ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐỀ TÀI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CẤP TRƯỜNG – 2009
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU Q TRÌNH TRUNG
QUỐC HĨA PHẬT GIÁO
TRONG THỜI KỲ TÙY- ĐƯỜNG
Chủ nhiệm đề tài: ĐẶNG THỊ NGỌC
Chuyên ngành: Triết học
Khóa 2005- 2009
TP. HỒ CHÍ MINH, Tháng 4- 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐỀ TÀI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CẤP TRƯỜNG- 2009
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU Q TRÌNH TRUNG
QUỐC HĨA PHẬT GIÁO
TRONG THỜI KỲ TÙY- ĐƯỜNG
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRƯƠNG VĂN CHUNG
Chủ nhiệm đề tài: ĐẶNG THỊ NGỌC
Chuyên ngành: Triết học
Khóa: 2005- 2009
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1 NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO Q TRÌNH TRUNG QUỐC HĨA PHẬT GIÁO
TRONG THỜI KỲ TÙY- ĐƯỜNG........................................................................................ 6
1.1. Tiền đề về kinh tế ....................................................................................................... 7
1.2. Tiền đề về chính trị- xã hội .......................................................................................11
1.3. Tiền đề về tư tưởng văn hóa .....................................................................................16
Chương 2 NỘI DUNG QUÁ TRÌNH TRUNG QUỐC HĨA PHẬT GIÁO............................41
2.1. Giai đoạn 1: Giai đoạn du nhập và khẳng định chỗ đứng của Phật giáo trong đời
sống tinh thần của xã hội Trung Quốc cổ. .......................................................................42
2.2. Giai đoạn 2: (năm 317 đến năm 581), giai đoạn phát triển về lượng của triết học
Phật giáo và hồn thiện về mặt tơn giáo...........................................................................45
2.3. Giai đoạn 3: (thời Tuỳ-Đường), giai đoạn chín muồi và cực thịnh của Phật giáo
Trung Quốc. .....................................................................................................................54
KẾT LUẬN...........................................................................................................................77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................................79
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Ngày nay trên thế giới tôn giáo và dân tộc vẫn đang là những vấn đề quan tâm hàng đầu
của nhiều quốc gia, nó rất phức tạp, nhạy cảm và dễ gây xung đột, đã và đang và sẽ tồn tại lâu
dài trong sự phát triển của tất cả các quốc gia. Vấn đề tơn giáo và dân tộc có mối quan hệ mật
thiết lẫn nhau, với mọi mặt trong đời sống xã hội và có lúc ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh
chính trị của mỗi quốc gia nói riêng và cộng đồng thế giới nói chung, và nghiên cứu tơn giáo
vẫn được quan tâm ngày càng tăng. Các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn đều cho
thấy rõ rằng các lĩnh vực sử học, văn học, khảo cổ học, xã hội học, tâm lý học… đều không
thể bỏ qua đời sống tôn giáo của con người và xã hội. Ở phương Đơng, ngồiKhổng giáo, Đạo
giáo thì Phật giáo được đặc biệt chú trọng. Trong cuộc truy tìm lẽ sống, một số người hướng
tới triết học, số khác hướng tới nghệ thuật, còn số thứ ba chiếm đa số nhân loại thì hướng tới
tơn giáo dưới hình thức này hay hình thức khác của nó.
Chính vì vậy, đề cập đến vấn đề tôn giáo hiện nay là một việc khơng chỉ bó hẹp trong sự
lưu ý của các nhà khoa học xã hội hay tự nhiên mà là của tồn thể các ngành, các giới, nhất là
giới chính trị, văn hóa, đạo đức và của cả tồn dân. Đó là vấn đề nổi lên hàng đầu của thời đại
từ lĩnh vực nhận thức cho đến vai trò của tơn giáo trong đời sống xã hội. Vì vậy, nghiên cứu
một giai đoạn của một tôn giáo trong lịch sử là một vấn đề cần thiết.
Khi nghiên cứu về lịch sử triết học Ph. Ăngghen viết: “… Một dân tộc muốn đứng vững
trên đỉnh cao của khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý luận… tư duy lý luận chỉ là một
đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta có mà thơi. Năng lực ấy cần phải được
phát triển hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, khơng có một cách nào khác hơn
là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước”1.
Phật giáo du nhập vào Trung Quốc lúc đó Trung Quốc có nền triết học phát triển rất cao.
Vì vậy mà Trung Quốc dựa vào Đạo giáo mà bài xích Phật giáo là điều dễ hiểu. chưa đế được
với Nho giáo nhưng Phật giáo đã bắt tay với Đạo gia và Đạo giáo. Xã hội Trung Quốc tiếp
thu và nhận thức Phật giáo trên bình diện của Đạo giáo. Từ thời Ngụy- Đông Tấn Phật giáo
đã tồn tại với tư cách là trường phái độc lập. Đến thời Tùy- Đường Phật giáo được Trung
1
C. Mác- Ph.Ăngghen (2000), Toàn Tập, Tập 20. Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2
Quốc hóa và phát triển thành các tơng phái chính. Tùy- Đường là thời kỳ phát triển cực thịnh
của Phật giáo Trung Quốc. Mặt khác Trung Quốc là cái nôi của Phật giáo, Phật giáo phát triển
cực thịnh trong lịch sử của các triều đại và thời kỳ Tùy- Đường đã chứng minh cho điều đó.
Đúng như vậy, nghiên cứu triết học Phật giáo Trung Quốc thời kỳ Tùy- Đường một mặt
làm rõ một giai đoạn phát triển trong lịch sử triết học Trung Quốc, mặt khác góp phần làm rõ
trình độ tư duy của con người trong giai đoạn ấy. Những lý do đó đã kích thích tơi nghiên cứu
chọn đề tài: Bước đầu tìm hiểu quá trình Trung Quốc hóa Phật giáo trong thời kỳ Tùy- Đường
làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu có giá trị và sâu sắc nhưng những cơng trình nghiên
cứu đó chỉ tập trung khai thác một cách khái quát những nét cơ bản của Phật giáo Trung Quốc
ở từng khía cạnh khác nhau. Tiêu biểu là có những cơng trình sau:
Thu Giang- Nguyễn Duy Cần, Phật học tinh hoa, Nxb. Tp.Hồ Chí Minh, 1999. Cơng
trình đã nghiên cứu khá tỷ mỉ về lịch sử của Phật giáo theo sự tiến triển bao quát có hệ thống.
Tác phẩm đã giúp cho tác giả hiểu rõ hơn nguồn gốc ra đời và các lý thuyết chân phái của Đại
thừa và Tiểu thừa. Trong cuốn Đạo giáo và các tôn giáo Trung Quốc (Lê Diên dịch, 2000),
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. Cơng trình đã ít nhiều đề cập nói về sự xuất hiện, hình thành
và phát triển của Phật giáo một cách khái quát nhất chứ khơng đi sâu vào q trình phát triển
Phật giáo của từng thời kỳ nhất định.Nguyễn Đăng Thục (1968), Lịch sử triết học Đông
Phương, tập IV, Trung tâm học liệu xuất bản. Tác giả nêu bật nội dung Phật giáo ở thời kỳ
Tùy- Đường, đặc biệt phân tích khá sâu sắc về thuyết đốn ngộ, bất chân không, bát nhã, vô tri
luận. Trong cuốn Tôn giáo và lịch sử văn minh nhân loại 2500 năm Phật giáo, Nxb. Văn hóa
thơng tin. Do GS. Bapat chủ biên (Nguyễn Đức Tư, Hữu Song dịch, 2002). Trong chương 2
tác giả đề cập đến nguồn gốc của đạo Phật. Đặc biệt trong chương 6 đã trình bày một số các
trường phái chính của Phật giáo là Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông, Duy thức tông, Hoa
nghiêm tông, Thiên thai tông, Luật tông… mà sau này thời kỳ Tùy Đường đã tiếp tục đi sâu và
phát triển các tơng phái đó của Phật giáo một cách rõ ràng hơn. Trong chương 10, tác giả đã
đề cập tới nhà hành hương Trung Hoa, trong đó có Huyền Trang (tác giả đã trình bày lịch sử
và tư tưởng của ơng trong q trình học đạo và truyền đạo).
Trong cuốn Thiền tông Phật giáo (Nguyễn Tuệ Chân, biên dịch), Nxb. Tơn giáo. Cơng
trình đã nêu rõ một số những tông phái của Phật giáo Trung Quốc, trong đó có Thiền tơng.
3
Thiền tông đã được thâm nhập vào thời kỳ Tùy- Đường, nó cũng là tơng phái phát triển mạnh
và có ảnh hưởng rộng lớn nhất, đến nay nó vẫ là dòng chủ lưu cảu Phật giáo Trung Quốc.
Thiều Chửu (dịch), Phật học cương yếu, Nxb. Tôn giáo, PL- 2546, 2002. Cơng trình cũng đã
trình bày sự du nhập của Phật giáo vào Trung Quốc.
Trần Quốc Phong, Huệ Năng và sự phát triển của Thiền tơng Trung Quốc, Tạp chí Triết
học, số 1- 4/ 2003. Cơng trình đã làm rõ học thuyết về tính khơng trong bộ kinh Bát Nhã.
Trình bày và phân tích sâu sắc những tư tưởng của Phật giáo Đại thừa đã dần được người
Trung Hoa tiếp nhận, đặc biệt là Tăng Triệu và Đạo Sinh đã đứng trên cơ sở tư tưởng của Lão
Trang mà lý giải tư tưởng Phật giáo một cách có hệ thống. Đây là cơng trình mà tác giả đề tài
đã lựa chọn và tiếp thu những yếu tố cơ bản khi trực tiếp bàn đến tư tưởng triết học, thiền học
của Huệ Năng. Cơng trình của GS. Lê Văn Qn, Đại cương lịch sử cương yếu, Nxb. Lao
động, 2006. Đã trình bày một cách sâu sắc về tư tưởng Đạo giáo, Phật giáo đấu tranh chống
Phật giáo thời kỳ Tùy- Đường ngũ đại.
