng


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................. 1
0T

0T

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................................... 2
0T

T
0

MỤC LỤC ............................................................................................................................ 3
0T

T
0


DẪN LUẬN .......................................................................................................................... 5
0T

T
0

1. Lí do chọn đề tài................................................................................................................................... 5
0T

0T

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................................................... 6
0T

0T

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................................................... 7
0T

0T

4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................................................... 9
0T

0T

5. Cấu trúc luận văn ................................................................................................................................. 9
0T

0T


Chương 1: THỂ LOẠI TÙY BÚT VÀ TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU .................................. 11
0T

T
0

1.1 Về thể loại tùy bút ............................................................................................................................ 11
0T

0T

1.1.1 Khái niệm về thể loại tùy bút .................................................................................................... 11
T
0

0T

1.1.2 Xác định loại hình nghệ thuật tùy bút ........................................................................................ 12
T
0

T
0

1.1.3 Vẻ đẹp lưỡng hợp trong thể loại tùy bút .................................................................................... 14
T
0

T

0

1.2 Thể loại tùy bút trong sự nghiệp sáng tác văn học của Đỗ Chu ......................................................... 15
0T

T
0

1.3 Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu .................................................................................. 19
0T

T
0

1.3.1 Quan niệm về thế giới nghệ thuật .............................................................................................. 19
T
0

0T

1.3.2 Khái quát về thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu ........................................................ 20
T
0

T
0

1.3.2.1 Miền quê Kinh Bắc và những vùng đất thân thương .......................................................... 20
T
0


T
0

1.3.2.2 Chân dung người chiến sĩ, người nghệ sĩ và trí thức bác học .............................................. 28
T
0

T
0

1.3.2.3 Hình tượng con người Việt Nam theo dịng lịch sử ............................................................ 41
T
0

T
0

Chương 2: CÁI TÔI ĐỖ CHU TRONG TÙY BÚT ........................................................ 46
0T

T
0

2.1 Cái tơi trữ tình .................................................................................................................................. 46
0T

0T

2.1.1 Cái tơi trữ tình cơng dân............................................................................................................ 46

T
0

0T

2.1.2 Cái tơi trữ tình đời thường ......................................................................................................... 51
T
0

0T

2.1.3 Cái tơi trữ tình hồi niệm về tuổi thơ và quê nhà yêu dấu .......................................................... 53
T
0

T
0

2.2 Cái tôi triết luận................................................................................................................................ 56
0T

0T

2.2.1 Cảm quan về cuộc đời ............................................................................................................... 56
T
0

0T

2.2.2 Những quan niệm về văn chương .............................................................................................. 59

T
0

0T

2.2.3 Những suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội đương thời ............................................................. 63
T
0

T
0

2.3 Cái tôi tài hoa, uyên bác ................................................................................................................... 67
0T

0T

2.3.1 Tầm hiểu biết sâu rộng .............................................................................................................. 67
T
0

0T

2.3.2 Những trích dẫn đa dạng, phong phú ......................................................................................... 70
T
0

T
0


2.2.3 Sự cảm nhận thiên nhiên tinh tế, tài hoa .................................................................................... 71
T
0

T
0

Chương 3: NGHỆ THUẬT TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU ......................................................... 74
0T

T
0


3.1 Kết cấu, ngôi kể, nghệ thuật khắc họa chân dung .............................................................................. 74
0T

T
0

3.1.1 Kết cấu ..................................................................................................................................... 74
T
0

0T

3.1.1.1 Kết cấu giản dị, tự nhiên .................................................................................................... 74
T
0


0T

3.1.1.2 Kết cấu lồng và xâu chuỗi nhiều chuyện kể trong cùng một tác phẩm ................................ 79
T
0

T
0

3.1.2 Ngôi kể ..................................................................................................................................... 81
T
0

0T

3.1.3 Nghệ thuật khắc họa chân dung ................................................................................................. 83
T
0

0T

3.2 Nhịp điệu và giọng điệu.................................................................................................................... 88
0T

0T

3.2.1 Nhịp điệu .................................................................................................................................. 88
T
0


0T

3.2.2 Giọng điệu ................................................................................................................................ 90
T
0

0T

3.3 Ngôn từ nghệ thuật ........................................................................................................................... 97
0T

0T

3.3.1 Ngôn từ trong trẻo, giàu chất thơ ............................................................................................... 98
T
0

0T

3.3.2 Câu văn giàu tính nhạc, nhiều liên tưởng, so sánh ................................................................... 101
T
0

T
0

3.3.3 Thành phần lời văn nghệ thuật ................................................................................................ 104
T
0


0T

KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 108
0T

T
0

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 109
0T

0T


DẪN LUẬN
1. Lí do chọn đề tài

Truyện ngắn Ao làng được trích in trên tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1961 đã đánh
dấu bước đầu khởi nghiệp văn chương của cậu học sinh tên Chu Bá Trình. Tính đến nay đã
ngót năm mươi năm, cậu học sinh trường trung học Hàn Thuyên năm ấy giờ đã là một nhà
văn lão thành, có những cống hiến khơng nhỏ cho nền văn học dân tộc. Sau những năm
miệt mài sáng tạo, ơng đã có trong tay trên chín tập truyện ngắn và ba tập tùy bút. Có thể
nói, Đỗ Chu là nhà văn sớm bén duyên với thể loại truyện ngắn và được đông đảo độc giả
biết đến qua các tập truyện ngắn. Trước năm 2004, người ta biết một Đỗ Chu với những
truyện ngắn mang giọng điệu nhẹ nhàng sâu lắng và giàu sức biểu cảm. Ông được vinh dự
nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật vào năm 2001 với bộ ba tác phẩm
Hương cỏ mật, Phù sa, Mảnh vườn xưa hoang vắng, và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam
năm 2003 với tác phẩm Một loài chim trên sóng, đặc biệt cũng với tập truyện ngắn này Đỗ
Chu cũng vinh dự nhận Giải thưởng Văn học ASEAN năm 2004. Với các giải thưởng này,
tài năng, tâm huyết và những đóng góp của


văn Đỗ Chu về thể loại truyện ngắn đã

được ghi nhận, tôn vinh. Đồng thời, tên tuổi của ơng cũng có vị trí nhất định trong nền văn
học hiện đại Việt Nam và khu vực.
Quả là một trường hợp hiếm thấy, khi nhà văn vừa bước sang tuổi lục tuần, cái tuổi đã
trông thấy rõ rệt sự mệt mỏi và già nua, nhà văn của thể loại truyện ngắn lại bất ngờ làm
một cuộc chuyển hướng đột ngột sang thể loại tùy bút với tác phẩm Tản mạn trước đèn,
xuất bản lần đầu năm 2004. Tập tùy bút này được đông đảo giới nghiên cứu – phê bình và
độc giả đón nhận nồng nhiệt. Từ đây, Đỗ Chu chính thức được biết đến trong tư cách của
tác giả tùy bút. Và lịch sử nghiên cứu về thể loại tùy bút đã ghi nhận cái tên Đỗ Chu khá
nổi bật giữa các nhà văn trước đó và đương đại. Năm 2008, Đỗ Chu lại tiếp tục trình làng
tác phẩm tùy bút Thăm thẳm bóng người với số lượng đầu sách xuất bản ấn tượng 2500
cuốn. So với Tản mạn trước đèn, tùy bút Thăm thẳm bóng người là tác phẩm đi sâu hơn, xa
hơn, có sức lan tỏa rộng hơn và thể hiện một tài năng nghệ thuật đã đến độ chín muồi của
nhà văn xứ Kinh Bắc. Như lời tâm sự của nhà văn với Hà Khái Hưng trên báo Văn nghệ
Công an, cả hai tập sách đều là những kỉ niệm dấu yêu, những điều tác giả đã nghe thấy, đã
trải qua. Với các tác phẩm ấy, tên tuổi của Đỗ Chu được nâng lên một tầm cao mới, xứng
đáng là cây bút văn xuôi nổi bật trong nền văn học hiện đại Việt Nam.


