Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

nội dung, giá trị và ý nghĩa của đường lối cách mạng đúng đắn do chủ tịch hồ chí minh vạch ra trong cương lĩnh đầu tiên của đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1003.05 KB, 57 trang )


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
CHƯƠNG I: SỰ KHỦNG HOẢNG ĐƯỜNG LỐI CỨU NƯỚC .............................3
TRONG THỜI KỲ THỰC DÂN PHÁP THỐNG TRỊ NƯỚC TA ..........................3
CHƯƠNG II: HỒ CHÍ MINH TÌM ĐƯỢC CON ĐƯỜNG ...................................12
CỨU NƯỚC ĐÚNG ĐẮN ...........................................................................................12
1. Tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước ......................................12
2. Trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng ....................................................................14
3. Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
....................................................................................................................................18
4. Ba tổ chức cộng sản xuất hiện ở Việt Nam ........................................................20
CHƯƠNG III: CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN ..............................................................22
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ......................................................................22
1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời .........................................................................22
2. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng – ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh. ............................................................................................................25
3. Ý nghĩa của việc Đảng ra đời với Cương lĩnh đúng đắn ..................................33
CHƯƠNG IV: GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CƯƠNG LĨNH ĐẦU
TIÊN ĐỐI VỚI Q TRÌNH CÁCH MẠNG NƯỚC TA ......................................35
1. Góp phần nâng cao nhận thức lý luận phải gắn với thực tiễn cách mạng......35
2. Dẫn đường thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc ...................................37
3. Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của đường lối đổi mới .................................45
KẾT LUẬN ..................................................................................................................53


LỜI MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện và
lãnh đạo, ra đời cách đây đã 92 năm. “Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn
luôn xác định lý tưởng và mục tiêu phấn đấu của cách mạng nước ta là độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn được


Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong Chính cương vắn tắt”1.
Trong lời chào mừng Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh (1990) ở
Hà Nội, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã viết: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là người
đầu tiên đem lại cho nhân dân Việt Nam đường lối cách mạng đúng đắn”2.
Hồ Chí Minh rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước từ năm 1911. Trải qua
một q trình nghiên cứu, tìm tịi khắp thế giới, năm 1920, Người gặp Chủ nghĩa
Mác - Lênin và trở thành người cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Người
cũng là một trong những lãnh tụ sáng lập của Đảng Cộng sản Pháp - một Đảng
Cộng sản ở nước tư bản chính quốc.
Hơn 10 năm chuẩn bị đến tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh đã thay mặt Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ
chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã giao cho Người
nhiệm vụ khởi thảo Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng,
Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng. Các văn kiện quan trọng
ấy đã được Hội nghị thông qua, trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng.
Cương lĩnh đầu tiên “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mệnh và thổ
địa cách mệnh để đi tới xã hội cộng sản”3. Sau này, Đảng ta gọi là cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong Cương lĩnh, Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển sáng tạo học
thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối của Đại hội VI
Quốc tế Cộng sản trên nhiều vấn đề quan trọng; đặc biệt là vấn đề đối tượng
cách mạng, mục tiêu, động lực, lực lượng cách mạng của cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội - một cuộc Cách mạng xã hội ở
nước thuộc địa, kinh tế chưa phát triển. Những tư tưởng, lý luận và đường lối
trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là phù hợp với điều kiện cách mạng nước ta
và nhiều nước thuộc địa, nhất là từ khi chủ nghĩa phát xít lên cầm quyền ở một
số nước (Ý4, Đức, Nhật,...). Thực tiễn cách mạng Việt Nam và thắng lợi của
cách mạng các nước thuộc địa ở trong thế kỷ XX chứng minh đường lối chiến
lược và sách lược cách mạng mà Hồ Chí Minh đã vạch ra trong Cương lĩnh đầu

tiên của Đảng là đúng đắn, sáng tạo.
Tuy vậy, chỉ từ sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước lãnh đạo cách mạng
thắng lợi, nhất là từ khi Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) khẳng
định “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
1

Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong cơng tác tư tưởng hiện nay, 18/2/1995, tr.8.
Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc nhà văn hóa lớn, UNESCO và Ủy
ban khoa học xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, trang 4.
3
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1990, tập 3, trang 1.
4
Hay còn gọi là Italia.
2

1


tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động” thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân mới
từng bước nhận thức sâu sắc hơn chân giá trị của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
và coi đó là một nội dung quan trọng của lịch sử Đảng ta, của dân tộc ta, cần
được nghiên cứu, học tập và vận dụng phát triển.
Trước đây, do hoàn cảnh lịch sử để lại và chưa phân biệt được đâu là bản
chính, đâu là bản thảo nên việc công bố các văn kiện quan trọng này theo những
quan điểm khác nhau dẫn đến nhận thức, đánh giá khác nhau trong quá trình
nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở nhiều trường, lớp khác nhau.
Trong cơng trình nghiên cứu của mình, chúng tơi sử dụng văn bản đã được
các đồng chí Trịnh Đình Cửu (đại biểu Đơng Dương Cộng sản Đảng), Nguyễn
Thiệu (đại biểu An Nam Cộng sản Đảng) là hai đại biểu đã tham gia Hội nghị
hợp nhất, xác minh tại buổi tọa đàm về các văn kiện Hội nghị thành lập Đảng do

Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng tổ
chức vào ngày 14 tháng 4 năm 1969, công nhận là bản chính thức đã được Hội
nghị thơng qua và công bố sau khi Đảng ra đời.
Những văn kiện quan trọng đó nay đã được Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VII) cho in trong Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, (19301945) do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản lần thứ 2 vào cuối năm 1995
từ trang 3 đến trang 10.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 92 ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
quang vinh, 47 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và kỷ niệm 77
năm Cách mạng Tháng Tám thành cơng và Quốc khánh nước Cộng hịa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, chúng tơi xin trình bày hiểu biết của mình về nội dung, giá
trị và ý nghĩa của đường lối cách mạng đúng đắn do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch
ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng để giảng viên và các bạn tham khảo.
Đây là một đề tài khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, là một
công việc hết sức cần thiết và bổ ích. Song, vấn đề quá lớn, mà khả năng có hạn,
nên khó tránh khỏi hạn chế.
Chúng tôi mong được giảng viên, các anh, chị và các bạn sinh viên đóng
góp ý kiến và xin chân thành cảm ơn.

2


CHƯƠNG I: SỰ KHỦNG HOẢNG ĐƯỜNG LỐI CỨU NƯỚC
TRONG THỜI KỲ THỰC DÂN PHÁP THỐNG TRỊ NƯỚC TA
1. Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược, biến thành thuộc địa của
chúng
Dân tộc Việt Nam hình thành và thống nhất qua q trình dựng nước và giữ
nước. Trong q trình đó, dân tộc ta đã liên tiếp phải đương đầu với nhiều cuộc
xâm lược từ bên ngoài. Trải qua các triều đại từ Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần,... mỗi
khi đất nước bị xâm lược thì non sơng đất nước ta lại sản sinh ra những vị anh
hùng dân tộc, tiêu biểu cho bản lĩnh, ý chí độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam.

Những vị anh hùng đó đã làm rạng rỡ non sông, đất nước ta.
Song, từ đầu thế kỷ XVI, chế độ phong kiến bắt đầu suy yếu. Các phe phái
thống trị giành giật, xâu xé lẫn nhau, làm cho đất nước bị phân ly, nhân dân cực
khổ. Cuộc tranh giành giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Mạc diễn ra ác liệt
trên nửa thế kỷ. Tiếp đó là cuộc xung đột giữa họ Trịnh và họ Nguyễn dẫn đến
cuộc chia cắt đất nước kéo dài trên hai thế kỷ.
Bộ máy phong kiến ngày càng ruỗng nát. Nội chiến diễn ra liên miên. Tô
thuế nặng nề. Sự tham tàn của bọn quan lại, cường hào các địa phương làm cho
đời sống nhân dân rất khó khăn. Từ đó, ngọn lửa chiến tranh nơng dân bắt đầu
dấy lên ở “Đàng ngồi” đầu thế kỷ XVIII nhanh chóng lan ra cả nước và đạt đến
đỉnh cao chưa từng thấy là phong trào Tây Sơn.
Nhờ kết hợp được sức mạnh vùng lên của quần chúng nông dân với truyền
thống yêu nước, ý chí độc lập tự chủ của dân tộc, phong trào Tây Sơn đã lập nên
sự nghiệp vẻ vang: đánh thù trong, đuổi giặc ngồi, khơi phục sự thống nhất
quốc gia, bảo vệ độc lập dân tộc và bước đầu thực hiện một số cải cách đáp ứng
yêu cầu của nhân dân.
Nhưng sau khi vua Quang Trung mất, Nguyễn Ánh đã đánh bại nhà Tây
Sơn, lập ra nhà Nguyễn, thiết lập chế độ phong kiến đã lỗi thời trên cả nước
(1802). Đó cũng là thời kỳ mở đầu cho tư bản phương Tây, nhất là tư bản Pháp
nhịm ngó, can thiệp và xâm lược nước ta.
Trước sự đe doạ, lấn át của tư bản phương Tây, các vua nhà Nguyễn từ
Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847) đến Tự Đức (1848-1882) đều
thi hành những chính sách khơng phù hợp với tình thế: đối nội thì cấm đạo
Thiên chúa giáo, đối ngoại thì “bế quan toả cảng” đã kìm hãm sự phát triển nền
kinh tế cơng thương nghiệp vốn đã có mầm mống từ trước.
Dưới sự thống trị của nhà Nguyễn, đất nước phải đương đầu với nhiều tai
hoạ lớn. Đời sống nhân dân trước hết là nông dân rất cơ cực. Mâu thuẫn giữa
nhân dân với bọn vua quan nhà Nguyễn trở nên hết sức gay gắt. Ngọn lửa chiến
tranh nơng dân vì thế càng bùng cháy dữ dội và liên tục. Chỉ trong khoảng nửa
thế kỷ đầu thời Nguyễn, tính sơ bộ có trên 300 cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ của

nông dân đã nổ ra.
Vào giữa thế kỷ XIX, vận mệnh dân tộc đứng trước thử thách, hết sức hiểm
nghèo. Đó là cuộc xâm lăng của thực dân Pháp.
3