Phùng Hữu Lan, Đại cương triết học sử Trung Quốc, Nxb. Thanh niên. Cũng đã trình
bày về sự du nhập và p-hát triển của Phật học tại Trung Quốc, ý niệm tổng quát về Phật học.
Thích Thanh Từ, Thiền sư Trung Hoa (3 tập), Thành hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh ấn
hành. Cơng trình này đã trình bày một cách ngắn gọn về các nhà sư của Trung Hoa, trong đó
cũng đã đề cập đến tư tưởng của các thiền sư thời kỳ Tùy- Đường. Tiêu biểu là Tuệ Viễn, Huệ
Năng và nói rõ lịch sử Thiền tơng trong Phật giáo Trung Hoa.
Đặc biệt là cơng trình của PGS. TS Trịnh Dỗn Chính (chủ biên, 2004), Đại cương lịch
sử triết học Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đã trình bày hết sức sâu sắc về
nguồn gốc. giai đoạn của q trình Trung Quốc hóa Phật giáo mà đỉnh cao là thời kỳ TùyĐường.
Như vậy, có thể thấy tính đa dạng và phong phú khi nghiên cứu tư tưởng Phật giáo
Trung Hoa. Mặc dù theo logíc nội tại, các tác phẩm vừa nêu có đề cập khá nhiều đến tư tưởng,
quan niệm, học thuyết Phật giáo thời Kỳ Tùy- Đường. Thế nhưng, cơng tâm mà nhìn nhận thì
có rất ít những tác phẩm chun biệt, đặt tồn bộ trọng tâm đến tư tưởng Phật giáo thời kỳ
Tùy- Đường. Cho nên, sẽ hết sức cần thiết nếu như chúng ta vạch rõ những tư tưởng và nội
dung cụ thể của q trình Trung Quốc hóa Phật giáo trong thời kỳ Tùy- Đường.
Từ chỗ đa dạng và phong phú như vậy, tác giả đề tài đã kế thừa và triển khai đề tài theo
tư tưởng triết học Phật giáo. Song song với việc kế thừa có chọn lọc thì thông qua đề tài, tác
4
giả cũng đã đưa ra những ý kiến của mình, nhằm làm sáng tỏ bức tranh chung về triết học Phật
giáo tại Trung Quốc thời kỳ Tùy- Đường.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích
Đề tài làm rõ nơi dung q trình Trung Quốc hóa Phật giáo thời kỳ Tùy- Đường, với ba
giai đoạn phát triển. Và đóng góp của nó vào nền văn hóa, sự phát triển triết học Phật giáo của
Trung Hoa. Từ đó thấy được giá trị và thực chất của quá trình Trung Quốc hóa Phật giáo.
Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài giải quyết những vấn đề sau:
Một là, tìm hiểu tiền đề lý luận của quá trình Trung Quốc hóa Phật giáo thời kỳ TùyĐường.
Hai là, nghiên cứu nội dung q trình Trung Quốc hóa Phật giáo qua ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Từ thời Hậu Hán đến thời Tây Tấn (từ năm 67 đến năm 317)
Giai đoạn 2: Từ thời Tây Tấn đến thời đại Nam- Bắc triều (từ năm 317 đến 581)
Giai đoạn 3: Thời kỳ Tùy- Đường, giai đoạn chín muồi và cực thịnh của Phật giáo Trung
Quốc
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử .
Phương pháp chủ đạo để nghiên cứu của đề tài phương pháp biện chứng duy vật. Ngoài
phương pháp chủ đạo nêu trên đề tài còn sử dụng phương pháp của các khoa học liên ngành
khác như phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp, quy nạp
và diễn dịch, so sánh đối chiếu. Nhằm tìm hiểu q trình Trung Quốc hóa Phật giáo thời kỳ
Tùy- Đường và ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của xã hội Trung Hoa.
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài đã góp phần làm rõ những nội dung của quá trình Trung Quốc hóa Phật giáo
trong thời kỳ Tùy- Đường, đồng thời cịn góp phần làm phong phú thêm tri thức về lịch sử
triết học Trung Hoa nói chung và triết học Phật giáo nói riêng, từ đó rút ra bài học lịch sử, giá
trị và ý nghĩa của nó. Hơn nữa đề tài cũng góp phần khơi dậy một chặng đường vẻ vang trong
lịch sử triết học Trung Hoa.
5
Ngồi ra đề tài cịn được sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho sinh viên chuyên
ngành triết học nói riêng, sinh viên nghiên cứu Phật giáo nói chung và cán bộ giảng dạy bộ
môn Lịch sử tư tưởng phương Đông phong kiến trong các trường Đại học, cao đẳng.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm hai chương và
7 tiết.
Chương 1: Những tiền đề cho q trình trung quốc hóa phật giáo trong thời kỳ TùyĐường.
Chương 2: Nội dung của quá trình Trung Quốc hóa Phật giáo trong thời kỳ Tùy- Đường.
6
Chương 1
NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO Q TRÌNH TRUNG QUỐC HĨA PHẬT
GIÁO TRONG THỜI KỲ TÙY- ĐƯỜNG
Năm 420, xã hội Trung Quốc lại rơi vào tình trạng rối ren, nội chiến kéo dài, triều đình
phong kiến nhà Tấn suy yếu, các dân tộc Hung Nô, Yết, Tiên Ti, Đế, Khương xâm nhập Trung
Quốc, từ cuối thế kỷ I đã liên tiếp nổi dậy. Triều Tấn đã di tới suy vong. Lưu Dụ cướp ngôi
vua Đông Tấn lập nên một triều đại mới ở miền Nam Trung Quốc gọi là nhà Tống. Nền thống
trị của triều Tống ở Trung Quốc ổn định được trong khoảng 30 năm, lại bị chia cắt thành cục
diện thống trị đối lập Nam- Bắc triều. Bắc triều là khu vực miền Bắc Trung Quốc do những
quý tộc thuộc tộc Tiên Ti và bọn địa chủ cường hào Hán tộc cấu kết với nhau thống trị qua các
triều đại Bắc Ngụy (Từ năm 439 đến năm 535), Đông Ngụy, Tây Ngụy (Từ năm 535 đến 550),
Bắc Tề (Từ năm 580 đến 577), Bắc Chu (Từ năm 557 đến năm 581). Nam triều là khu vực
miền Nam Trung Quốc do bọn quý tộc phong kiến Hán tộc và một số hào gia thế tộc thống trị
qua các triều đại Tống, Tề, Lương, Trần kéo dài 169 năm (Từ 420 đến 589), đều đóng đơ ở
Kiến Khang và chỉ thống trị được vùng phía nam Trường Giang. Năm 581, Dương Kiên giành
ngơi Bắc Chu đổi tên nước là Tùy đóng đô ở Trường An. Năm 589, Tùy diệt Trần chấm dứt
tình trạng chia cắt Nam- Bắc triều.
Gần suốt bốn thế kỷ, Trung Quốc lâm vào cục diện chia cắt, nội chiến và bị Ngũ hổ xâu
xé. Các thế lực phong kiến cát cứ ln gây chiến tranh thơn tính lẫn nhau, làm cho đời sống
nhân dân vô cùng cực khổ. Nhân dân Hán tộc Bắc triều đã không ngừng tiến hành đấu tranh
chống lại sự áp bức bóc lột của bọn quý tộc thuộc tộc Tiên Ti và bọn cường hào ác bá. Nhân
dân Nam Bắc triều cũng luôn đứng dậy chống lại ách nô dịch của bọn hào gia thế tộc phong
kiến.
Sau khi cướp ngôi vua Bắc Chu, Tùy Văn Đế đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm xây
dựng thể chế phong kiến nhà Tùy vững mạnh như tiếp tục thi hành chế độ quân điền, giảm nhẹ
nghĩa vụ tô thuế và lao dịch cho nông dân, thống nhất tiền tệ, mở khoa thi để chọn nhân tài
trong tầng lớp địa chủ bình dân,… Do vậy, xã hội tương đối ổn định, kinh tế bước đầu phát
triển.
Vào thời nhà Tùy do chiến tranh liên miên, nhất là miền Bắc dưới sự thống trị của các
dân tộc thiểu số làm cho sức sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Nhân khẩu cả nước Tùy chỉ
7
có khoảng 30 triệu, diện tích canh tác được trên 19 triệu khoảnh (tức khoảng 1.3 triệu km
vuông), nhưng bị hoang hóa rất nhiều. Văn Đế ngay trước khi làm vua đã có một số cải cách
sau này tiếp tục thực hiện.
Một là, miễn thuế nhập thị
Hai là, miễn lao dịch xây dựng cung điện ở Lạc Dương
Ba là, ngoài vĩnh nghiệp điền chia cho Chư vương đến đô đốc, và ruộng chia cho quan
cấp thấp (chức phận điền, công giản điền) còn chia cho mỗi cặp vợ chồng 120 mẫu Lộ điền
(làm tá điền cho quan) nộp thuế 5 thạch /mẫu. Điệu: Lụa 1 súc và 3 lạng bông (101 mảnh vải
với 2 cân đay) phục dịch mỗi xuất đinh một lần 30 ngày trên năm. Gộp huyện thành Châu, bỏ
huyện nhỏ để giảm nhẹ số biên chế quan lại1.
