MỞ ĐẦU
Tổng kết sâu sắc thực tiễn lịch sử hoạt động lãnh đạo của Đảng và của quá
trình cách mạng Việt Nam từ khi thành lập Đảng đến nay, “Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (Bổ sung, phát triển năm
2011) tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đây là một luận điểm
cực kỳ quan trọng được khái quát, rút ra từ thực tiễn phong phú, sinh động của
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, nó chỉ ra nguồn gốc sâu xa của mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam do
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo, được lý luận Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh soi đường, chỉ lối.
Ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở
nước ta ngày càng đi vào chiều sâu, những biến đổi trên thế giới nhanh chóng,
phức tạp, khó lường; những vấn đề mới đặt ra trong đời sống xã hội ngày càng
nhiều, càng đòi hỏi phải có những lời giải đáp thuyết phục, có cơ sở lý luận và
thực tiễn. Vì vậy, hơn lúc nào hết, việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu nhằm khẳng
định, bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam đang trở thành nhiệm vụ quan trọng,
cấp bách trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng ta hiện nay. Trong đó, tiếp tục
nghiên cứu và vận dụng tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn đối
với việc định hướng con đường phát triển, đổi mới đất nước. Chính vì vậy, em
chọn đề tài tiểu luận của mình là: “Nội dung, giá trị và ý nghĩa tư tưởng đổi mới
của Hồ Chí Minh”.
1
NỘI DUNG
I. Nội dung tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh
1. Xung quanh quan niệm về đổi mới
Đây là 1 khái niệm xuất hiện mới đây ở Việt Nam, vào khoảng những năm
80 của XX. Với chủ trương đổi mới, Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986 khẳng
định: “Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách
mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”. Và hiện nay, đổi mới trở thành 1 khái niệm
trung tâm của các khoa học chính trị ở Việt Nam.
Đổi mới theo Hồ Chí Minh là sự biến đổi theo chiều hướng tích cực. Đó
chính là sự thay thế cái cũ (lạc hậu, lỗi thời, thậm chí phản động, cản trở sự phát
triển) bằng cái mới (tiến bộ, lành mạnh, phục vụ cho sự phát triển chứ ko phải cái
mới bất kỳ). Đây là sự tư duy biện chứng, bởi nếu chỉ hiểu giản đơn thì cái
cũ là xấu, cái mới là tốt. Tuy nhiên trong cuộc sống có nhiều cái mới giả danh,
giả hiệu, núp dưới cái mới để chống lại cái tiến bộ, nếu không nhận thức rõ điều
này dễ dẫn đến phỉ báng truyền thống.
Đổi mới là sự biến đổi về chất có ý nghĩa như 1 cuộc cách mạng. Tức là sự
thay đổi căn bản, toàn diện, sâu sắc và có tính triệt để. Hồ Chí Minh nói: “Cách
mạng là phá cái cũ, đổi ra cái mới”, Người giải thích cái cũ đó là lạc hậu, lỗi thời,
cái mới là tốt đẹp, tiến bộ, phát triển. Còn theo các nhà kinh điển thì: cách mạng là
sự nhảy vọt của lịch sử, là phương thức tất yếu của lịch sử để thay kiểu này bằng
kiểu khác.
Khi đi vào đổi mới, con người phải xử lý mối quan hệ giữa cái cũ và
cái mới. Nhưng không phải cái gì cũng làm mới tất cả mà trong khi kiến tạo cái
mới phải chú trọng tính kế thừa: Cái gì cũ mà vẫn đúng, vẫn tốt thì nên sử dụng.
Cái gì cũ tuy đúng, tốt nhưng phiền hà, kích rích thì ta phải sửa chữa nó đi. Cái
2
gì cũ mà thực sự là lạc hậu, lỗi thời thì phải kiên quyết bỏ. Và cái mới nếu thực
sự là tiến bộ, tích cực thì phải kiên quyết áp dụng.
