Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư tại trung tâm ung bướu bệnh viện trung ương thái nguyên năm 2021 và một số yếu tố liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 109 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẤP CƠ SỞ

ĐỀ TÀI

H
P

Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư tại Trung tâm Ung bướu bệnh
viện Trung ương Thái Nguyên năm 2021 và một số yếu tố liên quan

U

Chủ nhiệm đề tài:

Phạm Ngọc Ánh

Giảng viên hướng dẫn:

H

Mã số đề tài:

Ths. Nguyễn Thu Hà
SV 20.21 - 01

Năm 2020



BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẤP CƠ SỞ

ĐỀ TÀI

H
P

Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư tại Trung tâm Ung bướu bệnh
viện Trung ương Thái Nguyên năm 2021 và một số yếu tố liên quan

Chủ nhiệm đề tài: Phạm Ngọc Ánh
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thu Hà

U

Cấp quản lý: Trường Đại học Y tế công cộng
Mã số đề tài: SV 20.21 - 01

H

Thời gian thực hiện: từ tháng 12 năm 2020 đến tháng 06 năm 2021
Tổng kinh phí thực hiện đề tài

7.973.000 đồng

Trong đó: kinh phí SNKH


7.973.000 đồng

Nguồn khác (nếu có):

……… Triệu đồng

Năm 2020


i

Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp cơ sở
Tên đề tài: Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư tại Trung tâm Ung
bướu bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2021 và một số yếu tố liên quan.
1. Chủ nhiệm đề tài: Phạm Ngọc Ánh
2. Cơ quan chủ trì đề tài: Trường Đại học Y tế Công cộng
3. Cơ quan quản lý đề tài: Trường Đại học Y tế Công cộng
4. Danh sách những người thực hiện chính:
- Ths. Nguyễn Thu Hà

Giảng viên hướng dẫn

- Đặng Thị Vân Anh

Thành viên nhóm nghiên cứu

- Lê Thúy Phượng

Thành viên nhóm nghiên cứu


H
P

5. Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 12 năm 2020 đến tháng 06 năm 2021

H

U


ii

LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của
các cán bộ nhân viên tại Trung tâm ung bướu bệnh viện Trung ương Thái Ngun.
Chúng tơi xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới Thạc sỹ Nguyễn Thu Hà,
người đã tận tình hướng dẫn và truyền đạt cho chúng tôi những kiến thức và kinh nghiệm
quý báu trong suốt q trình thực hiện đề tài.
Chúng tơi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các giảng viên và các phịng ban
Trường Đại học Y tế cơng cộng đã trang bị kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm
trong suốt thời gian thực hiện đề tài nghiên cứu này.

H
P

Chúng tôi cũng xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của người bệnh tại Trung
tâm ung bướu Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên đã đồng ý tham gia vào nghiên cứu
của chúng tơi để nhóm có thể hồn thành q trình thu thập số liệu và đóng góp ý kiến
cũng như hỗ trợ nhóm trong q trình thu thập thơng tin cho nghiên cứu.
Chủ nhiệm đề tài


U

Sinh viên Phạm Ngọc Ánh

H


iii

MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG.................................................................................................................. v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ ............................................................................................................. v
PHẦN A: BÁO CÁO TÓM TẮT NGHIÊN CỨU .................................................................... 1
PHẦN B: TÓM TẮT CÁC KẾT QUẢ NỔI BẬT CỦA ĐỀ TÀI ............................................. 3
PHẦN C: NỘI DUNG BÁO CÁO CHI TIẾT ........................................................................... 6
I. ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................................... 6
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU .............................................................................................. 8
III. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................................................ 9

H
P

1.

Một số khái niệm sử dụng trong nghiên cứu ........................................................... 9

2.

Giới thiệu bộ câu hỏi Vấn đề và nhu cầu trong chăm sóc giảm nhẹ - Problems and


needs in Palliative care questionnaire ........................................................................................... 11
3.

Tổng quan tình hình nghiên cứu về nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung

thư..................... ............................................................................................................................ 11

U

4. Các yếu tố liên quan đến nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của bệnh nhân ung thư............ 15
IV. KHUNG LÝ THUYẾT.................................................................................................. 19
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU................................................................................... 21

H

1.

Thiết kế nghiên cứu:.............................................................................................. 21

2.

Đối tượng nghiên cứu: .......................................................................................... 21

3.

Thời gian và địa điểm nghiên cứu ......................................................................... 21

4.


Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu....................................................................... 22

5.

Công cụ thu thập số liệu ........................................................................................ 24

6.

Phương pháp thu thập số liệu ................................................................................ 24

7.

Công cụ đo lường .................................................................................................. 26

8.

Biến số và các nội dung chính nghiên cứu ............................................................ 27

9.

Sai số và biện pháp kiểm soát sai số ..................................................................... 28

10.

Xử lý và phân tích số liệu ..................................................................................... 28


iv
11.


Đạo đức nghiên cứu .............................................................................................. 28

VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................................................ 30
4.1.

Thông tin chung của người bệnh tham gia nghiên cứu ......................................... 30

4.2.

Thực trạng nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư ......................... 32

4.3.

Một số yếu tố liên quan đến nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ........... 40

V. BÀN LUẬN .................................................................................................................... 46
5.1. Thông tin chung của đối tượng tham gia nghiên cứu................................................ 46
5.2. Thực trạng nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư ............................. 46
5.3. Các yếu tố liên quan đến nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư ....... 49

H
P

5.4. Một số ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu .............................................................. 51
KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 52
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ .................................................................................................. 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 54
PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 58

U


Phụ lục 1: Bảng biến số nghiên cứu ................................................................................. 58
Phụ lục 2: Hướng dẫn phỏng vấn sâu người bệnh ung thư .............................................. 63

H

Phụ lục 3: Hướng dẫn phỏng vấn sâu cán bộ y tế ............................................................ 64
Phụ lục 4: Kết quả phỏng vấn sâu người bệnh ung thư ................................................... 65
Phụ lục 5: Kết quả phỏng vấn sâu cán bộ y tế ................................................................. 68
Phụ lục 6: Bộ câu hỏi phỏng vấn định lượng ................................................................... 74


v

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Đối tượng và mẫu nghiên cứu định tính ..................................................................... 23
Bảng 2. Các nhóm nội dung chính nghiên cứu định tính......................................................... 27
Bảng 3. Sai số và cách khắc phục ............................................................................................ 28
Bảng 4. Đặc điểm nhân khẩu học – xã hội học của đối tượng nghiên cứu .............................. 30
Bảng 5. Tình trạng bệnh lý của đối tượng nghiên cứu............................................................. 31
Bảng 6. Mơ tả nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ theo từng khía cạnh của người bệnh. .................. 33
Bảng 7. Mối liên quan giữa các yếu tố nhân khẩu học – xã hội học của và nhu cầu chăm sóc
giảm nhẹ của người bệnh ......................................................................................................... 40

H
P

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1. Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh theo giai đoạn điều trị bệnh ............ 32