Từ năm 583 thực hiện tiếp việc giảm mức Điệu cho mỗi suất đinh còn hai trượng, lao
dịch 20 ngày và tuổi tính từ 20 đến 50. Bố phịng dọc tuyến trường thành, đồn điền phía Bắc
trường thành để dân đỡ di chuyển. Đăng ký hộ khẩu và khuyến khích người lưu tán trở về,
kiểm tra các hộ khẩu lậu thuế, trốn phu trong cả nước, lập hộ tịch cho cả anh em họ hàng làm
tăng thêm nhiều nhân khẩu trong sổ sách. Từ năm 594 bỏ chế độ cấp tiền công sai cho quan
lại, chỉ cấp chức phân điền để thu tơ làm lương bổng. Triều đình gương mẫu tiết kiệm, lục
cung đều mặc lại đồ cũ, xa giá cũng hư thì sửa lại dùng, bỏ yến tiệc linh đình…
1.1. Tiền đề về kinh tế
Do đó tình hình sản xuất được khôi phục, nhân khẩu tăng hàng năm, tô điệu chất đầy các
kho lẫm. Trường An, Lạc Dương, Dương Châu, Quang Châu đều rất phát đạt, buôn bán tấp
nập cả trong và ngồi nước. Thủ cơng nghiệp đã phát triển, có thể đóng các chiến thuyền cao
30m, 5 tầng chứa hàng trăm người. Vũ Văn Khải dựng được một hành cung có bánh xe đẩy đi,
Hà Trù lắp được một ngơi thành chu 8 dặm có thể tháo ra di chuyển từng bộ phận. Nhưng vào
cuối đời Tùy do thiên tai mất mùa lại thêm các đảm phụ ngày càng nặng nề ngay nông dân tự
canh cũng phải cống lễ cho địa chủ, nộp điệu cho nhà nước và đi lao dịch. Ngay sau khi lên
ngôi Tùy Dưỡng Đế đã tiến hành một chính sách thống trị tàn bạo ăn chơi xa xỉ, huy động
hàng triệu dân xây dựng kinh đô Lạc Dương và vườn Tây Uyển, bắt dân đi phen tạp dịch nặng
nề. Thời kỳ này nông dân bạo động, địa chủ trấn áp làm cho sức sản xuất càng bị phá hoại.
1
Võ Mai Bạch Tuyết (1999), Lịch sử Trung Quốc, Nxb. Tủ sách Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn,
Tr 103.
8
Đến Cao Tông (Lý Trị) của nhà Đường (năm 650) cả nước chỉ còn 3.8 triệu hộ và rõ ràng hộ
khẩu giảm sút.
Sau khi Lý Uyên xưng đế, nhà Đường đã thực hiện một số biện pháp để khôi phục sản
xuất, hòa hỗn mâu thuẫn như: Đo đạc ruộng đất theo quy định 5 thước là một hộ, 240 bộ là
một mẫu, 100 mẫu là 1 khoảnh, và thực hiện chế độ quân điền (Sau khi chết thì phải trả lại nhà
nước). Mỗi nam 18 tuổi- 60 tuổi 100 mẫu. Trong đó 80 mẫu là khẩu phần và 20 khẩu là vĩnh
nghiệp. Người già, tàn tật 40 mẫu, quả phụ 30 mẫu nếu là chủ hộ thì thêm 20 mẫu vĩnh nghiệp
(nông dân được thừa kế, mua bán, chuyển nhượng). “Để khuyến khích nơng dân khẩn hoang
ruộng đất, chính phủ Đường cịn quy định nơng dân ở thơn ít ruộng chỉ được cấp 1 nửa số
ruộng quy định, nếu chuyển từ thơn ít ruộng sang thơn nhiều ruộng thì được bán ruộng vĩnh
nghiệp đã cấp ở thơn ít ruộng và được cấp ruộng đất mới ở thôn nhiều ruộng”1. Chế độ quân
điền ở đời Đường không xâm phạm đến lợi ích của giai cấp địa chủ, ruộng đất của địa chủ
được giữ nguyên vẹn. Quý tộc và quan lại có thể theo đẳng cấp mà chiếm hữu nhiều ruộng đất
vĩnh nghiệp, đồng thời vua cũng thường cấp cho chúng rất nhiều ruộng đất, chế độ quân điền
thừa nhận việc mua bán ruộng đất, nơng dân nghèo đói, có tang ma rời ra làng khác được bán
ruộng vĩnh nghiệp. Vậy chế độ quân điền chỉ là một chính sách kinh tế có tính chất giai đoạn.
Chế độ qn điền đã buộc chặt nông dân vào ruộng đất và bắt buộc nông dân phải thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ của nhà nước. Nông dân nhận ruộng của nhà nước phải thực hiện chế độ tơ,
dung, điệu (Ruộng thì phải nộp tơ, đinh thì nộp dung, hộ thì nộp điệu), mỗi người dân mỗi
năm phải nộp tơ: 2 thạch thóc, điệu: 2 trượng lĩnh, lụa hay the (vải thì tăng 1/5), 3 lạng bơng
(hay 3 cân gai), lực dịch thì 20 ngày, mỗi ngày khơng đi thì nộp 3 thước lụa thay thế (gọi là
dung). “Mất mùa dâu, hay miễn điệu. Hộ mới đến vào mùa xuân thì miễn lao dịch, vào tháng 6
thì miễn thuế, vào tháng 9 thì miễn cả 3 thứ. Nơ thì chuyển thành nơng hộ sẽ miễn dịch 3 năm,
2 năm trở về thì miễn lao dịch 4 năm, 3 năm trở về thì miễn lao dịch 5 năm”2.
Do đó sản xuất phát triển, nhân khẩu tăng lên nhanh. Âu Dương Tu đã viết ca ngợi sự
phồn vinh lúc đó trong “Tân Đường Thư”. Thực hóa chỉ rằng “Đầu những năm Trinh quan
không đến 3 triệu hộ, 1 súc lụa đổi 1 đấu gạo, đến năm trinh quan thứ 4 thì 1 đấu gạo chỉ có
4,5 tiền,… bị ngựa đầy đồng, người đi mấy ngàn dặm không cần đem theo lương thực, Tứ di
có 120 vạn hàng phục…”. Sau thời Cao Tông (Lý Trị 630- 683) đến thời Trung Tơng (Lý
1
Đặng Đức An- Phạm HồngViệt (1978), Lịch sử thế giới Trung Đại, Nxb. Giáo dục, Tr128.
Xem Võ Mai Bạch Tuyết (1999), Lịch sử Trung Quốc, Nxb. Tủ sách trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn,Tr104.
2
9
Hiển 684- 689), Võ Hậu (Võ Tắc Thiên 690- 705) Trung Tông (705- 709), Duệ Tông Lý Đán
(710- 712), mức đảm phụ của dân và mức chi tiêu của quan phủ ngày một nhiều lên, nhưng
cịn có sự chú ý tới nỗi khổ của dân hơn so với các vị vua sau này.
Sau khi Huyền Tông (Lý Long Cơ 713- 755) lên ngôi, chế độ Tô- Dung-Điệu và chế độ
hộ tịch khơng cịn quy củ nữa. Nhiều người chốn tránh, dấu hộ khẩu. Ruộng đất bị mua bán rất
nhiều, những người khai hoang cũng khơng có hộ tịch, ngược lại nhiều người bị thơn tính
ruộng đất rồi mà vẫn cịn tên trong sổ Tô- Dung- Điệu. Do vậy Cao Tông ở niên hiệu Vĩnh
Huy đã cấm bán đất khẩu phần và Huyền Tông chỉnh lý hộ tịch “Ban bố chế độ Tô- DungĐiệu” quy định chất lượng vật nộp thuế, cách thức nộp, thu lại ruộng chiếm của công điền,
miễn lao dịch 5 năm cho hộ khẩn hoang, cấp hộ tịch cho những người khơng có, thu mỗi suất
đinh 1.500 tiền thuế, thu thêm được hơn 80.000 hộ khách, cấp thẻ cho người được miễn lao
dịch. “Điều đó làm tăng hiệu lực của bộ máy thống trị nhưng cũng làm cho mâu thuẫn giai cấp
gay gắt. Từ Cao Tông đến Huyền Tơng thì kinh tế xã hội đi lên. Đến năm 740 có 8.412.271 hộ
với 48.143.6.9 người dân”1.
Thời Sơ Đường, nơng dân có ruộng cày, chính phủ thu thuế theo quy định, lại cịn chú ý
đến khơng bắt phu trong ngày mùa, miễn giảm tô thuế trong những năm mất mùa, đói kém…
Cho nên đời sống của nơng dân có dễ chịu hơn, xã hội sớm đã ổn định. Dân số tăng nhanh,
ruộng đất được khai khẩn thêm nhiều, công tác thủy lợi được chăm sóc, sản xuất nơng nghiệp
phát triển nhanh chóng.
Kinh tế cơng thương nghiệp ở thời Sơ Đường cũng được khôi phục và phát triển lên theo
đà phát triển của nông nghiệp. Thủ công nghiệp do ba bộ phận sản xuất: công xưởng thủ công
của nhà nước, xưởng thủ công phường hội ở thành thị và thủ cơng nghiệp gia đình ở nơng
thơn. Nhà nước mở nhiều cơng xưởng thủ cơng như lị đúc sắt, đồng, xưởng đúc tiền, chế tạo
vũ khí, làm mũ áo cho quan, đóng xe thuyền… Thợ thuyền dân gian được trưng dụng theo
phiên đến làm việc tại công xưởng nhà nước, mỗi ngày được trả tiền cơng là ba thước lụa .
Ngồi ra lại có loại thợ chun mơn nhất định suốt đời làm trong các công xưởng nhà nước
được bồi dưỡng thêm về kỹ thuật chuyên môn. Xưởng thủ công dân gian ở thành thị gọi là
“tiệm” vừa là nơi sản xuất vừa là nơi bán những hàng hóa do họ làm ra. Người chủ của xưởng
thủ công gọi là thợ cả. Thợ cả chế tạo ra sản phẩm thủ công với sự giúp đỡ của người nhà
1
Xem Võ Mai Bạch Tuyết (1999), Lịch sử Trung Quốc, Nxb. Tủ sách trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Tr 107.