Hồ Chí Minh cho rằng, trong đổi mới nó diễn ra như một cuộc đấu tranh,
đây là một cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, gian khổ. Vì nó động chạm đến tâm
lý con người, thói quen, tổ chức và bộ máy. Người nhận xét: trong thực tế có
những cái cũ tuy lỗi thời, lạc hậu, tuy là xấu nhưng vì người ta đã quá quen nên
người ta cho là bình thường. Có những cái mới tuy là tiến bộ, tuy là cách mạng
nhưng vì nó quá lạ lẫm, người ta chưa quen, chưa sẵn sàng tiếp nhận nên người ta
chống lại. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân như chống một thứ giặc nội xâm
là khó nhất. Vì chống lại chính bản thân mình, chống lại những gì xấu xa, hư hỏng
ở trong mỗi người. Vì vậy, đấu tranh chống giặc nội xâm nhiều khi có sự đau đớn
ở trong lòng cũng phải chấp nhận.
Tóm lại, đổi mới đòi hỏi phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, tức là thay đổi cách
nghĩ để rồi thay đổi cách làm, để vượt qua những thói quen xấu và xây dựng
những thói quen tốt, làm cho đổi mới hướng tới sự phát triển, đổi mới có mối liên
hệ mật thiết thiết với văn hóa. Trên thực tế, đổi mới là cả một quá trình xây dựng
văn hóa, gồm cả trí tuệ, khoa học, đạo đức và văn hóa.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới:
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một chỉnh thể, bao gồm:
+ Học thuyết giải phóng: giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp công
nhân, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại để giải phóng từng con người.
Trước mắt là xóa bỏ thân phận nô lệ để trở thành người tự do.
+ Chủ thuyết phát triển: toàn bộ chủ thuyết của Hồ Chí Minh là phát triển.
Phát triển dân tộc Việt Nam trên con đường lớn của lịch sử là chủ nghĩa xã hội,
và mục đích cuối cùng là tới chủ nghĩa cộng sản. Để ai ai cũng tự do, hạnh phúc,
3
ko có ai là nô lệ. Cụ thể hơn, Người hình dung dân tộc Việt Nam nhất định phải
trở thành một dân tộc thông thái. Giống như Ăngghen đã từng nói: dân tộc nào
muốn đứng trên đỉnh cao của nền văn minh thì dân tộc đó phải nắm vững lý luận,
muốn nắm vững lý luận phải hiểu lịch sử triết học.
Hồ Chí Minh đặc biệt kỳ vọng vào lớp trẻ. Người vận dụng tư tưởng của
Lênin để khuyên thanh niên học tập: “Học, học nữa, học mãi” . Người ví; đường
đời là một chiếc thang không có nấc chót, học tập là quyển vở không có trang
cuối cùng. Bác dặn: Tuổi trẻ phải ham học, ham làm, ham tiến bộ. Phải tránh xa
như tránh lửa 3 điều nguy hiểm: tiền bạc, danh vọng địa vị, quyền lực bởi những
thứ đó nếu không làm chủ được thì rất dễ rơi vào hư hỏng.
Trong chủ thuyết phát triển, Người đặc biệt nhấn mạnh đến sự phát triển của
chủ nghĩa xã hội. Bác đưa ra luận điểm gần như một định nghĩa: xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là xây dựng một xã hội mới sao cho đời sống vật
chất ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày càng tốt, xã hội ngày càng văn minh,
tiến bộ. Trong Di chúc, tâm nguyện cuối cùng của Người là: xây dựng một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh.
+ Triết lý phát triển: đó là triết lý nhân sinh và triết lý hành động. Tất cả là
vì độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Gần đây còn nghiên cứu thêm minh
triết Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh nói minh triết bằng những câu giản dị nhất, không cần chứng
minh, giải thích gì. Ví dụ như câu nói: Đã là người thì dù xấu hay tốt, văn minh
hay dã man nhưng xét ra đều có tình cả.
Bác đưa cả đạo đức vào trong khoa học: Người có đạo đức thì dễ tiếp thu
chân lý hơn. Ai có lòng từ thiện, ngay thẳng, cương trực, tử tế thì nhận ra lẽ phải
dễ hơn.