Từ tháng 7 năm Mậu Ngọ (31/7/1858) tức năm Tự Đức thứ 11, tư bản Pháp
bắt đầu xâm lược Việt Nam. Tháng 1 năm 1859, chúng đánh chiếm Gia Định.
Năm 1862, chúng buộc triều đình nhượng đứt ba tỉnh miền Đơng Nam Kỳ bằng
hịa ước Nhâm Tuất (1862). Ngày 25/6/1867, chúng lấy nốt ba tỉnh miền Tây
Nam Kỳ. Sau khi thơn tính xong các tỉnh Nam Kỳ, ngày 15 tháng 10 năm Quý
Dậu (1873). Chúng bắt đầu đánh chiếm Hà Nội.
Năm 1883, quân Pháp khởi binh đánh vào cửa biển Thuận An (Thừa Thiên
- Huế) và buộc triều đình nhà Nguyễn phải ký Hiệp ước Hác-măng (1883). Năm
sau, ngày 6/6/1884, Pháp tiếp tục uy hiếp và buộc triều đình Huế phải ký Hiệp
ước Patơnốt, thừa nhận nước Pháp “bảo hộ” cả Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
Nền thống nhất Tổ quốc do nhân dân ta bao đời xây đắp bằng mồ hôi và
xương máu đã bị Hiệp ước Patơnốt làm tan vỡ. Đất nước rơi vào tình trạng chia
ba bởi chính sách “chia để trị” của thực dân Pháp.
Khuất phục được triều đình nhà Nguyễn, nhưng khắp nơi từ Nam chí Bắc
thực dân Pháp đã vấp phải ý chí chống xâm lược kiên cường của nhân dân ta...
Năm 1862, Trương Công Định từ bỏ ân thưởng của nhà vua. Tự nguyện ở
lại với nghĩa quân để chống giặc Pháp với tinh thần: lấy lau làm cờ, lấy gậy tầm
vông làm binh khí, nhất định khơng bao giờ ngừng chiến đấu chống quân cướp
nước. Nguyễn Trung Trực đã lãnh đạo kháng chiến ở các địa phương Tân An,
Rạch Giá sang cả Thủ Thừa, Bến Lức, Long Thành, Tân Uyên, ... khi bị giặc
bắt, ông đã hiên ngang tuyên bố trước quân thù: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ
nước Nam thì mới hết người nước Nam đánh Tây”. Nguyễn Hữu Huân (tức Thủ
Khoa Huân) lãnh đạo phong trào chống Pháp ở các vùng Mỹ Tho, Mỹ Quý, Tam
Bình, Rạch Gầm, Cai Lậy, ... trong những năm 1868-1875.

Giặc Pháp phải mất gần 30 năm (1858-1884) mới chiếm được nước ta.
Nhưng, chưa đầy một năm sau của Hiệp ước Patơnốt, vua Tự Đức băng hà, Hàm
Nghi lên ngôi vua (1885) đã cùng với Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn ra
mật lệnh cho quân dân các địa phương không được hợp tác với Pháp. Năm 1886,
Hàm Nghi rời khỏi kinh thành, lập căn cứ kháng chiến ở Tân Sở (Quảng Trị) và
hạ chiếu Cần Vương ra lời kêu gọi giúp vua cứu nước.
Chiếu Cần Vương đã cổ vũ phong trào kháng Pháp làm bùng lên một
phong trào khởi nghĩa khắp nơi: Tiêu biểu là khởi nghĩa của Đinh Cơng Tráng ở
Ba Đình, Thanh Hố (1886-1887); của Phan Đình Phùng ở Vụ Quang, Hà Tĩnh
(1885-1896); của Nguyễn Thiện Thuật ở Bãi Sậy, Hưng Yên (1885-1889); khởi
nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế, Bắc Giang (1885-1913); khởi
nghĩa của vua Duy Tân (5-1916),... Tuy lịng u nước và dũng cảm có thừa
nhưng tất cả những phong trào chống Pháp nói trên cuối cùng đều thất bại. Việt
Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành thuộc địa của thực dân Pháp.
Dưới chế độ đô hộ của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi
do chính sách cai trị của chúng gây nên.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế điển hình. Mọi
quyền hành đều nằm trong tay người Pháp. Vua, quan Việt Nam chỉ đóng vai trị
bù nhìn. Chúng thi hành chính sách “chia để trị”, nhằm làm suy yếu truyền
4


thống đoàn kết dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Chúng chia rẽ giữa ba
dân tộc anh em trên bán đảo Đông Dương. Rồi lập ra xứ Đông Dương thuộc
Pháp nhằm xoá tên các nước Việt Nam, Lào, Campuchia khỏi bản đồ thế giới.
Nói về chính sách này của bọn thực dân, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Chủ nghĩa
thực dân Pháp không hề thay đổi cái châm ngôn “chia để trị” của nó. Chính vì
thế mà nước An Nam, một nước có chung một dân tộc, chung một dòng máu,
chung một phong tục, chung một lịch sử, chung một truyền thống, chung một
tiếng nói, đã bị chia năm, xẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo trá sự chia cắt ấy,

người ta hy vọng làm nguội được tình đồn kết, nghĩa đồng bào trong lòng
người An Nam và tạo ra mối xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau.Sau khi
đẩy họ chống lại nhau, người ta lại ghép một cách giả tạo các thành phần lấy lại,
lập nên một “liên bang” gọi là Liên bang Đông Dương”5.
Về văn hố, chúng thi hành chính sách ngu dân hịng nơ dịch nhân dân ta
trong vòng ngu tối. Các quyền tự do đều bị cấm. Chúng xây dựng nhà tù nhiều
hơn trường học và bệnh viện. Chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng văn hoá tiến
bộ trên thế giới, kể cả văn hoá tiến bộ Pháp vào Việt Nam, nhưng lại khuyến
khích văn hố đồi trụy, mê tín dị đoan,...
Về kinh tế, tư bản Pháp không phát triển công nghiệp nặng mà chỉ mở
mang một số ngành trực tiếp phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài
nguyên để cung cấp nguyên liệu cho nền công nghiệp của nước Pháp. Song,
những xưởng máy tại chỗ này vẫn phụ thuộc vào các cơ sở kinh tế ở chính quốc.
Các ngành kỹ nghệ khác như khai thác mỏ thiếc, kẽm, chì, vàng, phốt phát,
thanh đều thuộc quyền của các công ty tư bản Pháp độc quyền. Những ngành kỹ
nghệ như vận tải (hoả xa, xe điện, tàu thuỷ...), nhà máy điện, đều do các cơng ty
người Pháp kinh doanh.
Chính sách độc quyền kinh tế của thực dân Pháp đã biến Việt Nam thành
thị trường, nơi vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân dân bằng thuế khóa nặng nề và
nhân cơng rẻ mạt của chính quốc.
Bên cạnh sự bóc lột lao động, cướp đoạt tài nguyên, đất đai, thực dân Pháp
còn duy trì chế độ phong kiến để giúp chúng bóc lột bằng địa tơ, lợi tức và các
hình thức thuế khoán rất nặng nề.
Các mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Trong khi mâu thuẫn giữa
nhân dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp phong kiến địa chủ chưa được giải
quyết, thì mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc Pháp thống trị và phong
kiến tay sai của chúng lại phát sinh, càng đẩy nhanh q trình cách mạng hóa
trong nhân dân ta.
Đánh giá thực trạng xã hội nói trên, Nguyễn Ái Quốc đã có một phát hiện
độc đáo có ý nghĩa khái quát về mặt lý luận: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản

đã chuẩn bị rồi. Chủ nghĩa xã hội chỉ cịn phải làm cái việc là gieo hạt giống của
cơng cuộc giải phóng nữa thơi”6. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa theo

5
6

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 2, trang 116.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, trang 28.
5


mơ hình Pháp trùm lên phương thức sản xuất phong kiến Việt Nam lỗi thời đã
làm biến đổi và phân hóa các giai cấp.
2. Sự biến đổi và phân hóa giai cấp
Giai cấp địa chủ phong kiến đã từng giữ vai trò tiến bộ nhất định trong lịch
sử. Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp, bản thân giai cấp này
cũng bị phân hóa mãnh liệt. Một bộ phận nhỏ cam tâm làm tay sai cho thực dân
Pháp để duy trì quyền lợi của mình. Một bộ phận không nhỏ tiếp tục truyền
thống dân tộc, đề xướng và lãnh đạo phong trào Văn thân, Cần Vương chống đế
quốc Pháp xâm lược, mong muốn khôi phục lại triều đại phong kiến; một số trở
thành lãnh tụ của phong trào quần chúng nông dân vừa đấu tranh chống thực dân
Pháp vừa chống triều đình phong kiến bán nước. Một bộ phận nhỏ chuyển sang
kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp tư sản Việt Nam bắt đầu xuất hiện từ trong thời gian Chiến tranh
thế giới thứ nhất (1914-1918). Vừa ra đời, nó đã bị sức chèn ép của tư bản Pháp,
làm phân hoá thành hai bộ phận. Một số ít ơm chân đế quốc, tham gia vào các
cơ quan chính trị và kinh tế của thực dân Pháp. Họ trở thành lớp tư sản mại bản,
có quan hệ chặt chẽ với thực dân Pháp. Một bộ phận khác tuy có mâu thuẫn nhất
định với tư bản Pháp và triều đình phong kiến nhưng thế lực kinh tế yếu ớt, què
quặt, lệ thuộc, khuynh hướng chính trị cải lương. Do vậy, giai cấp tư sản dân tộc