10
mình và những người học nghề. Các xưởng lớn cịn có th người làm cơng, những người làm
cơng và học nghề đều ăn ở chung với chủ. Những xưởng thủ công cùng làm một nghề tập
trung tại một nơi và có tổ chức riêng của mình gọi là “hàng hội”. Mỗi “hàng hội” đều có người
đứng đầu để giao thiệp với chính phủ. Thành thị lớn có rất nhiều hàng hội.
Thủ cơng nghiệp gia đình ở nơng thơn cung cấp một khối lượng lớn ra sản phẩm thủ
công, nghề dệt vải lụa là nghề phụ phổ biến nhất ở nông thôn (thời Sơ Đường, nông dân phải
nộp thuế hộ điệu bằng vải lụa). Ngoài ra phần lớn sản phẩm thủ công sử dụng ở nông thôn
cũng do nông dân tự sản xuất lấy. Những sản phẩm thủ công nổi tiếng ở đời Đường là gấm
hoa ở Tứ Xuyên, tơ lụa ở Định Châu, gương bằng đồng ở Dương Châu, đồ mỹ nghệ ở Thành
Đô, đồ sơn ở Tương Dương”1.
Thương nghiệp đời Đường hoạt động chủ yếu ở các thành thị, bn bán trong nước và
với nước ngồi. Trong các thành thị, có nhiều hiệu bn bán chun mua hàng của nông dân,
của thợ thủ công, hoặc của các đồn hành thương. Các hiệu bn này lại bán hàng hóa đó cho
khách hàng ở thành thị, nông thôn và các nơi xa đến. Các thành thị lớn có đường giao thơng
liên lạc nối liền với nhau. Dọc đường có nhiều trạm ngựa, bên cạnh trạm ngựa có nhiều quán
tiếp khách, trong quán có bán cơm và cho thuê lừa, ngựa để phục vụ khách qua đường. Trên
sơng có nhiều thuyền bè qua lại, chở hàng xuôi ngược. Những người lái buôn đời Đường
thường đi lại buôn bán bằng đường biển với các nước Ả-Rập, Ba Tư, Inđônêxia… Thuyền
biển của Trung Quốc rất lớn, dài hơn 20 trượng, đóng rất chắc chắn, đi lại trên biển rất an tồn.
Những thuyền buôn của Ba Tư và Ả-Rập cũng thường qua lại buôn bán ở các cửa biển Nam
Hải, chở tới các hương liệu, cây thuốc và châu báu. Những đội lái buôn của Tây vực (vùng
Tuốc- La- Xtan Nga hay là Trung Á của Liên Xô ngày nay) đã dùng lạc đà và ngựa chở hàng
(ngựa, da lông thú, chăn bông) leo đèo cao, vượt sa mạc đến buôn bán ở các thành thị vùng
biên giới ở Trung Quốc. Các dân tộc ở Châu Á đến Trung Quốc thường hàng tơ lụa, gương
đồng, đồ xứ, sắt và chè về nước. Những thành thị quan trọng nhất ở đời Đường là Trường An
(Kinh Đô), Lạc Dương, Dương Châu, Thành Đô. Quảng Châu (Quảng Châu là hải cảng lớn
nhất của đế quốc Đường). Do sự phát triển của thương nghiệp, nhu cầu về tiền tệ tăng lên
nhiều. Giữa thế kỷ XVII, kinh tế công thương nghiệp ở đời Đường đã phát riển cao hơn các
thời Tần Hán một bước.
1
Đặng Đức An- Phạm HoàngViệt, Lịch sử thế giới Trung Đại, Nxb. Giáo dục, Tr129.
11
Nhìn một cách tổng quát về kinh tế thời kỳ Tùy Đường, ta thấy nó đã đạt đến được
những thành tựu nhất định, đó là sự cải tổ, phát triển của cái mới so với cái cũ và chính là quy
luật phủ định của phủ định. Nó đã đóng một vai trị to lớn cho Trung Quốc hóa Phật giáo.
1.2. Tiền đề về chính trị- xã hội
Về chính trị đó là sự phát triển của mâu thuẫn giai cấp và tự tranh chấp trong nội bộ giai
cấp thống trị. Kết cấu giai cấp cơ bản của thời Tùy- Đường cũng giống như thời Tần Hán gồm
các giai cấp địa chủ, nông dân, các tầng lớp thợ thủ công, tiểu thương…Trong nội bộ giai cấp
thống trị, hoàngtộc cùng đại địa chủ quan lại, đại thương nhân nắm nhiều quyền hành và lợi
lộc. Trung và tiểu địa chủ khơng có quyền chính trị còn chịu nộp thuế, họ cũng là tầng lớp
trung gian như trung thương nhân và các thợ ban trong phường hội. Tầng lớp này phát triển
mạnh ở đời Đường, tiểu chủ cũng tăng nhiền.
Đấu tranh trong nội bộ giai cấp thống trị diễn ra dưới hình thức tranh giành quyền lực
còn đấu tranh giữa giai cấp đối lập diễn ra dưới hình thức khởi nghĩa của nơng dân đời Tùy.
Sau một thời gian dài gần bốn trăm năm phân tán và loạn lạc, Trung Quốc lại thống nhất dưới
chính quyền Tùy. Bắt đầu từ thời gian này, Trung Quốc bước vài thời kỳ phát triển của chế độ
phong kiến. Tùy Dưỡng Đế (Dương Quảng) nối ngôi vua Tùy Văn Đế, là người ăn chơi phóng
đãng bậc nhất trong lịch sử, xây dựng nhiều cơng trình lớn và mở rộng chiến tranh xâm lược
các nước láng giềng. Ngay sau khi lên ngôi Tùy Dưỡng Đế đã cho xây dựng thành Đông Đô
mới ở Lạc Dương với quy mô to lớn, thường xuyên sử dụng tới 2 triệu dân phu, dựng cung
Hiển Nhân (ở Nghi Dương- Hà Nam, trong vườn có nuôi đủ các thứ chim thú kỳ lạ từ khắp
nơi mang tới, lập vườn Tây Uyển, ở gần Đông Đô chu vi 200 dặm (khoảng 100 km), trong có
một hịn núi giả rất lớn trên có sắp xếp cung điện, lầu gác, chu vi hơn 10 dặm (khoảng 5 km).
Từ Trường An đến Giang Đơ (Dương Châu, Giang Tơ), có đặt hơn 40 cung thất. Số dân phu
đào đắp Vận Hà trước sau có tới 2 triệu người, có nơi đàn ông không đủ phải bắt cả phụ nữ đi
làm. Sau đó Tùy Dưỡng Đế sai quan lại xuống Giang Nam (vùng phía Nam Trường Giang),
đóng thuyền rồng và các thứ thuyền khác đến mấy vạn chiếc, để chuẩn bị cuộc du ngoạn trên
Vận Hà. Tùy Dưỡng Đế cùng với Hoàng gia, quý tộc quan lại và khách nước ngoài ngồi trên
thuyền rồng và các thứ thuyền khác đi du lịch từ Lạc Dương đến Giang Đô. Thuyền bè nối
nhau dài hơn 200 dặm (trên 100 km), dân phu kéo thuyền, chèo thuyền hơn 8 vạn người, kỵ
binh đi dọc hai bên bờ bảo vệ. Thuyền qua nơi nào thì nhân dân quanh đấy 500 dặm (250 km)
phải cung cấp thức ăn, ăn khơng hết thì vứt bỏ. Đó là nền chính trị tàn bạo của Tùy Dưỡng Đế.
12
Đối với các dân tộc biên giới và các quốc gia láng giềng, Dưỡng Đế hoặc dùng tiền của
lung lạc, dụ dỗ vào triều Cống, hoặc mang đạo quân đi chinh phục, đàn áp. Cuối đời Văn Đế,
tướng nhà Tùy là Lưu Phương đã mang quân xuống chinh phục nước Vạn Xuân, tức Châu
Giao (Bắc Bộ Việt Nam), đánh bại Vua Lý Phật tử, đặt lại Châu Giao dưới ách đô hộ của nhà
Tùy. Dưỡng Đế lại sai Lưu Phương tiến vào cửa Lâm Ấp (tức Chăm Pa ở miền Nam Trung bộ
Việt Nam), đánh phá kinh thành của Lâm Ấp cướp bóc rất nhiều của cải, vàng bạc. Cuộc chiến
tranh này cũng đã cướp đi rất nhiều sinh mạng của qn lính nhà Tùy vì đánh nhau và bệnh
tật. Cuộc chiến tranh với quy mô lớn nhất của Tùy Dưỡng Đế là tấn công xâm lược Cao Ly.
Để chuẩn bị cuộc chiến tranh xâm lược với Cao Ly, Dưỡng Đế đã ráo riết mộ lính đóng xe,
đóng thuyền và trưng thu lương thực. Trên đường từ khắp các quận huyện ở nội địa ra đến
biên giới Lưu Đông, thường xun có hàng chục vạn dân cơng chuyển vận qn lương và vũ
khí, họ đã phải sử dụng bị, ngựa và thuyền của mình để chuyên chở. Họ chết rất nhiều, thây
nằm chất đầy đường. Riêng thợ đóng thuyền bị đốc xuất làm việc suốt ngày đêm chết đến 3, 4
phần mười. Năm 612 Tùy Dưỡng Đế cho quân đi xâm lược Cao Ly. Nhưng nhân dân Cao Ly
chiến đấu anh dũng ở vùng ngoại ơ Bình Nhưỡng. Qn lính nhà Tùy phản chiến và bỏ trốn
rất nhiều. Và cuộc chiến tranh hồn tồn thất bại của nhà Tùy.