4
Nhìn vào quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta sẽ thấy rất rõ
đó là một quá trình đổi mới liên tục trong nhận thức tư tưởng, cũng như trong hoạt
động thực tiễn của Người. Có thể nói, Hồ Chí Minh là con người đổi mới, là một
người đổi mới bẩm sinh, một thiên tài đổi mới. Ngay từ năm 1927, trong Đường
cách mệnh, Người đã viết: "Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu
đổi ra cái tất". Danh từ "đổi mới" là danh từ của Hồ Chí Minh, là danh từ mà
Người đã nêu ra từ năm 1949 trong bài Dân vận bất hủ: "Công việc đổi mới, xây
dựng là trách nhiệm của dân". Bốn năm sau, trong bài nói chuyện trong buổi khai
mạc lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, dân, chính ở cơ quan trung ương, ngày 6/2/1953,
Người đã đưa ra luận điểm bất diệt: “Xã hội bây giờ ngày mót phát triển. Tư tưởng
hành động cũng phát triển. Nên cứ giữ lấy cái kẹp giấy cũ không thay đổi là không
đi đến đâu cả”.
Và, nhiệm vụ đổi mới căn bản và toàn diện, "chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng,
để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi" là nhiệm vụ mà Hồ Chí Minh đã xác định
trong Di chúc của Người. Có thể nói, đổi mới chính là linh hồn của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Kết luận này được rút ra từ những sự kiện lịch sử.
Ngay từ lúc mới 13 tuổi, khi lần đầu được tiếp xúc với những từ Tự do Bình đẳng - Bác ái trong tiếng Pháp, Người nảy ra ý nghĩ mới lạ, ý nghĩ mà lịch sử
về sau đã chứng minh tính chất phi thường của nó - "muốn làm quen với nền văn
minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy". Ý nghĩ này
thể hiện tính ham hiểu biết, muốn tìm hiểu sự vật đến nơi đến chốn của Hồ Chí
Minh. Đến khi 15 tuổi, Người đã nuôi chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng
đồng bào. Người tham gia công tác bí mật, làm liên lạc. Người khâm phục những
nhà yêu nước tiền bối Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và
Phan Bội Châu, nhưng thấy rằng phải có cách làm khác với cách làm của các cụ.
Trong khi các trí thức và thanh niên có tinh thần yêu nước đua nhau theo phái
5
Đông du sang Nhật thì Người lại chọn con đường sang nước Pháp và các nước
khác để xem họ làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bào.
Trước khi đi theo Quốc tế cộng sản, Người chưa biết chiến lược, sách lược
là gì, không rõ CHXH và chủ nghĩa cộng sản khác nhau thế nào, cũng chưa đọc
một tác phẩm nào của Lênin, vậy mà khi cần phải có quyết định trong việc lựa
chọn giữa Quốc tế II và Quốc tế III, Người đã nhạy bén chỉ dựa vào một tiêu chí
duy nhất là Quốc tế nào ủng hộ các dân tộc thuộc địa, để đưa ra quyết định đúng
đắn.
Trong khi chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế cộng sản đặc biệt nhấn mạnh
đấu tranh giai cấp chống địa chủ, tư bản và coi việc chống chủ nghĩa xét lại, chủ
nghĩa cải lương, chủ nghĩa dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, trong khi Quốc tế cộng
sản có quan điểm cho rằng công cuộc giải phóng thuộc địa chỉ có thể thực hiện sau
khi giai cấp vô sản ở chính quốc giành thắng lợi trong cách mạng vô sản, thì
Người đã không như thường lệ, chỉ giản đơn phụ họa và chứng minh cho những
quan điểm đó, mà đã khảng khái và dũng cảm nêu lên những quan điểm mới, khác
hẳn. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Người đã đưa ra chủ trương
tiến hành khởi nghĩa vũ trang ở các nước Đông Dương. Ở đây, một là, Hồ Chí
Minh đã xác định rõ con đường đấu tranh vũ trang mang tính quần chúng để giải
phóng dân tộc, chứ không chờ đến sau khi "giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở
các nước tư bản tiên tiến" như Tuyên ngôn thành lập của Quốc tế cộng sản năm
1919 và Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Quốc tế cộng sản về sau (1928) đã xác
định. Hai là, cuộc khởi nghĩa vũ trang có thể nổ ra trùng hợp với cuộc cách mạng
vô sản Pháp, chứ không phải đợi sau khi cuộc cách mạng vô sản Pháp thắng lợi rồi
mới tiến hành. Đây là tư duy đổi mới bước đầu của Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc. Và, như chúng ta đều biết, về sau, khi đã cân nhắc, xem xét kỹ
lưỡng mọi mặt, Hồ Chí Minh đã đạt đến sự thăng hoa trong tư tưởng: cách mạng
6
giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng vô sản ở các nước tư bản
chính quốc và giúp cho phong trào công nhân ở các nước chính quốc.