Biểu đồ 2. Phân bố người bệnh theo nhu cầu hỗ trợ thể chất .................................................. 34
Biểu đồ 3. Phân bố người bệnh theo nhu cầu hỗ trợ tâm lý/tinh thần ..................................... 35
Biểu đồ 4. Phân bố người bệnh theo nhu cầu hỗ trợ thông tin y tế.......................................... 36
Biểu đồ 5. Phân bố người bệnh theo nhu cầu hỗ trợ giao tiếp ................................................. 37

U

Biểu đồ 6. Phân bố người bệnh theo nhu cầu hỗ trợ các hoạt động thường ngày ................... 38
Biểu đồ 7. Phân bố người bệnh theo nhu cầu hỗ trợ tự chủ cá nhân ....................................... 39
Biểu đồ 9. Phân bố người bệnh theo nhu cầu hỗ trợ tài chính ................................................. 39

H


1

PHẦN A: BÁO CÁO TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư tại Trung tâm Ung bướu bệnh viện
Trung ương Thái Nguyên năm 2021 và một số yếu tố liên quan.
SV. Phạm Ngọc Ánh

(Sinh viên trường Đại học Y tế Công cộng)

SV. Đặng Thị Vân Anh

(Sinh viên trường Đại học Y tế Công cộng)

SV. Lê Thúy Phượng

(Sinh viên trường Đại học Y tế Công cộng)


Giảng viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thu Hà (Bộ môn Chính sách và Kinh tế y
tế, trường Đại học Y tế Công cộng)
1. Đặt vấn đề: Hiện nay nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ đối với người bệnh ung thư đang gia tăng
nhanh chóng cùng với sự gia tăng của số trường hợp hiện mắc và mới mắc ung thư. Tại Việt

H
P

Nam, ung thư là một trong các vấn đề sức khỏe tạo ra gánh nặng bệnh tật rất lớn. Trong những
năm gần Trung tâm ung bướu thuộc Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên đang hướng tới việc
tập trung đẩy mạnh cơng tác chăm sóc giảm nhẹ cho người bệnh ung thư nhằm nâng cao chất
lượng sống cho người bệnh ung thư được điều trị tại trung tâm.

2. Mục tiêu: (1) Mơ tả nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư tại Trung tâm ung
bướu – Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2021 và (2) Xác định một số yếu tố liên quan

U

đến nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ tại Trung tâm ung bướu – Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
năm 2021.

3. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, kết hợp sử dụng phương pháp

H

nghiên cứu định lượng và định tính. Nghiên cứu định lượng thực hiện phỏng vấn trên 190 người
bệnh. Bên cạnh đó nghiên cứu định tính được thực hiện với 05 cuộc phỏng vấn sâu trên 03
người bệnh và 02 cán bộ y tế tại Trung tâm Ung bướu Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
trong khoảng thời gian từ tháng 12/2020 – tháng 06/2021.

4. Kết quả: Tỷ lệ người bệnh có nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ chiếm 66,3%. Trong đó, 3 nhóm
nhu cầu có tỷ lệ cần hỗ trợ cao nhất là: nhu cầu hỗ trợ thông tin y tế, nhu cầu hỗ trợ tài chính
và phúc lợi xã hội và nhu cầu hỗ trợ thể chất. Có mối liên quan giữa nhu cầu chăm sóc giảm
nhẹ với giai đoạn bệnh và nghề nghiệp của người bệnh ung thư. Người bệnh ở nhóm điều trị
lần đầu có nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ cao hơn gấp 1,86 lần (p < 0,05; KTC 95%: 1,01 – 3,44)
so với người bệnh ở nhóm điều trị tái phát. Người bệnh có nghề nghiệp là làm ruộng có nhu
cầu chăm sóc giảm nhẹ cao hơn gấp 3,17 lần (p<0,05; KTC 95%: 1,43 – 7,07) so với người
bệnh đã nghỉ hưu. Ngoài ra một số yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người


2

bệnh bao gồm giai đoạn bệnh, tình trạng bệnh, cơ sở vật chất của trung tâm, nguồn lực, trang
thiết bị và tình trạng thiếu hụt thuốc điều trị.
5. Kết luận - Khuyến nghị: Tỷ lệ người bệnh tham gia nghiên cứu có nhu cầu chăm sóc giảm
nhẹ chiếm tỷ lệ cao. Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của nhóm người bệnh điều trị lần đầu gấp
1,86 lần so với nhóm người bệnh đang điều trị tái phát. Bệnh viện cần có kế hoạch cụ thể để
tăng cường hỗ trợ chăm sóc giảm nhẹ cho người bệnh, đặc biệt cần lưu ý tới nhóm người bệnh
ở giai đoạn muộn.
Từ khóa: ung thư, chăm sóc giảm nhẹ, người bệnh, nhu cầu, Thái Nguyên.

H
P

H

U


3


PHẦN B: TÓM TẮT CÁC KẾT QUẢ NỔI BẬT CỦA ĐỀ TÀI
1. Kết quả nổi bật của đề tài
Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu về nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ và các yếu tố
liên quan của 190 người bệnh ung thư tại Trung tâm Ung bướu bệnh viện Trung ương Thái
Nguyên năm 2021. Sau khi tổng hợp kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ nhu
cầu chăm sóc giảm nhẹ của bệnh nhân ung thư tương đối cao chiếm 66,3%. Cụ thể trong các
khía cạnh nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ, 3 nhóm nhu cầu mà người bệnh báo cáo cần được hỗ
trợ nhiều nhất lần lượt là: Nhu cầu hỗ trợ thông tin y tế (86,8%); Nhu cầu hỗ trợ tài chính
(74,2%); Nhu cầu hỗ trợ thể chất (72,1%).
Các yếu tố có liên quan đến nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh bao gồm giai
đoạn bệnh và nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu. Cụ thể với yếu tố giai đoạn điều trị những

H
P

người bệnh ở nhóm điều trị lần đầu có nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ cao hơn gấp 1,86 lần (p <
0,05; KTC 95%: 1,01 – 3,44) so với những người bệnh ở nhóm điều trị tái phát. Về nghề nghiệp,
những người bệnh có nghề nghiệp là làm ruộng có nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ cao hơn gấp
3,17 lần (p<0,05; KTC 95%: 1,43 – 7,07) so với những người bệnh đã nghỉ hưu. Các yếu tố
còn lại gồm giới tính, nhóm tuổi, dân tộc, thu nhập hộ gia đình, tình trạng hơn nhân và trình
độ học vấn khơng có mối liên quan với nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh với các giá

U

trị p tìm được lớn hơn 0,05. Ngoài ra, trong nghiên cứu này chúng tôi cũng đã phát hiện các
yếu tố bao gồm: giai đoạn bệnh, tình trạng bệnh, cơ sở vật chất của trung tâm, nguồn lực, trang
thiết bị, thuốc có ảnh hưởng tới nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung bướu.

H


2. Triển vọng áp dụng kết quả của nghiên cứu


Kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể làm cơ sở giúp bệnh viện đưa ra các chính
sách phù hợp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ của bệnh viện.



Các nhà nghiên cứu có thể sử dụng các kết quả và phát triển các nghiên cứu sâu hơn để
thấy được một cách toàn diện về nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư
hiện nay. Đồng thời, tìm hiểu thêm về các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu chăm sóc giảm
nhẹ của người bệnh, cũng như những quan điểm của người bệnh, người chăm sóc chính
hay bác sĩ điều trị,… về nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ.