Việt Nam tuy có tinh thần yêu nước, chống phong kiến và đế quốc nhưng họ
khơng có khả năng lãnh đạo cách mạng.
Ngoài mong muốn làm giàu theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, lệ
thuộc vào Pháp, họ chưa đề xướng ra được một chủ trương cứu nước tiến bộ nào
cả. Họ chỉ có thể tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều kiện nhất định.
Tầng lớp trí thức và tiểu tư sản là những người con được chế độ phong
kiến và thực dân Pháp đào tạo. Song, do truyền thống yêu nước chỉ phối, họ
khao khát độc lập, tự do, dân chủ, nhưng cũng bị phân hoá. Một số ít cam tâm
làm tay sai. Số đông vẫn giữ được khí tiết của cha ơng ta, dù ở hồn cảnh nào
cũng khơng ngi lịng cứu nước. Khi có điều kiện, những trí thức u nước
thường đóng vai trị truyền bá những tư tưởng mới và là ngòi pháo của các cuộc
đấu tranh.
Giai cấp nông dân khao khát độc lập và ruộng đất. Họ hăng hái chống đế
quốc và phong kiến. Sau phong trào Văn thân, Cần Vương và nhất là sau thất
bại của Khởi nghĩa Yên Thế (1913) lực lượng phong trào nông dân bị phân tán.
Nông dân là lực lượng đông đảo, yêu nước, là chỗ dựa của các cuộc kháng
chiến chống lại sự xâm lược của các thế lực phong kiến phương Bắc trong lịch
sử. Nhưng, khi đối đầu với một kẻ thù mới - tư bản phương Tây, họ không thể
vạch ra đường lối đúng đắn để tự giải phóng và khơng thể đóng vai trị lãnh đạo
cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế
kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp, đồn trại và
thành phố, phục vụ cho cuộc xâm lược và bình định nước ta. Trước chiến tranh
6


1914-1918, giai cấp cơng nhân cịn ít. Chỉ khoảng hơn 10 vạn người và trình độ
tập trung cịn thấp, phần lớn là công nhân các đồn điền cao su và khai thác mỏ
than. Qua thời kỳ khai thác lần thứ hai (1924-1929) số cơng nhân chun nghiệp

đã có tới 22 vạn người, chiếm 1,2% số dân. Nếu tính số người làm thuê trong
các hãng kinh doanh tư nhân vừa, nhỏ và số người vô sản; nửa vô sản sống ở
thành thị và nơng thơn, thì đội qn vơ sản ở Việt Nam trước năm 1930 có đến
hàng triệu người.
Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, cũng như nông dân
và các tầng lớp lao động khác, giai cấp cơng nhân Việt Nam bị ba tầng lớp bóc
lột của đế quốc, phong kiến và tư bản bản xứ. Phần lớn họ xuất thân từ nơng
dân, có quan hệ ruột thịt, gia đình với nơng dân. Đó là cơ sở khách quan thuận
lợi làm cho hai giai cấp cơ bản này có sự liên minh tự nhiên từ khi ra đời và phát
triển trong q trình đấu tranh giải phóng dân tộc.
Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, chưa có cơ sở xã hội cho chủ nghĩa
cơng đồn và chủ nghĩa cải lương thâm nhập, lũng đoạn từ bên trong, do vậy,
tuy cịn trẻ, số lượng cịn ít, trình độ khoa học và kỹ thuật cịn thấp,... Nhưng
giai cấp công nhân ở nước ta là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ
nhất, sống tương đối tập trung, có ý thức tổ chức kỷ luật, có năng lực cách mạng
triệt để và có tinh thần quốc tế vô sản.
Là con đẻ của một dân tộc anh hùng, lớn lên trong hồn cảnh giai cấp cơng
nhân Nga dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bơnsêvích đã giành được chính
quyền, Quốc tế Cộng sản đã thành lập và được đồng chí Nguyễn Ái Quốc giáo
dục và lãnh đạo, giai cấp công nhân Việt Nam sớm giác ngộ dân tộc và giác ngộ
giai cấp đã từng bước phát triển từ tự phát sang tự giác. Tháng 11 năm 1922,
600 thợ nhuộm Chợ Lớn (Nam Bộ) vì bị bớt lương nên quyết định bãi công. Từ
năm 1920 đến năm 1925 có đến 25 cuộc bãi cơng trong cả nước. Nổi bật nhất là
cuộc bãi công của công nhân Ba Son nổ ra từ ngày 4/8 đến ngày 28/1/1925 đã
“kìm chân” chiếc tàu J.Midsole của đế quốc Pháp chuẩn bị đưa quân sang đàn
áp cách mạng Trung Quốc. Cuộc đấu tranh này có tổ chức, chỉ đạo và biểu hiện
tinh thần quốc tế cao cả. Tuy vậy, chỉ đến những năm 1928-1929 khi Thanh niên
Cách mạng đồng chí hội chủ trương “vơ sản hố” mới tạo điều kiện cho phong
trào cơng nhân nhanh chóng trưởng thành.
3. Cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước, nhiều tổ chức chính trị xuất

hiện
Lịch sử nước ta từ khi thực dân Pháp xâm lược đến những năm hai mươi
của thế kỷ này đã chứng kiến hơn 300 cuộc đấu tranh anh dũng chống đế quốc
Pháp của nhân dân ta. Nhưng cuối cùng đều không giành được thắng lợi, khơng
phải vì nhân dân ta thiếu ý chí giành độc lập, mà cịn thiếu tri thức làm nền tảng
tư tưởng cho việc ra đời một đường lối cách mạng đúng đắn.
Trước kia, khi chế độ phong kiến đang ở giai đoạn hưng thịnh, dân tộc ta
đã từng đánh thắng bọn phong kiến phương Bắc có tầm cỡ thế giới như giặc
Nguyên Mông. Nhưng khi chế độ phong kiến đã suy tàn và phải đối phó với một
kẻ thù mới, một đế quốc thuộc loại cường quốc thế giới thì những kinh nghiệm
7


đấu tranh chống ngoại xâm trong lịch sử dù rất q báu đã tỏ ra khơng cịn đủ
nữa.
Thất bại của phong trào Cần Vương là do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu
một tổ chức cách mạng có khả năng dẫn dắt nhân dân đến thắng lợi. Thất bại của
phong trào này đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ đấu tranh chống ngoại xâm trong
khuôn khổ hệ tư tưởng phong kiến.
Thất bại sau ba mươi năm đánh du kích của cụ Hồng Hoa Thám cũng
chứng tỏ đó khơng phải là con đường giải thốt có hiệu quả. Khi các phong trào
này ngừng tiếng súng thì cuộc khủng hoảng đường lối ở nước ta diễn ra sâu sắc.
Sau khi từng bước ly khai con đường giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng
phong kiến; nhiều người yêu nước hướng ra nước ngoài, tìm đến những con
đường mới để mong được giải phóng: con đường Nghị viện của tư sản Pháp
(1789), con đường Duy Tân của Nhật Bản (1860), con đường cách mạng Tân
Hợi của Trung Quốc (1911),...
Vào đầu thế kỷ XX, nước Nhật từ sau cuộc vận động Duy Tân đã vươn lên
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Họ đã đánh bại Nga Hoàng trong cuộc chiến tranh
Nga - Nhật (1905). Cách mạng năm 1905 ở Nga nổ ra nhưng không thắng lợi.

Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc năm 1911 đã đánh đổ triều đình Mãn Thanh,
lập ra nước Trung Hoa dân quốc. Những sự kiện thế giới trên đây đã ảnh hưởng
đến phong trào cách mạng Việt Nam.
Ý thức hệ của giai cấp tư sản phương Tây đã xâm nhập vào Việt Nam. Một
số sĩ phu tiến bộ tiếp thu trào lưu tư tưởng này đã nảy ra khuynh hướng mong
muốn nước mạnh, dân giàu theo con đường tư bản chủ nghĩa. Họ muốn nói theo
con đường phát triển của đế quốc Nhật, dựa vào Nhật để đánh Pháp. Tiêu biểu
cho khuynh hướng này là Hội Duy Tân do cụ Phan Bội Châu sáng lập với mục
đích cổ động phong trào, tổ chức lực lượng chống Pháp. Số khác như các cụ
Lương Văn Can, Nguyễn Quyền,... mở trường Đông kinh nghĩa thục ở Hà Nội
nhằm vào việc cổ động yêu nước, bài xích chính sách cai trị của thực dân Pháp,
khuyến khích cải cách, chế giễu hủ nho, cường hào,... Là một người chân thành
yêu nước nhưng chủ trương của cụ Phan Chu Trinh khác hẳn với cụ Phan Bội
Châu. Phan Chu Trinh tiêu biểu cho phái cải cách dân chủ tư sản (1789) phản
đối việc võ trang bạo động chống Pháp “Bất bạo động, bạo động tắc tử, bất vọng
ngoại, vọng ngoại tất vong”. Sau này trong thư “Thất trảm” gửi vua Khải Định
lúc ông ta sang Pháp (1922), Phan Chu Trinh đã viết: “mau quay đầu lại mà
thoái vị đi, đêm chính quyền trả lại cho quốc dân để quốc dân được trực tiếp
ngày với Chính phủ Pháp mà làm việc đặng mưu lợi ích sau này”.
Phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục chống đi phu, nộp thuế ở
Trung kỳ là kết quả của khuynh hướng tư sản.
So với trước, phong trào giải phóng dân tộc ở thời kỳ này có chuyển biến
về tính chất. Một số tổ chức cứu nước ra đời: Hội Duy Tân (1904), Trường
Đông kinh nghĩa thục (1907), Hội Đông Á đồng minh (1908), Việt Nam Quang
phục Hội (1912-1924),... Song, vì đường lối chính trị của các tổ chức này khơng
rõ ràng, nhất là không dựa vào quần chúng lao động, nên không tập hợp được
8