Về việc nghiên cứu tác phẩm của ơng, đã có một số bài báo, bài nghiên cứu viết về Đỗ
Chu. Và cũng có một số học viên cao học lấy truyện ngắn nói riêng, văn xi của ơng nói
chung làm đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này vẫn chưa có một cơng trình
khoa học nào nghiên cứu tập trung, chuyên sâu về tùy bút của nhà văn. Vì vậy, chúng tơi
mạnh dạn đi sâu nghiên cứu tùy bút của ông với đề tài “Thế giới nghệ thuật trong tùy bút
của Đỗ Chu”
Chọn nghiên cứu đề tài này, chúng tơi muốn tìm hiểu giá trị nghệ

thuật – thẩm mĩ đã


làm nên nét độc đáo trong sáng tác tùy bút của ơng. Trên cơ sở đó, chúng tơi muốn muốn
góp thêm một tiếng nói khẳng định những cống hiến của Đỗ Chu cho nền văn học hiện đại
Việt Nam nói chung, cho thể loại tùy bút nói riêng.
Đây là cơng trình khoa học tập trung nghiên cứu chun sâu về đặc trưng tùy bút của
Đỗ Chu. Cố gắng chỉ ra những nét độc đáo làm nên diện mạo sáng tạo tùy bút của nhà văn,
chúng tôi mong muốn góp thêm tiếng nói khẳng định vai trị và vị trí của Đỗ Chu trong tiến
trình văn học Việt Nam với tư cách là tác giả tùy bút có những nét đặc trưng riêng biệt và là
một trong những đại diện tiêu biểu cho thể loại tùy bút đương đại. Trong chừng mực nhất
định, người viết cũng hi vọng chỉ ra được những đóng góp riêng của Đỗ Chu trong việc
mang lại diện mạo mới cho thể loại tùy bút.
Mặt khác, chúng tôi hi vọng rằng luận văn này sẽ là tài liệu tham khảo cần thiết cho
sinh viên, các giáo viên Ngữ văn bật phổ thông và những ai quan tâm đến tùy bút đương đại
Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Với đề tài “Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu”, chúng tôi sẽ lấy ba tập tùy
bút Những chân trời của các anh (1986), Tản mạn trước đèn (2004 và Thăm thẳm bóng
người (2008) làm đối tượng nghiên cứu.
Do đặc điểm của đề tài nên chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu thể loại tùy bút của nhà
văn Đỗ Chu. Phạm vi của luận văn này là đi vào thế giới nghệ thuật và một số đặc điểm
chính của ba tập tùy bút trên.


3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trừ tập Những chân trời của các anh, hai tập tùt bút còn lại là những tác phẩm mới
được xuất bản. Hiện nay có khá nhiều bài viết, bài cảm nhận trên báo, tạp chí và trên mạng
Internet khen chê về hai tập tùy bút này như bài viết của Hoàng Ngọc Hiến, Lý Hồi Thu,
Thu Hà, Thạch Linh, Phan Huy Dũng, Nguyễn Hịa, Hà Khái Hưng, Tơ Hồng, Nguyễn

Thanh Kim…Tuy nhiên đó cũng chỉ là những cảm nhận, suy nghĩ có tính ấn tượng ban đầu
và tính thời sự. Tùy bút của Đỗ Chu chưa được đặt trong hệ thống tùy bút Việt Nam để
phân tích, nghiên cứu và tìm ra được đặc trưng riêng của nó. Đa số các tác giả đều cho rằng
Đỗ Chu đến với tùy bút như một hối thúc tự nhiên để trải nghiệm vốn sống, vốn hiểu biết
cùng những suy tư, trăn trở của mình trước hiện thực cuộc sống hôm nay và hôm qua. Đỗ
Chu “hiểu rành rẽ từng khúc quanh co của dịng sơng văn học, lúc này đang chứng kiến một
thời kì mới của sáng tác với nhiều bề bộn, lẫn lộn cái thực, cái giả chen nhau, cái đích thực
và cái thời thượng xem ra không dễ phân biệt” [22; 21].
Phan Huy Dũng khi giới thiệu về tập tùy bút Tản mạn trước đèn đã khen sự tài hoa,
tinh tế trong văn phong tùy bút của Đỗ Chu như sau: “Ta được gặp lại ở Tản mạn trước đèn
vẫn một Đỗ Chu thời Hương cỏ mật, Mùa cá bột – người từng thể hiện rất tính tế, tài hoa
những cảm xúc ân tình ân nghĩa trong đời sống cộng đồng, đưa lại cho độc giả một cảm
giác ấm áp, tin yêu. Thời thế bây giờ khác xưa khá nhiều, vậy mà vẫn giữ được phần lớn
cách nhìn ấy và giọng văn ấy, xét ở một khía cạnh nào đó, có thể nói người viết tỏ ra rất tin
ở mình hay nói cách khác là có bản lĩnh” [22; 21]. Phan Huy Dũng cũng nhấn mạnh bản
lĩnh văn hóa, những trăn trở về nghề văn và nghệ thuật của Đỗ Chu: “Khi viết Tản mạn
trước đèn, ông muốn đặt lại và tái khẳng định vấn đề trách nhiệm của nhà văn đối với vận
mệnh đất nước, bản lĩnh văn hóa của người viết, sự cơ đơn của nghệ sĩ trên hành trình đi
tìm cái đẹp, sự tỉnh táo cần thiết của một nhà văn giữa mn nẻo đường sáng tạo để làm sao
thốt khỏi mê lầm” [22; 22].
Thạch Linh lại thấy vốn sống văn hóa thâm sâu và lối viết tùy bút nhẹ nhàng, sâu lắng
của Đỗ Chu: “Đỗ Chu giấu cả trong mình một kho văn hóa dân gian và bác học, lịch sử,
huyền tích, cái trơng thấy và nghe thấy, cái sống và cái ngẫm, trộn tất cả vào mình rồi rút ra
bằng những câu văn như kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho những điều ơng nói
ra được đọng lại day dứt, ngậm ngùi, có cả những điều khó nói cũng được ơng nói ra nhẹ
nhàng, sâu lắng” [66; 14].