Những quan điểm đổi mới táo bạo và to lớn được viết trong Báo cáo trên thể hiện
tinh thần đổi mới, tầm cao trí tuệ và khí phách anh hùng cách mạng của Hồ Chí
Minh. Nó chỉ có thể là sản phẩm phi thường của một trí tuệ phi thường, một tư duy
đổi mới phi thường. ở đây, xin phép được lưu ý ràng, Hồ Chí Minh đã viết báo cáo
đó trong lần đầu tiên đến Mátxcơva vào năm 1924. Lúc đó, Người mới theo Lênin
và Quốc tế cộng sản được 4 năm trời, và nhiều lắm cũng chỉ mới qua một lớp học
ngắn ngày và có lẽ là ngẫu nhiên tại Trường Đại học phương Đông. Vậy mà,
Người đã dũng cảm và trung thực, bất chấp mọi sự nguy hiểm về mặt chính trị có
thể xảy ra đối với bản thân, viết ra những cảm nhận và suy nghĩ độc đáo hết sức
khác thường của mình, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn và lợi ích của đất nước
làm thước đo chân lý duy nhất. Điều đáng lưu ý nữa là, văn phong của bản báo cáo
là văn phong biện luận. Sau khi nêu lên những sự thật về tình trạng giai cấp ở Việt
Nam, Người đã viết: "Điều đó, không thể chối cãi được". (Sau này, trong Tuyên
ngôn độc lập, nghĩa là 31 năm sau, Người lại dùng câu: "Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được" sau khi nêu lên những quyền con người được ghi trong
Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, để đi đến tuyên bố về quyền dân tộc chính
đáng không thể phủ nhận của nhân dân Việt Nam).
Và, chúng ta không lấy làm lạ, từ những nhận thức phi thường ban đầu đó, về sau
Hồ Chí Minh đã đi đến những quan điểm đổi mới hết sức phi thường, những kết
luận hết sức phi thường trong việc đổi mới chiến lược, sách lược cách mạng phù
hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến. Có
thể thấy, trong điều kiện giai cấp và quan hệ giai cấp như ở Việt Nam khi đó, trong
điều kiện "công nhân có thể là 2% trong dân số, không được học hành" (theo báo
7
cáo của Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế cộng sản ngày 21/9/1923), có nghĩa là trong
điều kiện giai cấp công nhân công xưởng mới ở thời kỳ manh nha hình thành và
với thực trạng giai cấp và quan hệ giai cấp đó thì liệu có thể áp dụng học thuyết
đấu tranh giai cấp, cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản quá độ trực tiếp lên
CHXH của chủ nghĩa Mác - Lênin được không, Nguyễn Ái Quốc đã dũng cảm nêu
lên những nhận xét và quan điểm: "Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống
như ở phương Tây", "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước", "xem xét
lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó" và "chúng ta phải coi chừng”! Các dân
tộc Viễn Đông có trải qua hai giai đoạn đầu không?". Có thể nói, những nhận thức
nêu lên trong bản báo cáo trên chính là ngọn nguồn tư tưởng của đường lối giương
cao ngọn cờ dân tộc dân chủ ngay từ đầu và sự đổi mới chiến lược, sách lược bước
đầu được xác định ở Hội nghị Trung ương VIII (khoá I), để rồi sau đó, được hoàn
chỉnh ở Đại hội II của Đảng. Và, 29 năm sau, trong Thường thức chính trị, Hồ Chí
Minh đã trực tiếp trả lời cho những vấn đề nêu trên với những nội dung hoàn toàn
mới mẻ như sau: "Thời đại của chúng ta là thời đại mới, thời đại cách mạng thắng
lợi...". "Thời đại mới khiến cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới".