4

3. Đánh giá thực hiện đề tài đối chiếu với đề cương nghiên cứu đã được phê duyệt
3.1. Tiến độ
Đề tài được thực hiện theo đúng tiến độ đề ra.
3.2. Thực hiện mục tiêu nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu đã hồn thành đầy đủ 2 mục tiêu được đề ra:
Mục tiêu 1: Mơ tả nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư tại Trung tâm ung bướu
– Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2021
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn 190 người bệnh ung thư tại Trung tâm ung bướu
– BV Trung ương Thái Nguyên sử dụng bộ câu hỏi Vấn đề và nhu cầu trong chăm sóc giảm

H
P


nhẹ - Problems and needs in Palliative care questionnaire (PNPC). Kết quả được sử dụng nhằm
mô tả thực trạng và đánh giá nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của bệnh nhân ung thư trên 7 khía
cạnh bao gồm: (1) Nhu cầu hỗ trợ thể chất, (2) Nhu cầu hỗ trợ tâm lý/tinh thần, (3) Nhu cầu hỗ
trợ thông tin y tế, (4) Nhu cầu hỗ trợ giao tiếp, (5) Nhu cầu hỗ trợ các hoạt động hằng ngày, (6)
Nhu cầu hỗ trợ tự chủ cá nhân và (7) Nhu cầu hỗ trợ tài chính.

Mục tiêu 2: Xác định một số yếu tố liên quan đến nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh

U

ung thư tại Trung tâm ung bướu – Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2021
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân tích mối liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu học – xã

H

hội học và đặc điểm bệnh lý với nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư. Đồng
thời sử dụng thiết kế nghiên cứu định tính nhằm phân tích và đánh giá sâu hơn các yếu tố liên
quan đến nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư đang điều trị tại Trung tâm ung
bướu – Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.


5

3.3. Các sản phẩm tạo ra so với dự kiến của bản đề cương
Nhóm đã hồn thành đầy đủ các sản phẩm đã dự kiến được nêu ra trong đề cương, cụ
thể bao gồm:
– 01 báo cáo đề tài
– 02 bài báo:



Thực trạng nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư tại Trung tâm Ung
bướu Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2021 – Dự kiến đăng trên tạp chí Ung
thư học Việt Nam



Một số yếu tố liên quan đến nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư tại
Trung tâm Ung bướu Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2021 – Dự kiến đăng
trên tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển, Trường Đại học Y tế Công

H
P

cộng.
3.4. Đánh giá việc sử dụng kinh phí
- Tổng kinh phí thực hiện đề tài: 7.973.000 đồng
Trong đó:

Kinh phí sự nghiệp khoa học: 7.973.000 đồng
Kinh phí từ nguồn khác: 0

U

- Tồn bộ kinh phí đã được thanh quyết toán: 5.581.000 đồng
- Chưa thanh quyết tốn xong: 2.392.000 đồng
- Kinh phí tồn đọng: 0
4. Các ý kiến đề xuất

H


4.1. Ý kiến đề xuất phát triển các nghiên cứu tiếp theo
- Cần tập trung vào 3 trong số các khía cạnh mà người bệnh có nhu cầu chăm sóc cao nhất để
thực hiện các nghiên cứu sâu hơn và đánh giá khả năng đáp ứng từ phía cơ sở y tế.


6

PHẦN C: NỘI DUNG BÁO CÁO CHI TIẾT
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), chăm sóc giảm nhẹ là cải thiện chất lượng cuộc
sống của người bệnh và gia đình người bệnh, những người đang đối mặt với những vấn đề sức
khỏe đe dọa tính mạng, thông qua sự ngăn ngừa và làm giảm gánh nặng họ chịu đựng bằng
cách nhận biết sớm, đánh giá toàn diện, điều trị đau và các vấn đề khác như thể lực, tâm lý xã
hội và tâm linh [30]. Hiện nay chăm sóc giảm nhẹ đang là một trong những vấn đề được WHO
kêu gọi tất cả các quốc gia thành viên củng cố và tích hợp trong hệ thống chăm sóc sức khỏe
của từng quốc gia [33]. Đặc biệt, bệnh nhân ung thư thường phải đối mặt với các vấn đề về tâm
lý như trầm cảm, lo lắng hay là các triệu chứng như đau, nơn ói, suy kiệt,... do đó chăm sóc
giảm nhẹ được nhấn mạnh song song với q trình điều trị [32]. Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ

H
P

đối với người bệnh ung thư đang gia tăng nhanh chóng cùng với sự gia tăng của số trường hợp
hiện mắc và mới mắc ung thư [31]. Năm 2018 thế giới ghi nhận hơn 18 triệu ca mắc ung thư
và hơn 9,5 triệu ca tử vong do ung thư [28]. Đến năm 2060 nhu cầu đối với chăm sóc giảm nhẹ
vào cuối cuộc đời dự kiến sẽ tăng gấp đôi so với năm 2016, đặc biệt 30% người lớn có nhu cầu
chăm sóc giảm nhẹ là các bệnh nhân ung thư [22].

Tại Việt Nam, ung thư là một trong các vấn đề sức khỏe tạo ra gánh nặng bệnh tật rất


U

lớn. Theo số liệu từ điều tra toàn quốc về gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam cho thấy 74,3% gánh
nặng bệnh tật là do các bệnh không lây nhiễm, trong đó ung thư là một trong 10 nguyên nhân
bệnh tật hàng đầu. Năm 2020, ước tính Việt Nam có 182.563 ca mắc mới và 122.690 ca tử

H

vong do ung thư. Cứ 100.000 người thì có 159 người chẩn đoán mắc mới ung thư và 106 người
tử vong do ung thư [1]. Nhận thức được mức độ nghiêm trọng của việc gia tăng tỷ lệ mắc và
tử vong do ung thư lên kinh tế xã hội cũng như sức khỏe tồn dân chính phủ Việt Nam đã ký
ban hành chiến lược Quốc gia phịng chống bệnh khơng lây nhiễm giai đoạn 2015 - 2025 [4].
Mục tiêu chính của chiến lược là khống chế tốc độ gia tăng, tiến tới làm giảm tỷ lệ người mắc
các bệnh không lây nhiễm (trong đó có ung thư và các vấn đề chăm sóc giảm nhẹ cho người
bệnh ung thư) trong cộng đồng [4]. Hiện nay y học Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong việc
cải thiện và nâng cao công tác điều trị, chẩn đoán trong lĩnh vực điều trị ung thư. Tuy nhiên
cơng tác chăm sóc giảm nhẹ và các vấn đề liên quan đến chăm sóc giảm nhẹ cho người bệnh
ung thư vẫn chưa được chú trọng. Việc này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc
sống của người bệnh ung thư trong khi đó mục tiêu cuối cùng của các hệ thống y tế là nâng cao
chất lượng cuộc sống cho người bệnh.