Hà Khái Hưng khi nhận xét về tập Thăm thẳm bóng người đã khẳng định vẻ đẹp ngơn
ngữ và phong cách tùy bút trữ tình đằm thắm trong các trang tùy bút của Đỗ Chu: “Ngoài

việc cài cắm được nhiều thơng tin văn hóa, xã hội…, ơng cịn chú trọng đến những khoảng
lặng của của cảm xúc và đặt biệt rất chăm chú đến vẻ đẹp và sức bật của câu văn” [53]. Ơng
cịn nhận ra cái tạng cảm xúc “vừa trữ tình vừa hóm hỉnh”. Theo Hà Khái Hưng thì Đỗ Chu
có một giọng kể chuyện đa sắc: “Giọng kể của tác giả sắc mà vẫn ngọt, có chỗ lem lem, cả
cười nhưng cũng có lắm chỗ chạnh buồn, chua chát…kết hợp nhuần nhị chất văn lẫn chất
báo” [53; 18].
Nguyễn Hòa trong bài nghiên cứu Văn chương – hi vọng về những điều tốt đẹp đã ca
ngợi Đỗ Chu như sau: “Văn Đỗ Chu viết kĩ, đẹp cả về giọng điệu lẫn những suy tưởng nhân
tình” [44]. Ơng cịn những nét đặc sắc trong nghệ thuật trần thuật: “Đoạn văn nào cũng đầy
ắp chi tiết, phập phồng hơi thở đời sống, chốc chốc tác giả lại chêm vào đó cái nhìn sắc sảo,
những câu đúc kết dẫu chưa phải hồn tồn là chân lí thì cũng rất khống đạt, độc
đáo…Đặc biệt là, dẫu chủ đề có lan man, song tiết tấu câu văn vẫn luôn rộn ràng, cuốn hút
người đọc” [44]. Bên cạnh đó, Nguyễn Hịa cũng chỉ ra những nét hạn chế trong lối văn
miên man dàn trải dễ gây nhàm chán cho người đọc: “Tuỳ bút Đỗ Chu thường mở đầu một
cách “chật vật” với những luận đề dài dịng, khơ khan, dễ làm người ta ngại đọc” [44].
Trong bài Cái tôi tùy bút, Nguyễn La đã chỉ ra được một nét kết cấu độc đáo trong tùy
bút của Đỗ Chu. Đó là kết cấu theo kiểu “hình xương cá”. Sau đó ơng khen sự un thâm
của Đỗ Chu: “Đỗ Chu viết tùy bút bằng sự hiểu đời của chính ơng, tơi gọi văn ơng là thứ
văn biết đời – dựa theo cách nói của Cao Bá Quát nhận định về Truyện Kiều là thứ văn hiểu
đời. Tất nhiên từ biết đến hiểu là khoảng cách rất xa. Nói thế để thấy rằng nhận định thứ
văn biết đời của Đỗ Chu cũng có chừng mực chứ khơng đề cao một cách quá đáng. Đỗ Chu
biết nhiều lắm, biết nhiều nên làm người đọc thích thú với một câu ca dao cổ được tái hiện
trong văn cảnh phù hợp, một câu đối chữ Nho được cắt nghĩa làm rõ cái thâm thúy của các
cụ ngày trước, một phong tục xứ Kinh Bắc q ơng, mà bóc đi cái vỏ tưởng là mê tín dị
đoan lại là cái nhân đậm đà tình người…” [62]. Cuối cùng, Nguyễn La khen sự liên tưởng,
nhập thân vào nhân vật của Đỗ Chu trong quá trình trần thuật: “Đỗ Chu là người chéo
thuyền giỏi, cái tình – phần nào tơi đã nói ở trên, cái tài là cái duyên của văn anh thể hiện rõ
ở sự liên tưởng nhiều khi độc đáo, đột xuất; ở sự nhập vai nhập thân vào nhân vật để kể, lúc
bấy giờ giọng Đỗ Chu hay giọng nhân vật khó mà phân biệt. Thi pháp gọi đó là song điệu,



tơi gọi đó là giọng nhập vai, bề ngồi vẫn là giọng Đỗ Chu nhưng lại là tiếng nói, tư tưởng
của nhân vật” [62].
Ngũ Nhị Song Hiền đã tìm ra được những cảm hứng chính trong ba tập sách của Đỗ
Chu. Ngồi ra, cơ cịn phát hiện ra chất thơ và chất truyện, phân loại được những giọng
điệu khác nhau trong tùy bút của ông: “Sự chuyển hướng từ cái nhìn sử thi sang cái nhìn
hiện thức phức hợp, đa chiều của văn học thời kì đổi mới đã giúp Đỗ Chu cảm nhận cuộc
sống ở nhiều cung bậc khác nhau, mang đến sự đa sắc trong giọng điệu” [43; 136].
Nhìn chung, tùy bút của Đỗ Chu có những điểm mạnh, điểm yếu riêng. Người đọc khi
bình luận vừa có khen và vừa có đơi chút khơng hài lịng. Song cái chỗ khơng hài lịng ấy
cũng rất nhẹ nhàng vì theo họ đây là điều thuộc về cái “tạng” của nhà văn, là đặc trưng
riêng của phong cách cá nhân. Tuy nhiên tựu trung lại vẫn thấy sự thống nhất ở một điểm là
tùy bút của ông thể hiện một văn phong trữ tình, đằm thắm, chuẩn mực, mĩ lệ… Dù có
đơng đảo nhiều bài viết về tùy bút của ông nhưng đó cũng chỉ là những nhận định khái
quát, hoặc riêng lẻ một tập tùy bút mà thôi. Chúng tôi lựa chọn đề tài “Thế giới nghệ thuật
trong tùy bút của Đỗ Chu” với tham vọng tìm ra được nét đặc trưng trong thể loại tùy bút
của ông. Và đây cũng là cơng trình khoa học đầu tay của một người mới bước những bước
đầu tiên trong việc nghiên cứu văn học.
4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn này chủ yếu nghiên cứu theo phương pháp nghiên cứu thi pháp thể loại.
Trên cơ sở lí thuyết về đặc trưng thể loại tùy bút, người viết đi sâu vào tìm hiểu thế giới
nghệ thuật tùy bút của Đỗ Chu. Từ những dấu hiệu nổi bật, người viết đi đến khái quát
thành những luận điểm phù hợp, cố gắng lọc ra những yếu tố tiêu biểu nhất để làm cơ sở
tổng hợp, đánh giá. Để hỗ trợ cho việc nghiên cứu đạt kết quả cao nhất, chúng tơi cịn sử
dụng các phương pháp bổ trợ khác như phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh…
5. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần dẫn nhập và phần kết luận, luận văn được chia thành ba chương chính tập
trung giải quyết các vấn đề sau:

Chương 1: Thể loại tùy bút và tùy bút của Đỗ Chu


1.1 Về thể loại tùy bút
1.2 Thể loại tùy bút trong sự nghiệp sáng tác văn học của Đỗ Chu
1.3 Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu
Chương 2: Cái tôi Đỗ Chu trong tùy bút
2.1 Cái tôi trữ tình
2.2 Cái tơi triết luận
2.3 Cái tơi tài hoa, uyên bác
Chương 3: Nghệ thuật tùy bút của Đỗ Chu
3.1 Kết cấu, ngôi kể và nghệ thuật khắc họa chân dung
3.2 Nhịp điệu và giọng điệu
3.3 Ngôn từ nghệ thuật
Kết luận
Tài liệu tham khảo


Chương 1: THỂ LOẠI TÙY BÚT VÀ TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU

1.1 Về thể loại tùy bút
1.1.1 Khái niệm về thể loại tùy bút

Tùy bút là một trong những thể loại thuộc thể kí, một trong năm thể loại của văn học.
Ngồi những tính chung, tùy bút cịn có những đặc trưng riêng biệt. Có vẻ như cách hiểu
đơn giản theo cảm tính: tùy bút là những trang văn xi mà ở đó nhà văn tùy theo ngịi bút
mà đưa đẩy – lâu nay đã được nhiều người yên tâm thừa nhận. Ngay cả Nguyễn Tuân – nhà
văn sáng tác tùy bút hàng đầu của Việt Nam – cũng có lần thừa nhận: “Nguyên tắc quan
trọng của tùy bút là khơng có ngun tắc gì cả”. Cách hiểu này đặt cơ sở trên một nét đặt
trưng của tùy bút là luôn coi trọng và phát huy tối đa cảm xúc, quan điểm chủ quan ở người

nghệ sĩ. Tuy nhiên, những điểm bất cập và chưa thỏa đáng cũng nảy sinh từ chính những
điều đơn giản ấy.
Bất kì sáng tác văn chương nào cũng đều bắt đầu từ một nguồn cảm hứng của cá nhân
người nghệ sĩ, chứ không chỉ riêng tùy bút. Tuy nhiên, với thể loại tùy bút, người nghệ sĩ
phải lưu trữ nguồn cảm xúc mãnh liệt thì mới có thể thăng hoa trong q trình sáng tác.
Một cách hiểu không thỏa đáng về khái niệm tùy bút sẽ dễ dẫn đến lẫn lộn lối viết tự do,
phóng khoáng với lối viết lan man, tản mạn, bịa đặt tùy tiện. Bởi vì “những sự việc, những
con người trong tùy bút tuy có thể khơng kết thành một hệ thống theo một cốt truyện, hay
theo một tư duy luận lí chặt chẽ, nhưng tất cả vẫn phải tuân thủ trật tự của dịng cảm xúc,
cái logíc bên trong của cảm hứng tác giả. Và tất nhiên là sự việc được kể lọc qua cách nhìn
của chủ thể thẩm mĩ vẫn phải chân thật” [39; 1888].
Nếu coi tùy bút là một cách viết hay một kiểu bút pháp thì mới chỉ dừng lại ở mức độ
cảm tính trong nhận thức, chưa bao quát hết đối tượng. Tùy bút còn là một thể loại văn học
có những đặc trưng rõ nét cả về nội dung và hình thức biểu hiện, đủ sức tồn tại ngang hàng
với những thể loại văn xuôi nghệ thuật khác.
Từ góc nhìn từ ngun học có thể tìm thấy những giả thiết đáng tin cậy, góp phần xác
định khái niệm thể loại và phân định loại hình tùy bút. Trong Hán Việt từ điển giản yếu, từ
“tùy bút” được Đào Duy Anh giải nghĩa là “tùy thời mà chép”. Nghĩa là thể loại này không
chỉ bộc lộ cảm xúc chủ quan của người viết mà còn phải chịu sự chi phối từ hoàn cảnh


khách quan. Cịn từ “bút”, ngồi nghĩa cái dùng để viết, có thêm nét nghĩa nữa là “biên
chép”. Vào buổi sơ khai của việc phân loại, một số nhà lí luận Trung Quốc đã chia văn
chương ra làm hai loại: có vần và khơng vần. Ở chương Tổng thuật của tác phẩm Văn tâm
điêu long, Lưu Hiệp có viết: “Kim chi thường ngôn, hữu Văn hữu Bút, dĩ vi vô vận giả Bút
dã, hữu vận giả Văn dã” (Ngày nay thường nói: có Văn có Bút, cho khơng vần là bút, có
vần là Văn . Thời Lưu Tống, trong Nhan Quang Lộc tập, Nhan Diên chia văn chương ra
làm ba loại: Ngơn, Bút, Văn. Trong đó, “Bút” có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả truyện ký.
Dù mới là giả thiết, nhưng thiết nghĩ những thông tin trên đủ cơ sở để củng cố mối
hoài nghi mang ý nghĩa khoa học: khơng thể tiếp tục hiểu rằng “bút” là ngịi bút và “tùy

bút” là “tùy theo ngòi bút mà đưa đẩy”. Từ trong nguồn gốc phương Đông, tùy bút đã được
xác định là một thể loại văn xuôi thực sự tự do, phóng túng, khơng bị ràng buộc bởi những
khn khổ có tính qui phạm, cả về nội dung tư tưởng và cách thức thể hiện.
Nét nổi bật của tùy bút là qua việc ghi chép những con người và những việc cụ thể có
thực, tác giả tùy bút đặc biệt chú ý việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức đánh giá của
mình về con người và cuộc đời. Được gọi là tùy bút, là những tác phẩm mà ở đó nổi lên
trên bình diện thứ nhất những phẩm chất riêng, cốt cách riêng của tác giả. Chỉ những người
muốn làm rõ cái giọng điệu độc đáo riêng của mình, những người thích tự biểu hiện, tự
phân tích, đồng thời những bút pháp vừa giàu chất hình tượng, vừa có khả năng viết chặt
chẽ như châm ngơn…những người đó mới đi vào thể loại tùy bút.
So với các thể loại khác, đội ngũ sáng tác của tùy bút còn khá khiêm tốn: Trong văn
học Việt Nam từ trước Cách mạng đến nay, số lượng nhà văn đứng được ở thể tùy bút
không nhiều. Nhưng rõ ràng với tư cách một thể loại văn chương, tùy bút đã có q trình
hình thành và phát triển, kế thừa và cách tân, với những đặc trưng nghệ thuật chịu ảnh
hưởng sâu sắc cả về phương Đơng lẫn phương Tây. Cịn có thể hiểu “tùy bút” như là một
bút pháp tự do, phóng túng, tài hoa, khơng thuộc sở hữu riêng của sáng tác văn chương.
Cách hiểu này không phổ biến và chỉ có ý nghĩa gợi mở thêm hướng nghiên cứu.
1.1.2 Xác định loại hình nghệ thuật tùy bút

Mặc dù là một thể loại văn xuôi mang rõ nét khá nhiều đặc trưng nghệ thuật, nhưng
trên thực tế hầu như chưa có cơng trình nghiên cứu nào cho thể loại tùy bút. Trong các tác
phẩm lí luận văn học, do những biểu hiện có tính chất trung gian, tùy bút bao giờ cũng
được nhắc tới với tư cách là một tiểu loại của thể loại kí, bằng sự dè dặt nhất định. Quan


điểm trong việc xác định loại hình của tùy bút vẫn chưa thấy có sự nhất trí cần thiết. Có thể
thấy nổi lên hai quan điểm vừa tương đồng vừa có chỗ chưa nhất trí với nhau về vấn đề
này: 1- Tùy bút là một tiểu loại văn xuôi giàu chất trữ tình, nhưng phát sinh từ thể kí (một
biến thể của tự sự); 2- Tùy bút là một thể văn xi thuộc loại trữ tình. Như vậy, cả hai quan
điểm trên đều thừa nhận sự tồn tại thường trực của chất trữ tình trong tùy bút, nhưng cách