lực lượng nhân dân. Họ dựa vào uy tín cá nhân như kiểu chủ nghĩa Băngki 7 chứ

chưa có ý thức lãnh đạo bằng một tổ chức tập thể, nên không tạo ra được sự
thống nhất trong những người đề xướng phong trào để phối hợp hành động. Vì
vậy, khi người thủ lĩnh bị đế quốc Pháp bắt thì phong trào cũng tan rã theo.
Năm 1917, đánh dấu bước ngoặt mới trong lịch sử phát triển của nhân loại.
Cách mạng tháng Mười Nga thành công, Quốc tế Cộng sản, Bộ tham mưu của
giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới, ra đời (3-1919). Trung
Quốc sau phong trào Ngũ Tứ (4/5/1919), Đảng Cộng sản Trung Quốc được
thành lập (1921). Ở Pháp, những người phái tả trong Đảng Xã hội đã ly khai Đệ
nhị Quốc tế và tán thành Quốc tế cộng sản do V.I.Lênin sáng lập, Đảng Cộng
sản Quốc tế III được thành lập (1920). Sự kiện Đảng Cộng sản Pháp ra đời
không chỉ là thắng lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp mà còn
là thắng lợi của các dân tộc thuộc địa Pháp.
Đồng thời, với những chuyển biến của lịch sử thế giới, cách mạng Việt
Nam lúc này cũng có những chuyển biến mang tính chất vận động nội tại. Đó là
việc đồng chí Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh) thay mặt cho tổ chức Những
người An Nam yêu nước ở Pháp đưa bản “yêu sách 8 điểm” đến Hội nghị các
nước đế quốc thắng trận hợp ở thành phố Véc-xây nước Pháp (tháng 6-1919), đó
là sự kiện Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản tại
Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp ở thành Tua; đó là sự kiện một
người thuộc địa - đồng chí Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Đảng Cộng sản
Pháp, một Đảng Cộng sản ở “chính quốc” (1920). Sau đó là tin về Người được
bầu vào Đồn Chủ tịch Hội nơng dân Quốc tế (tháng 10-1923), dự Đại hội lần
thứ V Quốc tế Cộng sản (1924) và các đại hội quốc tế khác trên đất nước Lênin
mà báo chí của đế quốc Pháp đã đưa tin, theo dõi để tìm bắt Nguyễn Ái Quốc.
Chính điều đó đã âm thầm cổ vũ phong trào yêu nước Việt Nam. Gần hơn nữa là
tiếng bom Phạm Hồng Thái mưu sát toàn quyền Méclanh (6-1924) ở Quảng
Châu mà Nguyễn Ái Quốc đánh giá “như chim én báo hiệu mùa xuân”.
Tháng 4 năm 1921, trên tạp chí Cộng sản của Đảng Cộng sản Pháp,
Nguyễn Ái Quốc viết: “Không, người Đông Dương không chết, người Đông
Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân

không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng
của người Đông Dương,... Đằng sau sự phục tùng tiêu cực người Đơng Dương
giấu một cái gì đang sơi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi
thời cơ đến”8.
Đúng như nhận xét của Người từ những năm 1920 trở đi, phong trào cách
mạng Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những hội, đảng
cách mạng mang xu hướng tư tưởng tư sản đã xuất hiện những tổ chức yêu nước
lúc đầu chịu ảnh hưởng tư tưởng tư sản nhưng đã từng bước tự đổi mới để tiếp
thu tư tưởng tiến bộ mới. Đặc biệt, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - chủ
7

Lui Oguyxto Blangki (1805-1881), nhà cộng sản không tưởng Pháp chịu ảnh hưởng của triết học Khai sáng thế
kỷ XVIII và chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ yếu là chủ nghĩa Babớp. Theo ông, nội dung chủ yếu của lịch sử
là sự vận động từ chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối ông không ý thức được rằng, cách mạng chỉ có thể thắng lợi với sự
tham gia của quần chúng lao động do một Đảng cách mạng lãnh đạo.
8
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, trang 28.
9


nghĩa Mác-Lênin bắt đầu xâm nhập vào phong trào yêu nước và phong trào công
nhân.
Lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi phong trào Cần Vương thất bại chứng
minh rằng, giai cấp tư sản dân tộc chưa bao giờ giành được ngọn cờ giải phóng
dân tộc. Đảng lập hiến của Bùi Quang Chiêu (1919) về căn bản là một tập đồn
địa chủ “tư bản hố”, chưa phải là đảng của giai cấp tư sản dân tộc.
Năm 1926, khi họ đưa ra thuyết “Pháp - Việt đề huề” thì họ đã tự tay gỡ bỏ
bộ mặt yêu nước, lộ ra tính cách làm tay sai cho đế quốc Pháp. “Thuyết trực trị”
của Nguyễn Văn Vĩnh, thuyết “Bảo hoàng lập hiến” của Phạm Quỳnh đã lộ rõ
chân tướng là những người “hợp tác” với đế quốc Pháp. Xu hướng quốc gia cải

lương của nhóm Huỳnh Thúc Kháng cũng ít tiếng vang.
Phong trào đấu tranh trong những năm 1923-1927 mang tính chất yêu
nước, đòi tự do, dân chủ theo kiểu cách mạng tư sản, nhưng động lực của nó là
những người tiểu tư sản chứ không phải do đảng của giai cấp tư sản lãnh đạo.
Biểu hiện của phong trào này là nhiều hội, đảng yêu nước của thanh niên, trí
thức kế tiếp nhau ra đời: Tân Việt Thanh niên đoàn tức Tâm tâm xã (19231925); Hội phục Việt (1925); Đảng Thanh niên của Trần Huy Liệu (1926);
Thanh niên Cao vọng Đảng của Nguyễn An Ninh (1926-1929); Tân Việt cách
mạng Đảng (1926-1930); Việt Nam quốc dân Đảng (1925-1930); ... Những tổ
chức cách mạng nói trên đã có tác dụng nhất định trong việc truyền bá tư tưởng
mới, giáo dục lòng yêu nước và tập hợp một số quần chúng thanh niên trí thức,
tiểu tư sản. Nhưng, họ chưa vạch ra được một đường lối cách mạng phù hợp với
yêu cầu của dân tộc. Tâm tâm xã nêu cao quyết tâm “khôi phục quyền làm
người của người Việt Nam, nhưng chưa bàn đến chính thể”. Tân Việt Cách
mạng Đảng nhận rõ mục đích giải phóng dân tộc, nhưng chưa thấy vị trí lịch sử
của giai cấp công nhân. Việt Nam Quốc dân Đảng chủ trương chống đế quốc,
chống phong kiến, nhưng lại sao chép, rập khuôn Chủ nghĩa tam dân của Tôn
Dật Tiên (Trung Quốc).
Nhìn chung, các hội và đảng u nước nói trên có quyết tâm cứu nước,
nhưng chưa nhận thức được xu thế phát triển khách quan của thời đại sau Cách
mạng Tháng Mười Nga, chưa thấy được vấn đề giải phóng dân tộc phải gắn liền
với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng xã hội, giải phóng con người, chủ
nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Họ cũng
chưa nhận thức được vấn đề độc lập dân tộc phải gắn liền với chế độ xã hội mới
có khả năng xố bỏ tình trạng người bóc lột người. Họ cũng khơng thấy hết bản
chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. Không nhận thức được vai trị
lãnh đạo của giai cấp cơng nhân; vai trò của quần chúng nhân dân trước hết là
nơng dân trong cách mạng và sức mạnh của đồn kết dân tộc và đồn kết quốc tế
vơ sản... Bởi những hạn chế đó, những nhà yêu nước trong các tổ chức này chưa
thể xác định một đường lối cách mạng đúng đắn.
Riêng Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội do Nguyễn Ái Quốc

sáng lập, lúc đầu cũng là một tổ chức cách mạng phần lớn gồm những trí thức,
tiểu tư sản, nhưng sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng của người
sáng lập, sớm có khuynh hướng cộng sản chủ nghĩa; Đảng Tân Việt, sau những
10


năm 1926-1927 đã chịu ảnh hưởng về đường lối của Việt Nam Thanh niên Cách
mạng đồng chí hội, qua hai năm hợp nhất với tổ chức này.
Cuộc đấu tranh về ý thức hệ và về đường lối cứu nước giữa Thanh niên
Cách mạng đồng chí hội và các tổ chức yêu nước nói trên đã diễn ra ngay từ
những ngày đầu Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, đường lối và tổ
chức cho việc thành lập Đảng kiểu mới ở Việt Nam, từng bước khắc phục sự
khủng hoảng về đường lối cứu nước.

11


CHƯƠNG II: HỒ CHÍ MINH TÌM ĐƯỢC CON ĐƯỜNG
CỨU NƯỚC ĐÚNG ĐẮN
1. Tiếp thu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về con đường cách mạng,
nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước theo phương
hướng mới.
Gần mười năm đi khắp thế giới (1911-1920), đến các nước thuộc địa và các
nước tư bản đế quốc như Pháp, Mỹ, Anh,... quan sát, nghiên cứu, suy nghĩ.
Người đã phát hiện một chân lý: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa
thực dân là cội nguồn của mọi sự đau khổ của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.
Dưới ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Sơ thảo lần thứ

nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin và ảnh
hưởng của cuộc đấu tranh thành lập Đảng Cộng sản Pháp... chủ nghĩa MácLênin, chân lý cách mạng của thời đại đã sớm được khẳng định trong nhận thức
của Hồ Chí Minh.
Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp,
Người đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và chủ trương thành lập
Đảng Cộng sản Pháp.
Để giải thích cho hành động đầy ý nghĩa đó, sau này Hồ Chí Minh đã viết:
“Đệ Tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập
của họ. Cịn Đệ nhị Quốc tế khơng hề nhắc đến vận mệnh các thuộc địa. Vì vậy,
tơi bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ
quốc tôi, đây là tất cả những điều tôi muốn”9. Sự kiện này là cái mốc đánh dấu
bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Hồ Chí
Minh: Từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Kết quả của mười năm
nghiên cứu, học tập ấy đã giúp Người sớm khẳng định con đường đúng đắn cho
cách mạng Việt Nam: “Chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản mới giải phóng được
dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản và của cách mạng thế giới”10.
Từ khi trở thành người cộng sản, Hồ Chí Minh đã xúc tiến mạnh mẽ việc
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào giải phóng dân tộc và phong
trào vô sản ở các nước thuộc địa, trước hết là Việt Nam.
Cuối năm 1921, tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp. Hồ Chí
Minh đã trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề “Chủ nghĩa cộng sản và thuộc
địa”, và kiến nghị thành lập Ban nghiên cứu thuộc của Đảng. Năm 1922, được
sự đồng ý của Quốc tế Cộng sản, Ban nghiên cứu thuộc địa của Trung ương
Đảng Cộng sản Pháp được thành lập. Người được cử làm ủy viên của Bạn này
và trực tiếp làm Trưởng Tiểu ban Đông Dương. Với cương vị đó, Người đã tích
9

Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994,
trang 44.