Và, "tuỳ theo hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau để đi
đến chủ nghĩa xã hội.
Đối với Việt Nam là một nước đi lên CHXH từ xã hội phong kiến thuộc địa thì
phải "kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên CHXH". Đồng thời, Hồ Chí Minh
đã nêu lên những đặc điểm về chính trị và kinh tế của chế độ dân chủ mới: sự lãnh
đạo của Đảng, thực hiện "nhân dân dân chủ chuyên chính", phát triển nền kinh tế 5
thành phần (quốc doanh, hợp tác xã, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản Nhà nước, trong
đó, kinh tế quốc doanh giữ vai trò lãnh đạo).
Rõ ràng, Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ thực sự là một bản báo cáo hết
sức phi thường. Nó thể hiện tính độc lập tự chủ, đổi mới trong tư duy, trong nhận
8
thức lý luận và tính trung thực, thái độ tôn trọng chân lý, tôn trọng sự thật, tinh
thần đồng cảm và khí phách cách mạng của Hồ Chí Minh. Nó báo hiệu sự hình
thành, sự ra đời tất yếu của một hệ thống tư tưởng mới của Hồ Chí Minh.
Ở đây, có thể nêu lên một số điểm mang tính khái quát trong hệ thống tư
tưởng mới đó:
- Từ "dùng sức ta mà giải phóng cho ta" đến cách mạng giải phóng dân tộc
có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
-
Từ "trở về trước, đi vào quần chúng... đưa họ ra đấu tranh giành tự
do độc lập" đến "không có gì quý hơn độc lập tự do".
-
Từ "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước" đến cách mạng
dân tộc dân chủ, Nhà nước dân chủ, "nước ta là nước dân chữ đến Đảng chỉ có thể
là Đảng của một quốc gia.
-
Từ "thời đại mới là thời đại cách mạng thắng lợi" đến "cách mạng
Việt Nam là cách mạng dân chủ mới".
-
Từ "Đảng của nhân dân, Đảng của dân tộc" đến Mặt trận đại đoàn
kết toàn dân, đại đoàn kết dân tộc.
-
Từ "quyền dân tộc của nhân dân Việt nam" đến Mặt trận quốc tế
ủng hộ cách mạng Việt Nam.
-
Từ "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư", "nhân, nghĩa, trí, dũng,
tín" đến "trăm điều phải có thần linh pháp quyền".
-
Từ chiến lược, sách lược đánh thắng hai đế quốc to đến chiến lược
đối ngoại hòa bình, làm bạn với tất cả các nước, không gây thù oán với một ai.
-
Từ "ngoại giao và kinh tế có ảnh hưởng lẫn nhau”, "nếu mình có
một chương trình kinh tế có lợi cho người ngoại quốc, họ có thể giúp mình" đến
9
thực hiện chính sách mở cửa", mở rộng “lưu thông trong ngoài" để phát triển nền
kinh tế "theo hướng chủ nghĩa xã hội" của đất nước.
-
Từ đấu tranh vũ trang đến đường lối ứng xử hiện đại: cùng giữ gìn
hoà bình, cùng tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, cùng đối thoại bình đẳng,
cùng hiểu biết nhau, cùng thành thực tin cậy nhau, cùng nhân nhượng, cùng thỏa
thuận và hợp tác cũng có lợi.
-
Từ đổi mới nhận thức về CHXH đến con đường định hướng XHCN
thích hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
-
Từ "toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng
chiến” đến "dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân", tiến hành đổi mới "chống lại
những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi", tiến tới xây
dựng và thực hiện thành công CHXH ở nước ta.