Trước tình hình trên, cuộc khởi nghĩa nơng dân cuối đời Tùy đã được diễn ra ở Sơn
Đông, Hà Bắc, nông dân ở đây đã nổi dậy trước tiên vào năm 611. Vương Bạt lãnh đạo nhân
dân chiếm trường Bạt Sơn nêu khẩu hiệu chống binh dịch. Nơng dân ở Hương Bình cũng nổi
dậy, trong đó có địa chủ Lưu Bá Đạo, Đỗ Phục Huy ở Chương Khưu (Sơn Đông), tham gia
vào cịn có cuộc khởi nghĩa của dân tộc thiểu số như người Việt ở Quảng Đơng. Trong khi đó
đại địa chủ của Lương Bắc ngụy như Lý Mật, Lý Uyên… cũng nổi dậy. “Năm 616 nhà Tùy
diệt vong. Lợi dụng những thành quả của cuộc khởi nghĩa nông dân năm 618, lực lượng quý
tộc quan liêu địa phương đứng đầu là Lý Uyên (tức Đường Cao tổ) sau đó là Lý Thế Dân (tức
Đường Thái Tông) đã thu phụ hầu hết các cánh quân khởi nghĩa, tiêu diệt các lực lượng cát cứ,
lập nên đế quốc đại Đường thống nhất vào năm 628”1. Đường Thái Tông, Lý Thế Dân (599649) đầu đời Đường là đế vương phong kiến nổi tiếng kế sau Tần Hồng, Hán Vũ trong lịch sử
Trung Quốc, là nhà quân sự và nhà chính trị kiệt xuất của giai cấp địa chủ. Tận mắt ơng nhìn
thấy vương triều Tùy giàu mạnh bị quân khởi nghĩa nông dân lật đổ. Điều này buộc họ chú ý
tổng kết và tiếp thu sự giáo huấn của lịch sử triều Tùy bị diệt vong. Từ trong nhân dân vua tơi
1
Dỗn Chính (chủ biên, 2003). “Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc”. Nxb. Chính trị Quốc gia”. Tr 420.
13
Thái Tơng luận bàn chính trị, có thể thấy cuối đời Tùy, sự giao huấn của chiến tranh nông dân
với bọn thống trị phong kiến đầu đời Đường là sâu sắc. Đầu tiên xuất phát từ lợi ích thống trị
lâu dài mà duy trì vương triều phong kiến Lý Đường, họ trên trình độ nhất định nhận thức
được cần phải tiết chế sự áp bức và bóc lột nhân dân. Đường Thái Tông phải so sánh giữa
quan hệ vua và dân như quan hệ với thuyền và nước, ông cho rằng; “Nước có thể chở thuyền
nhưng cũng có thể lật thuyền”. Ơng nói: “Thiên tử có đạo thì nhân dân suy tơn và làm chủ, vơ
đạo thì dân vứt bỏ và khơng dùng, thật là đáng sợ”, ơng lại nói: “Tần Thủy Hồng bình định
được 6 nước, Tùy Dưỡng Đế giàu có bốn bể đã kiêu ngạo lại dâm dật chẳng bao lâu thất bại,
ta sao cũng có thể tự kiêu được…”1. Triều Tùy giàu mạnh mà bị diệt vong là bởi Tùy Dưỡng
Đế hà khắc lộng hành. Do đó, Đường Thái Tơng chẳng những suy nghĩ tự răn mình mà thường
lấy những điều đó để răn bảo quần thần và con cháu của ơng. Sau đó họ cịn nhận thức bóc lột
quá mức tất nhiên sẽ dẫn đến vận mệnh bị diệt vong. Ơng nói: “Tát cạn đầm mà bắt cá nhất
định được cá, nhưng sang năm không bắt được cá; đốt rừng mà săn thú nhất định được thú
nhưng sang năm không được thú”, người làm vua thuế khóa khơng dừng, trăm họ chết thì vua
cũng chết. Đường Thái Tơng cịn so sánh bọn thống trị tham lam là “người tham ăn, bản thân
mình ăn thịt, hết thịt sẽ chết”. Do đó ơng cho rằng: “Người là vua có mối lo khơng phải từ
ngồi đến, thường là do bản thân mình mà ra. Ham muốn thịnh vượng thì tiêu phí rộng, tiêu
phí rộng thì thuế nặng, thuế nặng thì dân buồn, dân buồn thì nước nguy, nước nguy thì vua
mất”. Qua đó họ rút ra kết luận: “Đạo làm vua trước hết thì cần phải bảo tồn trăm họ” cũng tức
là nói, họ thơng qua sự giáo huấn của lịch sử vương triều Tùy bị tiêu diệt, ít nhiều nhận thức
được. Khơng thể bóc lột nhân dân tới bước đường khơng sống nổi. Bóc lột và áp bức nhân dân
trước hết phải bảo tồn trăm họ (nhân dân) khiến cho nhân dân có thể duy trì tái sản xuất giản
đơn làm tiền đề, nếu khơng thì giai cấp thống trị sẽ bị mất đối tượng bóc lột.
Họ cịn nhận thức được tính quan trọng của việc lung lạc lịng dân. Năm đầu, Đường
Thái Tơng lên ngơi, trong triều đình đã triển khai tranh luận thống trị nơng dân. Một bộ phận
đại thành, đại biểu là Phong Đức Di cho rằng. “Sau ba đời lòng người mỗi người một bạc bẽo
gian trá, chỉ có sử dụng pháp luật, chủ trương nghiêm khắc trấn áp nông dân”. Ngụy Trưng
Vương quyết phản đối chủ trương đó ơng bài bác Phong Đức Di: “Nếu nói lịng người mỗi
ngày một bạc bẽo gian trá thì sẽ khơng hồi phục được sự chất phác nhân hậu, thế thì đời này
sẽ biến thành quỷ, cịn cần phải hỏi người làm vua làm gì để cai trị?”. Ông là người nêu
1
Lê Văn Quán (1997), Đại cương lịch sử Trung Quốc, Nxb. Giáo dục, Tr 254.
14
những sự thật lịch sử, luận chứng sau đại loạn rất dễ “đến trị” giống như cho người đói ăn
cơm, cho người khác uống nước là việc dễ dàng. Ông lại đề xuất “Lấy nhà Tùy làm gương thì
tồn, vong, tri, loạn, có thể biết được”, cho nên ơng cương quyết phản đối biện pháp “sử dụng
bạo đổi bạo lực”. Trái lại ông khuyên Đường Thái Tông phải giảm nhẹ bóc lột nhân dân để
lung lạc lịng người. Đường Thái Tông tiếp thu ý kiến của Ngụy Trưng, ông đè ra đạo lý
“thiên hạ không thắng bằng sức”, “không thể sử dụng bạo lực ngăn loạn”. Ơng phân tích nơng
dân cuối đời Tùy nhân dân khởi nghĩa là do: Một là thuế khóa, tạp dịch q nặng; hai là chính
trị hư bại, quan lại tham lam tàn khốc; ba là quảng đại nhân dân đói rét bắt buộc phải nổi dậy.
Nếu như nhà nước giảm bớt thu chi, giảm nhẹ thuế khóa và tạp dịch, đồng thời thanh trừng
bọn quan lại tham nhũng, khiến cho dân ăn no mặc ấm, thì nhân dân sẽ khơng nổi dậy làm
phản. Chính là do giáo huấn nghiêm khắc của nhà Tùy bị đổ, nhưng thống trị đầu đường trong
tư tưởng chính trị đã nghiên cứu “Đạo yêu dân” cụ thể biểu hiện ở hai mặt sau đây.
Thứ nhất, là quy định về phương châm chính sách và một số phương sách cụ thể hịa
hỗn mâu thuẫn. Chẳng hạn về mặt chính trị, tăng cường chức năng nhà nước Trung ương tập
quyền, chú ý điều chỉnh bộ máy quan liêu, giản hóa trình tự tổ chức, cố gắng ít dùng quan
viên. Như vậy, có thể giảm nhẹ được gánh nặng cho nhân dân, lại đề cao được hiệu suất hành
chính. Khiến cho các chính sách, phép lệnh của chính phủ đời Đường, có thể quán triệt chấp
hành tương đối thuận lợi. Chính trị vững chắc, xã hội ổn định cũng đã tạo điều kiện có lợi cho
phát triển sản xuất. Đường Thái Tơng lại xác lập chế độ khoa cử, để mở đường thuận lợi cho
phần tử tri thức giai cấp địa chủ, đặc biệt là phần tử giai cấp trung tiểu địa chủ tham gia chính
quyền này, từ đó tăng cường có hiệu lực thống trị của nhà nước phong kiến. Tu sửa pháp luật,
xóa bỏ hình phạt tàn khốc của triều Tùy để biểu thị “khoan bình”. Tịa án, tư pháp phán quyết
hình sự cần phải dựa vào luật mà trị tội, không được “thêm bớt sự việc tốt xấu, nặng nhẹ là do
yêu ghét”, phán quyết tội tử hình cần phải phúc tâu nhiều lần mới có thể định án. Về mặt xử lý
vấn đề dân tộc thì nhấn mạnh vấn đề ổn định biên giới, thiết lập châu phủ, coi trọng hịa hỗn
mâu thuẫn giai cấp và dân tộc. Đương nhiên điều này cũng là xoa dịu nhân dân khiến cho
nhân dân trở thành công cụ thuần phục giai cấp thống trị. Nhưng nó so với chính sách tàn bạo,
hà khắc của Tùy Dưỡng Đế là tiến bộ rõ rệt.