10
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, trang 416.
12


cực tuyên truyền, giáo dục và giới thiệu vào Đảng Cộng sản Pháp nhiều chiến sĩ
cách mạng của các nước thuộc địa châu Á, châu Phi.
Cũng năm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng, Người đã cùng với một số chiến
sĩ cách mạng ở các nước Angiêr, Tuynidi, Maroc, Đahômây,... sáng lập ra Hội
Liên hiệp thuộc địa ở Pari, trong đó Hội người An Nam u nước ở Pháp làm
nịng cốt. Thông qua tổ chức này và báo Người cùng khổ - diễn đàn của các dân
tộc bị áp bức, chủ nghĩa Mác-Lênin đã đến với các dân tộc thuộc địa; đồng thời
tình hình các nước thuộc địa cũng đến với nhân dân Pháp.
Ngoài nhiệm vụ làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút báo Người cùng khổ, Người
còn viết nhiều bài đăng trên các báo Nhân đạo - cơ quan Trung ương Đảng Cộng
sản Pháp, Đời sống thợ thuyền - tiếng nói của giai cấp cơng nhân, Tạp chí Cộng
sản, cơ quan lý luận của Đảng Cộng sản Pháp,... Hầu hết các bài viết của Người
đều tập trung lên án chủ nghĩa thực dân. Năm 1925 được sự giúp đỡ của những
người cộng sản Pháp, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp do Người viết
bằng tiếng Pháp được xuất bản đầu tiên ở Pari.
Bản án chế độ thực dân Pháp tố cáo trước dư luận Pháp và thế giới những
tội ác của bọn thực dân không chỉ ở Việt Nam, Angiêri mà ở khắp các thuộc địa.
Bằng biểu tượng “con đỉa hai vòi”, tác giả đã làm cho người đọc thấy rằng chủ
nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp vô sản và nhân
dân lao động bị áp bức, bị bóc lột ở các nước chính quốc và các dân tộc thuộc
địa. Bản án chế độ thực dân Pháp đã góp phần vào việc thiết lập sự liên minh
giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở các
thuộc địa. Theo Người, phải thực hiện sự liên minh chặt chẽ với nhau để chống
kẻ thù chung vì “có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế
giành được thắng lợi cuối cùng”11.

Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Những
người cộng sản phải “làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước tới nay vẫn cách
biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh
phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của
cách mạng vô sản”12.
Bản án chế độ thực dân Pháp đã phê phán thái độ “cầu cạnh xin xỏ thay đổi
quốc tịch” của một số người mang tư tưởng cải lương tư sản, đồng thời đề cao
tinh thần tự lực, tự cường tự mình giải phóng cho mình: “cơng cuộc giải phóng
anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”13. Qua
tác phẩm, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ tư tưởng: cách mạng thuộc địa phải phát
triển theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga.
Bản án chế độ thực dân Pháp là tác phẩm lý luận đầu tiên của cách mạng
nước ta. Nó đã góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Nhân
dân ta, trước hết là những người tiểu tư sản trí thức yêu nước tiến bộ, nhờ tác
phẩm đó và các bài viết của Hồ Chí Minh mà hướng về chủ nghĩa Mác-Lênin,...
11

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 2, trang 124.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, trang 124.
13
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 2, trang 128.
12

13


Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp đi Liên Xô để tham dự
Đại hội lần thứ nhất Quốc tế nông dân (10-1923) họp ở Matxcơva. Tại diễn đàn
Quốc tế nông dân, Người đã khẳng định: “Trong thời đại hiện nay, giai cấp công
nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng

đến thắng lợi cuối cùng, bằng cách liên minh với giai cấp nông dân” 14. Tại đây,
Người được trực tiếp học tập nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng Tháng Mười
Nga và chủ nghĩa Lênin. Từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924,
Người được Trung ương Đảng Cộng sản Pháp uỷ nhiệm tham gia Đại hội lần
thứ V Quốc tế Cộng sản. Trong các tham luận của mình. Người đã nêu lên vị trí
và tầm quan trọng của cách mạng thuộc địa. Người cho rằng: “Vận mệnh của
giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước
đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc
địa “hiện nay, nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập
trung ở các thuộc địa hơn là các chính quốc”15.
Sau đó, Người cịn tham dự các đại hội: Quốc tế công hội đỏ, Đại hội III
Quốc tế phụ nữ, Đại hội IV Quốc tế thanh niên, Đại hội I Quốc tế cứu tế đỏ,...
Tại các đại hội quốc tế nói trên, Hồ Chí Minh tiếp tục trình bày những quan
điểm của mình về vai trị lịch sử của giai cấp vơ sản thuộc địa, về mối quan hệ
giữa phong trào cách mạng ở thuộc địa với cách mạng vơ sản ở chính quốc và
nêu rõ sự cần thiết phải thủ tiêu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc trước
khi xoá bỏ chế độ thối nát này trên toàn thế giới.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định:
“Chủ nghĩa đế quốc hiện đại đặt nền móng trên sự bóc lột hàng triệu người
lao động ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Bởi thế, nó chỉ tan rã hồn tồn
và vĩnh viễn khi nào chúng ta phá bỏ được nền móng đó của lâu đài đế quốc chủ
nghĩa”16.
2. Trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng
Đầu tháng 11 năm 1924, với tư cách là uỷ viên Bộ phương Đông của Quốc
tế Cộng sản, trực tiếp phụ trách Cục phương Nam, Nguyễn Ái Quốc đã rời Liên
Xô đến Quảng Châu (Trung Quốc) để gây dựng phong trào và chỉ đạo cách
mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, ... sáng
lập ra Bị áp bức dân tộc Liên hợp hội.
Tháng 6 năm 1925, tại Quảng Châu, Người sáng lập Việt Nam Thanh niên
Cách mạng đồng chí hội, trong đó, có tổ chức trung kiên là Cộng sản đồn làm

nịng cốt. Thơng qua tổ chức cách mạng này, chủ nghĩa Mác-Lênin được trực
tiếp truyền bá vào Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập chính đảng của giai
cấp vô sản Việt Nam. Cũng tại Quảng Châu, Người đã mở ba lớp huấn luyện,
đào tạo được 75 cán bộ cách mạng cho đất nước. Trong số này, một số được
Người chọn đưa sang học tại Trường đại học phương Đông ở Liên Xô (Trần
Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập...); một số được đưa vào học quân sự ở
Trường Hoàng Phố ở Trung Quốc (Trương Văn Lệnh, Phùng Chí Kiên...); phần
14

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1980, trang 157.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, trang 273-274.
16
Sách đã dẫn, tập 2, trang 126.
15

14


lớn được phân công về nước hoạt động. Người cho xuất bản báo Thanh niên làm
cơ quan tuyên truyền của Hội.
Đầu năm 1927, cuốn Đường cách mệnh, gồm những bài giảng của Người
trong các lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu, được Bộ tuyên truyền của Bị áp bức
dân tộc Liên hợp hội ấn hành.
Trong tác phẩm quan trọng này, Người vạch ra những phương hướng cơ
bản về tính chất cách mạng, chiến lược và phương pháp cách mạng của cách
mạng Việt Nam.
Đường cách mệnh đề cập trước tiên vấn đề tư cách Người cách mạng.
Trong chương này, Người giáo dục cán bộ Cách mạng phải lời nói đi đơi với
việc làm “nói thì phải làm”, phải “giữ chủ nghĩa cho vững”, “vị cơng vong tư”,
“ít lịng tham muốn về vật chất”, phải “hy sinh”, “phục tùng Đoàn thể” và phải

tuyệt đối giữ “bí mật” để bảo vệ Tổ quốc,...
Với tác phẩm này, Người đã làm rõ tư tưởng về mối quan hệ Cách mạng
chính trị, cách mạng xã hội và cách mạng thế giới. Đường cách mệnh chỉ rõ:
cách mạng ở nước thuộc địa như Việt Nam phải tiến hành qua hai thứ cách
mạng: “Dân tộc cách mạng”17 và “thế giới cách mạng”18, Đường cách mệnh
viết: “Như Việt Nam đuổi Pháp. Ấn Độ đuổi Anh, Cao-ly đuổi Nhật, Phi-líp-pin
đuổi Mỹ, Tàu đuổi các đế quốc chủ nghĩa giành lấy quyền tự do, bình đẳng của
dân tộc mình, ấy là dân tộc cách mệnh”19. “Tất cả dân cày, người thợ trong thế
giới bất kỳ nước nào nơi nào đều liên hiệp nhau lại như anh em một nhà, để đập
đổ tất cả tư bản trong thế giới, làm cho nước nào, dẫn nào cũng được hạnh phúc,
làm cho thiên hạ đại đồng - ấy là thế giới cách mạng”20. Hồ Chí Minh khẳng
định, tuy có khác nhau “nhưng hai cách mệnh ấy vẫn có quan hệ với nhau “vì
dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nơng, cơng, thương đều
nhất trí chống lại cường quyền. Cịn thế giới cách mệnh thì vơ sản giai cấp (dân
cày và người thợ) đứng đầu đi trước”21.
Tác phẩm vạch ra những hạn chế của Cách mạng tư sản Mỹ (1776), đại
cách mạng Pháp (1789) và khẳng định chỉ có Cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để “dân chúng được hưởng cái hạnh
phúc tự do, bình đẳng thật khơng phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc
chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”22.
Đường cách mệnh chỉ rõ đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là
tư bản, đế quốc chủ nghĩa và giai cấp phong kiến địa chủ. Đồng thời, tác phẩm
cũng chỉ rõ động lực và lực lượng Cách mạng Việt Nam: “Công nông là gốc
cách mệnh; cịn học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mạng của
công nông”23. Sự sắp xếp lực lượng cách mạng Việt Nam trong Đường cách
17