7

Trong những năm gần đây Trung tâm ung bướu thuộc Bệnh viện Trung ương Thái
Nguyên đang hướng tới việc tập trung đẩy mạnh cơng tác chăm sóc giảm nhẹ cho người bệnh
ung thư nhằm nâng cao chất lượng sống cho người bệnh ung thư được điều trị tại trung tâm.
Hiện tại trung tâm là nơi tiếp nhận điều trị người bệnh ung thư cho 6 tỉnh miền núi phía bắc
bao gồm Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang và Cao Bằng. Tính từ

tháng 1/2020 đến tháng 9/2020 Trung tâm đã tiếp nhận khám hơn 8.300 lượt bệnh nhân ngoại
trú, nhập khoa điều trị hơn 4.600 lượt bệnh nhân nội trú. Chăm sóc giảm nhẹ là một lĩnh vực
mới tại Việt Nam, ngoài việc giúp bệnh nhân giảm các cơn đau hay triệu chứng thực thể còn
rất nhiều khía cạnh khác của chăm sóc giảm nhẹ chưa được khai thác hết bao gồm các vấn đề
về tâm lý xã hội, tâm linh hay nhu cầu hỗ trợ về tài chính,... Hiện tại chưa có bất kỳ một nghiên
cứu nào được thực hiện nhằm đánh giá nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của bệnh nhân đang điều
trị tại Trung tâm ung bướu – Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên. Do đó nhóm nghiên cứu

H
P

thực hiện đề tài “Đánh giá nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân ung thư tại Trung
tâm Ung bướu bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2021 và một số yếu tố liên quan”
nhằm trả lời câu hỏi: Người bệnh ung thư tại Trung tâm Ung bướu bệnh viện Trung ương Thái
Nguyên có nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ như thế nào? Có sự khác biệt như thế nào về nhu cầu
chăm sóc giảm nhẹ ở những nhóm người bệnh có đặc điểm khác nhau? Việc trả lời các câu hỏi

U

nói trên nhằm đưa ra những bằng chứng giúp các cán bộ y tế bệnh viện có thêm các bằng chứng
để cải thiện việc cung cấp các dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ cho người bệnh.

H


8

II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư tại Trung tâm ung bướu –
Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2021

2. Xác định một số yếu tố liên quan đến nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung
thư tại Trung tâm ung bướu – Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2021

H
P

H

U


9

III. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Một số khái niệm sử dụng trong nghiên cứu
1.1. Ung thư
Theo WHO, ung thư là một nhóm lớn các bệnh có thể bắt đầu ở hầu hết các cơ quan
hoặc mô trong cơ thể khi các tế bào bất thường phát triển khơng kiểm sốt được, vượt qua
ngồi ranh giới thơng thường của chúng để xâm lấn các bộ phận liền kề của cơ thể hoặc lây
lan sang các cơ quan khác. Quá trình sau này được gọi là di căn và là nguyên nhân chính
gây tử vong do ung thư. Ung thư và khối u ác tính là những tên gọi chung khác của bệnh
ung thư [30, 34].
1.1.1. Phân loại các giai đoạn ung thư:
Trong y văn, việc phân loại ung thư cũng có thể được chia thành ung thư giai đoạn sớm

H
P

và ung thư giai đoạn muộn. Trong đó, giai đoạn sớm (gồm giai đoạn 0 và giai đoạn I)
thường tiến triển lâu dài, chậm chạp; giai đoạn muộn (gồm giai đoạn III và giai đoạn IV)

thường tiến triển rất nhanh và gây tử vong cho người bệnh [34].
1.1.2. Phân loại ung thư theo giai đoạn điều trị:


Điều trị ban đầu: Là quá trình điều trị đầu tiên, bắt đầu kể từ khi người bệnh được
chẩn đoán mắc ung thư cho đến khi tình trạng bệnh của người bệnh đạt đến trạng

U

thái ổn định, không tiến triển.


Điều trị tái phát: Là lần điều trị diễn ra do điều trị ban đầu không thể loại bỏ được

H

tất cả các tế bào ung thư dẫn đến những tế bào cịn sót lại trong cơ thể phát triển
thành một hoặc nhiều khối u khác.
1.2. Chăm sóc giảm nhẹ
1.2.1. Khái niệm

Theo WHO, chăm sóc giảm nhẹ cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh và gia
đình người bệnh, những người đang đối mặt với những vấn đề sức khỏe đe dọa tính mạng,
thơng qua sự ngăn ngừa và làm giảm gánh nặng họ chịu đựng bằng cách nhận biết sớm,
đánh giá toàn diện, điều trị đau và các vấn đề khác như thể lực, tâm lý xã hội và tâm linh
[30].
1.2.2. Đối tượng của chăm sóc giảm nhẹ
Theo WHO chăm sóc giảm nhẹ có thể thực hiện tại cơ sở y tế, tại nhà và tại cộng đồng
cho 4 nhóm đối tượng bao gồm: (1) Nhóm bệnh nhân có khả năng tử vong sớm; (2) Nhóm
bệnh nhân khơng tiến triển nhưng địi hỏi cần chăm sóc đặc biệt; (3) Nhóm bệnh nhân tiến



10

triển mà khơng có phương pháp điều trị trong đó điều trị giảm nhẹ sẽ kéo dài trong nhiều
nămNhóm bệnh nhân bị đe dọa đến tính mạng, trong đó việc điều trị có thể khả thi hoặc
thất bại do đó việc chăm sóc giảm nhẹ sẽ tiến hành song song cùng quá trình điều trị
1.2.3. Các nguyên tắc trong chăm sóc giảm nhẹ
Mục đích của chăm sóc giảm nhẹ là giảm đau khổ để cải thiện chất lượng cuộc sống
cho những người bị tổn thương nghiêm trọng liên quan đến sức khỏe [31]. Năm 2002,
WHO đã đưa ra một số nguyên tắc chăm sóc giảm nhẹ bao gồm:
+ Giúp đỡ người bệnh giảm đau và các triệu chứng gây khó chịu khác
+ Nâng cao chất lượng cuộc sống của người bệnh, coi cái chết là một quá trình tất yếu
+ Quan tâm và lồng ghép chăm sóc các vấn đề về tâm lý, xã hội và tinh thần cho người
bệnh

H
P

+ Tăng cường tuân thủ điều trị và làm giảm các tác dụng phụ của thuốc
+ Khơng thúc đẩy hoặc trì hoãn cái chết của người bệnh

+ Cung cấp dịch vụ CSGN cho tất cả những người mắc bệnh đe dọa tính mạng
+ Nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần tác động tích cực tới q trình diễn biến
của bệnh

+ Cố gắng giúp người bệnh có một cuộc sống tích cực, độc lập một cách tối đa cho

U


đến khi cuối đời, nâng cao tính tự chủ cũng như các kỹ năng và kiến thức tự chăm
sóc của người bệnh và gia đình

+ Lấy người bệnh làm trung tâm, làm việc theo nhóm chăm sóc đa thành phần bao

H

gồm cả những người có chun mơn và khơng có chun mơn nhằm giải quyết toàn
diện các nhu cầu về thể chất, tâm lý xã hội của người bệnh và gia đình họ kể cả khi
sau khi bệnh nhân qua đời

+ Cung cấp cho người bệnh sớm được tiếp cận với các phương pháp điều trị đặc hiệu
khác nhằm kéo dài cuộc sống cho người bệnh. Động viên, hỗ trợ về tinh thần cho
người bệnh, giúp họ hiểu tốt hơn về các diễn biến bệnh, các biến chứng và tác dụng
phụ trong quá trình điều trị.
+ Hỗ trợ giúp gia đình của người bệnh giải quyết những khó khăn, kể cả khi người
bệnh qua đời [31].