Thứ hai, “Đạo yêu dân” của bọn thống trị đầu đời Đường biểu hiện tăng cường tư tưởng
thống trị đối với quần chúng nhân dân. Học thuyết lý luận phong kiến của Phật giáo, Đạo giáo
Nho giáo đã trở thành ba sợi dây tư tưởng đối với nông dân. Vương Thông đề xướng điều hồ
15
tam giáo Nho, Phật, Lão đến nay, bọn thống trị đầu đời Đường cũng biết lợi dụng “tam giáo”
mỗi lần quốc gia đại điển thường bảo lãnh tụ tam giáo ở trong cung và cơng khai tiến hành bàn
luận, hình thành tình hình tam giáo đều song song tồn tại. Nhưng Đường Thái Tông cũng nhận
thức được rằng tiếp thu những người thống trị Nam Bắc triều tín thờ Phật giáo đều chưa đạt
tới mục đích giáo huấn. Ơng nhìn thấy giáo nghĩa Phật giáo có mâu thuẫn với Dang giáo,
cương thường của vua tôi, cha con, vợ chồng và chế độ đặc quyền của tăng lữ phát triển đến
trình độ nhất định cũng sẽ nảy sinh sự xung đột với lợi ích quốc gia trên vấn đề thuế khóa, lao
dịch, binh dịch. Do đó, đồng thời tơn trọng và lợi dụng Phật giáo, ơng lại cịn đề cao Đạo giáo
ngang hàng với thế lực Phật giáo. Đường Thái Tông cị dụng tâm đề xướng Nho học. Sau khi
lên ngơi ông bèn truy tôn Khổng Tử là “Tiên thanh”, triệu tập các danh Nho trong thiên hạ làm
quan trông coi việc học mở rộng quốc tử học, phàm những người thông kinh Nho đều được
tham gia tiến cử, ra sức đề cao địa vị xã hội của nhà Nho. Có thể nói đời Đường Thái Tơng là
thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Trung Quốc.
Sang thời Võ Tắc Thiên thống trị (từ 690 đến 705) đã tập trung mọi cố gắng xây dựng
nền độc tài cá nhân để giữ vững quyền lực cai trị của mình. Dưới sự thống trị của Võ Tắc
Thiên cuộc sống của nhân dân lao động Trung Quốc càng thống khổ bởi nghĩa vụ lao dịch,
bình định thuế khóa ngày cang tăng.
Đến đời Vua Đường Huyền Tơng cũng đã thi hành nhiều chính sách nhằm ổn định tình
hình xã hội. Về chính trị thì Huyền Tơng chỉnh đốn lại bộ máy chính quyền từ Trung ương đến
địa phương. Những biện pháp trên đã làm cho thể chế xã hội trật tự, vững vàng, kinh tế nhà
chùa cũng phát triển. Trung Quốc bước vào thời kỳ này phồn thịnh mà lịch sử gọi là “nền
thịnh trị thời Khai nguyên, Thiên Bảo”.
Nói tóm lại, chế độ chính trị thời kỳ Tùy- Đường diễn ra rất phức tạp vẫn nêu cao sự
thống nhất. Chính quyền nhà Đường được nắm trong tay tập đồn đại địa chủ. Bộ máy hành
chính càng hồn bị hơn so với đầu thời Hán. Mọi quyền hành tập trung trong tay vua kế đến là
“Tam sư” (Thái sư, Thái Phó, Thái Bảo) là các cố vấn cao cấp của vua. Phò tá hoang đế thực
hiện quyền hành có nội sở. Đơn vị hành chính thời Tùy có Trung ương Châu (quận), huyệntộc (Đảng), Lý- bảo (5 nhà). Nhà Đừờng có trung ương Đạo (10)- châu- huyện- hương- lýthôn (phường ở thành thị).
16
1.3. Tiền đề về tư tưởng văn hóa
Thời Tùy- Đường là thời đại phát triển cao độ kinh tế xã hội phong kiến Trung Quốc. Do
sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội nên nền khoa học văn hóa của thời Đường cũng có sự
phát triển vượt bậc. Tính chất đa dạng và sôi động của đời sống xã hội đã tạo ra sự phong phú
và sống động trong đời sống tinh thần, biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực: Lúc này các phương
tiện thiên văn, lịch pháp, y dược, địa lý, luyện đúc… đã có những thành tựu mới. Phát minh
thuật in và thuốc súng là những thành tựu của khoa học kỹ thuật Trung Quốc, có những cống
hiến nổi bật đối với sự phát triển của văn minh thế giới thời bấy giờ. Về mặt khoa học Nhất
Hạnh, Liễu Tơng Ngun, Lưu Vũ Tích… có cống hiến về nhận thức vũ trụ, thúc đẩy tự nhiên
quan duy vật chủ nghĩa của Trung Quốc cổ đại lên một đỉnh cao mới. Lý luận cấu tạo vũ trụ
của Trung Quốc cổ đại, từ Thuyết cái thiên trời tròn đất vng đến Thuyết Hỗn Thể lấy quả đất
hình cầu làm cơ sở, đã phản ánh hai giai đoạn nhân dân Trung Quốc nhận thức về lịch sử vũ
trụ. Nhà khoa học kiệt xuất đời Hán, Trương Hành đạt thành quả nổi bật của thuyết hỗn nhiên,
tức là từ nhận thức trái đất mặt bằng tiến lên nhận thức quả đất hình cầu. Nó chiếm địa vị quan
trọng trọng trong lý luận cấu tạo vũ trụ của Trung Quốc thời bấy giờ.
Thuyết hỗn nhiên cũng được Nhất Hạnh luận chứng thêm một bước về khoa học. Nhất
Hạnh (683- 727), vốn tên là Trương Toại người Lạc Dương, Ngụy Châu (nay là huyện Nam
Lạc, tỉnh Hà Nam). Ơng đã chủ trì cơng việc tu sửa lịch pháp, để lịch pháp có thể phù hợp với
thực tế ông tiến hành công việc đo lường thiên văn, kết quả đã đo được độ dài của đường Tý
Ngọ một độ là 351 dặm 80 bộ. Nó đã có sự tiến bộ về phương pháp rất lớn, hơn nữa lần đầu
tiên trên thế giới đo đường Tý Ngọ, xác nhận thế giới là hình cầu. Đồng thời cũng chứng minh
cách nói của thuyết cái thiên là khơng có căn cứ. Do đó lý luận kết cấu vũ trụ của thuyết cái
thiên trời trịn đất vng đã bị khoa học thực trắc (đo lường thực tế) phủ định. Năm 727, Nhất
Hạnh đã chế định Lịch Đại Diễn, nội dung của lịch pháp này rất có lý, phương pháp tính cũng
đã cải tiến rất nhiều, có ảnh hưởng lớn tới lịch pháp sau này.
Về Tốn học thì số học của đương thời phát triển. Vì quan sát và đo lường hình tượng
trời, biên tập lịch pháp mới đều cần phải biết phương vị chuẩn xác của mặt trời, mặt trăng, ngũ
tinh, cho nên đã xuất hiện các phương pháp tính số học xuất hiện cơng thức phương trình bậc
hai.
17
Về mặt Y học, cũng tìm ra nhiều loại thuốc chữa bệnh và phân tích các bệnh và chữa trị
(Sào Nguyên Phương) viết: “Chư bệnh nguyên hầu luận đã có Thái y thự và y khoa học liệu
do Thái y thự quản lý1.
Trong lĩnh vực kỹ thuật luyện đúc gang thép, kỹ thuật làm giấy bằng tre, bạch đàn, rơm
rạ, đặc biệt là dùng trúc để chế tạo giấy “trúc chí”, kỹ thuật in ấn bằng bản khắc gỗ, kỹ thuật
chế tạo thuốc nổ bằng hỗn hợp lưu huỳnh, diêm sinh, than, gọi là “hỏa dược” dùng để trị ghẻ
lở, sát trùng, chống phong thấp, ôn dịch và làm thuốc súng, do các nhà luyện đan Trung Quốc
thời Đường đạt được là những phát minh lớn nhất của Trung Quốc thời Trung Đại.
Về Sử học, có rất nhiều tác phẩm viết về sử các nước như Lương, Trần. Bắc Tề, Bắc
Chu, Tùy và Tấn thư hơn nữa còn biểu hiện ở việc xuất hiện hàng loạt tác phẩm của tư gia,
như Nam sử, Bắc sử của Lý Diên Thọ, Sử thông của Lưu Tri Kỷ và Thông Điển của Đỗ Thự.
“Sử thông bộ sử học hệ thống đầu tiên của Trung Quốc chun về bình luận, Thơng điển là bộ
thơng sử đầu tiên chuyên trình bày về chế độ điển chương. Họ sáng lập đề tài mới thành sử
học Trung Quốc cổ đại, đồng thời là di sản tư tưởng quý giá cho thế hệ sau”2.
Trên lĩnh vực Văn học, thì tư tưởng văn học đời Đường sáng tác thơ ca rất phồn vinh.
Đồng thời nó cũng thúc đẩy phát triển bình luận thơ ca. Các nhà thơ trên cơ sở tư tưởng văn
học tiến bộ đời trước, trong đấu tranh với văn học hình thức chủ nghĩa từ Lục triều đến lúc đó
đã xây dựng luận điểm thơ ca tiến bộ, khôi phục và phát huy truyền thống tốt đẹp của thơ ca
cổ điển Trung Quốc, cấu tạo thành dịng phái chính của thơ ca tiến bộ đời Đường. Về phương
diện này, nhà thơ kiệt xuất thời Sơ Đường và sau đó đến các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch
Cư Dị. Ngoài ra, cùng với nhịp đổi mới thơ ca trong lý luận, tản văn mượn danh nghĩa phục cổ
và tiến hành vận động cổ văn đổi mới. Ở phương diện này, người có những cống hiến tích cực
là Hàn Dụ và Liễu Tông Nguyên. Họ khiến cho phong trào cổ văn về mặt lý luận và sáng tác
đều phát triển thêm một bước, có tác dụng tiến bộ tích cực, cải chính phong khí khơng tốt của
biền văn từ Ngụy Tấn đến bây giờ chỉ nói hình thức mà không tôn trọng nội dung.