Sách đã dẫn, trang 266.
Sách đã dẫn, trang 266.
19

Sách đã dẫn, trang 266.
20
Sách đã dẫn, trang 266.
21
Sách đã dẫn, trang 266.
22
Sách đã dẫn, trang 280.
23
Sách đã dẫn, trang 266.
18

15


mệnh là cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hình thành mặt trận dân tộc thống
nhất trên nền tảng liên minh cơng nơng và trí thức của Đảng sau này.
Về phương pháp cách mạng, Đường cách mệnh kêu gọi sự đồng tâm nhất
trí làm cách mạng. Hồ Chí Minh khơng chỉ kêu gọi đồng tâm hiệp lực, đồn kết
các giai cấp cách mạng trên nền tảng của công nơng mà cịn phê phán những
hành động ám sát cá nhân hoặc những khuynh hướng sai lầm khác: “xúi dân bạo
động mà không bày cách tổ chức; hoặc làm cho dân quên tính ỷ lại, mà quên
tính tự cường”24. Hồ Chí Minh đánh giá cao sức mạnh sáng tạo của quần chúng
nhân dân. Theo Người, quần chúng một khi đã được giáo dục, giác ngộ và có tổ
chức lãnh đạo sẽ trở thành một lực lượng vơ địch, “Dân khí mạnh thì qn lính
nào, súng ống nào cũng khơng chống lại nổi”25.
Đường cách mệnh chỉ rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít
của cách mạng thế giới. Nhưng, đồng thời đề cao ý chí tự lực tự cường, tự mình
giải phóng cho mình, khơng ỷ lại sự giúp đỡ quốc tế.
Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng thuộc địa, với Đường cách mệnh, Hồ
Chí Minh đã trình bày cụ thể luận điểm cách mạng thuộc địa có thể giành thắng

lợi trước, khơng thụ động ngồi chờ cách mạng vơ sản ở chính quốc thắng lợi để
được giải phóng. Nếu như ở Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản (1924) hay
trong Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Hồ Chí Minh đã nêu vấn đề muốn
đánh đổ chủ nghĩa đế quốc phải bắt đầu từ việc thủ tiêu nền tảng của nó là sự
bóc lột các nước thuộc địa. Khơng làm như thế thì chẳng khác gì đánh rắn đằng
đi. Về quan hệ của cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc, Người
viết: “An Nam dân tộc cách mệnh thành cơng thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp
yếu thì cơng nơng Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ”26. Luận điểm đầy sáng
tạo này là sự phát triển những suy nghĩ mà Người đã viết năm 1921: “Ngày mà
hàng trăm triệu người dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc
lột đê tiện của những tên thực dân lịng tham khơng đáy, họ sẽ hình thành một
lực lượng khổng lồ và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của
chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em của
mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn”27.
Tác phẩm Đường cách mệnh khẳng định muốn đưa cách mạng đến thắng
lợi hoàn toàn “Trước hết phải có đảng cách mệnh: để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi
nơi”28. “Đảng muốn vững mạnh thì phải có chủ nghĩa làm cốt” 29, “Đảng mà
khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ
nam”30. Đảng ấy phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động. Hồ Chí Minh khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều,

24

Sách đã dẫn, trang 261.
Sách đã dẫn, trang 274.
26
Sách đã dẫn, trang 266.
27
Sách đã dẫn, tập 1,trang 36.

28
Sách đã dẫn, tập 2, trang 268.
29
Sách đã dẫn, tập 2, trang 268.
30
Sách đã dẫn, tập 2, trang 268.
25

16


chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất là chủ nghĩa Lênin”31.
Trong Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã dành một phần thích đáng
để giới thiệu các tổ chức chính trị quốc tế, các hình thức làm ăn hợp tác và
hướng nhân dân ta tham gia các tổ chức đó. Khi phân tích về ba tổ chức Quốc tế,
Người nêu rõ: “Đệ nhất quốc tế không thống nhất, Đệ tam quốc tế chỉ huy tất cả
các đảng cộng sản trong các nước phải theo; Đệ nhất quốc tế chỉ nói: “Thế giới
vơ sản giai cấp liên hợp”; Đệ tam quốc tế nói thêm: “Vơ sản giai cấp và các dân
tộc bị áp bức trong thế giới liên hiệp lại”32. Còn “Đệ nhị quốc tế trước vẫn là
cách mệnh, những vì kỷ luật khơng nghiêm, tổ chức không khéo để tụi hoạt đầu
xen vào nhiều quá; sau hoá ra phản cách mệnh”33. “Đệ nhị quốc tế chủ trương để
huề với tư bản”34, “giúp đế quốc chủ nghĩa đè nén dân thuộc địa”35, “xúi dân
nước này chống nước kia, nghề nghiệp này chống nghề nghiệp khác”36. Theo
Người “An Nam muốn cách mệnh thành cơng, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế37.
Đường cách mệnh còn chỉ rõ: “Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là
đồng chí của An Nam”38.
Cùng với báo Le Paria (1921–1923), báo Thanh niên, tác phẩm Bản án chế
độ thực dân Pháp (1925), Đường cách mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, lý
luận, chính trị và tổ chức cho việc ra đời của đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam.

Đường cách mệnh là cuốn giáo khoa chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam,
giúp cho những người cách mạng hiểu được lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, góp sức thúc đẩy phong trào cơng nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam từ tự phát sang tự giác.
Giá trị của Đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc là chỉ ra cho nhân dân
ta: Muốn giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách
mạng vơ sản, phải đi theo con đường của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Những thể nghiệm không thành công của các nhà yêu nước đặt ra cho nhân
dân ta cần phải có con đường giải phóng mới để thốt khỏi ách xâm lược của
một kẻ thù mới, có tiềm lực kinh tế, quân sự hơn ta nhiều lần. Chính lúc đó,
Nguyễn Ái Quốc xuất hiện, Người đã nhận thức đúng quy luật của thời đại. Kể
từ đó, chủ nghĩa Mác-Lênin đến với dân tộc Việt Nam, trước hết là với những
người yêu nước đang đi tìm đường cứu nước.
Như vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã có tác dụng
quyết định chuyển hướng tư tưởng của những người yêu nước Việt Nam ở
những năm đầu thế kỷ XX quyết định đối với thắng lợi cách mạng Việt Nam.
Thiên tài của Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị chính trị, tư tưởng và tổ
chức cho sự ra đời của một Đảng kiểu mới ở nước ta là Người đã vận dụng sáng
31

Sách đã dẫn, tập 2, trang 268.
Sách đã dẫn, trang 286, 287.
33
Sách đã dẫn, trang 286, 287.
34
Sách đã dẫn, trang 286, 287.
35
Sách đã dẫn, trang 286, 287.
36
Sách đã dẫn, trang 286, 287.

37
Sách đã dẫn, trang 286, 287.
38
Sách đã dẫn, trang 301.
32

17


tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, làm cho nó thích
ứng với hồn cảnh và nhu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc ở nước ta, lấy
nó làm kim chỉ nam cho một cuộc cách mạng sáng tạo.
Ngay từ lúc trở thành người cộng sản đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời (1920-1930), Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện là một nhà lý luận về cách mạng
vô sản ở nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế chưa phát triển. Người đã có
những đóng góp to lớn vào việc phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và đã hình
thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, tiền thân của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Vào những năm 1920 -1925, các cuộc đấu tranh của cơng nhân địi tự do
dân chủ, địi cải thiện đời sống, tuy đã bước đầu có ý thức giai cấp nhưng vẫn là
phong trào có tính dân tộc.
Những năm 1928-1929, khi Thanh niên Cách mạng đồng chí hội thực hiện
“vơ sản hố”, thì phong trào cơng nhân đã có những bước phát triển rõ rệt. Các
cuộc đình cơng hay chống đi phu đã có tổ chức, có kỷ luật hơn. Giai cấp công
nhân Việt Nam đã phân rõ bạn, thù trong từng giai đoạn lịch sử, trong từng cuộc
đấu tranh. Phản ánh bước phát triển này, đồng chí Tôn Đức Thắng, một chiến sĩ
cách mạng vô sản, người kéo lá cờ phản chiến trong hạm đội của Pháp ở Hắc
Hải để bảo vệ Cách mạng Tháng Mười Nga, đã viết: “Từ chỗ phong trào rời rạc,
nhờ ảnh hưởng của cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, báo Người cùng khổ, và