11

2. Giới thiệu bộ câu hỏi Vấn đề và nhu cầu trong chăm sóc giảm nhẹ - Problems and
needs in Palliative care questionnaire
Bộ câu hỏi Vấn đề và nhu cầu trong chăm sóc giảm nhẹ - Problems and needs in
Palliative care questionnaire (PNPC) là bộ công cụ dùng để đánh giá thực trạng và nhu cầu
chăm sóc giảm nhẹ của bệnh nhân ung thư do Bart H.P. Osse và cộng sự xây dựng [18]. Bộ
câu hỏi bao gồm 2 phiên bản, một phiên bản đầy đủ với tổng cộng 138 tiểu mục đánh giá nhu
cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung thư trên 14 khía cạnh và một phiên bản rút gọn
gồm 33 tiểu mục. Bộ công cụ rút gọn đánh giá nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của bệnh nhân ung
thư trên 7 khía cạnh bao gồm: (1) Nhu cầu hỗ trợ thể chất, (2) Nhu cầu hỗ trợ tâm lý/tinh thần,

(3) Nhu cầu hỗ trợ thông tin y tế, (4) Nhu cầu hỗ trợ giao tiếp, (5) Nhu cầu hỗ trợ các hoạt động
hằng ngày, (6) Nhu cầu hỗ trợ tự chủ cá nhân và (7) Nhu cầu hỗ trợ tài chính.
Bộ cơng cụ PNPC rút gọn đã được chuẩn hóa với Cronbach’s đều lớn hơn 0,70 trong

H
P

nghiên cứu của Osse BH tại Indonexia và một nghiên cứu khác của Tao Wang tại Trung Quốc
đại lục [18, 26]. Do Trung Quốc và Indonexia là 2 quốc gia thuộc khu vực Châu Á có những
nét văn hóa khá tương đồng với Việt Nam nên chúng tôi quyết định sử dụng luôn bộ câu hỏi
PNPC rút gọn trong nghiên cứu của mình mà khơng đi chuẩn hóa lại bộ công cụ PNPC. Thực
tế tại Việt Nam cũng đã có nghiên cứu của Nguyễn Thị Ánh Tuyết và cộng sự sử dụng bộ công

U

cụ này để đánh giá nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của bệnh nhi tại Bệnh viện Nhi trung ương vào
năm 2019 [3].

3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung
thư
3.1. Trên thế giới

H

Năm 2018 Tao Wang và các cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu tổng quan hệ thống,
tiến hành phân tích dựa trên 50 nghiên cứu nhằm xác định nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của các
bệnh nhân ung thư giai đoạn muộn. Nhóm tác giả đã chỉ ra rằng 3 khía cạnh của chăm sóc giảm
nhẹ mà bệnh nhân ung thư giai đoạn muộn có nhu cầu hỗ trợ nhiều nhất là (1) hỗ trợ thông tin
y tế, (2) hỗ trợ về tâm lý/tinh thần và (3) hỗ trợ về thể chất. Trong đó tỷ lệ bệnh nhân có nhu
cầu hỗ trợ về thông tin y tế ghi nhận được dao động từ 4% - 66,7%. Bên cạnh đó tỷ lệ bệnh

nhân có nhu cầu hỗ trợ về tinh thần dao động từ 10,1% - 84,4% và từ 18% - 76,3% bệnh nhân
có nhu cầu hỗ trợ về thể chất [18].
Một số nghiên cứu cũng đã chỉ ra đa số bệnh nhân báo cáo rằng họ có nhu cầu cần được
hỗ trợ về thể chất. Kết quả từ nghiên cứu của Marianne Heins tại Hà Lan trên 78 bệnh nhân
ung thư vào năm 2018 cho thấy có 85% - 91% bệnh nhân tham gia phỏng vấn có nhu cầu cần


12

nhân viên y tế hỗ trợ khi gặp các triệu chứng như đau hay mệt mỏi [25]. Năm 2017 một nghiên
cứu của Deena R. Levine và cộng sự trên 129 bệnh nhi ung thư và cha mẹ của bệnh nhi tại một
số phòng khám cấp cứu ung thư nhi khoa ở Mỹ đã báo cáo rằng phần lớn trẻ em và cha mẹ
đồng ý với việc tham gia chăm sóc giảm nhẹ sớm (92,8% và 98,4%). Đa số cả bệnh nhi (75%)
và cha mẹ của trẻ (62%) cảm thấy rằng đội ngũ NVYT chăm sóc cho trẻ nên tập trung nhiều
hơn vào chất lượng cuộc sống của trẻ ngay từ khi bắt đầu điều trị ung thư. So với cha mẹ, bệnh
nhi có xu hướng tán thành can thiệp bằng chăm sóc giảm nhẹ cao hơn đáng kể nếu việc kiểm
soát cơn đau hoặc các triệu chứng là vấn đề chính mà bệnh nhi gặp phải [9]. Một nghiên cứu
can thiệp khác nhằm đánh giá nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của tiến sĩ Amy Waller và cộng sự
với đối tượng là 195 bệnh nhân từ các phòng khám ngoại trú ung bướu, xạ trị và huyết học
cũng cho thấy: Tỷ lệ người tham gia báo cáo có các nhu cầu hỗ trợ về chăm sóc giảm nhẹ triệu
chứng thể chất ở mức trung bình hoặc cao. Nhu cầu hỗ trợ các hoạt động sinh hoạt hàng ngày

H
P

sau can thiệp thấp hơn đáng kể so với thời điểm trước can thiệp sáu tháng (giảm từ 51% xuống
còn 40,2%) [11]. Kết quả này tương tự trong một nghiên cứu được thực hiện tại bệnh viện Đại
học Y khoa Vienna năm 2016 của Eva K Masel và cộng sự. Nhìn chung bệnh nhân ung thư
đang điều trị tại đây có nhu cầu hỗ trợ về thể chất, cụ thể là quản lý triệu chứng. Khoảng 35%
bệnh nhân hy vọng các triệu chứng của họ sẽ cải thiện trong thời gian điều trị tại đơn vị chăm


U

sóc giảm nhẹ của bệnh viện [18].