Trong lĩnh vực đổi mới thơ ca thì cần phải nói đến Trần Tử Ngang (661- 702). Chủ
trương đổi mới thơ ca của Trần Tử Ngang tức là yêu cầu thơ ca cần có nội dung hiện thực.
Văn học Kiến An là tư tưởng cảm tình phản ánh sâu sắc sự khổ đau của nhân dân lúc bấy giờ.
Về ngôn ngữ thơ ca phải phản ánh rõ nội dung hiện thực xã hội, khiến cho thơ ca thống nhất
1
2
Phùng Quốc Siêu (chủ biên, 2004), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nxb. Văn hóa thơng tin, Tr 123.
Lê Văn Quán (1997), Đại cương lịch sử Trung Quốc, Nxb. Giáo dục.
18
về mặt tư tưởng, về mặt nghệ thuật. Ông kế thừa luận điểm thơ ca đời Hán nhấn mạnh phong
nhã tỷ hứng và truyền thống tiến bộ nhấn mạnh phong cốt của Lưu Hiệp, Chung Vịnh thời
Nam triều, rất tôn sùng phong nhã và thơ cổ thời Hán Ngụy. Hơn nữa ơng chủ trương đổi mới
thơ ca của mình gửi gắm vào thực tiễn. Ông đã viết rất nhiều bài thơ xuất sắc, nội dung phản
ánh cuộc sống hiện thực, có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển thơ ca tiến bộ đời Đường.
Lý Bạch (701- 762) cũng ảnh hưởng của Trần Tử Ngang tương đối nhiều. Ông đề xướng
phong nhã tỷ hứng và phong nhã cốt Hán Ngụy, phản đối văn phong đẹp từ thời Tề Lương tại
đây, “Phục cổ” và tiến hành đổi mới là trách nhiệm của ơng. Ơng ca ngợi phong cốt Kiến An
và vẻ tự nhiên xanh tươi của thơ ca, phản đối phù hoa gọt đẽo. Tư tưởng đổi mới thơ ca của
Lý Bạch biểu hiện rõ ràng. Ông phản đối sự gị bó của truyền thống và u cầu tinh thần giải
phóng. Điều này đặc biệt quán triệt trong thực tiễn, trong thơ ca của ơng có tác dụng quan
trọng đối với việc triệt để xóa bỏ văn học chủ nghĩa hình thức của cung đình quý tộc.
Đỗ Phủ (712- 770) với tác phẩm Đỗ Công bộ tộc. Tư tưởng văn học của Đỗ Phủ chủ yếu
biểu hiện trong hàng loạt sáng tác thơ ca của ơng. Ơng nhấn mạnh tính hiện thực của nội dung
tư tưởng thơ ca, coi trọng phát huy truyền thống tốt đẹp của Kinh Thi, Sở từ, thơ ca tiến bộ liện
hệ mật thiết với hiện thực. Ở trong thơ, ông chẳng những ca ngợi Quốc phong, Sở Tao mà còn
nhấn mạnh thân phong nhã; cận phong tao rất coi trọng nội dung tư tưởng của thơ ca phản
ánh thời thế dân sinh. Ông cho rằng tác phẩm Cảm ngộ của Trần Tử Ngang có thể đã kế thừa
Sở Tao phong nhã thể hiện tư tưởng tình cảm lo nước thương người của nhà thơ, bộc lộ những
tệ hại của chính trị. Ngồi ra, ơng cho rằng thơ ca của Nguyên Kết kế thừa truyền thống tốt
đẹp của Kinh Thi liên hệ mật thiết với hiện thực, nội dung quan tâm đến nỗi thống khổ của
nhân dân. Nội dung trong tư tưởng thơ ca phản ánh hiện thực, đó là tư tưởng chủ đạo trong
luận điểm thơ tiến bộ của Đỗ Phủ. Hàng loạt các tác phẩm thơ xuất sắc của ơng phản ánh sâu
sắc tồn bộ diện mạo thời đại, càng thể hiện đầy đủ tư tưởng chủ đạo này. Ông đã đưa chủ
nghĩa hiện thực của thơ ca Trung Quốc đến giai đoạn chín muồi.
Bạch Cư Dị (772- 846) cũng có tư tưởng văn học tiến bộ. Tác phẩm của ơng có Bạch Thị
Trường Khánh Tập. Ông tiếp sau Đỗ Phủ, là nhà thơ hiện thực chủ nghĩa vĩ đại. Tư tưởng văn
học tiến bộ của ông cũng là di sản quý giá của lý luận văn học Trung Quốc, có sức thúc đẩy
phát triển chủ nghĩa hiện thực của thơ ca Trung Quốc.
Tư tưởng văn học của Bạch Cư Dị không chỉ là Phong nhã tỷ hứng, nhấn mạnh thơ ca
nói chung, đặc biệt thơ ca cần phải phản ánh đau khổ của nhân dân, càng ngày càng phát huy
19
tốt tác dụng châm biến những tệ hại của thời thế. Vì vậy, tư tưởng văn học của ơng có tính
chiến đấu đặc sắc đó là phát triển mới của ông về luận điểm thơ ca.
Ngoài ra, lý luận của phong trào cổ văn của Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên cũng được đề
xướng phong trào đổi mới văn học, văn thể, tản văn. Ơng nhấn mạnh, đầu tiên là Tơn kinh
Trọng Thượng tể tướng thư, ơng trình bày nên lấy ý nghĩa “Lục kinh” làm cơ sở nội dung tư
tưởng, thứ đến làm sáng đạo, đều gọi là đạo là điều ơng đã nói trong bài Ngun Đạo. Ơng nêu
gương sáng đạo của các nhà Nho như Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang, Văn, Vũ, Chu Cơng, Khổng
Tử, Mạnh Tử. Ơng nói ông học cổ văn là học Đạo xưa của nhà Nho, cũng gọi là Văn dĩ tải
đạo. Trong bài Tống Trần Tú Tài đồng tự ơng nói: “Cái học sở dĩ vì đạo, văn sở dĩ vi lý nhĩ”.
(cho nên học là vì đạo, văn là vì lý). Cũng tức là nói Đạo là mục đích, văn là phương tiện, đạo
là nội dung, văn là hình thức. Ngồi việc suy tơn Lục kinh của Nho gia, ơng cịn đề xuất những
tác phẩm của Khuất Nguyên, Tống Ngọc, Lý Tư, Tư Mã Tương Như, Tư Mã Thiên, Dương
Hùng và Lưu Hướng đều là đáng học tập. Ngồi ra Hàn Dũ cịn đề xuất chủ trương văn học
bất bình tắc minh (khơng cơng bằng thì kêu). Trong bài Tống Mạnh Đơng Dã Tự đều xem như
nhà tư tưởng, nhà văn học từ xưa đến nay là Thiên minh (kêu điều thiện), nguyên nhân kêu
điều thiện là vì khơng được cơng bằng. Liễu Tông Nguyên và Hàn Dũ cũng là người đề xướng
phong trào cổ văn. Về mặt lý luận của phong trào cổ văn, các ơng có những kiến giải giống
nhau, chỉ đạo thực tiễn sáng tác phong trào cổ văn. Nhưng hai ơng cũng có những vấn đề
khơng đồng nhất, hai ông đều chủ trương Văn để sáng đạo, nhưng bàn về đạo. Hàn dũ nhấn
mạnh xây sựng truyền thống Đạo thống của Nho gia, do đó thành tựu lý luận của ơng hạn chế
rất nhiều. Cịn Liễu Tơng Ngun đề xướng Hành đạo cập vật (Vận hành đạo đến sự vật), chủ
trương đạo không nên dừng lại ở lý luận sách vở mà cần phải tiếp xúc với thực tế xã hội, làm
việc có ích cho nhân dân đất nước. Cho nên ơng tích cực tham gia phong trào đổi mới chính trị
có ý nghĩa tiến bộ lúc bấy giờ, dám cơng kích tệ hại chính trị, phản đối hiên tượng bất hợp lý
trong chế độ truyền thống. Do đó Liễu Tông Nguyên viết tác phẩm chiến đấu như Bồ xà giả
thuyết; Tam giới; Đồng khu ký truyện. “Châm chọc sâu cay giai cấp thống trị và biểu thị đồng
tình với nỗi thống khổ của nhân dân , có tác dụng thúc đẩy tản văn châm biếm phát triển theo
xu hướng chủ nghĩa hiện thực sau này”1. Âm nhạc và ca múa thời Đường rất phát triển, ngoài
những nét múa dân gian Trung Quốc có những kỹ thuật của Tây vực nên rất uyển chuyển.
Ngồi ca nhạc cung đình cịn có rất nhiều bài ca. Hội họa thời kỳ này do mở cửa thông bên
1
Lê Văn Quán (1997), Đại cương lịch sử Trung Quốc, Nxb. Giáo dục.
20
ngoài rộng rãi nên cũng rất phát triển và mang dấu ấn ảnh hưởng của hội họa Ấn Độ - nổi
tiếng có anh em Diêm Lập Đức, Lập Bồn (vẽ người), cịn nhiều họa sĩ vẽ sơng núi, hoa lá,…
Điêu khắc cũng phát triển nhất là những điêu khắc về tơn giáo, có tượng Phật bằng đồng, bạc,
gỗ, đá, đủ kích cỡ, kỹ thuật hết sức tinh xảo. Tóm lại, nghệ thuật thời Đường hết sức phát
triển, nhiều mặt đã đạt đến đỉnh điểm, các triều sau chỉ là kế thừa mà thơi.
Trên lĩnh vực tơn giáo, Có Phật giáo, Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Hiên giáo (thờ lửa) và Môni
giáo.