mấy tờ Việt Nam hồn mà bước đầu lan rộng, bước đầu có tổ chức để đến năm
1927, công nhân đi vào phong trào Thanh niên Cách mạng đồng chí hội một
cách sâu rộng”.
Từ hình thức các hội ái hữu, tương tế, giai cấp công nhân đã tự tổ chức ra
công hội. Từ Công hội ở Nhà máy Ba Son (1925) đến việc ra đời Công hội Nhà
máy xe lửa Trường Thi (Vinh - Nghệ An), Công hội Nhà máy xi-măng Hải
Phịng, Cơng hội Nhà máy dệt Nam Định, các công hội ở các mỏ than Mạo Khê,
Cẩm Phả, Hồng Gai... Ngày 28-9. 1929, Tổng công hội Bắc Kỳ đã được thành
lập. Tiếp đó, tháng 10 năm 1929, Tổng công hội Nam Kỳ cũng ra đời.
Thanh niên Cách mạng đồng chí hội cịn đóng vai trị quyết định trong việc
làm cho phong trào nông dân ngày càng xích lại gần với phong trào cơng nhân.
Thực tế lịch sử Việt Nam chứng minh rằng, trong cuộc đấu tranh giành quyền
lãnh đạo cách mạng giữa giai cấp công nhân và giải cấp tư sản, phần quyết định
là bên nào nắm được nông dân
Cương lĩnh của Thanh niên Cách mạng đồng chí hội tiền thân của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đề ra: “Tịch ký và đem về công tất cả ruộng đất của tụi
đồn điền, nhà chung và quý tộc, vua chúa. Tịch ký và đem về tất cả ruộng đất
của địa chủ trên 100 mẫu. Đất ruộng tịch ký về phân phối cho dân cày “. Trong
những khẩu hiệu đấu tranh của Thanh niên Cách mạng đồng chí hội có nói: “Đất
bồi, đất hoang về dân cày. Phản đối sự cưỡng chiếm những đất ấy”, “Miễn góp
lúa ruộng năm mất mùa”. Trong lúc đó, tất cả các đảng và tổ chức yêu nước
khác, kể cả Việt Nam Quốc dân Đảng, ngồi chủ trương giải phóng dân tộc có
18


tính chất chung chung, khơng một khẩu hiệu nào đấu tranh cho quyền lợi của
công nhân và nông dân.
Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, một tổ chức đại diện cho giai cấp vô
sản lúc bấy giờ, đã tranh thủ được tầng lớp tiểu tư sản trí thức Việt Nam.
Sau chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, nhiều trí thức và tầng lớp tiểu tư sản

đã tiếp thu tư tưởng tiến bộ, mạnh dạn bước vào con đường cách mạng.
Tuy vậy, họ chưa thoát khỏi hệ tư tưởng tư sản. Nhờ sớm được tiếp xúc với
Nguyễn Ái Quốc và tham gia học tập tại các lớp huấn luyện ở Quảng Châu, các
hội viên của Thanh niên Cách mạng đồng chí hội mà số đơng là những người
tiểu tư sản trí thức có khuynh hướng cộng sản chủ nghĩa sớm hơn và mạnh hơn
các đảng tiểu tư sản khác. Trong những năm 1925 – 1926, nhân cuộc bãi khóa
của học sinh, sinh viên từ Bắc chí Nam trong phong trào địi thả cụ Phan Bội
Châu, để tang cụ Phan Chu Trinh, thực dân Pháp đã đuổi ra khỏi các nhà trường
hàng ngàn giáo viên, sinh viên, học sinh. Với bầu máu nóng của truyền thống
yêu nước, thanh niên đã đi theo tiếng gọi của Matxcova và Quảng Châu. Họ gặp
được Nguyễn Ái Quốc, gặp chủ nghĩa Mác-Lênin và Việt Nam Thanh niên Cách
mạng đồng chí hội. Sự tham gia phong trào cách mạng theo xu hướng này của
những người tiểu tư sản trí thức một lần nữa minh chứng sự thuyết phục của con
đường cứu nước mà Nguyễn Ái Quốc chủ xướng. Chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam kế thừa tinh thần chống ngoại xâm của dân tộc anh hùng, bất khuất từ ngàn
năm, dễ dàng kết hợp với chủ nghĩa quốc tế cộng sản và chống đế quốc giải
phóng dân tộc để xây dựng một Việt Nam dân giàu, nước mạnh mà các vị tiến
bối từng mơ ước.
Cuộc “vơ sản hố” những năm 1928 – 1929 do Việt Nam Thanh niên Cách
mạng đồng chí hội đề xướng giúp tầng lớp tiểu tư sản trí thức “ba cùng” với anh
em cơng nhân và đào luyện họ trở thành những đại biểu của giai cấp cơng nhân.
Qua lịch sử q trình chuẩn bị thành lập Đảng vô sản ở nước ta, chúng ta
thấy một đặc điểm là lớp chiến sĩ cách mạng đầu tiên tiếp thu và truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin xây dựng nên các tổ chức cộng sản, bên cạnh một số ít người
thuộc giai cấp công nhân, số đông thuộc giới trí thức. Nhất là trung và tiểu trí
thức.
Thành cơng trong sứ mệnh đẩy nhanh phong trào công nhân từ tự phát sang
tự giác, liên minh với phong trào nông dân và tranh thủ được tầng lớp tiểu tư sản
trí thức, Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội đã giành thắng lợi trong
cuộc đấu tranh ý thức hệ, đã đẩy lùi tư tưởng cải lương, chủ nghĩa dân tộc hẹp

hòi của hệ tư tưởng tư sản, xác lập hệ tư tưởng của giai cấp vô sản trong phong
trào công nhân và phong trào yêu nước.
Từ ngày trở về Quảng Châu, Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với những thanh
niên yêu nước, nhiệt tình cách mạng trong tổ chức Quang phục hội của Phan Bội
Châu. Đó là những thanh niên đầy nhiệt huyết như Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu,
Lê Hồng Phong, Lê Cần, Nguyễn Giản Khanh, Đặng Xuân Hồng, Trương Quốc
Huy, ... trong nhóm Tâm tâm xã. Họ đã sớm đổi mới đường lối của mình theo

19


quan điểm của Hồ Chí Minh và trở thành những người cộng sản đầu tiên trong
Cộng sản đoàn.
Ở các lớp huấn luyện Quảng Châu, học viện không chỉ, là hội viên Thanh
niên Cách mạng đồng chí hội mà cịn thu hút những đảng viên chủ chốt của Hội
Phục Việt (sau này đổi tên là Tân Việt) như Trần Phú, Lê Duy Điểm, Tôn
Quang Phiệt. Hà Huy Tập. Nguyễn Ngọc Ba, Phan Trọng Bình. Nguyễn Văn
Lợi... sang học tập. Họ đã trở thành Hội viên Thanh niên và là những đảng viên
lớp đầu của Đảng. Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, một đại biểu của Đông Dương
Cộng sản Đảng dự Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam sau này, vốn là
cán bộ chủ chốt của Việt Nam Quốc dân Đảng. Việt Nam Thanh niên Cách
mạng đồng chí hội cũng nhanh chóng thu hút những người tiên tiến trong Đảng
Thanh niên của Trần Huy Liệu. Đầu năm 1929, Nguyễn An Ninh đã bàn giao
toàn bộ tổ chức Thanh niên Cao vọng đảng cho những đảng viên Tân Việt chịu
ảnh hưởng của Thanh niên Cách mạng đồng chí hội.
4. Ba tổ chức cộng sản xuất hiện ở Việt Nam
Vào giữa năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào, Việt Nam
Thanh niên Cách mạng đồng chí hội. Một tổ chức q độ, khơng cịn đủ sức
lãnh đạo. Trong lúc đó, số lượng Cộng sản đoàn trong Thanh niên Cách mạng
đồng chí hội ngày một thêm nhiều. Cần phải lập một Đảng Cộng sản để tổ chức,

lãnh đạo phong trào cách mạng trong tình hình mới là một yêu cầu thực tế.
Tháng 3 năm 1929. Những Cộng sản đoàn trong Kỳ bộ Thanh niên Cách
mạng đồng chí hội ở Bắc Kỳ gồm các đồng chí: Trần Văn Cung, Trịnh Đình
Cứu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Văn Tuân, Dương
Hạc Đính đã họp tại số nhà 5D phố Hàm Long, thành phố Hà Nội, quyết định
thành lập chi bộ cộng sản và chủ trương tiến tới thành lập Đảng Cộng sản thay
thế Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội để lãnh đạo cách mạng.
Ngày 9 tháng 5 năm 1929. Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Việt Nam
Thanh niên Cách mạng đồng chí hội thơng qua Tun ngơn, Chính cương, Điều
lệ Hội, Thư gửi Quốc tế Cộng sản và các nghị quyết quan trọng khác của Hội.
Kiến nghị của đoàn đại biểu Bắc Kỳ về việc giải tán Hội để thành lập Đảng
Cộng sản không được chấp nhận đưa vào nghị quyết. Đoàn đại biểu Bắc Kỳ rút
khỏi Đại hội về nước ra lời kêu gọi công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân
dân cách mạng ủng hộ chủ trương thành lập Đảng Cộng sản.
Ngày 17 tháng 6 năm 1929, những đảng viên trong Chi bộ 5D Hàm Long
đã họp tại số nhà 316 phố Khâm Thiên, Hà Nội tuyên bố thành lập Đông Dương
Cộng sản Đảng; cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời gồm các đồng chí:
Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Nguyễn
Phong Sắc, Trần Tư Chính, Nguyễn Văn Tuấn; thơng qua Tun ngơn và quyết
định xuất bản báo Búa liềm và xúc tiến việc xây dựng tổ chức đảng và các đoàn
thể quần chúng.
Sau khi Đại hội toàn quốc của Thanh niên Cách mạng đồng chí hội bế mạc,
6 uỷ viên mới được bầu vào Tổng bộ (Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Thiệu, Châu Văn
Liêm, Nguyễn Sỹ Sách, Lê Hồng Sơn, Phạm Văn Đồng) đã họp bàn việc thành
20


lập Đảng Cộng sản, cử ra Ban trù bị gồm các đồng chí lãnh đạo Tổng bộ nói
trên. Thực hiện chủ trương này những Cộng sản đồn cịn lại trong Việt Nam
Thanh niên Cách mạng đồng chí hội đã hình thành nên các chi bộ cộng sản.