Về khía cạnh tâm lý, tinh thần: Một nghiên cứu can thiệp tại Anh năm 2012 được thực
hiện bởi Waller và cộng sự kết quả nghiên cứu cho thấy, ở thời điểm trước can thiệp, 63%

H

người tham gia cho biết họ có nhu cầu cao đối với ít nhất một trong các khía cạnh chăm sóc
giảm nhẹ. Trong đó, mức độ nhu cầu cao nhất được báo cáo trong lĩnh vực tâm lý, cụ thể 21,4%
bệnh nhân có nhu cầu hỗ trợ về tâm lý [23]. Một nghiên cứu khác do Lucy Ellen Selman và
cộng sự thực hiện tìm hiểu nhu cầu chăm sóc tinh thần ở những bệnh nhân gặp tình trạng đe
dọa tính mạng ở 9 quốc gia vào năm 2017 cho thấy: Các đối tượng tham gia đã báo cáo rằng
sự họ cần được chăm sóc, hỗ trợ về khía cạnh tinh thần tuy nhiên các nhà cung cấp dịch vụ
chăm sóc sức khỏe lại chưa quan tâm đến vấn đề này. Nghiên cứu cũng đưa ra kết luận rằng
nhu cầu chăm sóc tinh thần ở bệnh nhân ung thư trên thực tế đang bị bỏ bê trên diện rộng
[14]. Kết quả này có sự tương đồng với nghiên cứu của Teniglo và cộng sự năm 2017, các bệnh
nhân chia sẻ rằng họ đã tìm kiếm sự hỗ trợ tâm lý trong các giai đoạn điều trị khác nhau. Tuy
nhiên, việc đặt lịch hẹn với chuyên gia tâm lý thường rất khó khăn [24]. Nghiên cứu của
Dominik Melhem và cộng sự thực hiện tại tỉnh Quecbec, Canada trên 12 bệnh nhân ung thư
đang được chăm sóc giảm nhẹ vào năm 2017 đã chỉ ra rằng những người tham gia nghiên cứu


13

cho biết họ cần bác sĩ của mình dành thời gian để giúp họ vượt qua những cảm xúc tiêu cực
trong thời gian điều trị bệnh [13].
Ngồi sự chăm sóc, hỗ trợ về mặt thể chất, việc hỗ trợ thông tin y tế cho bệnh nhân ung

thư được cho là đặc biệt quan trọng. Việc được cung cấp các thông tin đúng và kịp thời về căn
bệnh của mình là một trong những ưu tiên hàng đầu của những bệnh nhân tham gia nghiên cứu.
Điều này đã được đề cập trong kết quả nghiên cứu định tính của Eva K Masel và cộng sự. Khi
tìm hiểu mong đợi và nhu cầu của bệnh nhân được nhận vào đơn vị chăm sóc giảm nhẹ, nhóm
tác giả nhận thấy người bệnh đã bày tỏ sự khơng hài lịng về việc thiếu thơng tin về chăm sóc
giảm nhẹ và điều trị. Bệnh nhân mong rằng họ được thông báo tốt hơn về mục đích của việc
điều trị tại phịng chăm sóc giảm nhẹ [23]. Tại Mexico, năm 2017 khi đánh giá mức độ và mối
tương quan về nhu cầu chăm sóc hỗ trợ của bệnh nhân ung thư vú trên 173 đối tượng là bệnh

H
P

nhân ung thư, Adriana Pérez-Fortis và cộng sự đã phát hiện có tới 68% bệnh nhân cho biết họ
có nhu cầu hỗ trợ về thống thông tin y tế [21]. Một nghiên cứu khác của Marianne Heins năm
2018 cũng đã chỉ ra mức độ quan trọng của việc hỗ trợ thơng tin y tế trong các nhu cầu chăm
sóc giảm nhẹ đối với bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hầu hết tất cả các bệnh nhân
đều đánh giá các mục liên quan đến 'cung cấp thông tin' là quan trọng hoặc rất quan trọng, từ
89% nhận được thông tin về diễn biến dự kiến của bệnh đến 99% vì tham gia vào các quyết

U

định về chăm sóc [25]. Một nghiên cứu của Tenniglo và cộng sự tại Hà Lan, sử dụng phương
pháp định tính thu thập thơng tin trên 53 đối tượng, các phát hiện trong nghiên cứu cho thấy
bệnh nhân có nhu cầu cung cấp thêm về thông tin y tế. Những người tham gia nghiên cứu thừa

H

nhận rằng có nhu cầu lớn về thơng tin khi bắt đầu q trình điều trị. Bên cạnh đó, người bệnh
chia sẻ rằng một số thông tin thường được cung cấp quá muộn, chẳng hạn như các hình thức
sử dụng thuốc có sẵn [24].

3.2. Tại Việt Nam

Tại Việt Nam, đa số (70%) bệnh nhân ung thư phát hiện ở giai đoạn muộn, khi đã có
khá nhiều các triệu chứng. Kết quả của một số nghiên cứu đã thực hiện cho thấy nhu cầu chăm
sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân ung thư là rất lớn. Một nghiên cứu nhằm đánh giá nhu cầu chăm
sóc giảm nhẹ và một số yếu tố liên quan của người dân tại 10 tỉnh Việt Nam năm 2014 của
Trần Thị Hảo trên đối tượng là bệnh nhân ung thư kết quả cho thấy, có 71,2% người bệnh ung
thư có nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ [26].
Đối với bệnh nhân ung thư, đặc biệt là đối với những bệnh nhân phải dùng hóa chất
điều trị thì việc xuất hiện các triệu chứng như buồn nôn, nôn, đau đớn, phù… là những triệu


14

chứng rất dễ gặp phải. Vì thế, người bệnh rất cần hỗ trợ để giảm tình trạng đó [12]. Nghiên cứu
“Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân nhi ung thư tại khoa ung thư, bệnh viện nhi trung
ương năm 2018” của Nguyễn Thị Ánh Tuyết và cộng sự đã chỉ ra rằng bệnh nhi có nhu cầu hỗ
trợ thể chất chiếm tỷ lệ 32,1%. Các phát hiện trong nghiên cứu đã chỉ ra khía cạnh trong nhu
cầu hỗ trợ thể chất mà bệnh nhi có nhu cầu cần hỗ trợ cao nhất là nhu cầu giảm tình trạng mệt
mỏi với 82,6%; tỷ lệ bệnh nhi có nhu cầu giảm tình trạng khó thở, thở gấp là thấp nhất (chiếm
28,9%) [3]. Cũng tìm hiểu về nhu cầu hỗ trợ thể chất của bệnh nhân ung thư, trong nghiên cứu
Trần Thị Liên và Lê Thanh Tùng tại bệnh viện đa khoa Thái Bình năm 2019, nhóm tác giả đã
đưa ra kết quả có 71,6% bệnh nhân có nhu cầu chăm sóc để kiểm sốt giảm nhẹ các triệu chứng
của bệnh [6].
Bên cạnh việc giúp kiểm soát đau về mặt thể chất cho bệnh nhân một khía cạnh khác

H
P

cũng được đề cập đến trong chăm sóc giảm là hỗ trợ về tinh thần. Trong nghiên cứu “Đánh giá

sự hài lòng của người bệnh ung thư và gia đình người bệnh khi tham gia dịch vụ chăm sóc giảm
nhẹ của bệnh viện” của Nguyễn Minh Hùng năm 2014 đã cho thấy, sự hỗ trợ về tâm lý cho
bệnh nhân ung thư không được nhiều, 80% bệnh nhân cho biết họ thỉnh thoảng mới được nhân
viên y tế hoặc người thân hỗ trợ về tâm lý. Kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra, mức độ hài lòng
của bệnh nhân về hỗ trợ tâm lý không cao, tỷ lệ bệnh nhân không hài lòng lên đến 90% [22].