Phật giáo đã tương đối phát triển từ thời Nam - Bắc triều, chùa, miếu cũng chiếm ruộng
đất nhiều và trở thành tăng lữ địa chủ. Đến nhà Tùy còn phát triển hơn, tăng lữ được hưởng
quyền miễn lao dịch. Địa chủ và một số quan lại phản đối vì có nhiều người chốn vào chùa
hoặc dùng tiền để mua thẻ miễn lao dịch. Thời Huyền Tơng đã rà sốt lại tăng ni ở các chùa,
bắt hồn tục những người giả mạo. Huyền Tông cũng tin Phật nên ba năm một lần lập hộ tịch
cho chùa cấp thẻ cho tăng ni. Đạo Phật đời Đường phát triển chưa từng có, cịn cao hơn cả Ấn
Độ. Khơng những người ta đã dịch rất nhiều kinh Phật mà còn viết nhiều quyển sách nổi tiếng
như Đại Đường Tây Vực Ký của Huyền Trang và Biên Cơ; Đại Đường Tây Vực Cầu Pháp
Cao Tăng Truyện của Nghĩa Tịnh Tục Cao Tăng Truyện của Đạo Tuyên… Trong đó Đại
Đường Tây Vực Ký đã ghi rõ tình hình phong tục tập quán của 138 nước mà Huyền Trang đã
đi qua là tác phẩm hữu ích để nghiên cứu phong tục các nước thời Trung Đại. “Về mặt phiên
dịch sách có Huyền Trang (thời Thái Tơng), Nghĩa Tịnh (thời Cao Tông), Huệ Nhật Tam
Tạng, Tuệ Siêu, Ngộ Không (thời Huyền Tông). Họ đều đã đi đến Ấn Độ. Huyền Trang mất
được ví như mất “quốc bảo”1.
Đạo giáo cũng là tôn giáo địa phương, được các vua hùng đời Đường như Cao Tổ, Trung
Tông, Túc Tông, Nhuệ Tông, Huyền Tông, Vũ Tông coi trọng hơn cả Phật giáo. Gọi Lão Tử
là Thái Thượng huyền nguyên hoàng đế và vợ Lão Tử là Tiên thiên thái hậu. Họ tạc tượng
Khổng Tử đứng hầu bên Lão Tử, lập Đạo quan to lớn cấp ruộng đất cho và miễn lao dịch cho
Đạo sĩ. Còn sử dụng mộ số đạo sĩ vào bộ máy nhà nước. Sở dĩ đề xướng Đạo giáo là vì Lão
Tử họ Lý, nhưng chủ yếu là để kìm hãm bớt sự phát triển của Đạo Phật.
1
Xem Võ Mai Bạch Tuyết (1999), Lịch sử Trung Quốc, Nxb. Tủ sách trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn. Tr 121.
21
Đạo Hồi được Môhamét sáng lập đầu đời Đường (Cao Tổ Vũ Đức năm thứ 5. Năm 622).
Được người Ả-Rập truyền bá vào người Đột quyết. Một bộ phận người Hán cũng theo nhưng
không nhiều.
Cơ đốc giáo năm 635 được người Xiri tên là Olopen mang kinh đến Trường An. Thái
Tơng xây cho nhà thờ, tín đồ tự xưng là cảnh giáo. Năm 761 dựng ở Trường An một tấm bia
kỷ niệm có 1870 chữ, có khắc tên 60 tín đồ bằng chữ Hán và chữ Xiri, Vũ Tông bài Phật,
Cảnh giáo cũng bị bài xích.
Hiên giáo thì bái hỏa thần. Đây là tôn giáo của người Ba Tư, giáo lý nói vũ trụ có hai
thần âm (ác) và dương (thiện). Lửa là đại diện của dương thần, còm sùng bái mặt trời gọi là
Hiên giáo được truyền vào Trung Quốc từ thời Nam- Bắc triều. Đầu đời Đường đã có Hiên tự
ở Trường An, nhưng khơng phát triển được.
Mơnigiáo do người Ba Tư sáng lập từ cuối thời Hán, lấy gốc là Hiên giáo có thêm giáo
lý của Phật giáo và cơ đốc giáo. Họ chủ trương không lấy vợ lấy chồng, khơng ăn thịt, uống
rượu, tuyệt thực ¼ thời gian trong năm, ốm không uống thuốc, chết trôn trần. Truyền vào
Trung Quốc đầu đời Đường, nhưng không phát ttriển được. “Vì vậy mà tơn giáo trong thời kỳ
Tùy- Đường chỉ có sự hưng thịnh của Phật giáo vì thời kỳ Tùy- Đường, giai cấp thốmg trị hết
sức nâng đỡ và ủng hộ Phật giáo, trừ Đường Vũ Tông ra các thời thế vương Tùy- Đường đều
lợi dụng Phật giáo để củng cố sự thống trị phong kiến, vì vậy Phật giáo được hưng thịnh một
thời”1.
Trên lĩnh vực triết học thì thời kỳ Triết học Tùy- Đường phát triển, thời Tùy có Vương
Thơng học. Chủ trương Nho- Phật- Đạo thống nhất làm một nhưng lấy “Tam cương ngũ
thường” và tư tưởng gia trưởng của phong kiến làm chủ yếu. Thời Đường thì có bốn trào lưu
chính sau:
Thứ nhất, Phật học do Huyền Trang, Đỗ Thuận đại biểu
Thứ hai, Nho học của Hàn Dũ và Lý Cao
Thứ ba, Nho học của Liễu Tông Nguyên
Thứ tư, Đạo học của Lữ Tài
Như vậy, những tiền đề về lịch sử- kinh tế chính trị - xã hội và tư tưởng văn hóa trong
thời kỳ Tùy- Đường đã có những phát triển vượt bậc. Đó là một trong những tiền đề quan
trọng để cho q trình Trung Quốc hóa Phật giáo phát triển cao hơn.
1
Phùng Quốc Siêu (chủ biên, 2004), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Nxb. Văn hóa thơng tin. Tr 178.
22
1.4. Qúa trình phát triển tư tưởng triết học thời lỳ Tùy- Đường
Dưới sự thống trị của vua chúa rất hà khắc, nhà Đường cùng với sự bóc lột tàn bạo của
bọn quý tộc địa chủ thế tục và quý tộc tăng lữ, đời sống của nhân dân lao động đặc biệt là
nhân dân vẫn hết sức cực khổ, Mâu thuẫn giai cấp xã hội, chủ yếu là mâu thuẫn giai cấp giữa
địa chủ (bao gồm địa chủ thế tục và quý tộc tăng lữ) với quảng đại quần chúng nhân lao động
ngày càng gay gắt. Quá cực khổ và không thể sống cuộc sống như trước nữa. Sau vụ An Lộc
Sơn và Sử Tư Minh chống lại nhà Đường năm 775, cuối đời Đường các cuộc khởi nghĩa nông
dân lại liên tiếp bùng nổ ở nhiều nơi. Trong đó lớn mạnh và tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa
nông dân do Vương Tiêu Chi và Hoàng Sào lãnh đạo ở Sơn Đông. Quân khởi nghĩa đã đề ra
khẩu hiệu Xung thiên, tuyên chiến với Thiên mệnh luận của Khổng Tử, phê phán tư tưởng
Thiên bất biến đạo diệc bất biến của Đổng Trọng Thư.
Trong lĩnh vực tư tưởng, từ Nam - Bắc triều đến Tùy- Đường. Huyền học suy thối,
khơng cịn đóng vai trị là hệ tư tưởng thống trị xã hội, triết học của Nho giáo và Đạo gia cũng
đình đốn. Triết học Phật giáo với ý nghĩa đạo đức nhân sinh và trí tuệ sâu sắc của nó đã tỏ rõ
có những phát kiến sâu xa về các mặt phân tích khái niệm, suy lý logic, cũng như chiêm
nghiệm vũ trụ, nhân sinh, phản tỉnh lý trí con người. Bởi vậy, “Cửa Nho đạm bạc không giữ
nổi nhân tài, họ đều quy họ về Thích”1. Bọn thống trị phong kiến thời Nam- Bắc triều và TùyĐường đã nhìn thấy Phật giáo là thứ cơng cụ tinh thần có sức làm tê liệt tư tưởng của nhân
dân, Hơn nữa, đang ở vào thời buổi loạn lạc liên miên và thế lực thống trị thường bị lung lay,
nên chúng cũng cần Đạo Phật để an ủi về mặt tinh thần. Trên cơ sở của nền kinh tế trại ấp
phong kiến. Thế lực phong kiến của đại địa chủ cường hào và bọn đại địa chủ nhà chùa càng
mở rộng hơn. Chúng khơng chỉ chiếm nhiều ruộng đất, mà cịn cho vay nặng lãi, có người
tăng nhân trở thành “tỷ phú”. Vì thế, tư tưởng, tín ngưỡng Phật giáo và thần học dần chiếm địa
vị chi phối giới tư tưởng thời bấy giờ và trở thành vũ khí tinh thần của giai cấp thống trị
phong kiến thời Nam Bắc triều và Tùy- Đường. Có thể nói, nếu thời Nam- Bắc triều với việc
nghiên cứu Phật giáo xuất hiện nhiều môn phái Phật giáo khác nhau, đánh dấu sự Trung Quốc
hóa Phật giáo tiến thêm một bước nữa thì thời Tùy- Đường Phật giáo Trung Quốc đã chín
muồi và cũng là thời kỳ cực thịnh. Các nhà triết học có tư duy sắc sảo và các tác phẩm triết
học phần lớn đều thuộc lĩnh vực Phật giáo. Sự hấp thu và dung hợp lẫn nhau giữa Nho, Phật,
Đạo đã dẫn đến cuộc dung hợp lần thứ ba: Lấy Phật giáo làm chủ trong triết học Trung Quốc.
1
Dỗn Chính (chủ biên, 2003), Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb. Chính trị Quốc gia, Tr 422, 423.