nhìn nhận về vai trò, mức độ của yếu tố tự sự có điểm khác nhau.
Các tác giả của quyển Văn học Việt Nam thế kỉ XX đã xếp tùy bút vào loại kí: “Tùy bút
là một thể thuộc loại hình kí có lối viết phóng khống, tự do và chủ quan nhất…So với các
tiểu loại khác, tùy bút giàu chất trữ tình hơn cả, tuy vẫn khơng ít yếu tố chính luận và chất
suy tưởng triết lí” [30; 234]. Trong quyển Lí luận văn học - vấn đề và suy nghĩ, Nguyễn
Văn Hạnh cũng xếp tùy bút vào hệ thống thể kí: “Các thể kí chủ yếu có mặt cả trong văn
học cổ điển và hiện đại là kí sự, tùy bút, bút kí, nhật kí” [43; 99]. Khác hẳn với các ý kiến
trên, trong cuốn Lí luận văn học, Nguyễn Xuân Nam lại xếp tùy bút vào loại trữ tình: “Tác
phẩm trữ tình khơng phải chỉ có thơ trữ tình, mặc dù nó là tiêu biểu nhất. Ngồi thơ trữ tình
cịn có tùy bút, thơ văn xi, ca trù, từ khúc,…Tùy bút là thể loại văn xi phóng khống.
Nhà văn theo ngọn bút mà suy tưởng, trần thuật, nhưng thực chất là thả người theo dòng
liên tưởng, cảm xúc mà tả người, kể việc” [67; 188].
Văn chương bao giờ cũng phải mang tính khuynh hướng, thể hiện rõ nhất ở cách
người nghệ sĩ tiếp cận và nghiền ngẫm hiện thực. Đằng sau mỗi bức tranh đời sống bao giờ
cũng thấm đẫm nỗi niềm, mối suy tư, sự day dứt của nhà văn…Nhưng riêng với thể loại tùy
bút – một thể loại thường xuyên xuất hiện những chất liệu còn phập phồng hơi thở cuộc
sống – thì việc xếp yếu tố khách quan xuống hàng thứ yếu, chỉ có ý nghĩa như một phương
tiện để giãi bày, có vẻ chưa thỏa đáng. Bản thân các chi tiết, sự kiện, số phận,…đã tồn tại
như một cấp độ ý nghĩa trong nhận thức, nhiều khi hết sức sâu sắc và mối liên hệ nội tại với
cái mạch trữ tình của tác phẩm.
Mặt khác, dù có màu sắc trữ tình đậm đà, tùy bút vẫn chưa hội đủ điều kiện để được
công nhận là một thể văn xi thuộc loại trữ tình. Bởi vì, trong tác phẩm trữ tình khơng có
sự mở rộng các chi tiết, hành vi, quan hệ qua lại của con người mà chỉ có thể hiện trực tiếp
yếu tố chủ quan của người nghệ sĩ. Hêghen cũng khẳng định tính chất trực tiếp của sự biểu
cảm là một trong những yếu tố quan trọng của tác phẩm trữ tình: “Anh ta (nhà thơ trữ tình)
có thể kiếm tìm sự kích thích sáng tạo và tìm kiếm nội dung bên trong bản thân mình, tập


trung vào những tình thế, trạng thái, xúc cảm và dục vọng nội tại của trái tim và tinh thần
mình. Ở đây bản thân con người trong đời sống nội tâm chủ quan của nó trở thành tác

phẩm nghệ thuật” [76; 327]. Trong khi đó, biểu cảm ở tùy bút thường ít nhiều có màu sắc
gián tiếp, thơng qua việc miêu tả chân thật và sinh động bức tranh đời sống.
Vì những lí do vừa nêu, có lẽ khơng thể tiếp tục hiểu một cách đơn giản rằng “bút” là
ngòi bút và “tuỳ bút” là “tùy theo ngòi bút mà đưa đẩy”. Tùy bút – từ trong bản chất của thể
loại – là những tác phẩm văn xuôi phát sinh từ kí (gần với tự sự) và được viết chủ yếu theo
mạch cảm xúc chủ quan của tác giả (gần với trữ tình).
Vậy thì tùy bút nằm ở đâu trong hệ thống phân loại văn học truyền thống? Có lẽ đặt ở
vị trí trung gian giữa tự sự và trữ tình là phù hợp nhất. Các loại hình văn học không bao giờ
tồn tại một cách tách biệt với nhau, với những ranh giới không thể vượt qua. Và các cách
phân chia văn học cũng chỉ mang tính chất tương đối.
Đến đây, thiết nghĩ đã có đủ cơ sở để khẳng định: tùy bút là một thể văn xuôi thuộc
loại tự sự – trữ tình. Vấn đề sẽ phức tạp hơn khi vận dụng quan điểm này để xem xét các
tác phẩm cụ thể. Nhưng khơng thể vì thế mà muốn có được sự tường minh về lí thuyết mà
lại gị ép thực tiễn sinh động vào tác phẩm khơng phù hợp.
1.1.3 Vẻ đẹp lưỡng hợp trong thể loại tùy bút

Tính lưỡng hợp trong tác phẩm tùy bút có cội nguồn từ một lối viết ở nhiều khía cạnh
như cách nhận thức vấn đề, cách xây dựng tình huống, giọng điệu văn chương…Hơn nữa,
tùy bút là loại văn rất cần sự hiện diện của lí trí tỉnh táo, lối tư duy về các vấn đề xã hội
nhưng cũng không thể loại trừ nhịp đập của con tim với những rung động mãnh liệt, đầy
hứng thú trước các hiện tượng của cuộc sống. Nếu khơng có lí trí tỉnh táo, ngịi bút của
người viết sẽ tung hứng lên chín tầng mây mà khơng tìm được nẻo về và rồi cũng đồng thời
rơi vào trạng thái mông muội dẫn tới bịa đặt, suy diễn lan man, khơng hợp với thực tế. Có
khi, chính cái trạng thái ngất ngây khơng có sự kiểm sốt của lí trí, người viết sa vào lối văn
duy mĩ, dẫn người đọc vào trò chơi chữ nghĩa. Cái kiểu “chén đĩa mùa đi nhịp hải hà” ban
đầu có thể tạo ra một lực hút, đem lại sự khoái cảm thẩm mĩ nhưng sau đó thì người ta sẽ
nhận ra đây chỉ là sự khoe mẽ, phô trương ngôn từ rỗng tuếch, vô nghĩa. Ngược lại, nếu bài
tùy bút qua nặng về lí trí, chú trọng thơng tin, liệt kê chính xác từng sự kiện, dữ liệu thì sẽ
biến văn bản thành một thể khác như phóng sự, kí sự...Hơn nữa, việc thiếu sự gọt giũa ngôn



từ, nghệ thuật hóa dữ kiện, loại trừ cảm xúc sẽ làm trang viết trở thành một loại văn bản
khô khan, cứng nhắc, mờ nhạt tính chất, đặc trưng của văn chương.
Vì thế, để có được những trang tùy bút hay, người nghệ sĩ phải vừa say mà lại vừa
tỉnh, vừa xúc cảm nhưng cũng vừa suy tư. Kết quả của cuộc hơn phối của xúc cảm và lí trí
sẽ là tác phẩm tùy bút, một thực thể sinh động mang vẻ đẹp lưỡng hợp dung hòa hai yếu tố
trên. Cái trọng tâm của sự sáng tạo trong thể loại tùy bút khơng phải là ở sự hư cấu những
hình tượng vốn không hiện hữu trong thực tế mà là cách sắp xếp, trình bày, điều phối sự
kiện hay vấn đề nào đó, khơng những mang lại giá trị nhận thức mà còn đem lại những rung
động thẩm mĩ thực sự. Tài năng của người viết tùy bút giống như hình ảnh ngưịi nghệ sĩ đi
xiếc trên dây cần một thế cân bằng giữa hai bờ vực. Đồng thời, người nghệ sĩ còn phải biết
chuyển tải cảm xúc và hiện thực bằng một lối văn riêng của chính mình. Khơng tạo được
giọng điệu, tác phẩm dễ rơi vào quên lãng, rồi thì sẽ dần mất tích trong vơ số tác phẩm ấn
tượng hơn. Nhà văn phải để lại trong lòng độc giả một dư vị nào đấy, một nỗi ám ảnh nào
đấy bằng một thiên tư không thể nhầm lẫn thì mới hiện hữu lâu bền giữa lịng văn học.
1.2 Thể loại tùy bút trong sự nghiệp sáng tác văn học của Đỗ Chu