Việc phát hiện và nêu lên những quan điểm mới, những chân lý mới là một
việc rất không giản đơn và dễ dàng. Những thế lực ra đời trên cơ sở những quan
điểm cũ và được lợi (về chính trị, vật chất và tinh thần) trong việc duy trì những
quan điểm cũ sẽ tìm trăm phương nghìn kế chống lại bất kỳ một quan điểm mới
nào mà họ cho là có thể làm tổn hại lợi ích hoặc tình cảm riêng tư của họ. Cho
nên, một người dám nêu lên những quan điểm mới, nhất là những quan điểm mới
trong lĩnh vực khoa học xã hội, thực sự là một người "trí, nhân, dũng". Và, Hồ Chí
Minh chính là một con người "trí, nhân, dũng" vĩ đại.
II. Giá trị, ý nghĩa của tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh:
Nhìn chung, có thể thấy hệ thống những quan điểm mới của Hồ Chí Minh
đều là sản phẩm của sự kế thừa biện chứng và sự phát triển nâng cao về chất của
Người đối với những giá trị tinh thần và tư tưởng của dân tộc Việt Nam, những
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn giữ được giá trị trong thời đại mới và
10
những giá trị quý báu trong kho tàng tinh thần và tư tưởng của phương Đông,
phương Tây, của toàn nhân loại. Đặc biệt, Người đã vận dụng tài tình hai quy luật
của phép biện chứng duy vật, hai quy luật quy định tiến trình vận động và phát
triển của xã hội: quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng
tầng. Đồng thời, Người còn kết hợp, vận dụng một cách linh loạt và tài tình một
quy luật khác nữa, đó là quy luật đổi mới công bằng. Những luận điểm của Người
phản ánh yêu cầu tổng quát, mang tính tất yếu của quy luật này: nếu cứ duy trì
phương pháp tư duy cũ, tư tưởng và quan niệm cũ và cách làm (bao gồm cả chiến
lược, sách lược) cũ, là không đi đến đâu cả, có nghĩa là đi vào chỗ bế tắc, đi vào
ngõ cụt. Thực ra, quy luật này cũng là một quy luật vận động của xã hội loài
người. Con người thường vẫn vận dụng nó, nhưng không nhận thức ra nó.
Chúng ta cần có sự suy ngẫm và nhận thức đầy đủ đối với luận điểm thể
hiện chân lý và tính quy luật của thời đại mới nêu trên của Hồ Chí Minh. Thứ nhất,
phải nhận thức và vận đụng cho tốt quy luật đổi mới cân bằng động nêu trên. Thứ
hai, phải đổi mới căn bản, toàn điện và đồng bộ đối với "cái nếp cũ” nói chung
cũng như đối với “cái nếp cũ” cụ thể trong mỗi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chúng ta không chỉ phải nghiên cứu sự đổi mới “cái nếp cũ” trong tư tưởng và
hành động của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực xây dựng chiến lược, sách lược cách
mạng, mà còn phải nghiên cứu những tư tưởng đổi mới của Người đối với "cái nếp
cũ” trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống: nếp nhà, nếp làng, nếp nước, nếp tu
thân - lối làm người, nếp tư duy - lối suy nghĩ, nếp hành động - lối làm việc, nếp
diễn đạt - lối viết lối nói, nếp giao tiếp - lối ứng xử, nếp sinh hoạt - lối sống... Chắc
chắn, tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực này cũng hết sức độc
đáo, đặc sắc, sáng ngời chân - thiện - mỹ. Nghiên cứu bộ phận tư tưởng này của
Hồ Chí Minh cũng sẽ giúp chúng ta giải quyết tất mối quan hệ giữa cái quá khứ,
11
cái hiện tại và cái tương lai. ở đây, chúng tôi xin phép được nêu lên một nhận xét
chung là: con người bao giờ cũng sinh ra trong một hoàn cảnh mà trong đó, đã có