U

Trong báo cáo, tác giả đã phân tích ngun nhân có thể do cơng tác tư vấn tâm lý chưa được
chú trọng, nhân viên y tế chưa có cái nhìn tồn diện về chăm sóc giảm nhẹ. Đồng thời, lực
lượng tham gia công tác hỗ trợ về tâm lý còn quá “mỏng” [2]. Một nghiên cứu nhằm đánh giá

H

nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhi ung thư giúp các nhà hoạch định xác định được mối
quan tâm của bệnh nhi và gia đình họ của tác giả Nguyễn Thị Ánh Tuyết và cộng sự dựa trên
thông tin thu thập từ 190 cha mẹ bệnh nhi, kết quả thu được từ nghiên cứu đã chỉ ra nhu cầu hỗ
trợ tâm lý, tinh thần của bệnh nhân là 61,6%. Trong đó, cụ thể tỷ lệ bệnh nhi có nhu cầu hỗ trợ
cao nhất là nhu cầu được động viên khích lệ và nhu cầu củng cố niềm tin (chiếm 80,1%). Trong
đó, tỷ lệ bệnh nhi có nhu cầu cao tương ứng là 50% và 42,6%; tỷ lệ bệnh nhi có nhu cầu hỗ trợ
thấp nhất là nhu cầu giảm tình trạng mặc cảm (20%) [3].
Cũng trong nghiên cứu “Nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân nhi ung thư tại
khoa ung thư, bệnh viện nhi trung ương năm 2018” của Nguyễn Thị Ánh Tuyết và cộng sự,
các phát hiện cho thấy tỷ lệ bệnh nhi có nhu cầu hỗ trợ cao nhất là các tiểu mục của nhu cầu
thông tin y tế (chiếm 93,7%). Cụ thể trong các tiểu mục của nhu cầu hỗ trợ thơng tin y tế, tiểu
mục có tỷ lệ nhu cầu thấp nhất là nhu cầu được giữ bí mật thơng tin cá nhân (chiếm 52,1%);


15


những nhu cầu cịn lại đều có tỷ lệ trên 90%. Đặc biệt nhu cầu có tỷ lệ cao nhất là được thông
báo về mức độ thuyên giảm của bệnh (90% có nhu cầu cao và 7,9% có nhu cầu thấp) [3].
Nghiên cứu của Đỗ Thị Thắm năm 2018 tại Bệnh viện K trên 215 người bệnh sau phẫu thuật
ung thư đại trực tràng đã chỉ ra rằng nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh là rất lớn,
trong đó tỷ lệ người bệnh có nhu cầu với yếu tố thông tin y tế chiếm tỷ lệ cao nhất chiếm 92,6%
[29]. Ngoài ra, theo báo cáo kết quả nghiên cứu “Thực trạng nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của
người bệnh ung thư điều trị tại trung tâm ung bướu - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm
2019” của Trần Thị Liên và Lê Thanh Tùng, trong nhóm các nhu cầu về thông tin y tế, chiếm
tỷ lệ cao nhất là nhu cầu thơng tin về chẩn đốn bệnh (chiếm 91,8%). Tiếp theo đó là nhu cầu
thơng tin về tiên lượng bệnh (chiếm 85,3%), nhu cầu được biết phương pháp điều trị (chiếm
83,7%) [6].

H
P

Trong nghiên cứu “Đánh giá nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ và các yếu tố liên quan của
người bệnh sau phẫu thuật ung thư đại trực tràng tại bệnh viện K Trung ương năm 2018” của
Đỗ Thị Thắm đã đánh giá nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư
đại trực tràng. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có 80,5% đối tượng có nhu cầu được chăm sóc
hỗ trợ việc vệ sinh cá nhân hàng ngày và 31,6% đối tượng có nhu cầu được hỗ trợ giảm rối
loạn chức năng tình dục [29].

U

4. Các yếu tố liên quan đến nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của bệnh nhân ung thư
4.1. Các yếu tố nhân khẩu học liên quan đến nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh ung
thư
a. Giới tính

H


Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng các bệnh nhân nữ mắc ung thư có nhu cầu cần hỗ trợ về
chăm sóc giảm nhẹ cao hơn các bệnh nhân nam mắc ung thư.
Về khía cạnh tâm lý/ tinh thần nghiên cứu của Morasso G và cộng sự trên 94 bệnh nhân
ung thư giai đoạn cuối đang tiếp nhận chăm sóc giảm nhẹ tại 13 trung tâm của Ý đã chỉ ra rằng:
So với nam giới, phụ nữ có tỷ lệ về nhu cầu hỗ trợ tinh thần cao hơn đáng kể (67,6% so với
40,0%, p = 0,01), chăm sóc cá nhân (26,3% so với 5,9%, p <0,01) và giao tiếp ( 38,9% so với
19,1%, p = 0,05) [15]. Kết quả này cũng hoàn toàn tương đồng với kết quả trong nghiên cứu
của Rob Sanson‐Fisher rằng phụ nữ có nhiều khả năng báo cáo nhu cầu tâm lý hơn nam giới
(p<0,001; OR 1,63; KTC 95% 1,04–2,56) [20].
Về khía cạnh hỗ trợ thể chất chúng tơi tìm thấy kết quả của một nghiên cứu tại Nhật Bản
vào năm 2016 cho thấy các bệnh nhân nữ ung thư giai đoạn cuối có nhu cầu hỗ trợ về thể chất


16

hơn nam giới (hệ số β = 0,341 và p = 0,009) [8]. Nghiên cứu của tác giả Đỗ Thị Thắm tại bệnh
viện K năm 2018 cũng chỉ ra điều tương tự: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ người
bệnh có nhu cầu hỗ trợ thể chất, sinh hoạt hàng ngày theo giới tính. Cụ thể tỷ lệ nhu cầu này ở
nữ cao hơn so nam (OR = 0,25; KTC 95% 0,03 – 0,19) [29].
Tuy nhiên trong một nghiên cứu thực hiện vào năm 2017, Ullrich và các cộng sự của mình
đã đưa ra kết quả ngược lại rằng: Mức độ nhu cầu không phụ thuộc vào giới tính và mối quan
hệ giữa bệnh nhân và người chăm sóc [24]. Sự tương phản này có thể là do khác biệt về thiết
kế nghiên cứu và việc các nhà nghiên cứu sử dụng các thang đo khác nhau trong nghiên cứu
của mình.
b. Tuổi
Những bệnh nhân trẻ tuổi hơn thường có nhu cầu hỗ trợ chăm sóc giảm nhẹ nhiều hơn những

H
P


bệnh nhân lớn tuổi.

Về khía cạnh tâm lý/tinh thần các nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng các bệnh nhân có tuổi trẻ
hơn có liên quan đến nguy cơ cao hơn về các nhu cầu chưa được đáp ứng trong các lĩnh vực
thể chất, kinh tế và y tế [10]. Một nghiên cứu tại Trung Quốc vào năm 2011 cho kết quả: Bệnh
nhân nhỏ tuổi hơn báo cáo nhu cầu tâm lý cao hơn (OR=0,93; KTC 95%: 0,89–0,99) [12].