Đỗ Chu là nhà văn sớm bén duyên với văn học từ những năm 60 của thế kỉ XX. Những
sáng tác của Đỗ Chu trong mấy mươi năm cầm bút chủ yếu thuộc thể loại truyện ngắn. Tính
cho đến năm 2002, Đỗ Chu đã cho ra ra đời mười tập truyện ngắn, trong đó có những tập
truyện lưu dấu đậm nét trong lòng độc giả. Một lối viết văn đã thành văn hiệu với chất
giọng say đắm, nồng nàn, da diết. Đó là thứ văn xi giàu chất thơ, chảy tràn nơi lòng
người những dòng cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng, đậm đà ý vị nhân sinh. Ta tìm thấy nơi
ơng phảng phất nét cổ điển và lãng mạn của Mơpatxăng, sự tinh tế tìm vào nội tâm và cảm
giác của Thạch Lam, chút bâng khuâng xa vắng của Thanh Tịnh, nét u hoài, sầu cảm của
Hồ Dzếnh, Xuân Diệu…Có thể thấy truyện ngắn của Đỗ Chu có cội nguồn nối tiếp, cộng
hưởng, lan tỏa từ những nhà văn đi trước, đồng thời phát huy tối đa cái tơi nghệ sĩ của mình
đã tạo nên được một đặc trưng riêng không kém phần nổi bật và độc đáo.
Sau năm 1975, bước vào thời kì mới, với vốn sống và bản lĩnh văn chương, Đỗ Chu đã
phát triển sự nghiệp sáng tác của mình bằng một thể loại văn học khác. Những chân trời

của các anh là tập tùy bút đầu tay được bắt đầu viết từ thời kháng chiến chống Mĩ và trải
dài ngót mười năm sau ngày đất nước giải phóng, được xuất bản vào năm 1986. Tác phẩm


gồm mười bốn bài tùy bút viết về đề tài chiến tranh, về công cuộc chiến đấu và kiến thiết
đất nước. Nhân vật chủ yếu trong tập sách này là những chiến sĩ. Họ là những người tiên
phong và hết mình vì sự nghiệp chung của dân tộc, dám lấy sự sống và hạnh phúc cá nhân
đổi lấy nền độc lập cho nước nhà. Viết về họ, Đỗ Chu mang một tình cảm ngưỡng vọng và
yêu mến sâu sắc, chân thành. Đỗ Chu như một người thư kí thời đại ghi lại hình ảnh con
người Việt Nam trong thời kì bão táp chiến tranh. Nhìn chung, đây là tập tùy bút mang màu
sắc của bút kí và truyện ngắn. Sự pha tạp ấy cũng là điều dễ lí giải. Nguyên ủy, Đỗ Chu là
cây bút của thể loại truyện ngắn vững vàng và đã định hình được cho mình một lối viết
riêng. Hơn nữa, ranh giới giữa truyện ngắn và tùy bút cũng rất gần nhau. Tuy tác phẩm
chưa tạo được tiếng vang mạnh mẽ trong lòng người đọc nhưng lại chính là bước thử
nghiệm để nhà văn phát triển sở trường văn chương của mình ở một thể loại văn học mới.
Tản mạn trước đèn là tập tùy bút thứ hai được xuất bản năm 2004. Tác phẩm như là sự
trở lại với thể loại tùy bút sau tám năm kể từ khi ông cho ra đời tập tùy bút đầu tiên. Với
bốn mươi năm cầm bút, cộng với những trải nghiệm đã mang lại cho Tản mạn trước đèn
một sức nặng về phản ánh và nhận thức nhưng khơng vì thế mà làm cho cuốn sách mất đi
chất thơ ngọt ngào, đằm thắm…Đã có lúc ơng viết những câu văn xi như thơ, viết rất thơ
về cát nóng ở Quảng Bình, hình dung nó như “một bản giao hưởng cát”. Rồi có lúc ơng lại
mơ về một mối tình với cơ gái chăn trâu thuở nào, một sự trào lộng về chính con người
mình…bao năm mới có được sự tản mạn như thế, và ngẫm được điều đó, ta thấy trân trọng
hơn những trang viết của nhà văn. Đỗ Chu từng tâm sự: “Bốn mươi năm cầm bút thì có lẽ
chỉ có bốn tháng được làm nhà văn thực sự”. Là người khó tính lại cầu tồn, ơng tự nhận:
“Trong một tác phẩm có khi đoạn trước là nhà văn nhưng lúc sau khơng cịn đươc là nhà
văn nữa”. Người cầm bút mà cứ phải phân vân, e ngại hay chiếu cố một điều gì thì sẽ khơng
cịn là mình nữa. Đọc Tản mạn trước đèn của ơng, tập tùy bút hơn ba trăm trang, người ta
thấy ông khơng nói sng, khơng chiếu cố những chuyện chính bản thân mình. Nó dẫn
người đọc vào một trạng thái tâm lí triền miên phải suy nghĩ, thấm thía và nhiều khi có sự

nhìn lại mình. Trong trang sách, Đỗ Chu hiện lên thật rõ những yêu ghét rạch ròi.
Tùy bút của ông khiến người ta nhận thấy trước tiên là thái độ cẩn trọng và có trách
nhiệm với những gì mình viết ra. Dù chỉ là một câu chuyện tếu nhưng câu chuyện ấy sử
dụng vào mục đích gì, và đọc xong sẽ khiến người ta nghĩ gì cũng là điều khiến ông phải
cân nhắc. Tập hợp các bài viết trên báo trong suốt hai mươi năm qua, nhà văn xếp lại theo ý


tưởng của mình để từ đó phác họa một Đỗ Chu trăn trở và trưởng thành qua từng giai đoạn
cuộc sống. Cái đáng quí của cuốn sách là ở mỗi câu chuyện, mỗi một tản mạn, người viết
ln đặt mình trong các mối quan hệ với giới văn nghệ sĩ để từ đó thấy được hình ảnh sống
động của văn đàn. Từ khi mười sáu, mười bảy tuổi cắp sách theo hầu các cụ Nguyễn Tn,
Tơ Hồi, ơng đã được dạy là phải viết cho ra viết, nên những câu chuyện rất bình dị trong
cuộc sống chiến đấu, hay những câu chuyện đời thường bao giờ cũng được viết ra thấm
nhuần tinh thần ấy.
Mười chín chân dung các nghệ sĩ đương thời trong các trang viết là cảm nhận riêng
trong suy nghĩ của Đỗ Chu. Đó là một Nguyên Hồng với trái tim nhạy cảm, giàu lịng u
thương. Đó là một Hoàng Cầm sống lãng đãng trong thế giới của hư và thực. Đó là một
Kim Lân với thứ văn xi thơ nháp nhưng chan chứa tình đời, tình người…Cảm hứng thế
sự là nguồn mạch chính tn chảy trên khắp các trang văn của ông. Sự xuất hiện trở lại với
tập tùy bút dày công lực cho thấy trách nhiệm của một con người đối với đất nước và chân
dung một nghệ sĩ tâm huyết ln trăn trở có được những trang viết hay dành tặng bạn đọc.
Tuy nhiên, tập tùy bút này ít nhiều mang tính chính luận với những vấn đề mang tầm quốc
gia đại sự, hoặc các vấn đề xã hội lớn lao.
Tiếp nối mạch nguồn thế sự, năm 2008, Đỗ Chu cho ra đời tập tùy bút Thăm thẳm bóng
người. Đây là tác phẩm thể hiện độ chín muồi trong tài năng của Đỗ Chu. Nhà nghiên cứu
Hồng Ngọc Hiến đã đáng giá: “Thăm thẳm bóng người là “một thành tựu” và cho rằng đây
là “trang sách của người thắp lửa”. Đọc tùy bút này “có một cảm giác thăng hoa như vừa
uống rượu quí” [47; 20].
Vẫn tiếp nối đề tài về đất nước, con người và những vấn đề xã hội đương thời nhưng
cách viết có phần nhẹ nhàng, gần gũi và thấm thía hơn. Những bài học về đối nhân xử thế,

về những giá trị nhân văn cũng được khơi gợi một cách tự nhiên, thâm trầm mà không kém
phần sâu sắc. Thạch Linh đã nhận xét: “Lối kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho
những điều ơng nói ra đọng lại day dứt, ngậm ngùi, có cả những điều rất khó nói cũng được
nói ra nhẹ nhàng, sâu lắng” [66].
Tập tùy bút được viết theo từng phần, trong mỗi phần có nhiều mục được đánh dấu theo
số thứ tự. Phần đầu mang tên Hoa bờ giậu, một cái tên nghe thật mộc mạc, khiêm nhường
nhưng mang ý nghĩa sâu xa, thấm thía về tình người. Đó là những câu chuyện về những
người “vơ danh tánh” nhưng có vẻ đẹp giản dị và có sức sống bền bỉ như lồi hoa bờ giậu.