sẵn "cái nếp cũ”, trong đó bao gồm cả những cái vốn là truyền thống nhưng nay đã
trở nên lỗi thời, lạc hậu, được sản sinh và tồn tại từ trước trong quá khứ. Con
người được thừa hướng những mặt tốt đẹp do quá khứ để lại, nhưng cũng phải
gánh chịu những mặt tiêu cực của những cái cũ kỹ, lạc hậu, lỗi thời của quá khứ
trong "cái nếp cũ” đó. Vì thế, con người bao giờ cũng đứng trước một nhiệm vụ
kép, một mặt phải kế thừa, nâng cao và phát huy những cái tất đẹp, những cái vẫn
phù hợp hoặc thích ứng được với cuộc sống hiện tại, mặt khác, phải khắc phục
hoặc uốn nắn những cái cổ hủ, lạc hậu và những cái đã trở nên lỗi thời trước cuộc
sống thực tế hiện tại, nói chung là phải khắc phục "cái nếp cũ” của quá khứ để lại
kể cả những tập quán, quan niệm, thiết chế, hình thức truyền thống đã trở nên lỗi
thời, lạc hậu. Muốn hoàn thành tốt trách nhiệm kép này, con người phải tiến hành
đổi mới đối với "cái nếp cũ” trong tất cả các lĩnh vực, trước hết là cái nếp cũ trong
chiến lược, sách lược cách mạng, bởi nhìn chung, đây là nhân tố quyết định chiều
hướng và tính chất của sự đổi mới "cái nếp cũ” trong các lĩnh vực khác, sau đó,
phải tiến hành sự đổi mới tương ứng "cái nếp cũ” ấy trong tất cả các lĩnh vực khác
còn lại, nhất là trong lĩnh vực triển khai thực hiện cụ thể chiến lược, sách lược
cách mạng đã được đổi mới.
Đương nhiên, con người không thể phủ nhận, nhất là không được chống lại
quá khứ. Bởi vì, như thế tức là tự phủ nhận, là tự chống lại chính mình. Nhưng mà,
vì lợi ích hiện tại và tương lai của mình, con người cũng không nên để mình trở
thành tù nhân, trở thành nô lệ của quá khứ, nhất là không được để mình trở thành
tù nhân, trở thành nô lệ của "cái nếp cũ” do quá khứ để lại, là "cái nếp" đã trở nên
lỗi thời, không còn phù hợp với thực tế hiện tại đã thay đổi và còn tiếp tục thay
đổi. Trong khi kế thừa, nâng cao và phát huy những cái tốt đẹp của quá khứ để lại,
12
một mặt, con người cần phải tỉnh táo, không tự đánh mất mình trong cái vinh
quang có sẵn, mặt khác, phải biết để cho những cái lạc lậu, lỗi thời - "cái nếp cũ”
nằm yên trong quá khứ, không để mình bị chúng trói buộc chân tay, và hơn nửa,
phải biết lấy chúng làm bài học lịch sử cho việc đổi mới hiện tại, chuẩn bị tốt cho
tương lai.
13
KẾT LUẬN
Nhìn lại thực tế đổi mới trong 25 năm qua, chúng ta thấy, từ những thành
quả bước đầu rất đáng khích lệ đến những vấn đề còn cần được tiếp tục đổi mới,
tất cả đều nói lên một điều mà Cố vấn Phạm Văn Đồng đã nêu trong Văn hóa và
đổi mới: đổi mới là quy luật. Càng suy ngẫm, chúng ta càng thấy ý nghĩa sâu xa
trong những luận điểm về đổi mới của Hồ Chí Minh. Quả vậy, đúng như thực tế ta
cho thấy, trong thời đại mới ngày một phát triển ngày nay, "nếu cứ giữ cái nếp cũ”,
những cái đã trở nên lỗi thời, lạc hậu trong tư duy và hành động, không đổi mới là
không có lối ra, là đi vào ngõ cụt, là đổ vỡ. Điều này thích hợp với mỗi quốc gia,
mỗi doanh nghiệp và với cả mỗi cá nhân con người.
Trở lại một cách toàn diện và triệt để với hệ thống tư tưởng đổi mới của Hồ
Chí Minh, với học thuyết Hồ Chí Minh đó là cơ sở, là điều kiện, là tiền đề cho việc
đưa đất nước phát triển thành công theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước
thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến nhanh
đến mục tiêu CHXH.
14
MỤC LỤC
15