Ngoài hai chi bộ cộng sản ở Trung Kỳ và Nam Kỳ, cịn có chi bộ cộng sản
người Việt Nam ở Thái Lan và một chi bộ ở Hồng Kông (Trung Quốc).
Thượng tuần tháng 8 năm 1929. An Nam Cộng sản đảng được thành lập tại
căn phòng số 1, lầu 2 “Phòng cảnh khách lầu” ở góc đường Bonard-Philippines
Sài Gịn (nay là góc đường Lê Lợi – Nguyễn Trung Trực – thành phố Hồ Chí
Minh). Hội nghị này đã cử ra Ban lâm thời chỉ đạo của Đảng gồm các đồng chí:
Châu Văn Liêm (tức Việt), Nguyễn Thiệu, Trần Não, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng
Sơn, Nguyễn Sỹ Sách do đồng chí Châu Văn Liêm làm bí thư.
Sau khi Đơng Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng ra đời,
các đảng viên Tân Việt Cách mạng chịu ảnh hưởng của Việt Nam Thanh niên
Cách mạng đồng chí hội đã tiến hành Đại hội thành lập Đơng Dương Cộng sản
liên đồn vào ngày 1 tháng 1 năm 1930. Hội nghị gồm có các đồng chí Trần
Hữu Chương, Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều), Nguyễn Xn Thanh, Trần
Đại Quả, Ngơ Đức Đệ, Ngơ Đình Mẫn, Lê Tiềm, Lê Tốn. Hội nghị chưa kết
thúc thì các đại biểu đã bị chính quyền thực dân Pháp bắt. Do vậy, Đơng Dương
Cộng sản liên đồn ra đời nhưng chưa có Ban Chấp hành Trung ương của Liên
đồn.
Đơng Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng sau khi ra đời đã
có sự tranh giành ảnh hưởng, tranh giành quần chúng và cơng kích lẫn nhau.
Đây là những mâu thuẫn trong quá trình phát triển đi lên của phong trào cộng
sản Việt Nam. Tình hình ấy phản ánh sự ấu trĩ và khuynh hướng biệt phát, tiểu
tư sản trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở buổi ban đầu. Hai
đảng đã nhiều lần trao đổi thư từ để giải quyết nhưng vẫn không thống nhất
được.
Những người cộng sản và những người yêu nước chân chính đều nhận thấy
cần phải sớm khắc phục hiện tượng này, thành lập một Đảng Cộng sản thống
nhất, thực sự Mác-xít lêninnít để lãnh đạo cách mạng tiến lên và giành thắng lợi.

21



CHƯƠNG III: CƯƠNG LĨNH ĐẦU TIÊN
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Trong vòng 7 tháng, từ 17 tháng 6 năm 1929 đến ngày 1 tháng 1 năm 1930,
ở nước ta đã xuất hiện 3 tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An
Nam Cộng sản Đảng và Đơng Dương Cộng sản liên đồn. Các tổ chức cộng sản
ra đời là phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc và thời đại.
Sự ra đời của các tổ chức cộng sản như một luồng gió mới thổi bùng phong
trào cách mạng trong cả nước. Các chi bộ của các tổ chức đảng đã trực tiếp lãnh
đạo các cuộc đấu tranh của quần chúng ở nhiều xí nghiệp cơng nghiệp và các
đồn điền,... trên mọi miền đất nước. Từ tháng 4 năm 1929 đến tháng 4 năm
1930, có 43 cuộc bãi cơng của cơng nhân, trong đó 22 cuộc nổ ra ở miền Bắc, 4
cuộc ở miền Trung, 12 cuộc ở miền Nam và 5 cuộc ở Campuchia. Phong trào
bãi công của công nhân đã liên hệ với phong trào nông dân chống thuế, chống
cướp ruộng và phong trào học sinh bãi khóa, tiểu thương bãi chợ, đã tạo thành
một làn sóng đấu tranh dân tộc dân chủ mạnh mẽ khắp đất nước và có tổ chức.
Đánh giá trình độ và tính chất của phong trào quần chúng trong những năm cuối
thập kỷ 20 của thế kỷ này, Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 của Đảng đã
viết: “Sự tranh đấu của thợ thuyền càng ngày càng hăng hái. Dân cày cũng đã
tỉnh dậy chống đế quốc và địa chủ rất kịch liệt. Những cuộc bãi công trong năm
1928-1929; những cuộc đấu tranh rất dữ dội của thợ thuyền và dân cày trong
năm nay (1930) đã chứng tỏ ra rằng sự tranh đấu của giai cấp ở Đông Dương
ngày càng bành trướng. Điều đặc biệt và quan trọng nhất trong phong trào cách
mạng ở Đông Dương là sự tranh đấu của quần chúng cơng nơng có tính chất độc
lập rất rõ rệt, chớ không phải là chịu ảnh hưởng quốc gia chủ nghĩa như lúc
trước nữa”(I).
Sự phát triển của phong trào công nông và phong trào yêu nước ngày càng
địi hỏi phải có sự lãnh đạo chặt chẽ của một bộ tham mưu chiến đấu thống nhất
của cách mạng. Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã có

nhiều cuộc trao đổi để thống nhất về mặt tổ chức nhưng chưa đi đến kết quả. Do
đó, phong trào cộng sản ở Việt Nam vào cuối năm 1929 đầu năm 1930 vẫn ở
trong tình trạng phân tán về tổ chức.
Trước tình hình đấu, Quốc tế Cộng sản đã gửi thư cho những người cộng
sản ở Đông Dương yêu cầu thống nhất lại. Thành lập một đảng duy nhất. Bức
thư nêu rõ: “Đến bây giờ cái đầu tiên lập thành một Đảng Cộng sản còn hết sức
chậm trễ đối với sự phát triển của cuộc vận động cách mạng ở Đơng Dương.
Khơng có một đảng cộng sản độc nhất trong lúc cuộc vận động quần chúng thợ
thuyền và nơng dân càng ngày càng phát triển, đó là một sự nguy hiểm rất lớn
cho tương lai tối cận của cuộc cách mạng ở Đơng Dương”. Trong thư cịn nêu
rõ: “Nhiệm vụ quan trọng hơn hết và tuyệt đối cần kíp của tất cả những người
cộng sản Đơng Dương là sáng lập một đảng cách mạng của giai cấp vô sản.
Nghĩa là một đảng cộng sản quần chúng. Đảng ấy phải là một đảng độc nhất, và
ở Đông Dương chỉ có đảng ấy là tổ chức cộng sản mà thơi”.
22


Quốc tế Cộng sản giao cho đồng chí Nguyễn Ái Quốc chịu trách nhiệm
“hợp nhất các phần tử cộng sản chân chính lại” để thành lập một đảng duy nhất.
Nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, mùa đông năm 1929, Hồ Chí Minh đã
từ Thái Lan trở lại Hồng Kơng (Hương Cảng) nắm tình hình cụ thể, chuẩn bị kế
hoạch để thực hiện nhiệm vụ trọng đại mà Quốc tế Cộng sản giao cho. Những
vấn đề nóng bỏng đặt ra cho Người là phải nghiên cứu giải quyết những bất
đồng trước đây của các tổ chức cộng sản để đi đến thống nhất; chuẩn bị các văn
kiện cho đảng mới; dự kiến ngày họp và nơi mở hội nghị sao cho được thuận lợi.
Trong hồn cảnh ấy, đồng chí Nguyễn Ái Quốc phải vừa trực tiếp bắt tay
chuẩn bị các văn kiện, vừa liên lạc với các tổ chức đảng ở trong nước và ở ngoài
nước; vừa lo vấn đề tổ chức ăn, ở, đi lại cho các đại biểu, ... Đầu tháng 1 năm
1930, mọi công việc chuẩn bị đã hoàn thành. Người quyết định triệu tập Hội
nghị vào dịp tết cổ truyền Phương Đông – Tết Canh ngọ, để đại biểu đi lại thuận

lợi và để đánh lạc hướng mật thám.
Từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, Hội nghị hợp nhất được
tiến hành tại nhà một cơng nhân trong xóm lao động nghèo ở bán đảo Cửu Long,
gần Hồng Kông (Trung Quốc).
Tham dự Hội nghị có hai đại biểu của Đơng Dương Cộng sản Đảng là
Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh; hải đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng
là Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm. Đông Dương Cộng sản liên đồn vì thành
lập muộn hơn nên khơng kịp cử đại biểu đến dự. Hội nghị tiến hành dưới sự chủ
trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu của Quốc tế Cộng sản.
Sau một quá trình làm việc khẩn trương, các đại biểu đã hồn tồn nhất trí
tán thành ý kiến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc về thống nhất các Đảng Cộng
sản hiện có ở trong nước thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hội nghị uỷ nhiệm cho đồng chí Nguyễn Ái Quốc dự thảo Chánh
cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc thay
mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam ra lời kêu gọi gửi đến quần
chúng cơng, nơng, bình, đồng bào và đồng chí trong cả nước nhân dịp Đảng
Cộng sản Việt Nam được thành lập.
Ngày 7-2-1930, Hội nghị đã thơng qua Chính cương vắn tắt của Đảng,
Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vẫn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Hội nghị còn nhất trí về việc hợp nhất các đồn thể quần chúng và thơng
qua Điều lệ tóm tắt của Cơng hội, Nơng hội, Đồn Thanh niên Cộng sản. Hội
phụ nữ, Hội Cựu tế đỏ, Hội Phản đế (tức là Mặt trận dân tộc thống nhất chống
đế quốc), ...
Hội nghị còn quyết định kế hoạch thống nhất các tổ chức cơ sở đảng và tổ
chức quần chúng ở trong nước; thể thức cử Ban Chấp hành Trung ương lâm thời
và bàn việc liên hệ để thu nạp Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Hội nghị thống
nhất phương pháp làm việc tiếp theo là: Khi về nước. Các đại biểu đều lấy danh
nghĩa của đại biểu quốc tế, mà tiến hành công việc của Hội nghị hợp nhất.

23


×