Phần hai của tập tùy bút là Thăm thẳm bóng người, tập hợp viết về cuộc đời, những con
người xưa và nay, trong nước và ngoài nước, những vấn đề từ quá khứ đến hiện tại. Tất cả
được khơi lên, tái hiện lại bằng một thứ văn phong giản dị, đậm đà cảm xúc và mang nhiều
dư vị triết lí. Nhà văn đau đáu đi tìm bóng người thăm thẳm trong niềm hoài vọng thiết tha.
Phần ba của tập sách có đề tựa là Về quê đốt lửa. Đây là phần được nhà văn viết chủ yếu
trong mạch cảm hứng hoài niệm. Quê nhà yêu dấu bao giờ cũng là cội nguồn của mọi sự
sáng tạo. Bởi lẽ nơi ấy có những người bình thường nhưng vĩ đại, có tuổi thơ lam lũ, cơ bần
nhưng tràn ngập niềm vui và kỉ niệm…Đỗ Chu gửi gắm vào đấy những tình ấm áp nhất,
ngọt lành nhất, thân thương nhất.
Xuyên suốt cả ba phần là chiều dài thời gian lịch sử của một dân tộc, có những đời
người, những thân phận vinh quang có, cay đắng có, nổi danh có, âm thầm có, là chiều rộng
không gian của nước Việt mở ra đến những bờ bến lạ, những xứ sở xa xôi. Đọc sách này
mới thấy Đỗ Chu giấu cả trong mình một kho văn hóa dân gian, bác học, lịch sử, huyền
tích, cái trông thấy, cái nghe thấy, cái sống và cái ngẫm, trộn lại tất cả vào mình rồi rút ra
bằng những câu văn như kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho những điều ơng nói
ra đọng lại day dứt, ngậm ngùi…
Chúng ta đang sống trong thời đại mà nhịp sống bị dồn đẩy rất gấp gáp. Con người
thích tìm đọc những cuốn sách có tính chun đề phục vụ cho sở thích riêng cũng như
chun mơn hẹp của mình. Trong bối cảnh ấy, những loại sách có chủ đề tản mạn, bát ngát
và cách nhìn nhận, đánh giá phần nào mang dấu ấn chủ quan của tác giả như Thăm thẳm

bóng người, thoạt xem có vẻ như một món quà hơi xa xỉ với một số người. Tuy nhiên, nhìn
một cách tổng thể thì đó thực sự là một loại sách hữu ích.
Nhìn chung, qua ba tập sách, ta thấy tùy bút của Đỗ Chu hoàn toàn có sắc thái riêng.
Ơng khơng có chất ngơng như tùy bút của Nguyễn Tuân, cũng không gợi buồn u uẩn như
tùy bút của Vũ bằng, không tài hoa lịch thiệp như tùy bút Hoàng Phủ Ngọc Tường…Tùy
bút của Đỗ Chu dung dị, đôn hậu mà không kém phần sâu sắc, mượt mà, trữ tình nhưng lại
thấm nhập ý vị triết lí nhân sinh. Đỗ Chu ln hết mình với những trang viết để chuyển đến
cho con người những bức thông điệp của ngoại giới và nội tâm. Ba tập tùy bút với dung
lượng ngàn trang tuy chưa phải là đồ sộ nhưng đủ sức đi sâu vào lòng người và làm cho tên
tuổi nhà văn Đỗ Chu sống lâu hơn với thời gian.


1.3 Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu
1.3.1 Quan niệm về thế giới nghệ thuật

Đây là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của thể của sáng tác nghệ thuật. Thế giới nghệ
thuật là thế giới khác với thế giới thực tại bên ngoài hay thế giới tâm hồn con người, được
dựng lên theo những nguyên tắc tư tưởng để phản ánh các thế giới ấy. Thế giới nghệ thuật sở
hữu khơng gian riêng, qui luật tâm lí riêng, quan niệm đạo đức riêng...
Thế giới nghệ thuật là khái niệm thường hay được đề cập đến trong nghiên cứu văn
học nghệ thuật. Từ thời cổ đại, Aristote đã hình dung chỉnh thể tác phẩm như một cấu tạo.
Nếu như người ta thay đổi hay lấy đi bớt một bộ phận thì tồn thể sẽ thay đổi hay vận động.
Đến thời trung đại, quan điểm xem tác phẩm là một khách thể tồn vẹn ấy vẫn cịn phổ biến.
Bước vào thời kì chủ nghĩa lãng mạn, người ta đã nhìn tác phẩm văn học như một thế giới có
tổ chức và có sự hấp dẫn riêng, phụ thuộc vào ý thức của các nhà nghệ sĩ.
Ở Việt nam, chuyên gia lí luận văn học Trần Đình Sử có quan niệm khá dày dặn về
khái niệm thế giới nghệ thuật: “Thế giới nghệ thuật trước hết xác định tính độc lập tương đối
của sáng tạo nghệ thuật so với thế giới tự nhiên hay thực tại xã hội là sự thừa nhận quyền
sáng tạo của nghệ sĩ đối với tác phẩm, khơng phải sao chép, lệ thuộc máy móc vào thực tại
vật chất bên ngoài nghệ thuật. Thứ hai, thế giới nghệ thuật là sản phẩm tinh thần, kết quả của

trí tưởng tượng sáng tạo, chỉ có trong các tác phẩm nghệ thuật. Thứ ba, thế giới này là một
mô hình nghệ thuật có cấu trúc riêng, qui luật riêng, thể hiện ở đặc điểm con người, tâm lí,
khơng gian, thời gian, đồ vật, xã hội…, gắn liền với một quan niệm về chúng của tác giả.
Thế giới nghệ thuật tương ứng với thế giới quan, nhân sinh quan, vũ trụ quan, lịch sử quan,
hay cảm nhận thế giới của chủ thể sáng tạo. Do đó, thế giới nghệ thuật bao qt sâu rộng hơn
hình tượng nghệ thuật, ví như hình tượng nhân vật, phong cảnh…Điều này làm cho mỗi hiện
tượng, chi tiết trong tác phẩm văn học đều mang một ý nghĩa đặc thù, không giống với ý
nghĩa của các hiện tượng, chi tiết tương ứng trong thực tại. Con người trong văn học chẳng
những không giống với con người trong thực tại về tâm lí, hoạt động mà cịn có ý nghĩa khái
qt tượng trưng, ngay cả trong các sáng tác được gọi là hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cái
giếng, cây đa, con đị, bến sơng, hoa sen, hoa nhài…trong văn học có ý nghĩa khác hẳn với
các thứ ấy trong thực tại. Và do đó nghiên cứu thế giới nghệ thuật cũng khác với phân tích
hình tượng nghệ thuật. Thứ tư, thế giới nghệ thuật là một thực tại tinh thần mà người đọc mở
vào khi sống với tác phẩm. Nhưng đó khơng đơn giản là một tồn tại khác của thực tại, mà là