U

Về khía cạnh hỗ trợ thể chất, Rob Sanson‐Fisher và nhóm nghiên cứu của ơng đã chỉ ra
rằng: So với những bệnh nhân trong độ tuổi 71–90, những bệnh nhân từ 31– 40 và 41 - 50 tuổi
có nhiều khả năng báo cáo nhu cầu cần được giúp đỡ về thể chất hơn ((OR= 10,21; KTC 95%:

H

2,28 –45,68); (OR= 2,03; KTC 95%: 1,05–3,94) tương ứng) [20].Nghiên cứu của Perez-Fortis
A cho thấy kết quả tương tự: Bệnh nhân lớn tuổi có nhu cầu chăm sóc thể chất / sinh hoạt hàng
ngày thấp hơn ( hệ số β = 0,20) cũng như nhu cầu chăm sóc tình dục thấp hơn ( β = −0,29) so
với bệnh nhân trẻ tuổi [19]. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Đỗ Thị Thắm đã chỉ ra điều ngược
lại, bà và các cộng sự của mình đã nhận thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ người
bệnh có nhu cầu dịch vụ chăm sóc theo tuổi (p< 0,05). Nhóm từ 60 tuổi trở lên có nhu cầu về
yếu tố dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ về thể chất cao hơn nhóm dưới 60 tuổi (OR = 0,39; KTC
95%: 0,17 – 0,86) [29].
Bệnh nhân trẻ tuổi có nhiều vấn đề về tài chính hơn ( p<0,05) trong khi các bệnh nhân lớn
tuổi báo cáo nhu cầu hỗ trợ về tài chính thấp hơn ( p <0,05) (30). Hay tỷ lệ bệnh nhân không
được giải quyết các nhu cầu liên quan đến giấc ngủ giảm đáng kể theo tuổi ( p = 0,01) [15].


17


c. Thu nhập cá nhân
Morrison và cộng sự báo cáo rằng tư vấn chăm sóc giảm nhẹ cho bệnh nhân nội trú có liên
quan đến việc tiết kiệm chi phí đáng kể so với khơng chăm sóc giảm nhẹ, hỗ trợ lợi ích kinh tế
của chăm sóc giảm nhẹ cho người chi trả và các tổ chức trong hệ thống thanh tốn viện phí.
Các bệnh nhân chăm sóc giảm nhẹ được xuất viện còn sống đã tiết kiệm được 1.696 USD chi
phí trực tiếp cho mỗi lần nhập viện (p = 0,004) và 279 USD chi phí trực tiếp mỗi ngày (p
<0,001) bao gồm giảm đáng kể chi phí phịng xét nghiệm và đơn vị chăm sóc đặc biệt so với
với bệnh nhân chăm sóc thơng thường [16].
Một đánh giá có hệ thống khác vào năm 2018 đã báo cáo rằng một cuộc tư vấn chăm sóc
giảm nhẹ trong vịng 3 ngày sau khi nhập viện cho bệnh nhân ung thư có liên quan đến việc
giảm tổng chi phí điều trị trực tiếp là 4.251 USD (KTC 95%: 3.837 USD- 4.664 USD) cho

H
P

mỗi lần nhập viện [27].
d. Tình trạng hơn nhân

Nghiên cứu của Morasso G cho thấy tỷ lệ nhu cầu hỗ trợ tinh thần chưa được đáp ứng cao
hơn ở bệnh nhân sống một mình so với bệnh nhân sống với người thân (90,9% so với
45,9%, p<0,01). Tương tự, bệnh nhân độc thân có tỷ lệ khơng được đáp ứng về hỗ trợ tinh thần

U

(70,0% so với 42,1%, p = 0,01) và nhu cầu giao tiếp (41,4% so với 20,4%, p = 0,04) cao hơn
so với bệnh nhân đã kết hơn [15]. Bên cạnh đó một nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng bệnh nhân
có bạn tình cho biết nhu cầu chăm sóc tình dục khơng được đáp ứng cao hơn (hệ số β = 0,15)

H


so với bệnh nhân khơng có bạn tình [19].

Tại Việt Nam, nghiên cứu của Đỗ Thị Thắm chỉ ra rằng có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê về tỷ lệ người bệnh có nhu cầu hỗ trợ thể chất, sinh hoạt hàng ngày theo tình trạng hơn nhân.
Tỷ lệ nhu cầu này ở nhóm đang có vợ chồng thấp hơn so với nhóm độc thân/chưa lập gia đình
(OR = 17,14; KTC 95%: 2,29 – 127,97) [29].
e. Trình độ học vấn
Kết quả của một nghiên cứu được thực hiện tại Mexico năm 2017 chỉ ra bệnh nhân có trình
độ học vấn cao (β = 0,17) cho thấy nhu cầu chăm sóc tâm lý khơng được đáp ứng cao hơn so
với những bệnh nhân có trình độ học vấn thấp [19]. Hay trong nghiên cứu của Tao Wang và
cộng sự bệnh nhân có trình độ học vấn trung học cơ sở trở xuống cho biết có nhu cầu hỗ trợ
cao hơn về các vấn đề tài chính (p <0,001) [26]. Trong một nghiên cứu khác nhóm có trình độ


18

học vấn trên cấp 3 có nhu cầu nhu cầu thơng tin y tế thấp hơn nhóm từ cấp 3 trở xuống (OR =
7,14; KTC 95%: 2,23 – 22,73) [26].
4.2. Các yếu tố về tình trạng bệnh lý liên quan đến nhu cầu chăm sóc giảm nhẹ của người bệnh
ung thư.
Những người tham gia báo cáo được thông báo rằng bệnh ung thư của họ không ngừng phát
triển hoặc không giảm đi có nhiều khả năng báo cáo cần được giúp đỡ trong lĩnh vực tâm lý
hơn so với những người tham gia có bệnh ung thư đã ngừng phát triển hoặc đang giảm bớt
[20]. Bệnh nhân ung thư giai đoạn IV có điểm cao hơn về các vấn đề tự trị và xã hội (p <0,05)
cũng như điểm toàn cầu cao hơn của phần vấn đề (p <0,05) so với bệnh nhân ung thư giai đoạn
III [26]. Nghiên cứu của Tao Wang cũng đã đưa ra kết luận rằng các bệnh nhân ung thư giai
đoạn IV có nhiều nhu cầu khơng được đáp ứng hơn những người bị ung thư giai đoạn III (30).

H

P

Ở những bệnh nhân có tình trạng bệnh tiến triển đến giai đoạn di căn mơ hình đã dự đoán một
cách độc lập số lượng nhu cầu chưa được đáp ứng trong lĩnh vực vật chất với R 2 = 32% ( p
<0,00001) [10]. Tại Việt Nam một nghiên cứu tại bệnh viện K cho thấy có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về tỷ lệ người bệnh có nhu cầu hỗ trợ thể chất sinh hoạt hàng ngày theo khả
năng đi lại. Tỷ lệ nhu cầu này ở nhóm tự đi lại được thấp hơn nhóm không tự đi lại được (OR
= 8,09; KTC 95% = 3,7 – 17,72). Nhu cầu ở nhóm giai đoạn I, II thấp hơn nhóm giai đoạn

U

III,IV (OR = 3,81; KTC 95%: 1,50 – 9,69) [29].

H


×