một thế giới đã đột phá tính hữu hạn của thực tại để mở vào chiều sâu vô hạn của ý nghĩa,
làm thành một thế giới ước lệ, tượng trưng” [48; 1660-1661].
Trong lịch sử văn học, những nhà văn có tầm đều tạo ra cho mình một thế giới nghệ
thuật riêng. Mỗi thể loại văn học cũng có thế giới nghệ thuật với qui luật riêng của nó. Tính
sáng tạo của nhà văn chính là yếu tố quan trọng hàng đầu làm nên thế giới nghệ thuật. Đọc
ba tập tùy bút của Đỗ Chu, chúng tơi có dịp đi vào một thế giới nghệ thuật rộng rãi, thoáng
đạt với nhiều cảnh sắc ở các vùng miền, nhiều con người ở những không gian và thời gian
khác nhau, nhiều sự hiện xã hội trải dài theo dòng lịch sử... Trong Miền sáng tạo của mỗi
nhà văn, Đỗ Chu tâm đắc với lời độc thoại cũng là lời tâm sự của nhà văn Nguyễn Minh
Châu: “Mỗi thằng nhà văn phải có một miền quê của mình. Nơi ấy chưa phải là quê cha đất
tổ, cũng chả phải là chỗ nó sinh ra. Nhưng trong nó, nơi ấy khơng bao giờ qn nổi, nơi ấy
ngày đêm cứ trăn trở cựa quậy trong lòng. Đấy là thánh địa mà nó gửi gắm hồn mình” [17;
145]. Không phải ngẫu nhiên mà Đỗ Chu viện lời dẫn của Nguyễn Minh Châu, Với ông, quê
hương xứ sở luôn là nguồn cảm xúc bất tận tràn đầy nỗi thương yêu. Nó là cội nguồn của

cảm hứng nghệ thuật. Mỗi lần đặt bút viết là một lần nhà văn thực hiện cuộc hành trình tìm
về với hồn dân tộc, dù rằng chưa một ngày Đỗ Chu rời xa, chưa một lần xem quê hương
mình, đất nước mình trong cái nhìn xa lạ.
Đỗ Chu viết nhiều về những con người Việt Nam trong đấu tranh chống giặc ngoại
xâm cũng như trong công cuộc kiến thiết đất nước với cảm hứng yêu mến, ngợi ca và tri âm
chân thành và sâu sắc. Xin được mượn chính lời văn nghệ thuật của nhà văn để nói về cái
tình sâu nặng của ơng đối với con người: “Tơi lại thích bắt đầu từ người, đến đâu tôi chỉ
muốn được gặp người, bàn chuyện về người, những kiếp người. Còn như phong cảnh cho
dù có lạ đến mấy cũng vầy vậy thơi, nó là chuyện chóng nhớ chóng quên” [17; 71].
1.3.2 Khái quát về thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu
1.3.2.1 Miền quê Kinh Bắc và những vùng đất thân thương

Ai trong chúng ta cũng đều có một quê nhà yêu dấu, nơi đó có tuổi thơ hồn nhiên, tinh
nghịch, có dáng mẹ hơm sớm tảo tần, có dịng sơng, bến nước, con đò… Nhà thơ Đỗ Trung
Quân từng định nghĩa về quê hương trong những vần thơ giàu hình ảnh : “Quê hương là
chùm khế ngọt / Cho ta trèo hái mỗi ngày / Quê hương là đường đi học / Con về rợp bướm
vàng bay…”. Quả thế, trong tâm thức của mỗi người, q hương ln là miền kí ức đẹp và


thân ái. Đỗ Chu sinh ra và lớn lên từ cái nơi của q hương Kinh Bắc. Và chính vì lẽ đó,
Kinh Bắc, một miền đất giàu bản sắc văn hố, đã đi vào trong viết của ơng một cách hết sức
tự nhiên, sống động và thấm đẫm nhiều xúc cảm. Có thể thấy một khơng gian văn hóa với
những đặc trưng vùng miền đã được nhà văn tạo dựng qua thế giới nghệ thuật tùy bút của
ông. Quê hương hiện lên trong trang viết của Đỗ Chu là miền đất từ phủ Thuận Thành
xuống Gia Bình, qua Liễu Ngạn đến phủ Từ Sơn. Xưa nay, Kinh Bắc nổi tiếng với nhiều
đền chùa, miếu mạo. Có ngơi chùa Dâu gắn liền với câu chuyện nhà sư “quê gốc ở Tây vực,
theo gia đình qua đây bn bán làm ăn, gặp cảnh cha mẹ mất sớm, nhà sư còn nhỏ tuổi đã
được gửi vào chùa tu và đắc đạo tại chùa này” [18; 318]. Trước đây hai ngàn năm, chùa
Dâu là trung tâm thương mại sầm uất, phồn thịnh. Con sông Dâu chảy mãi rồi cũng chịu đổ
vào sông Hồng chở nặng sắc đỏ của phù sa. Ngồi ngơi chùa mang màu sắc cổ kính ấy, tùy

bút của Đỗ Chu cịn nhắc tới những đền chùa khác như chùa Bút Tháp, đền thờ Sĩ Nhiếp
Nam giao học tổ, đền thờ cụ Lê Văn Thịnh Nam quốc khai khoa đệ nhất nhân, đền thờ
người anh hùng thời An Dương Vương tên là Cao Lỗ. Có thể nói, ít có nơi nào có nhiều
đền chùa cổ kính và nổi tiếng như quê hương Kinh Bắc.
Đây cũng là miền đất có cảnh trí và cảnh sắc đẹp. Đến với thiên nhiên Kinh Bắc,
người đọc có thể thưởng ngắm hàng giờ những hàng lau sậy tiếp nối mênh mang một điệu
hồn muôn thuở trên những bờ bãi vào mùa nước rút, thả hồn theo dòng trôi êm đềm của con
sông Đuống đã đi vào thơ Hoàng Cầm trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp, lại
có con sơng Cầu và con sơng Thương rất đỗi nên thơ, hay những cảnh sắc bình dị, thân
thương như bờ bãi ngơ khoai, dâu, mía… và cả những vạt cỏ giàu sức sống hồn nhiên xanh
ngát giữa trời đất mênh mang... Miền quê của tác giả là miền đệm trung du, dốc thoai thoải,
có vài quả núi nhỏ bất chợt nhô lên chơ vơ tựa như những điểm nhấn làm cho bức tranh
làng cảnh thêm sống động và ấn tượng. Các nhà địa chất gọi chúng là “những hòn núi sót,
là dấu chấm hết cho diễn thế một dải địa tầng” [18; 269]. Cái thế đất như chênh chao hóa
ra lại là điểm đặc biệt tạo cho Kinh Bắc một địa thế đa dạng, phong phú, vừa có đồng cao
vừa có vùng chiêm trũng. Vào mùa nước nổi, “sóng vỗ ì oạp, thuyền câu trơi nổi, qua Ninh
Khánh, Núi Hiểu, Bài Xanh, Trúc Tay, xuống mãi Lục Đầu”. Quê hương của Đỗ Chu có
một dịng sơng máng lấy nước từ Thái Nguyên chảy qua Hiệp Hòa, Yên Thế, Lạng Giang,
Tân Yên, Việt Yên, đến vùng Kinh Bắc là chấm hết. Dịng nước từ sơng máng về đến làng
thì đổ xuống những dãy ao trước làng. Kinh Bắc còn còn có những bờ khe dẫn nước từ tận



×